Đề tài Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO –––––––––––––– TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ Đề tài : CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM Người hướng dẫn : LÊ HÙNG Sinh viên : BẠCH THANH HIỀN Lớp : CĐ19E1 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 LỜI MỞ ĐẦU Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm khai thác mọi tiềm năng sản xuất xã hội, nâng cao hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh ấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước, bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước bộc lộ rất nhiều bất cập : phát triển tràn lan, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, vốn thiếu, cơ chế quản lý có nhiều lúng túng, hoạt động kém hiệu...

doc23 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1115 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO –––––––––––––– TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ Đề tài : CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM Người hướng dẫn : LÊ HÙNG Sinh viên : BẠCH THANH HIỀN Lớp : CĐ19E1 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 LỜI MỞ ĐẦU Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm khai thác mọi tiềm năng sản xuất xã hội, nâng cao hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh ấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước, bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước bộc lộ rất nhiều bất cập : phát triển tràn lan, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, vốn thiếu, cơ chế quản lý có nhiều lúng túng, hoạt động kém hiệu quả không đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, ngăn trở không nhỏ vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trước thực trạng trên Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa và đa dạng hóa hình thức sở hữu của một số doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh. Tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực thụ của người lao động của cổ đông … Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một quá trình phức tạp, khi quan điểm nhận thức chưa thống nhất, kinh nghiệm chưa có thì việc cổ phần hóa ắt phải gặp khó khăn trở ngại. Tuy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được tiến hành từ 5/1990 nhưng cho đến nay kết quả vẫn chưa được là bao, số doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần rất ít. Tiến độ cổ phần hóa diễn ra chậm, mục tiêu của cổ phần hóa chưa đạt được như mong muốn. Trước tình hình trên để góp phần nhỏ công sức của mình vào công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, em xin chọn đề tài “cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” để nghiên cứu làm tiểu luận môn kinh tế chính trị. Tiểu luận gồm 2 chương: Chương I : Những vấn đề lý luận cơ sở Chương II : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện nền tảng, pháp lý cho cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Vì còn nhiều hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như điều kiện nghiên cứu nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý sửa chữa của quý thầy cô để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên thực hiện Bạch Thanh Hiền CHƯƠNG I : NHỮNG LÝ LUẬN CƠ SỞ 1. Doanh nghiệp nhà nước : Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Doanh nghiệp nhà nước có các đặc điểm sau : - Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra quyết định thành lập, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước quy định. - Tài sản DNNN thuộc sở hữu nhà nước, nhà nước là chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp và thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Sự tách biệt giữa chủ sở hữu doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh là đặc điểm cơ bản của DNNN. - DNNN do Nhà nước thành lập, tổ chức quản lý do đó DNNN là đối tượng chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Nhà nước tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy hoạch phát triển. - DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ quân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trên cơ sở vốn điều lệ của doanh nghiệp. 2. Thực trạng về tình hình hoạt động của DNNN ở Việt Nam và sự cần thiết phải tổ chức sắp xếp lại các DNNN * Thực trạng về tình hình hoạt động của DNNN ở Việt Nam : Các DNNN ở nước ta được thành lập kể từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong 9 năm kháng chiến, thực hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, nhiều DNNN đã được xây dựng ở các ngành như : cơ khí, hóa chất, dệt … sau 1954 hòa bình lập lại, khu vực DNNN phát triển nhanh chóng trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Giai đoạn 1961 - 1975 thực hiện đường lối công nghiệp hóa, khu vực DNNN tiếp tục tăng cường và mở rộng. Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước bằng việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và đầu tư mới của ngân sách, số lượng các DNNN ngày càng tăng nhanh, DNNN đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế, quốc phòng phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Các DNNN đã đóng vai trò chủ yếu trong việc sản xuất và cung ứng cho xã hội các tư liệu sản xuất, sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ và là lực lượng chủ đạo trong sản xuất hàng xuất khẩu. Song trước yêu cầu của giai đoạn mới, khi nền kinh tế chuyển sang phát triển theo cơ chế thị trường, những mặt yếu kém của DNNN cũng bộc lộ rõ nét, nhất là tình trạng hoạt động kém hiệu quả, thể hiện ở : - Hiệu quả sử dụng thiết bị của DNNN còn rất thấp, theo Bộ khoa học công nghệ và môi trường, hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị chỉ vào khoảng 30-50%, về thời gian khoảng 80% tổng số máy móc thiết bị của nước ta chỉ được sử dụng 1 ca/ngày, 79% thiết bị có hệ số sử dụng thời gian từ 0,2 trở lên. - Mức tiêu hao năng lượng và nguyên liệu của hầu hết các DNNN là rất lớn, từ 50% trở lên, thậm chí quá cao so với mức bình quân của các nước đang phát triển, tiêu hao vật chất lớn dẫn đến tỷ lệ chất thải cao, tác động tiêu cực không nhỏ đến tình trạng ô nhiễm môi trường. - Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp rất thấp và khả năng cạnh tranh yếu, hàng hóa ứ đọng nhiều. - Nhiều DNNN có hiệu quả kinh doanh rất thấp, có năm tỷ suất lợi nhuận còn thấp hơn so với tỷ lệ lạm phát. - Tình trạng mất và thất thoát lớn về vốn diễn ra hết sức nghiêm trọng : Mặc dù cả nước hiện có hơn 5.600 DNNN với tổng số vốn khoảng 126.030 tỷ đồng (không tính giá trị quyền sử dụng đất), nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của khối doanh nghiệp này chưa mấy khả quan. Theo đánh giá chung của các cơ quan chức năng, năm 2001 số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả chiếm 40% DNNN kinh doanh ở bậc trung là 31%, như vậy vẫn còn đến 29% DNNN liên tục thua lỗ tính đến cuối tháng 5 năm 2002, hoạt động sản xuất kinh doanh tại 258 DNNN do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì tỷ suất lợi nhuận trên vốn mới đạt 2%, số doanh nghiệp thua lỗ chiếm 34%, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản hoặc giải thể. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là nhiều DNNN không gắn kế hoạch sản xuất kinh doanh với định hướng của toàn ngành, việc lên kế hoạch không phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường. Nhiều dự án đầu tư không khả thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Nguyên nhân thứ hai là số vốn hiện có bình quân mỗi DNNN còn quá nhỏ. 3. Khái niệm, quan điểm của Đảng, Nhà nước về cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam : 3.1. Khái niệm về cổ phần hóa : Cổ phần hóa là việc chuyển hình thức sở hữu của một doanh nghiệp thành một hình thức sở hữu mới. Quyền sở hữu của doanh nghiệp không còn tập trung vào tay một người mà được chia ra cho nhiều người gọi là cổ đông. Các cổ đông chịu trách nhiệm với doanh nghiệp về phần vốn góp của mình. Một doanh nghiệp có quá trình biến đổi như vậy gọi là cổ phần hóa. 3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước : Cổ phần hóa DNNN là một trong các nội dung cơ bản của quá trình đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Quá trình này là đòi hỏi khách quan để thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra năm 1986. Chủ trương của Đại hội đối với kinh tế quốc doanh là “phải đổi mới cơ chế quản lý, đảm bảo cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thật sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân viên chức, tăng tích lũy cho xí nghiệp và cho nhà nước. Quá trình đổi mới và sắp xếp DNNN bắt đầu thực hiện từ năm 1990, đã trải qua nhiều giai đoạn và nhằm thực hiện bốn nội dung : + Đổi mới cơ chế chính sách + Sắp xếp doanh nghiệp nhà nước + Tổ chức lại công ty + Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Chủ trương cổ phần hóa được chính thức đề cập đến trong hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương khóa VII, Nghị quyết của hội nghị xác định rõ: “chuyển một xí nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. 2.1.1. Cổ phần hóa DNNN trong giai đoạn thí điểm : Thực hiện chủ trương của Đảng và Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng và Quốc hội thành các văn bản pháp quy về vấn đề cổ phần hóa. Trong giai đoạn thí điểm cổ phần hóa, văn bản pháp quy đầu tiên, quyết định số 143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Quốc hội, xác định mục đích của cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh và quy định trình tự chuyển đổi xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần. Việc cổ phần hóa trong giai đoạn này chỉ dừng lại ở mức độ “tiến hành làm thử việc tổ chức lại bộ máy quản lý xí nghiệp, chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần … trước mắt chỉ giới hạn một số ít các xí nghiệp có đủ điều kiện và tiểu biểu. Trong giai đoạn này đã có một loạt các quyết định chỉ thị nhằm xúc tiến việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và các vấn đề liên quan đến việc tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như : quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990, quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. 2.3. Cổ phần hóa DNNN trong giai đoạn chính thức : Giai đoạn cổ phần hóa DNNN chính thức bắt đầu sau khi Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo trung ương đổi mới doanh nghiệp trực thuộc Thủ tướng chính phủ (theo quyết định số 83/TTg ngày 04/3/1993). Luật doanh nghiệp nhà nước được quốc hội thông qua ngày 20/4/1995. Đây là những cơ sở để tiến đến xây dựng các quy định về cổ phần hóa DNNN một cách chi tiết và đẩy mạnh tiến trình này. Ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ra nghị định số 28/NĐ-CP về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy định tương đối đồng bộ và chi tiết về vấn đề cổ phần hóa DNNN. Trong quá trình thực hiện một số điểm của nghị định này đã được sửa đổi theo nghị định số 25/NĐ-CP ngày 26/3/1997. Để tiếp tục tiến hành việc cổ phần hóa DNNN ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ra nghị định số 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này ra đời thay thế nghị định số 28/CP ngày 07/5/1996 và Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ. Đây là văn bản quy định cụ thể hơn về vấn đề cổ phần hóa trong tình hình mới. Theo Nghị định này, mục tiêu cổ phần hóa được xác định rõ hơn. Tiếp đó, Chính phủ ban hành nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định này ra đời thể hiện sự quyết tâm của chính phủ trong việc thúc đẩy cải cách DNNN nói chung và cổ phần hóa DNNN nói riêng. Ngoài ra còn có một loạt các nghị định quyết định, thông tư của Nhà nước và các bộ, ngành được ban hành nhằm quy định, hướng dẫn những vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cổ phần hóa DNNN. 4. Mục tiêu của cổ phần hóa và quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần : 4.1. Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN : Mục tiêu thứ nhất là phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như đã phân tích ở trên, hiện nay DNNN làm ăn rất kém hiệu quả. Đó vừa là gánh nặng cho ngân sách nhà nước, vừa là nguy cơ đối với nền tài chính quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường làm ăn kém hiệu quả dẫn đến nguy cơ phá sản, vì vậy mục tiêu cao nhất cuối cùng của cổ phần hóa là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, muốn vậy phải giải quyết vấn đề quyền sở hữu, tức là phải đa dạng hóa quyền sở hữu, bán một bộ phận tài sản nhà nước cho các cổ đông. Mục tiêu thứ hai là phải huy động được một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh : các DNNN đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển, nhưng Nhà nước không thể liên tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng không muốn cho DNNN vay nếu DNNN không cải tổ và có phương pháp làm ăn tốt có sức thuyết phục. Còn nước ngoài chỉ có thể làm ăn với DNNN thông qua các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần … Chính vì vậy muốn có vốn để đầu tư cho phát triển, DNNN chỉ có thể huy động được thông qua hình thức bán cổ phần. Mục tiêu thứ ba của cổ phần hóa các DNNN là tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp : khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong hội đồng quản trị thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự. Hơn nữa, với quyền mua cổ phiếu nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông và hưởng lãi trên vốn, thay vì thu nhập thông thường. Điều này làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình. 4.2. Quy trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần : DNNN chuyển đổi thành công ty cổ phần được thực hiện theo các bước sau: Bước 1 : Chuẩn bị cổ phần hóa Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ (gọi tắt là các bộ), các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các tổng công ty 91 lập danh sách DNNN cổ phần hóa từng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi cho các doanh nghiệp để thực hiện. Các DNNN trong danh sách cổ phần hóa báo cáo dự kiến danh sách các thành viên trong Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lên bộ, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, Tổng công ty 91 để quyết định. Các bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tổng công ty 91 quyết định thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và quyết định từng doanh nghiệp cổ phần hóa trong từng năm. Thành phần Ban quản lý tại doanh nghiệp gồm : Giám đốc (hoặc Phó Giám đốc) làm trưởng ban, kế toán trưởng là ủy viên thường trực và các thành viên khác. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những chủ trương chính sách của chính phủ để tổ chức thực hiện. Bước 2 : Xây dựng phương án cổ phần hóa Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp tổ chức và kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp và dự kiến giá trị thực tế của doanh nghiệp, làm văn bản thỏa thuận với Bộ tài chính. Bộ tài chính quyết định giá trị doanh nghiệp có mức vốn nhà nước ghi trên sổ sách, kế toán đến thời điểm cổ phần hóa trên 10 tỷ đồng, nếu từ 10 tỷ đồng trở xuống thì sẽ do Bộ, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, Tổng Công ty 91 quyết định. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lập phương án dự kiến cổ phần hóa doanh nghiệp và dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần. Bước 3 : Phê duyệt và triển khai phương án cổ phần hóa Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án quyết định chuyển DNNN thành Công ty cổ phần đối với DNNN có giá trị thuộc vốn nhà nước do cơ quan có thẩm quyền đã quyết định là trên 10 tỷ đồng. Các Bộ, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định chuyển DNNN thành Công ty cổ phần đối với doanh nghiệp có vốn nhà nước đã được quyết định từ 10 tỷ đồng trở xuống. Tổng Công ty 91 báo cáo Bộ quản lý chuyên ngành kinh tế kỹ thuật phê duyệt phương án cổ phần hóa và quyết định chuyển DNNN thành Công ty cổ phần đối với các doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty 91 có vốn nhà nước đã được quyết định từ 10 tỷ đồng trở xuống. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách nhiệm bán cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông, triệu tập đại hội cổ đông để thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Bước 4 : Ra mắt công ty cổ phần và đăng ký kinh doanh Giám đốc, Kế toán trưởng DNNN bàn giao cho Hội đồng quản trị công ty cổ phần : lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách hồ sơ cổ đông và toàn bộ các hồ sơ tài liệu, sổ sách của doanh nghiệp (trước sự chứng kiến của Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lý vốn, tài sản nhà nước). Hội đồng quản trị công ty cổ phần hoàn tất các công việc còn lại, đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NỀN TẢNG PHÁP LÝ CHO CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM A. THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM : I. THỰC TRẠNG CỦA CỔ PHẦN HÓA DNNN THỜI GIAN QUA : 1. Trong thời gian qua, số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa qua từng năm có biến động và tăng không nhiều, trung bình đạt khoảng 60% so với kế hoạch đặt ra. Tổng số doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa chiếm gần 5% tổng số DNNN hiện có. Để phân tích những thành công cũng như hạn chế của quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam, chúng ta sẽ xem xét việc thực hiện chủ trương này qua các giai đoạn như sau : - Từ năm 1992 đến 6/1998 (trước khi có nghị định 44/1998/NĐ-CP). Trong giai đoạn này cả nước đã cổ phần hóa được 30 DNNN, trong đó, 5 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí điểm quy định tại quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được thực hiện theo cơ chế chính sách quy định tại nghị định 28/CP của Chính phủ. Các DNNN cổ phần hóa trong giai đoạn này nhìn chung đều có những tiến bộ với mức độ khác nhau về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Việc thực hiện cổ phần hóa giúp doanh nghiệp thu hút được một nguồn vốn nhất định trong cán bộ công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo được động lực trong quản lý và phát huy tốt tính tích cực, sáng tạo của người lao động. Doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách, tích lũy vốn của doanh nghiệp và thu nhập của người lao động đều tăng. Việc làm của người lao động được bảo đảm tốt hơn, đồng thời các biểu hiện tiêu cực trong doanh nghiệp cũng giảm bớt. Giai đoạn từ khi Chính phủ ban hành nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 2/6/1998 đến ngày 31/12/1999. Trong giai đoạn này đã có thêm 340 doanh nghiệp nhà nước và bộ phận doanh nghiệp nhà nước được chuyển thành công ty cổ phần. Riêng năm 1999 đã có 249 doanh nghiệp, gấp 8 lần so với 7 năm trước cộng lại. Như vậy về mặt số lượng, tốc độ cổ phần hóa sau khi có nghị định số 44/1998/NĐ-CP được đẩy mạnh, nhiều bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước đã tích cực thực hiện và có những kết quả rất đáng khích lệ. Điển hình là tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh : Nam Định, Thanh Hóa, Bình Định, Lâm Đồng, Phú Thọ, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, các Bộ xây dựng, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các tổng công ty hàng hải … Một số bộ, địa phương và Tổng công ty 91 đã có những chỉ đạo nhưng kết quả đạt được trong công tác cổ phần hóa còn rất hạn chế. Bộ công nghiệp, Bộ thủy sản, các tỉnh Cần Thơ, Khánh Hòa, Quảng Bình, Vĩnh Phúc, Tổng công ty hóa chất, Tổng công ty thép là những ngành, địa phương có tốc độ cổ phần hóa chậm. Đến hết năm 1999 vẫn còn 6/13 bộ, 7/17 Tổng công ty 91 và 21/61 tỉnh chưa có DNNN nào được chuyển đổi sang công ty cổ phần. Đó là các bộ : y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường, văn hóa - thông tin, ngân hàng nhà nước Việt Nam, trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Bắc Cạn, Hưng Yên, Thái Bình … Nhìn chung, sau khi có nghị định số 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ, cổ phần hóa DNNN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nhận thức và hành động của các Bộ, ngành, địa phương có chuyển biến hơn. Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã quy định các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa một cách rõ ràng, cụ thể hơn, có sự quan tâm hơn đến quyền lợi của người lao động, đặc biệt chú ý tới người lao động nghèo theo tinh thần thông báo số 63/TB-TW ngày 4/9/1999 của Bộ chính trị. Điều đó khiến chủ trương cổ phần hóa trở nên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp cũng như đối với người lao động trong doanh nghiệp và các đối tượng trong xã hội. - Giai đoạn từ tháng 1 - 2000 đến cuối tháng 11/2002. Trong hai năm 2000 - 2002 cả nước đã cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa lên 907 đơn vị, chỉ riêng năm 2002 có 427 DNNN được sắp xếp lại, trong đó có 164 DNNN được cổ phần hóa, giao 34 doanh nghiệp, bán 17 doanh nghiệp, khoán kinh doanh và cho thuê 8 doanh nghiệp, sáp nhập 83 doanh nghiệp, hợp nhất 44 doanh nghiệp, giải thể 27 và phá sản 2 doanh nghiệp. Có 48 DNNN được sắp xếp theo các hình thức khác. Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại (bằng 48%) so với kế hoạch. Trong đó có 425 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa, giao 48 doanh nghiệp, bán 20 doanh nghiệp, khoán kinh doanh 7 doanh nghiệp, sát nhập 116 doanh nghiệp, hợp nhất 46 doanh nghiệp, giải thể 44 doanh nghiệp, phá sản 5 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác là 55 doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy càng về sau, tốc độ cổ phần hóa các DNNN càng được đẩy mạnh. Hơn nữa, càng về sau quy mô của các DNNN được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi dưới hình thức khác càng lớn hơn. Trước năm 2003, số DNNN cổ phần hóa có vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm 7,9% thì năm 2003 là 15%. Điều này càng chứng tỏ sự kiên quyết cũng như tính nhất quán trong việc thực hiện chủ trương sắp xếp lại các DNNN của Đảng và Nhà nước. 2. Tác động của cổ phần hóa đối với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa : Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng như đã đề cập ở trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN còn đem lại hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế, xã hội. Những kết quả này được thể hiện trong một số đánh giá tổng quát sau: báo cáo của 500 doanh nghiệp cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh chuyển biến tích cực. Xét trên tổng thể, các chỉ tiêu chủ yếu tăng, cụ thể, vốn điều lệ tăng 5-100%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 13%, cổ tức trung bình đạt 15,5%. - Về hiệu quả sản xuất : Phần lớn các DNNN sau khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước. Xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích lũy vốn. Qua báo cáo hoạt động của các doanh nghiệp có thời gian hoạt động trên 1 năm, kể cả những doanh nghiệp trước đó bị thua lỗ, thì doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng gấp hai lần so với trước khi thực hiện cổ phần hóa, điển hình là công ty cổ phần cơ điện lạnh. Năm 1999 Công ty này đạt 178 tỷ đồng, tăng gần gấp 4 lần so với doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hóa là 46 tỷ đồng. Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt 86 tỷ đồng gấp 1,5 lần so với doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hóa là 55 tỷ đồng năm 1998. Lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt từ 1 - 2%/ tháng. Vốn của các doanh nghiệp tăng gần 2,5 lần so với trước khi cổ phần hóa (bao gồm cả tích lũy từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngoài). Nổi bật nhất là Công ty Cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An có số vốn tăng 5 lần, Công ty Cổ phần Việt Phong (VIFOCO) có số vốn tăng 2,4 lần. Các doanh nghiệp nộp ngân sách bình quân, tăng 2 lần so với trước khi cổ phần hóa, điển hình là Công ty Cổ phần cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh tăng gần 3 lần, Công ty Cổ phần bông Bạch Tuyết Thành phố Hồ Chí Minh tăng 2,7 lần. Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa là những Công ty cổ phần đầu tiên được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Điều này không ngừng nâng cao uy tín và vị thế của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa trên thương trường, mà còn chứng minh tính đúng đắn của chủ trương cổ phần hóa DNNN như một biện pháp quan trọng để thực hiện sắp xếp lại các DNNN ở nước ta. - Việc làm và thu nhập cho người lao động : Hầu hết trong các DNNN được cổ phần hóa, việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có chiều hướng tăng lên. Số lao động của doanh nghiệp trở thành cổ đông khá đông. Trong đó DNNN cổ phần hóa trong năm 2003, 58% cổ phần do những người lao động trong DNNN trước cổ phần hóa nắm giữ. Chế độ của người lao động được quan tâm giải quyết thỏa đáng. Tính đến 30/10/2003 quỹ hỗ trợ lao động dôi dư đã cấp 409,63 tỷ đồng, hỗ trợ cho 387 doanh nghiệp, giải quyết 14.597 lao động dôi dư. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa tăng bình quân 12%. Riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh Thành phố Hồ Chí Minh tăng từ 334 người lên 731 người, Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng từ 900 người lên 1.280 người. Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong các công ty cổ phần bình quân hàng năm gần 20% (chưa kể thu nhập có được từ cổ tức), điển hình là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp này đã đạt 4 triệu đồng / người / tháng trong năm 1999, bằng gần 3 lần so với 1,4 triệu đồng trước khi cổ phần hóa. Với cơ chế quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho công ty, cho nhà nước và xã hội. - Về huy động vốn : Việc thực hiện cổ phần hóa DNNN đã cho phép các doanh nghiệp thu hút được một lượng lớn nguồn vốn trong xã hội vào đầu tư phát triển sản xuất. Chỉ tính riêng 370 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa tính đến hết ngày 31/12/1999, tại thời điểm cổ phần hóa, giá trị phần vốn nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng, qua thực hiện cổ phần hóa đã thu hút thêm 1.432 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các công ty cổ phần. Đồng thời nhà nước cũng thu lại được 714 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách đối với DNNN thực hiện cổ phần hóa. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa khi xác định lại nhìn chung đều tăng lên từ 10 - 15% so với vấn đề ghi trên sổ sách. Chỉ tính riêng 30 doanh nghiệp đã cổ phần hóa của Hà Nội cuối năm 1998, giá trị phần vốn Nhà nước là 80,8 tỷ đồng, tăng thêm 1,5 tỷ đồng so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán, Thành phố Hồ Chí Minh sau khi đánh giá lại 10 doanh nghiệp cổ phần hóa, giá trị lên tới 80 tỷ đồng, tăng thêm 34 tỷ đồng. Tỉnh Nam Định sau khi đánh giá lại giá trị của 22 doanh nghiệp để cổ phần hóa cũng đã tăng thêm 1,7 tỷ đồng. Như vậy khi thực hiện cổ phần hóa, vốn nhà nước không những không mất đi mà ngược lại được bảo toàn và tăng thêm, vốn nhàn rỗi ngoài xã hội được huy động thêm vào doanh nghiệp, góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp cổ phần hóa. Các DNNN ở Bình Định cũng đã làm ăn có hiệu quả hơn sau khi cổ phần hóa, trong số 65 DNNN ở Bình Định được cơ cấu lại và chuyển đổi có 15 công ty cổ phần, doanh thu bình quân của các doanh nghiệp cổ phần hóa này tăng 65%, nộp ngân sách tăng 2,41 lần, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,76 lần, vốn của các doanh nghiệp cổ phần hóa và sắp xếp lại tăng so với trước cổ phần hóa. Công ty Sacom trong năm 2003 bất chấp khó khăn do thuế nhập khẩu giảm và doanh nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt nhưng doanh thu vẫn đạt 325 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế là 60 tỷ vượt 14% so với kế hoạch. Tóm lại, cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho nhàn ước, cho doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp và cả trong các cổ đông khác của doanh nghiệp. Thực tế đó đã chứng minh rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cổ phần hóa DNNN hoàn toàn đúng đắn. Tiến trình cổ phần hóa đã tạo ra một số lượng khá lớn công ty cổ phần. Đến thời điểm hiện nay đã có gần 1000 công ty cổ phần được hình thành trên nền của các DNNN cổ phần hóa. Những công ty cổ phần này có tiềm lực lớn hơn các công ty cổ phần được các thành phần kinh tế lập ra. Phần lớn các công ty cổ phần này là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự xuất hiện của các công ty cổ phần có tiềm lực kinh tế lớn sẽ làm thay đổi ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng nhanh của các chứng khoán niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM trong gần hai năm qua cho thấy tác động của cổ phần hóa DNNN đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Việc cổ phần hóa có hiệu ứng khá rõ nét đối với việc thành lập mới DNNN, tình trạng thành lập DNNN tràn lan đã được chấm dứt. Trong ba năm từ 2001 - 2003, cả nước chỉ thành lập mới 59 DNNN, hầu hết tập trung vào lĩnh vực dầu khí, năng lượng nguyên tử, sản xuất cơ khí hoặc hoạt động công ích. Trong số DNNN đã cổ phần hóa trong giai đoạn này thì bình quân nhà nước sở hữu 38% vốn điều lệ, cán bộ công nhân viên chức của các doanh nghiệp này mua 51%, còn 8% là cổ đông bên ngoài. Số DNNN có cổ phần chi phối của nhà nước chỉ chiếm 26% tổng số DNNN đã cổ phần hóa. Nhiều DNNN cổ phần hóa đã đổi mới được công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và tính cạnh tranh. II. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CỔ PHẦN HÓA DNNN VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CHÚNG : * Những hạn chế của cổ phần hóa DNNN : Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. - Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tiến bộ cổ phần hóa còn chậm. Những số liệu đã được đề cập cho thấy việc thực hiện cổ phần hóa luôn thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Theo dự kiến, trong 3 năm từ 2000 - 2002 sẽ tiến hành cổ phần hóa 1.056 DNNN, tuy nhiên đến tháng 12/2002, chúng ta mới chỉ thực hiện cổ phần hóa được 523 doanh nghiệp, tức là chỉ bằng gần 50% so với dự kiến. Trong năm 2002 chỉ thực hiện cổ phần hóa được 120 doanh nghiệp, trong khi con số đề ra là 374 doanh nghiệp. Trong ngành thương mại, năm 1998 Bộ thương mại đặt kế hoạch cổ phần hóa 7 doanh nghiệp, kết quả chỉ cổ phần hóa được 1 doanh nghiệp. Kế hoạch năm 1999 là cổ phần hóa 12 doanh nghiệp, song thực tế chỉ đạt được 5 doanh nghiệp, năm 2000 cổ phần hóa 8 doanh nghiệp trong khi kế hoạch cổ phần hóa là 19 doanh nghiệp. Năm 2001 cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp so với kế hoạch đề ra là 19. Trong năm 2002 thậm chí chỉ có 4 doanh nghiệp cổ phần hóa thành công. - Xét về cơ cấu các doanh nghiệp được cổ phần hóa, việc cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực. Cụ thể là các doanh nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là thuộc ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng, số lượng doanh nghiệp cổ phần trong các lĩnh vực khác rất ít. Do số lượng doanh nghiệp được cổ phần hóa không cao, hơn nữa các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên 90% Công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng, trong đó khoảng trên 75% có vốn dưới 5 tỷ đồng. Mặt khác Nhà nước vẫn còn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các Công ty cổ phần, nên việc cổ phần hóa nhìn chung chưa có tác dụng đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp. Về cơ bản, chỉ có những DNNN vừa và nhỏ được cổ phần hóa. Các DNNN quy mô lớn và các tổng Công ty hầu như chưa được đề cập. Chính vì vậy, các Công ty cổ phần hình thành trên nên DNNN cổ phần hóa chủ yếu là Công ty cổ phần quy mô nhỏ. Năm 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số doanh nghiệp đã cổ phần hóa 370 250 288 242 213 Quymô Dưới 10 tỷ 327 224 244 181 172 89% 90% 86% 78% 81% Trên 10 tỷ 43 26 44 55 41 11% 10% 14% 22% 19% Các phương án cải cách chỉ mới tập trung vào việc thu gọn đầu mối, khi cổ phần hóa những doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, nhiều doanh nghiệp 100% vốn của Nhà nước vẫn hoạt động trong những địa bàn không thật sự cần thiết, trong lúc đó, nhiều tổng Công ty quy mô còn nhỏ, mức nộp ngân sách thấp, vai trò mờ nhạt. Một số doanh nghiệp cổ phần hóa mới chỉ tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức trong khi chưa chú trọng đến những vấn đề có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của doanh nghiệp là thực hiện đổi mới công nghệ đầu tư vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động, không lo việc làm cho họ. Ngược lại, ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy, tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi DNNN chuyển sang Công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần phải giải quyết. Trong số doanh nghiệp đã cổ phần hóa, đặc biệt là những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phần mà những người lao động trong các doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa có ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân những người lao động, mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hóa là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ. Công tác tuyên truyền, vận động vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hóa. Tỷ lệ bán cổ phần ra xã hội còn rất thấp và chưa thành quy định bắt buộc. Ngược lại, pháp luật còn khống chế tỷ lệ tối đa được mua cổ phần. Các đối tượng là cán bộ quản lý chỉ được mua cổ phiếu ưu đãi ở mức bình quân cổ phần ưu đãi trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Thủ tục xác định giá trị của doanh nghiệp nói chung còn rườm rà, thường là phải kéo dài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thuộc các Bộ và Tổng Công ty 91. Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu DNNN chủ yếu, việc cổ phần hóa chậm đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại DNNN ở nước ta. Tiến độ cổ phần hóa chậm so với kế hoạch đặt ra. B. NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG CỔ PHẦN HÓA DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI: 1. Phải đảm bảo tính chính xác trong việc xác định giá trị còn lại của các DNNN: Cho đến nay, việc xác định chính xác giá trị còn lại của các DNNN trong quá trình cổ phần hóa vẫn hết sức phức tạp và khó khăn không chỉ đối với các doanh nghiệp trong nước mà ngay cả với các nước phát triển. Nhiều trường hợp đã chứng minh rằng, vì không xác định chính xác những yếu tố cấu thành giá trị của doanh nghiệp, đặc biệt thường bỏ qua yếu tố quan trọng là giá trị quyền sử dụng đất nên Nhà nước đã phát hành cổ phiếu lần đầu với giá không hợp lý hoặc xác định giá trị quá cao làm mất tính hấp dẫn của doanh nghiệp hoặc xác định quá thấp dẫn đến Nhà nước phải thua thiệt. Do vậy giá trị còn lại của doanh nghiệp phải được xác định chính xác bằng các phương pháp khoa học và phải phù hợp với tình hình thực tế, gắn với quy luật của kinh tế thị trường thông qua hình thức đấu thầu theo lô trên thị trường chứng khoán. Hiện nay các kỹ thuật định giá tài sản vẫn còn lạc hậu, chưa phù hợp với sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cơ chế định giá vẫn còn nhiều bất cập, mang nhiều cảm tình, chủ yếu chỉ sử dụng phương pháp kiểm kê và từ đó tính giá trị tài sản ròng bằng công thức: Tổng tài sản = (nợ phải thu + vốn) – (nợ phải trả + quỹ khen thưởng, phúc lợi) Thực tế, giá còn lại của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào tài sản cố định của doanh nghiệp đó, mà còn phụ thuộc vào một số yếu tố vô hình khác như: vị trí, uy tín, thương hiệu, doanh thu... 2. Đảm bảo không làm thất thoát tài sản, gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh và làm giảm thu nhập của người lao động: Định hướng này có vai trò đặc biệt quan trọng đối với DNNN khi tiến hành cổ phần hóa, bởi trong DNNN mọi tài sản đều thuộc sở hữu toàn dân, trừ quỹ phúc lợi là khoản thu nhập không chia mà được để lại dành cho người lao động trong doanh nghiệp. Trong thực tế, vốn tự có của DNNN tạo ra từ 2 nguồn: một phần từ lợi nhuận thu được của doanh nghiệp và một phần đã trích khấu hao cơ bản tài sản cố định của doanh nghiệp được Nhà nước cho phép giữ lại để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Do đó, số vốn này thuộc về Nhà nước và nó trở thành vốn cổ phần khi DNNN chuyển sang hình thái Công ty cổ phần. 3. Xác lập cơ chế pháp lý hấp dẫn đối với người lao động: Thực tế cho thấy, người lao động là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta. Do đó, cần có một cơ chế đủ sức hấp dẫn đối với người lao động để họ không có sự lo ngại về việc làm, thu nhập, quyền lợi của họ. Theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ, tại các điều 13, 14 quy định rõ quyền lợi của người lao động như: cứ mỗi năm làm việc, người lao động được quyền mua 10 cổ phần thấp hơn 30% mệnh giá, ngoài ra còn được chia quỹ phúc lợi để mua cổ phần. Người lao động không có sẵn tiền thì được mua khống (được tài trợ với ân hạn 3 năm) số cổ phần giá thấp theo tiêu chuẩn, được hưởng cổ tức, và trả nợ trong vòng 10 năm kể từ năm thứ 4 trở đi với lãi suất = 0... 4. Đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo và thực hiện cổ phần hóa: Quá trình cổ phần hóa phải được thực hiện theo sự chỉ đạo chung, thống nhất, tránh tình trạng không công bằng giữa các DNNN cũng như gây ra các tổn thất lãng phí cho Nhà nước và doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa trong thời gian qua cho thấy, bộ máy chỉ đạo công tác cổ phần hóa hiện nay chưa đủ mạnh, nhiều cán bộ còn thiếu hiểu biết về nền kinh tế thị trường nói chung và cổ phần hóa nói riêng. Trong quá trình thực hiện, các bộ, ngành và địa phương cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác cổ phần hóa, chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện nên gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa. 5. Xác định đối tượng cổ phần hóa và hình thức cổ phần hóa: Việc xác định đối tượng cổ phần hóa và hình thức cổ phần hóa phải đảm bảo thực hiện mục tiêu cổ phần hóa mà không làm ảnh hưởng đến chiến lược phát triển chung của đất nuớc cũng như doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là lựa chọn doanh nghiệp nào, toàn bộ hay chỉ một hoặc một vài bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hóa? Lựa chọn hình thức cổ phấn hóa như thế nào cho phù hợp với mục tiêu đặt ra? Khi lựa chọn DNNN và hình thức cổ phần hóa phải tính đến một số các yếu tố: - Thứ nhất: Phải tính đến khả năng thực thi của phương án cổ phần hóa để tránh những tổn phí không đáng có. Tức là xem xét khả năng tham gia của các cá nhân và tổ chức vào Công ty cổ phần. - Thứ hai: Tình hình sản xuất - kinh doanh của DNNN sau khi cổ phần hóa có khả năng tiến triển hơn hay không. - Thứ ba: Trong trườnghợp tách bộ phận DNNN để cổ phần hóa cần xem xẹt đến chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước, của doanh nghiệp về các mặt: quy mô, tổ chức, thị trường, sản phẩm và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cổ phần hóa với các chiến lược phát triển đó. 6. Lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp Nhà nước trước khi tiến hành cổ phần hóa: Hiện nay, theo ước tính, hàng năm, nợ phải trả trong các DNNN chiếm khoảng 45% nợ phải thu khoảng 352 so với tổng doanh thu của khối doanh nghiệp này. Song việc xử lý nợ trong thực tế vẫn là vấn đề nhức nhối do những quy định về trách nhiệm chưa thật cụ thể. Trong khi đó đối với các nhà đầu tư thì tình hình tài chính của DNNN tiến hành cổ phần hóa luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu trước khi họ quyết định mua cổ phần của doanh nghiệp đó. Do vậy, để thực hiện cổ phần hóa DNNN đạt kết quả cao, trước khi cổ phần hóa phải xử lý dứt điểm những vướng mắc tài chính còn tồn đọng trong doanh nghiệp. C. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN: 1. Hoàn thiện bộ máy và tổ chức chỉ đạo: Hoàn thiện bộ máy và tổ chức chỉ đạo, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho mọi người dân, nhất là người lao động trong các DNNN thuộc diện chuyển đổi sở hữu về ý nghĩa, mục đích, sự cần thiết của cổ phần hóa để họ quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách và giải pháp đổi mới DNNN. Trong thời gian tới không ngừng chấn chỉnh và hoàn thiện tổ chức bộ máy Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp từ trung ương đến các bộ, ngành tỉnh, thành phố. Nâng cao trách nhiệm của bộ, ngành và địa phương trong công tác sắp xếp và tiến hành cổ phần hóa DNNN trong thời gian tới, có chương trình kế hoạch cụ thể và phải tập trung chỉ đạo quyết liệt nhằm đảm bảo thực hệin theo đúng kế hoạch đề ra. Song song với việc kiện toàn và tổ chức chỉ đạo, cần tăng cường, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến đến từng người dân và cán bộ, công nhân viên ở các DNNN nhằm cho mọi người hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu của việc sắp xếp lại DNNN nói chung và cổ phần hóa nói riêng. Có nhiều biện pháp tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến: - Trước hết cần phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí... - Bên cạnh đó mở rộng các hình thức tuyên truyền khác như: tổ chức hội thảo khoa học giữa các nhà kinh tế với các nhà quản lý... phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng. Khi thực hiện công tác phổ biến tuyên truyền chủ trương cổ phần hóa cần chú ý tới một số vấn đề cơ bản sau: - Xác định những nội dung thiết thực của công tác cổ phần hóa DNNN. - Thực hiện đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, xã hội hóa công tác tuyên truyền. - Công tác phổ biến, tuyên truyền về chủ trương cổ phần hóa cần được thực hiện một cách thường xuyên trong suốt quá trình cổ phần hóa. 2. Áp dụng đồng bộ các giải pháp về tài chính, tín dụng, tích cực giải quyết các khoản nợ của DNNN trước khi thực hiện cổ phần hóa: Đối với các khoản nợ phải thu: nếu là các khoản nợ khó đòi do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp đã được quy trách nhiệm cá nhân hoặc tập thể thì phải cương quyết xử lý bồi thường vật chất. Nếu khoản nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan mà có đủ chứng cứ xác định là không đòi được như: con nợ bỏ trốn, giải thể hoặc phá sản... thì doanh nghiệp được sử dụng quỹ dự phòng bù đắp thêm, hạch toán vào kết quả kinh doanh (nếu có lãi) hoặc giảm giá trị doanh nghiệp trước khi thực hiện cổ phần hóa. Đối với các khoản nợ phải trả: do bất kỳ nguyên nhân nào, nếu là khoản nợ ngân sách thì coi như vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được thể hiện chuyển đổi sở hữu theo chế độ hiện hành. Nếu là vay Ngân hàng thì phải dùng tiền thu được do chuyển sở hữu để trả nợ Ngân hàng. - Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa DNNN. - Thị trường hóa các khoản nợ. 3. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa : * Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp : Trong toàn bộ giá trị của DNNN thì một phần không nhỏ là giá trị tài sản thuộc sở hữu nhà nước, được nhà nước đầu tư. Hiện nay việc xác định giá trị thực tế của DNNN chủ yếu được thực hiện theo nguyên tắc : giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Nguyên tắc này phù hợp với nguyên tắc thị trường. * Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp : Hiện nay, việc xác định giá trị DNNN để tiến hành cổ phần hóa còn mang tính chủ quan của hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, nên kết quả thiếu chính xác, chưa phản ánh đúng giá trị thực của doanh nghiệp. Nếu làm đúng thì giá trị tài sản nhà nước gồm tài sản hữu hình và vô hình chỉ thay đổi về hình thức quản lý mà không làm mất đi giá trị thực tế. * Tính giá trị sử dụng đất để cổ phần hóa DNNN : Hiện nay, giá về sử dụng đất hầu như vẫn chưa được tính vào giá trị doanh nghiệp và DNNN cổ phần hóa tiếp tục được sử dụng. Nếu tính đủ yếu tố đất sẽ kéo theo giá trị doanh nghiệp lên rất cao, khó bán được cổ phiếu. Do vậy, cách tốt nhất là doanh nghiệp thuê đất của nhà nước và khấu hao trả dần. 4. Điều chỉnh các chính sách ưu đãi để khuyến khích DNNN thực hiện cổ phần hóa, tạo sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt giữa loại hình DNNN và công ty cổ phần : Theo kết quả điều tra dư luận xã hội về việc tiến hành cổ phần hóa DNNN thì 81% cán bộ quản lý, 51% công nhân, 64% cán bộ làm công tác Đảng cho rằng: cần đảm bảo sự bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp cổ phần hóa cũng như với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng môi trường kinh doanh hiện nay vẫn chưa tạo được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nên các DNNN sau khi cổ phần hóa vẫn bị thiệt thòi hơn so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, nhà nước cần có các chính sách ưu đãi cho các DNNN cổ phần hóa, nhất là chính sách miễn giảm thuế thời gian đầu. KẾT LUẬN Như chúng ta đã biết doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng là một trong những tế bào của nền kinh tế, nên tự nó phải thường xuyên thích nghi với môi trường kinh tế xã hội, đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước … Trong đó cổ phần hóa DNNN là một giải pháp quan trọng trong lộ trình sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN. Trong thời gian qua với sự quyết tâm của Nhà nước, các ngành, các cấp, ở cả trung ương và địa phương đã thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN phát triển, những thành tựu đạt được là đáng kể, chứng tỏ những chủ trương đúng đắn của nhà nước. Với nhận thức trên, tiểu luận hướng đến việc đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần xung quanh vấn đề cổ phần hóa DNNN. Mặc dù có sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn nhưng do trình độ có hạn và chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế, hơn nữa đây là lần đầu tiên nghiên cứu đề tài và ứng dụng tổng hợp các kiến thức em đã học ở nhà trường nên bài viết không tránh khỏi nhiều sai sót. Trong thời gian tới em sẽ tiếp tục nghiên cứu và rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và ủng hộ của quý thầy cô và các bạn. MỤC LỤC 1. Lời mở đầu 2. Chương I : Những lý luận cơ sở 1 3. Chương II : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện nền tảng pháp lý cho cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam 7 Thực trạng và triển vọng cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam 7 Những quan điểm cổ phần hóa DNNN trong thời gian tới 13 Các giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN 15 4. Kết luận : 18

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthanh hien.doc
Tài liệu liên quan