Tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những định hướng cho công tác đào tạo: Lời mở đầu
Trong bất kỳ giai đoạn nào, sức mạnh của mỗi quốc gia có được đều là sự tổng hợp sức mạnh của nhiều nguồn lực trong quốc gia đó, mà yếu tố quan trọng hàng đầu là sức mạnh con người. Đối với Việt Nam, thực tế lịch sử đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng của con người đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính sức mạnh đó đã giúp nhân dân giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giúp con người vượt lên sự khắc nghiệt của thiên tai, bệnh tật. Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới thì sức mạnh con người là nhân tố hàng đầu của sự phát triển. Tự do hoá thương mại đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thử thách buộc chúng ta phải có sự nỗ lực cố gắng nâng cao trình độ nhận thức và trình độ kỹ thuật chuyên môn cho người lao động. Do đó phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Cùng với sự phát triển của kinh t...
48 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những định hướng cho công tác đào tạo, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong bất kỳ giai đoạn nào, sức mạnh của mỗi quốc gia có được đều là sự tổng hợp sức mạnh của nhiều nguồn lực trong quốc gia đó, mà yếu tố quan trọng hàng đầu là sức mạnh con người. Đối với Việt Nam, thực tế lịch sử đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng của con người đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính sức mạnh đó đã giúp nhân dân giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giúp con người vượt lên sự khắc nghiệt của thiên tai, bệnh tật. Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới thì sức mạnh con người là nhân tố hàng đầu của sự phát triển. Tự do hoá thương mại đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thử thách buộc chúng ta phải có sự nỗ lực cố gắng nâng cao trình độ nhận thức và trình độ kỹ thuật chuyên môn cho người lao động. Do đó phải thường xuyên chăm lo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Cùng với sự phát triển của kinh tế theo xu hướng hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang ra sức thực hiện để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Song song với việc chăm lo cải thiện mức sống dân cư, nâng cao thể chất của người dân nói chung và của người lao động nói riêng, chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đã nêu các mục tiêu cơ bản là: Nâng cao chất lượng toàn diện con người Việt Nam về chính trị, đạo đức, ý chí, tri thức, tay nghề, sức khoẻ, thể lực. Sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động hiện có, đặc biệt là lao động đã qua đào tạo. Nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lên gấp 2 lần hiện nay. Hình thành đội ngũ lao động có chất lượng cao, có cơ cấu trình độ đáp ứng yêu cầu trong từng bước đi của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ 2001-2010, chuẩn bị tiền đề về nhân lực cho giai đoạn tiếp theo.
Để nghiên cứu về thực trang nguồn nhân lực, tình trạng đào tạo và phất triển nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như đưa ra một vài giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài : “Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những định hướng cho công tác đào tạo”
Phần I: Mức độ cấp thiết của đề tài
I. KháI niệm về Nguồn nhân lực (NNL).
Bất cứ một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có quá trình lao động.
Lao động là sự tác động của con người vào đối tượng tự nhiên của môi trường xung quanh con người để biến đổi nó theo ý muốn (có thể là lao động chân tay hoặc lao động trí óc).
Quá trình lao động là những hoạt động lao động liên tục diễn ra theo một quá trình của con người tác động vào đối tượng lao động, biến nó theo ý muốn. Như vậy có thể nói con người là điều kiện thiết yếu để tồn tại của một tổ chức. Dù đó là tổ chức gì (công ty, bệnh viện, trường học, cơ quan quản lý nhà nước…) thì cũng cần phải có con người hay nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của một tổ chức bao gồm tất cả những người lao động làm việc trong tổ chức đó. Nhân lực được hiểu là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này gồm có thể lực và trí lực.
- Thể lực chỉ sức khoẻ của thân thể, nó phụ thuộc vào sức vóc, tình trạng sức khoẻ của từng người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chế độ y tế. Thể lực của con người còn phụ thuộc vào tuổi tác, thời gian công tác, giới tính…
- Trí lực chỉ sức suy nghĩ, sự hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân cách…của từng người. Trong sản xuất kinh doanh hiện nay các tiềm năng về trí lực con người đang được khai thác một cách mạnh mẽ và đây là một kho tàng còn nhiều bí ẩn của mỗi con người.
II. Tình hình hội nhập kinh tế thế giới.
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và quốc tế hóa một cách nhanh chóng toàn diện dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Các quá trình đó dẫn đến xu thế hội nhập kinh tế của các nước trên thế giới.
Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút nhắn tụt hậu so với các nước khác và có điểu kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Hội nhập kinh tế sẽ giúp chúng ta thu nhận tri thức, khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo sức ép để các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mở rộng thị trường ra nước ngoài góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nước ta đã đưa vào và đang triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính thương mại của ASEAN: khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), khu vực tự do ASEAN (AIA), là thành viên của diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC), có quan hệ chặt chẽ với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB),...Sau 11 năm kiên trì đàm phán, cuối cùng Việt Nam cũng đã được kết nạp làm thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 7-11-2006. Việc Việt Nam gia nhập WTO là một sự kiện lớn, đánh dấu một bước tiến mới về hội nhập quốc tế của nền kinh tế nước nhà. Thành tựu này sẽ mang đến cho nước ta rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động và việc làm. Vấn đề lao động lúc này có ý nghĩa quyết định trong sự đi lên của quốc gia.
III. Tính tất yếu khách quan cần phải: đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Con người là tài sản quý giá nhất đồng thời là nguồn tài nguyên to lớn và quan trọng nhất trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong tiến trình hội nhập ngày nay thì nhân tố con người càng phải được chú trọng hơn bao giờ hết.
Thế kỷ XXI là thế kỷ kinh tế tri thức, công nghệ cao, cần hàm lượng chất xám cao trong thành quả lao động, sản xuất và phát triển bền vững là con đường tất yếu của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nhân tố con người là điều kiện tiên quyết của phát triển bền vững nước ta. Hiện nay bên cạnh những lợi thế về một nguồn nhân lực dồi dào, thông minh, năng động, cần cù, ham học hỏi, khả năng tiếp thu công nghệ nhanh thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều vấn đề hạn chế cần được quan tâm và có biện pháp khắc phục. Để có được một nguồn nhân lực có chất lượng cao cần phải có biện pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phù hợp. Đào tạo và phát triển lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật có ý nghĩa quyết định để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của đất nước. Đây là quá trình thúc đẩy phát triển nguồn lực con người tri thức, phát triển các kỹ năng và các phẩm chất lao động mới, thúc đẩy sáng tạo thành tựu khoa học công nghệ mới, đảm bảo cho sự vận động tích cực các ngành nghề, lĩnh vực và toàn bộ xã hội. Quá trình đào tạo làm biến đổi nguồn nhân lực cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm phát huy, khơi dậy những tiềm năng của con người; phát triển toàn bộ và từng bộ phận trong cấu trúc nhân cách; phát triển cả về năng lực vật chất và năng lực tinh thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao, hoàn thiện cả về đạo đức và tay nghề, cả tâm hồn và hành vi, từ trình độ chất lượng này lên trình độ chất lượng khác cao hơn, toàn diện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vấn đề đặt ra là sử dụng nhân tố con người như thế nào cho đạt hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của hội nhập ngày càng được các nước quan tâm trong đó có Việt Nam. Xác định được vị trí của con người, cần phải quan tâm hơn nữa nguồn tài nguyên đang có trong việc tạo điều kiện để con người phát huy tài năng, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, nâng cao sự hiểu biết về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, phải phát huy một cách tốt nhất những mặt mạnh và khắc phục được những mặt hạn chế để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Từ thực tế về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay cho thấy: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những yêu cầu cấp bách trong tiến trình hội nhập hiện nay ở nước ta, là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, chúng ta thấy được mức độ cấp thiết của đề tài trong giai đoạn hiện nay.
Phần II. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Sau 11 năm tính từ 1/1995 có thể nói sự kiên VN trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) là “cú huých” thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội phát triển. Những mục tiêu cơ bản của WTO là: Thúc đẩy tự do hóa thương mại hóa hàng hóa dịch vụ, thúc đẩy phát triển bền vững nhằm nâng cao sức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các quốc gia thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động.
Trước khi vào WTO, bức tranh thương mại của Việt Nam với các nước nhìn chung đã tạo được sự kết nối khá ổn định. Với việc là thành viên thứ 150 của WTO, hiện nay nước ta có quan hệ với 220 quốc gia và các vùng lãnh thổ.Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2005 đạt 32,2 tỷ USD (tăng 21,6% so với năm 2004). Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa là 36,9 tỷ USD (tăng 4% so với năm 2004) (số liệu báo lao động và xã hối số 300 năm 2006).
Gia nhập WTO Việt Nam càng có môi trường phát triển thương mại, tạo nhiều công ăn việc làm trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ nhờ các cơ hội như: Được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn thuế nhập khẩu vào WTO sẽ giảm đáng kể, hưởng cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại, hưởng chế độ thuế quan phổ cập vì là các nước đang phát triển, được tham gia đàm phán quốc tế để bảo vệ quyền lợi…
Gia nhập WTO không những mở rộng thị trường ra nước ngoài mà còn mở rộng thị trường trong nước do nền kinh tế có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế sẽ diễn ra cạnh tranh giữa hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với các nước khác nhưng điều đó sẽ tạo cơ hội để thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm để có đủ sức cạnh tranh.Với những điều kiện tác động của nền kinh tế thế giới sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tích cực cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình để có thể cạnh tranh với những sản phẩm khác và có cơ hội đứng vững trên thị trường.
Hội nhập kinh tế thế giới cũng tạo tiền đề để đổi mới công nghệ , nâng cao trình độ thâm canh, canh tác, đưa máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế. Đồng thời cũng tăng thêm nguồn đầu tư nước ngoài cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, nông, lâm, ngư nghiệp trong nước. Đây là một thuận lợi lớn cho phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện đó nguồn nhân lực Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để phát triển hoà nhập với trình độ của các nước trên thế giới. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có không ít những thách thức đặt ra đối với nguồn nhân lực cần phải có giải pháp khắc phục để hoàn thiện đội ngũ lao động chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn CNH, HĐH.
I. Thực trạng về nguồn nhân lực
1. Đặc điểm về số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực.
Năm 2006 lực lượng lao động của cả nước là 45277 nghìn người. Trong đó nam là 23345 người (chiếm 51.6%), nữ là 21932 người (chiếm 48.44%). Lực lượng lao động phân bố không đều giữa nông thôn và thành thị. Nông thôn chiếm khoảng 75,03% lao động, thành thị chiếm khoảng 24.97% tổng số lao động.
Bảng 1: Phân bố lao động Việt Nam theo giới tính, nhóm tuổi, khu vực năm 2004 và 2006 (đơn vị %).
Năm
Giới tính
Khu vực
Nhóm tuổi
Nam
Nữ
Nông thôn
Thành thị
15 đến 34
35 đến 54
Trên 55
2004
51
49
75.6
24.4
46.77
45.13
7.74
2006
51.56
48.44
75.03
24.97
45.46
46.36
8.18
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy lực lượng lao động Việt Nam đã có sự thay đổi. Cụ thể: Năm 2006 so với năm 2004:
Số lao động nam năm 2006 đã tăng lên từ 51% lên 51,56%( tăng 0,56%) so với năm 2004. Trong khi đó lao động nữ giảm từ 49% xuống 48,44%. Lao động nông thôn giảm dần, khu vực thành thị tăng lên (0,57%). Lao động trong nhóm tuổi từ 15 đến 34 giảm xuống từ 46,77 xuống còn 45,46 ( giảm 1,31%). Nguyên nhân là do gia tăng số người tuổi từ 15 đến 24 đi học THPT, trung cấp, cao đẳng, đại học và đào tạo nghề.
Theo số liệu thống kê lao động theo nhóm tuổi năm 2006, số lao động trong nhóm tuổi từ 15 đến 34 là 20.582 nghìn người (45,46%), nhóm tuổi từ 35 đến 54 là 20.991 nghìn người (46,36%), nhóm tuổi trên 55 là 3.704 nghìn người ( 8,18%). Trong đó số lao động đang có việc làm tính đến ngày 1/7/2006 là 43.843 nghìn người, tăng 386 nghìn người so với năm 2005. Dự báo đến năm 2010 tổng dân số nước ta đạt khoảng 88,3 triệu người trong đó lực lượng lao động là 49,5 triệu người, chiếm khoảng 56%, bình quân mỗi năm giai đoạn từ 2006 đến 2010 tăng 1,1 triệu lao động ( tăng 2,5 % ), trong đó khu vực thành thị tăng gấp 2,5 lần so với nông thôn. Đây là một thuận lợi lớn đối với Việt Nam. Lao động dồi dào và trẻ, có trình độ văn hóa khá, lại ham học hỏi và lao động, có khả năng tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học công nghệ mới và đặc biệt giá nhân công thấp so với khu vực. Điều này sẽ tạo cơ hội để Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới.
Lao động nước ta phân bố không đều theo ngành. Năm 2005, số lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghịêp chiếm 57%, ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 18%, ngành thương mại dịch vụ chiếm 25%.
Biểu 1: Phân bố lao động theo ngành năm 2005
Lao động nước ta chủ yếu là hoạt động trong ngành nông nghiệp (lao động chủ yếu là ở nông thôn): Tỉ lệ hộ thuần nông là 62,2%, hộ thuần nông kiêm nghề là 26,05%, hộ phi nông nghiệp là 11,03%. Trong những năm qua, mặc dù số lao động ở nông thôn trong ngành nông nghiệp có giảm song vẫn còn cao 56,8% (nhưng chất lượng lao động trong nông nghiệp thấp do tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp và chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu), tỉ lệ lao động qua đào tạo đã tăng qua các năm (năm 2003 là 21%, năm 2004 là 22,5%, năm 2005 là 25%)nhưng năng suất lao động còn thấp.
Theo xu hướng phát triển, cơ cấu lao động nước ta sẽ tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng CNH, HĐH. Tức là, tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong các ngành nông, lâm và ngư nghiệp. Mục tiêu đến năm 2010 chỉ còn khoảng 50% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, 23-24% lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, 26-27% lao động trong lĩnh vực dịch vụ.
Sự gia tăng quy mô lao động và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động đặt ra những yêu cầu bức xúc về việc mở rộng quy mô đào tạo và phát triển một lực lượng lao động tiên tiến để đáp ứng các nhu cầu hiện nay của nền kinh tế. Bởi vì khi tham gia vào tổ chức WTO cũng mang đến cho nguồn nhân lực Việt Nam nhiều thách thức. Cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ gay gắt hơn, lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân công giá rẻ, đầu tư xã hội thấp sẽ giảm dần và mặt yếu như trình độ tay nghề, chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật, tác phong công nghiệp và thể lực kém là những bài toán khó đang cần tìm lời giải.
2. Về chất lượng lao động.
2.1. Trình độ văn hóa của lực lượng lao động ( LLLĐ).
Đánh giá chung thì trình độ văn hóa của nguồn nhân lực nước ta chưa cao so với các nước có nền kinh tế khá phát triển (Hàn Quốc, Xingapo, Malaixia) và so với các nước có nền kinh tế phát triển (Nhật, Mỹ, Anh, Pháp) thì khoảng cách này còn ở khá xa. Theo cơ cấu điều tra, năm 2004, trong lực lượng lao động của cả nước có 5% mù chữ,12% chưa tốt nghiệp tiểu học, 30,5% mới chỉ tốt nghiệp tiểu học, 32,8% tốt nghiệp THCS và 19,7% tốt nghiệp từ THPT trở lên. Năm 2005 số liệu này là: 4,04% mù chữ, 13,09% chưa tốt nghiệp tiểu học, 29,08% tốt nghiệp tiểu học, 32,57% tốt nghiệp THCS và 21,23% tốt nghiệp từ THPT trở lên.
Biểu 2: Biểu đồ trình độ văn hóa của LLLĐ năm 2004 và 2005 (% )
Từ số liệu trên cho ta thấy trình độ văn hóa của lao động tốt nghiệp từ THPT trở lên năm 2005 đã tăng từ 19.7% lên 21.23% (tăng 1.53%). Tỷ lệ lao động mù chữ đã giảm xuống từ 5% năm 2004 xuống còn 4.04% năm 2005 (giảm 0.96%). Đây là tín hiệu đáng mừng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay.
Giữa các vùng cũng có sự khác biệt về trình độ văn hóa của lao động. Năm 2004 ở đồng bằng sông Hồng cơ cấu của LLLĐ như sau: 27% tốt nghiệp THPT, 51% tốt nghiệp THCS, 19% tốt nghiệp tiểu học, 3% chưa tốt nghiệp tiểu học và mù chữ; Trong khi ở đồng bằng Sông Cửu Long, các chỉ số tương ứng là 11,16,40,33; ở Tây Bắc là: 12, 23, 30 và 35; Tây Nguyên là: 16,26,32 và 26. Nhìn chung trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng Sông Cửu Longcòn thấp hơn so với các vùng khác. Nâng cao trình độ văn hóa là cơ sở để phát triển đào tạo lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn nhân lực
2.2. Trình độ chuyên môn kĩ thuật (CMKT) của LLLĐ.
Trình độ chuyên môn kĩ thuật là sự hiểu biết, kiến thức và kĩ năng thực hành về một nghề nghiệp nhất định. Để đánh giá tổng quan trình độ CMKT của nguồn nhân lực người ta thường dùng các chỉ tiêu như:
- Tỉ lệ giữa số lao động qua đào tạo từ công nhân kĩ thuật, sơ cấp trở lên trong nguồn nhân lực (NNL).
Cơ cấu lao động đã qua đào tạo theo cấp trình độ chuyên môn kĩ thuật (công nhân kĩ thuật / sơ cấp, trung hoc chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học trở lên) của NNL.
- Tương quan sử dụng lao động các cấp trình độ CMKT (sơ cấp, công nhân kĩ thuật-trung học chuyên nghiệp-cao đẳng đại học, trên đại học) trong nền kinh tế.
- Thực tế hiện nay ở nước ta cho thấy, năm 2004, tỉ lệ lao động qua đào tạo trong LLLĐ cả nứớc là 22,5%. Trong đó tỉ lệ đã qua đào tạo sơ cấp, đào tạo nghề là 13,3%; Tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; Tốt nghiệp cao đẳng đại học trở lên là 4,8%. Năm 2005, lao động chưa qua đào tạo là 74,67%, công nhân kĩ thuật không có bằng là 10,59%, công nhân kĩ thuật có bằng và chứng chỉ 3,54% sơ cấp 0,97% trung học chuyên nghiệp 4,73%, cao đẳng và đại học trở lên 5,5%.
Biểu 3: Biểu đồ trình độ CMKT của lao động (%).
Như vậy, tỉ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động đã có nhiều thay đổi, LLLĐ qua đào tạo đã tăng từ 22,5% năm 2004 lên 25,33% năm 2005 (tăng 2,83% ). Năm 2006 tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo là 31,9% tăng 6,57% so với năm 2005. Trong đó, số lao động tốt nghiệp cao đẳng đại học trở lên đã tăng từ 4,8% năm 2004 lên 5,5% năm 2005 (tăng 0,7%), tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp tăng từ 4,4% năm 2004 lên 4,73% năm 2005 (tăng 0,33% ). Số lao động chưa qua đào tạo đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, năm 2004 là 77,5%, năm 2005 giảm xuống còn 74,67% (giảm 2,83% ). Năm 2006 số lao động chưa qua đào tạo còn 68,1%, giảm 6,57% so với năm 2005. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng lao động kĩ thuật là một trong những nhân tố có vai trò quyết định. Mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, đạt 40% vào năm 2010.
Cơ cấu cấp trình độ đào tạo giữa cao đẳng đại học trở lên / trung học chuyên nghiệp / công nhân kĩ thuật còn bất hợp lí, năm 1996 là: 1/1,7/2,4 ; Năm 2004 là: 1/0,91/2,75. Cơ cấu này biểu hiện trên thị trường lao động thiếu nghiêm trọng công nhân kĩ thuật lành nghề và lành nghề cao. Điều này đòi hỏi cần phảI có những chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực kịp thời và đúng đắn.
II. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của Việt Nam trong tình hình hội nhập kinh tế.
1. Cơ hội.
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu kinh tế xã hội to lớn. Chúng ta đã chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định 7- 8%/năm, kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện và đã tạo điều kiện để con người học tập và phát huy được tài năng, cống hiến bằng chính khả năng của mình. Thực tế cho thấy nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế.
Cụ thể:
- Việt Nam có một nguồn lao động trẻ dồi dào, cần cù trong lao động, thông minh, ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh những kiến thức và khoa học công nghệ mới để đáp ứng với những thay đổi của nền kinh tế hiện đại. Lực lượng lao động tăng hàng năm đáng kể góp phần tạo nên “cấu trúc dân số vàng”, nghĩa là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ trọng đông nhất trong tổng dân số.
-Lực lượng lao động đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng có lợi cho quá trình CNH, HĐH. Số lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ đang có xu hướng tăng lên, số lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp đang giảm dần. Điều này sẽ khuyến khích việc phát triển kinh tế mạnh mẽ, làm tăng sức cạnh tranh cho ngành công nghiệp, dịch vụ trên thị trường quốc tế.
-Trình độ lao động cũng có nhiều biến chuyển tốt. Lượng lao động được đào tạo tăng lên là điều kiện để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng phát triển cho một đội ngũ đông đảo những người có trình độ để có thể tự tin, sẵn sàng nắm bắt những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm kịp thời tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây cũng là giai đoạn giáo dục được quan tâm đặc biệt, ngân sách đầu tư cho giáo dục tăng lên đáng kể, mở rộng số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề, nâng cao chất lượng đào tạo, các dịch vụ đào tạo mở ra ngày một nhiều hơn (đào tạo từ xa, mở rộng…), thu hút đông đảo số người tham gia. Chính vì vậy, chất lượng giáo dục được nâng cao, tạo ra những con người có trình độ học vấn, tiếp thu nhanh, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thế giới. Họ là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Mặt khác , khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều cơ hội cho người lao động
- Thứ nhất, khả năng tìm kiếm được việc làm của người lao động ngày càng gia tăng.
Khi đã trở thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện mở cửa thị trường theo lộ trình nhất định như đã cam kết với tổ chức này, điều đó sẽ làm cho làn sang đầu tư nước ngoài vào nước ngoài vào nước ta ngày càng tăng lên và kéo theo sự gia tăng một cách ồ ạt về số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này thường có qui mô và vốn lớn. Do đó sẽ có nhiều nhiều việc làm mới được tạo ra và đấy là một cơ hội không nhỏ đối với người lao động, kể cả người lao động chưa có việc làm và những người lao động đã có việc làm. Đối với những người lao động chưa có việc làm, họ sẽ có nhiều cơ hội và khả năng tìm được việc. Còn với những người đã có việc làm, họ sẽ có nhiều cơ hội lựa chọn và thay đổi nghề nghiệp hơn, đặc biệt là lao động có trí tuệ cao.
- Thứ hai, cùng với việc gia tăng khả năng tìm kiếm việc làm, người lao động sẽ có cơ hội được hướng mức lương phù hợp hơn, chế độ đãi ngộ cao hơn, và chính sách xã hội tốt hơn. Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, các chủ thể trong nền kinh tế. Do vậy tiền lương của người lao động không thể áp đặt mà phải theo qui luật của thị trường.
- Thứ ba người lao động Việt Nam sẽ có nhiều hơn các cơ hội để giao lưu học hỏi, được phân công lao động trên tầm quốc tế, được bình đẳng mức thu nhập như người nước ngoài do nhu cầu của các tập doàn kinh tế.
- Thứ tư, người lao động có cơ hội tiếp cận với máy móc, công nghệ và phương pháp quản lý hiện đại.
Khi tiến hành sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài chắc chắn sẽ đưa vào nứơc ta hàng loạt công nghệ sản xuất và phương pháp quản lý, cách thức điều hành tiên tiến hiện đại. Bên cạnh đó, để tiến hành đổi mới công nghệ cùng phương pháp quản lý và tư duy quản lý. Đây là cơ hội không nhỏ để người lao động có điều kiện để tiếp cận và học hỏi, làm chủ nền khoa học hiện đại của thế giới, qua đó nâng cao kiến thức, kỹ năng và tay nghề cho mình.
- Thứ năm, người lao động có cơ hội tìm được việc làm phù hợp thông qua thị trường lao động.
Như vậy, xu thế hội nhập kinh tế thế giới có ý nghĩa rất lớn với người lao động Việt Nam. Đây là tín hiệu đáng mừng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp của nước ta đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội.
2. Thách thức.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, nguồn nhân lực nước ta cũng gặp không ít những khó khăn: Lực lượng lao động của nước ta tuy nhiều, cơ cấu lao động tuy đã chuyển dịch theo hướng có lợi theo xu thế của thời đại nghĩa là giảm tỷ lệ lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tăng số lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng cho đến nay, về cơ bản, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với 70% lao động nông thôn có trình độ sản xuất thấp kém. Tỷ lệ lao động được qua đào tạo còn thấp. Cơ cấu đào tạo giữa các bậc học còn thiếu hợp lý, bất cân đối, thiếu tính quy hoạch định hướng lâu dài phù hợp với sự phát triển của kinh tế tri thức dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực vừa thừa, vừa thiếu, tình trạng “thợ thừa, thầy thiếu” diễn ra khá phổ biến.
Điều này làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao động vẫn còn ở mức cao. Theo kết quả điều tra lao động việc làm cho thấy năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ từ đủ 15 tuổi trở lên là 5,13%.Trong đó tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi lao động là 5,31%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ (15-24 tuổi) là 13,4 %.
Khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là việc gia nhập WTO, bên cạnh những thuận lợi cũng đạt ra không ít những thách thức đối với lao động:
- Thứ nhất, xuất phát từ trình độ chuyên môn, tay nghề và năng suất của phần lớn người lao động ở nước ta còn thấp.
Mặc dù cơ hội việc làm cho người lao động là rất nhiều, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài nhưng theo yêu cầu tất yếu của hội nhập thì các nhà sử dụng lao động trong và ngoài nước sẽ đòi hỏi rất cao về chất lượng lao động: trình độ, kỹ năng, năng suất...lực lượng lao động Việt Nam nêu không có sự chuyển biến tích cực thì khó có thể đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Chất lượng lao động thấp lại không được đào tạo một cách bài bản khiến lao động nước ta sẽ bị nhiều sức ép, không tận dụng được cơ hội và sẽ bị lép vế.
- Thứ hai, người lao động phải làm việc trong một môi trường có sức ép công việc lớn, sự đòi hỏi cao về ý thức, tác phong, thái độ làm việc và việc chấp hành pháp luật.
Khi bước vào hội nhập do yêu cầu cao về hiệu quả kinh doanh, các nhà sử dụng lao động đặc biệt là người nước ngoài lại yêu cầu rất cao về ý thức, thái độ, tác phong làm việc từ phía người lao động. Người lao động phải chịu sức ép về công việc nhiều hơn, cường độ công việc cao hơn, thời gian công việc ngặt nghèo hơn và yêu cầu tuân thủ pháp luật cũng cao hơn.
Như vậy hội nhập kinh tế là cơ hội để lao động Việt Nam nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ tay nghề nhưng cũng đặt ra cho người lao động không ít những thách thức. Do đó cần phải có những biện pháp kịp thời để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng kịp thời với tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
3. Kết luận chung.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước và thực hiện chủ trương hội nhập với thế giới thì một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Về vấn đề này, ngoài việc làm giàu tài nguyên thiên nhiên (một thành tố để phát triển kinh tế) chúng ta có một nguồn nhân lực khá dồi dào. Tuy là một nước đang phát triển nhưng Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá cao về chỉ số phát triển con người (chỉ số HDI của nước ta đạt 0,704; xếp thứ 109 trên 177 nước vào năm 2006, cao hơn nhiều nước trong khu vực, trong khi thu nhập bình quân đầu người chúng ta lại thấp hơn họ rất nhiều).
Với hơn 80 triệu dân, trong đó có hơn 43 triệu lao động, Việt Nam được đánh giá là một nước có LLLĐ dồi dào và trẻ, đang trên đà phát triển với một tinh thần ham học hỏi, cần cù, thông minh và nhiều cơ hội tiếp thu nhanh những kiến thức mới, những khoa học công nghệ hiện đại, tận dụng được thời cơ trong thời kì hội nhập. Tuy nhiên trình độ văn hóa và chuyên môn kĩ thuật của người lao động còn đang trong tình trạng khó khăn. Để vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề đặt ra ở đay là làm sao để nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn kĩ thuật của người lao động, nâng cao kĩ năng tay nghề, tác phong làm việc cho người lao động. Đây đang trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển và sử dụng có hiệu quả NNL, phát triển kinh tế đất nước.
Phần IiI. Định hướng cho công tác đào tạo nguồn nhân lực của nước ta hiện nay.
I. Thực trạng về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Đào tạo trung học chuyên nghiệp (THCN), cao đẳng, đại học và trên đại học.
1.1. Thuận lợi.
Theo C.Mác, “một lao động được coi là cao hơn, phức tạp hơn so với lao động trong xã hội trung bình là biểu hiện của một sức lao đông đòi hỏi những chi phí đào tạo cao hơn, người ta phải tốn nhiều thời gian lao động để tạo ra nó và vì vậy, nó có một giá trị cao hơn so vói sức lao động giản đơn. Nếu giá trị của của sức lao động đó cao hơn thì nó cũng biểu hiện ra trong một lao động cao hơn và vì vậy, trong những khoảng thời gian như nhau, nó sẽ được vật hóa trong các giá trị tương đối hơn.”
Để nâng cao trình độ cho người lao động, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề giáo dục lên trở thành quốc sách hàng đầu. Hiện nay, nguồn nhân lực có trình độ cao (từ THCN, cao đẳng, đại học trở lên) đang có sự phát triển tương đối mạnh ở Việt Nam, nhất là từ năm 1990 đến nay.
Bảng 2: Bảng số liệu học sinh, sinh viên các trường THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học từ năm 1995 đến năm 2005 (nghìn người).
Năm
1995
1999
2000
2001
2002
2005
CĐ,ĐH
297,9
734,9
795,6
873
908,8
1078,6
THCN
165,6
195,9
250,9
262,8
371,1
551,4
Nếu năm 1995 cả nước mới chỉ có 165,6 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp thì đến năm 2002 tăng lên 317,1 nghìn (tăng 2,24 lần ), bình quân hàng năm tăng 17,7 %. Đào tạo cao đẳng đại học cũng có xu hướng tăng, năm 1990 mới chỉ có 129,6 nghìn sinh viên thì đến năm 1995 con số này là 297,9 nghìn người (tăng 2,3 lần) trung bình hằng năm trong giai đoạn 1990-1995 tăng 25,97%. Năm 2002 là 908,8 nghìn người (tăng 3,05 lần) trung bình hằng năm tăng 29,3 %. Như vậy, quy mô đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học liên tục tăng qua các năm. Điều này được biểu hiện qua biểu sau:
Biểu 4: Quy mô đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học.
Có thể thấy rằng trong những năm qua nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển với nhiều đổi mới và đạt được những thành tựu đáng kể. GDP và GNP hàng năm tăng nhanh, tốc độ phát triển kinh tế bình quân hàng năm đạt 8,17%(năm 2006), thu nhập bình quân đầu người tăng, mức sống của người dân được cải thiện đáng kể. Đồng thời với sự phát triển của nền kinh tế là sự phát triển của thị trường lao động, đây chính là những nhân tố quan trọng thúc đẩy đào tạo THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học. Người dân cũng quan tâm đến việc học hành và hướng nghiệp của con cái hơn. Điều đặc biệt là những quan niệm trọng nam khinh nữ cũng đang dần được xóa bỏ, số học sinh và sinh viên nữ cũng tăng lên.Trong các năm qua, đào tạo các cấp trình độ này đã có định hướng vào các ngành, lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh như: công nghệ thông tin, điện tử, xây dựng, viễn thông, du lịch, tài chính, nhân hàng, điện năng, giao thông, thương nghiệp, sư phạm, khoa học và công nghệ Do đó đã phần nào đáp ứng được nhất định nhu cầu sử dụng lao động có trình độ cao trong các ngành và lĩnh vực trên. Nhìn tổng thể có thể thấy nguồn nhân lực có trình độ cao ở nước ta bao gồm những người có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn cao, có khả năng vươn tới đỉnh cao mới trong khoa học công nghệ.Họ có khả năng nhanh chóng nắm bắt và vận dụng những tri thức tiên tiến của thời đại, những kinh nghiệm quý giá của các quốc gia trên thế giới để xây dựng đất nước.
Như vậy, xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ THCN, cao đẳng, đại học và trên đại học có tác động lớn đến nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhân lực của quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi của việc đào tạo NNL có trình độ từ THCN trở lên thì cũng gặp không ít những khó khăn trong vấn đề này.
1.2. Khó khăn.
Những năm đổi mới, chất lượng giáo dục đại học cơ bản cũng có những cải biến theo hướng gắn chặt với thực tế Việt Nam, phù hợp với xu thế hội nhập của thế giới. Số sinh viên đủ năng lực tìm được việc làm hay tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp tăng lên, trong đó có nhiều sinh viên thi lấy bằng đại học thứ 2, học cao học, thi thêm các chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, tìm được những công việc và vị trí phù hợp. Số lượng học sinh, sinh viên tuy tăng mạnh nhưng chất lượng trong đào tạo nguồn lao động trình độ cao ở nước ta còn nhiều bất cập. Số lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường nhận được việc làm tuy có tăng nhưng vẫn còn một lượng lớn số sinh viên ra trường không xin được việc. Điều này chịu ảnh hưởng bởi nhiều lí do có cả khách quan và chủ quan. Một trong số những lí do đó có liên quan đến vấn đề đào tạo trong các trường.
Đầu tiên có thể nói đến là vấn đề hướng nghiệp cho những người chuẩn bị bước vào các trường THCN, cao đẳng và đại học. Hiện nay có thể nói trên thị trường Việt Nam luôn xảy ra tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực cao mặc dù số lượng học sinh, sinh viên được đào tạo nghề vẫn đang tăng lên. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị kinh doanh, lập trình viên, kĩ thuật viên, các nhà quản lí trung gian hiểu biết về tài chính và tiếp thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi. Trong khi đó một lượng đông đảo các cử nhân hổng kiến thức và thiếu kinh nghiệm thực tế. Phần lớn đội ngũ các nhà quản lý ở các doanh nghiệp Việt Nam chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế và kinh doanh trong thị trường. Họ có khả năng tiếp thu nhanh nhưng thiếu kiến thức đồng bộ. Điều đó giải thích vì sao doanh nghiệp của ta thường yếu và lúng túng khi đàm phán làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài.Tuy nhiên việc gắn đào tạo với việc sử dụng lao động và tạo việc làm hướng dẫn về ngành nghề trong những kì thi tuyển sinh hầu như còn bị thả nổi. Hầu hết các học sinh đều không xác định được ngành nghề mình định học trước khi chọn trường để thi. Điều này càng phổ biến ở những gia đình nông thôn. Bởi vì hầu hết cuộc sống ở quê của những người dân còn phụ thuộc nhiều vào nghề trồng lúa, do đó thu nhập chưa cao và song song với đó là việc lo lắng định hướng nghề nghiệp cho con cái còn gặp nhiều khó khăn do thiếu kiến thức và hiểu biết về các ngành nghề đào tạo trong các trường đại học. Mặc dù hiện nay trên kênh thông tin đại chúng đã có những chương trình phổ biến kiến thức về tuyển sinh nhưng thực chất vấn đề này đến được người dân nông thôn còn cả một quãng đường dài. Vậy tại sao không tổ chức một chương trình định hướng nghề nghiệp trong các trường THPT trực tiếp cho các em học sinh?
Bên cạnh đó cần tổ chức tốt hệ thống thông tin liên ngành, trước hết bao gồm các ngành kế hoạch-đầu tư, lao động, đào tạo và các ngành khác tham gia, giúp cho mọi người có những thông tin cần thiết và đáng tin cậy. Công việc này sẽ trở nên sát thực tế, kịp thời, hiệu quả bằng cách sử dụng công nghệ thông tin.
Tiếp theo có thể kể đến là cơ sở vật chất của các trường còn gặp nhiều khó khăn, trang thiết bị học tập còn thiếu do đó quá trình nghiên cứu, thí nghiệm và thực hành của học sinh, sinh viên không có đầy đủ điều kiện để học tập và nghiên cứu. Đặc biệt ở một số trường Đại học dân lập, số lượng giáo viên ít, chủ yếu thuê giáo viên từ các trường công lập do đó kế hoạch giảng dạy cũng gặp không ít những vướng mắc. Bên cạnh đó địa điểm học phân tán ở nhiều nơi, thiếu ánh sáng, thiếu thiết bị thí nghiệm nên kết quả học tập chưa đạt được như mong muốn. Đây chính là một vài lí giải khiến cho các trường đại học ở Việt Nam còn yếu trong việc cạnh tranh với các trường đại học trên thế giới, hầu hết các bằng đại học ở Việt Nam còn chưa được thế giới công nhận. Theo nguồn số liệu của Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục công bố năm 2004, chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục nước ta chỉ đạt 3,79 điểm trên tổng thang điểm 10, thua kém rất nhiều nước trong khu vực và châu á (theo quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn-nhà xuất bản khoa học và xã hội năm 2004 trang 145 ).Trong khi số lượng học sinh, sinh viên liên tục tăng nhanh thì tốc độ tăng của đội ngũ giáo viên lại chậm hơn nhiều. Điều này cũng phần nào ảnh hưởng đến vấn đề giáo dục và đào tạo NNL chất lượng cao.
2. Đào tạo nghề.
2.1 Quy mô đào tạo nghề.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã chú trọng đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là chính sách giáo dục đào tạo được đánh giá là thành công so với một số nước trong khu vực. Đã hình thành và phát triển hệ thống đào tạo nguồn nhân lực từ các trường đại học và sau đại học với các quy mô đào tạo khác nhau. Bên cạnh đó không thể không kể đến một lượng lớn lao động được đào tạo trong các cơ sở dạy nghề và đào tạo trong doanh nghiệp. Trong năm 2006, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 108,4% dự toán cả năm trong đó chi cho giáo dục, đào tạo, dạy nghề đạt 102,6%. Năm 2005 cả nước có gần 9 triệu người lao động qua đào tạo trong đó qua đào tạo nghề là gần 5,6 triệu (chiếm 62,22% ). Riêng trong năm 2005 đào tạo nghề đã tuyển mới được 1.207.000 học sinh tăng 52,4% so với năm 2000, trong đó đào tạo dài hạn là 230.000 người, tăng 76,65%. Mạnh lưới các cơ sở dạy nghề đã được phủ khắp toàn quóc. Tính đến tháng 12 năm 2005, cả nước có 236 trường dạy nghề, 404 trung tâm dạy nghề, 212 trường THCN, cao đẳng, đại học có tổ chức dạy nghề; trên 800 trung tâm giới thiệu việc làm, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kĩ thuật- tổng hợp hướng nghiệp và các lớp dạy nghề. Chỉ tính riêng các trường dạy nghề, năm 2005 đã tăng gấp 1,82 lần so với năm 1998. Đến năm 2006, cả nước có 240 trường dạy nghề, trong đó có 160 trường công lập, 45 trường thuộc doanh nghiệp, 16 trường dạy nghề ngoài công lập, 2 trường dạy nghề vốn đầu tư nước ngoài, 17 trường do Bộ Quốc Phòng quản lý. Ngoài ra trên phạm vi cả nước còn 221 trung tâm dạy nghề, 150 trung tâm dịch vụ việc làm và nhièu trung tâm hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên có dạy nghề, 137 trường trung học chuyên nghiệp và cao đẳng có dạy nghề. Năm 2006 đã tạo việc làm cho 1,65 triệu người. Hệ thống đào tạo nghề của nước ta có đặc điểm chính sau:
+ Phân bố cơ sở đào tạo theo nghề, theo vùng: Trong tổng số cơ sở đào tạo nghề của cả nước thì vùng chiếm tỷ trọng lớn nhất là đồng bằng sông hồng với 30,2%. Tiếp sau đó là Đông Nam Bộ 26,5%,Đông Bắc 13%, Bắc Trung bộ 12,1%, Duyên Hải Nam Trung Bộ 9,9%, Đồng Bằng Sông Cửu Long 6,7%, Tây Nguyên 0,9 %, Tây Bắc 0,7%. Sự phát triển các cơ sở dạy nghề còn mất cân đối giữa các vùng, tập trung vào các vùng có tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cao, các thành phố và vùng có sự hoạt động mạnh của thị trường lao động.
+ Phân bố cơ sở đào tạo nghề theo địa phương: Đại đa số các tỉnh đều có 1-2 trường dạy nghề, một số tỉnh (thành phố) có từ 3-7 trường dạy nghề (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đồng Nai, Thanh Hoá, Thái Bình), sự phân bố này tạo điều kiện cho phát triển đào tạo nghề tại chỗ. Một số địa phương hiện nay nằm trong tình trạng thiếu nghiêm trọng các cơ sở đào tạo nghề như ở các địa phương vùng Tây Bắc, Tây Nguyên.
+ Phân bố cơ sở đào tạo nghề theo bộ, ngành quản lý: Các trường đào tạo nghề do các bộ ngành quản lý chiếm tỷ lệ gần 41 % tổng số trường của cả nước. Trong đó đa số là do các bộ, ngành sau đây quản lý: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn(26,1%), bộ Xây dựng 21,4%, bộ Giao thông vận tải (17,8%), Bộ công nghiệp (15,5%). Các trường đào tạo nghề đã gắn vào các ngành nghề đang có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế và có nhu cầu sử dụng lớn lao động chuyên môn kỹ thuật.
+ Phân bố nghề đào tạo theo ngành: Các nghề có nhiều cơ sở tham gia đào tạo là: kỹ thuật điện, kỹ thuật sắt, lái xe, xây dựng, nguội, may, sửa chữa máy móc thiết bị. Tỷ trọng các nghề đang được đào tạo thuộc các ngành như: công nghiệp là 35,6%; giao thông vận tải 21%; nông-lâm-ngư 10,2%; kinh tế-dịch vụ 9,5%, xây dựng 17,8%, văn hoá thông tin-bưu điện 5,9% so với tổng số nghề đào tạo. Một số nghề của ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ cao chưa được các trường quan tâm mở rộng đào tạo như: Chế biến lương thực, sản xuất vật liệu mới, cơ khí chính xác.
+ Năng lực đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề: Công suất đào tạo nghề thiết kế của trường công lập chủ yếu là 400-1000 học sinh, trong khi đó các trường ngoài công lập công suất đào tạo dưới 200 học sinh chiếm tỷ lệ trên 50%. Hiện nay các trường đào tạo nghề công lập đang đào tạo quá năng lực thiết kế, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo; còn các trường ngoài công lập đào tạo chưa hết năng lực có sẵn, chỉ khoảng 85% công suất thiết kế. Trong đó các trường công lập chủ yếu là đào tạo dài hạn, chiếm tới 75% số học sinh học nghề dài hạn hàng năm. Còn các trường ngoài công lập lại chủ yếu tập trung đào tạo ngắn hạn.
+ Trang thiết bị phục vụ cho đào tạo nghề: Đa số các trường đào tạo nghề trang thiết bị còn thiếu thốn và lạc hậu. Trong quá trình đào tạo chủ yếu người học nghề chỉ được học về lý thuyết, số buổi được thực hành thực tế còn ít. Do đó sau quá trình học nghề ra làm còn lúng túng, kỹ năng hạn chế, kiến thức lại có hạn, chưa có kinh nghiệm làm việc do đó khó khăn trong việc tìm được việc làm phù hợp hoặc công việc phù hợp nhưng tiền công thấp, mức sống không được đảm bảo. Qua khảo sát của bộ lao động-thương binh xã hội cho thấy 50% số trang thiết bị của các cơ sở đào tạo nghề được sản xuất trước năm 1995; 6% sản xuất trước năm 1975; số trang thiết bị hiện đại đáp ứng tốt cho công tác đào tạo nghề chỉ đạt 20%. Đặc biệt trang thiết bị đào tạo nghề trong các ngành như: hoá chất, luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác, in ấn lạc hậu rất nhiều so với công nghệ ứng dụng hiện nay trên thế giới. Một bộ phận cơ sở đào tạo nghề có trang thiết bị đào tạo, rèn luyện kỹ năng nghề lạc hậu hơn cả công nghệ đang áp dụng trong nền kinh tế, do đó hiệu quả đào tạo và sử dụng lao động sau khi đào tạo nghề rất thấp.
+ Chương trình đào tạo nghề: Chương trình đào tạo nghề có vai trò đặc biệt quan trọng đối với chất lượng đầu ra của hệ thống đào tạo nghề. Các cơ sở đào tạo nghề xây dựng các chương trình đào tạo cho từng nghề, nhóm nghề theo quy định của bộ Lao động - Thương binh - Xã hội (Quyết định số 212/2003/QĐ-Bộ LĐTBXH), trong đó đưa ra nguyên tắc xây dựng chương trình khung cho đào tạo nghề. Tuy nhiên theo đánh giá của Bộ LĐTBXH thì hiện nay đa số các cơ sở đào tạo nghề vẫn sử dụng các chương trình đào tạo cũ, lạc hậu, chưa được bổ sung hoặc thay đổi phù hợp với xu thế đổi mới công nghệ trong sản xuất và chuẩn mực đào tạo nghề của các nước phát triển. Một bộ phận trường không có chương trình đào tạo nghề, đặc biệt là đối với đào tạo các nghề như: Gò, vận hành và quản lý đường ray, bê tông cốt thép, lái máy cẩu, vận hành máy xúc, bê tông cốt thép.
+ Đội ngũ giáo viên dạy nghề: Tính trung bình chung mỗi trường dạy nghề công lập và ngoài công lập có từ 30-40 giáo viên. Theo đánh giá của bộ lao động thương binh xã hội thì tỷ lệ đội ngũ giáo viên đạt tiêu chuẩn trong các trường dạy nghề là 63,6%. Trong những năm gần đây, theo xu hướng đổi mới, một lượng lớn đội ngũ giáo viên ở các trường dạy nghề đã được bổ sung, đào tạo lại bồi dưỡng kiến thức kỹ năng, phương pháp đào tạo mới. Do đó chất lượng của đội ngũ giáo viên đã được nâng cao hơn so với thời kỳ trước. Đặc biệt là các trường dạy nghề có sự đầu tư hợp tác quốc tế đã tạo ra bước chuyển mới về nâng cao chất lượng của công tác đào tạo nghề.
Bảng 3: Quy mô và tốc độ đào tạo nghề .
Năm
Dài hạn
Ngắn hạn
Tổng số
Số lượng
(nghìn HS)
Tốc độ tăng
(%)
Số lượng
(nghìn HS)
Tốc độ tăng
(%)
Số lượng
(nghìn HS)
Tốc độ tăng
(%)
1997
57
390
447
1998
75,6
32,6
450
15,3
525,6
17,5
1999
97,1
28,4
529,9
31,7
690
31,2
2000
130,2
34
622
11,6
792,2
14,8
2001
126,1
-3,1
761,2
14,9
887,3
12
2002
146,5
16,1
858,5
12,7
1005
13,2
2003
176,36
20,3
897,7
4,5
1074,1
6,8
Nguồn: Tổng cục dạy nghề
Từ năm 1997 đến năm 2003, Chính phủ thực hiện nhiều giải pháp tích cực và đồng bộ hơn nên đào tạo nghề có bước tăng trưởng đột phá, đặc biệt đào tạo nghề dài hạn tăng nhanh (năm 2000 tăng 34 %, năm 2003 tăng 20,3 %), đáp ứng được một phần công nhân lành nghề và công nhân lành nghề trình độ cao và kĩ thuật viên cho thị trường lao động.
Quy mô công nhân kỹ thuật có bằng có xu hướng tăng nhanh. Hiện nay và các năm sắp tới sự chuyển dịch cơ cấu lao động chuyên môn kĩ thuật theo hướng tăng công nhân kĩ thuật bán lành nghề, đây là xu hướng tích cực phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động.
Bảng 4 : Cấp trình độ qua đào tạo năm 1999 và 2004 ( nghìn người ).
Năm
Sơ cấp, chứng chỉ nghề, CNKT không bằng
CNKT có bằng
THCN
CĐ, ĐH trở lên
1999
1453,05
889,03
1593,55
1306,09
2004
4680,94
1543,07
2306,29
2431,66
Như vậy, số lượng lao động qua đào tạo đã tăng lên theo hướng có lợi.Năm 1999 có số người đủ 15 tuổi trở lên có bằng công nhân kĩ thuật là 889,03 nghìn người, đến năm 2004 là 1543,07 nghìn người tăng 73,56%. Công nhân có chứng chỉ nghề, sơ cấp và tương đương cũng tăng nhanh. Năm 1999 là 1453,05 nghìn người, đến năm 2004 là 4680,94 nghìn người.Tình hình này được minh hoạ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 5: Cấp trình độ lao động qua đào tạo
Nguồn: Thống kê lao động –việc làm, Bộ LĐTBXH, 1999-2004
2.2 Chất lượng đào tạo nghề.
Chất lượng đào tạo nghề hiện đang còn tồn tại các vấn đề về: Nội dung, chương trình đào tạo chưa theo kịp sự phát triển của sản xuất kinh doanh, chưa đổi mới, bắt nhịp được với chuẩn mực đào tạo nghề của các nước phát triển, trang bị kiến thức mới và đào tạo kĩ năng thực hành còn hạn chế. Trước tình hình này, Chính phủ đã quan tâm và chỉ đạo thực hiện các biện pháp khắc phục để đáp ứng quá trình đổi mới công nghệ và áp dụng các thành tựu khoa học- kĩ thuật của nền kinh tế, đặc biệt là trong các ngành nghề có tốc độ phát triển nhanh (như: May mặc, dệt, da giầy, điện tử, tin học, cơ khí chế tạo, đóng tàu, xây dựng, giao thông, viễn thông, kĩ thuật điện, lắp máy) do đó đã nâng cao được chất lượng. Đào tạo nghề ở mức độ nhất định, phần nào đã tác động đến khả năng tìm việc làm của học sinh sau khi ra trường. Hiện nay khoảng 70% học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp đã tìm được việc làm trong đó có những nghề đạt trên 90% như: Xây dựng, cơ khí, hàn, may mặc, giao thông, bưu chính viễn thông.
Thực tế quản lý lao động ở nước ta trong các năm chuyển đổi nền kinh tế cho thấy, đào tạo lao động CMKT là nhân tố quan trọng bậc nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Đào tạo CMKT là nhân tố tăng năng suất lao động trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực và nền kinh tế. ở các ngành có tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn hơn thì năng suất lao động cao hơn, năng suất lao động của khu vực công nghiệp và xây dựng ( tính bằng giá trị sản xuất công nghiệp/ số lao động làm việc, giá so sánh 1994) năm 2003 đạt gần 23 triệu đồng/ lao động. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng của thời kì 1986- 2003 khoảng 7,3%/ năm. Trong khi đó năng suất lao động khu vực nông lâm, ngư nghiệp (tính bằng giá trị sản xuất/số lao động làm việc của nông, lâm, ngư nghiệp, giá so sánh 1994) năm 2003 chỉ đạt 6,8 triệu đồng, tốc độ tăng năng suất lao động hàng năm của ngành này thời kì 1986-2003 là 2,7%/năm. Đặc biệt đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn kĩ thuật cao có ý nghĩa quyết định tới năng suất lao động. Năng suất lao động được quyết định bởi trình độ nhân lực nhờ có sự phát triển các chỗ làm việc có trình độ công nghệ và trình độ quản lý hiện đại, năng suất lao động cao kéo theo sự phát triển nguồn nhân lực lành nghề. Trong những ngành, khu vực có năng suất lao động khá cao và cao thì chất lượng nhân lực thường cao hơn so với các ngành, khu vực có năng suất lao động trung bình và thấp. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có năng suất lao dộng cao gấp 20 lần so với công nghiệp ngoài quốc doanh, ở đó lao động phổ thông chỉ chiếm tỉ lệ 19,8%, trong khi con số này ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 39,2%, đặc biệt trong các ngành công nghệ cao (công nghệ thông tin, điện tử viễn thông) có năng suất lao động cao, sử dụng đến 51,8% lao động cao đẳng và đại học trở lên.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, hiện nay công tác đào tạo lao động chuyên môn kĩ thuật của nước ta cũng còn những tồn tại nên tác động hạn chế đến sử dụng lao động và tăng năng suất lao động.
Cụ thể là:
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kĩ thuật còn thấp.
- Chất lượng đào tạo chưa cao, chưa theo kịp các chuẩn mực đào tạo của quốc tế.
- Chưa khai thác được đầy đủ tiềm năng của lao động chuyên môn kĩ thuật, năm 2004 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị là 5,6%. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động đã qua đào tạo rất đáng kể, năm 1999 là 2,96%, năm 2000 là 2,32%, năm 2004 là 2,04% trong lực lượng lao động của cả nước. Tình trạng lao động thiếu việc làm của khu vực nông thôn khá phổ biến. Năm 2004 tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng lực lượng lao động thường xuyên ở khu vực nông thôn là 79,1%.
- Trình độ công nghệ thấp trong nhiều ngành kinh tế quốc dân đã hạn chế kích thích đào tạo lao động CMKT.
- Trình độ quản lí, đào tạo nhân lực hạn chế.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và tăng năng suất lao động phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, đòi hỏi phải có các giải pháp thích hợp để khai thác hiệu quả các tiềm năng của lao động CMKT và tăng năng suất lao động. Trong đó, đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao CMKT cho người lao động và sử dụng đầy đủ nguồn nhân lực CMKT là nhân tố cực kì quan trọng để không ngừng tăng năng suất lao động.
3. Đào tạo trong doanh nghiệp
Hiện nay, theo diều tra của bộ Kế hoạch - Đầu tư tại 63.000 doanh nghiệp ở 36 tỉnh thành phố của Việt Nam có 43,4% số cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới THPT, chỉ có 2,99% số chủ doanh nghiệp là thạc sĩ, tiến sĩ. Đội ngũ quản lý của doanh nghiệp chưa được đào tạo, nâng cao chuyên môn, trình độ văn hoá làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lượng công nhân trong các doanh nghiệp trong tổng LLLĐ chiếm một bộ phận không nhỏ. Tuy nhiên, lượng công nhân đã qua đào tạo còn ở mức độ khiêm tốn (24,8%). Đặc biệt tình trang mất cân đối nghiêm trọng trong đào tạo giữa “thầy và thợ” và tình trạng mất cân đối trong đào tạo ở các ngành nghề làm cho các doanh nghiệp bị thiếu hụt lượng công nhân có trình độ tay nghề chuyên môn và kĩ năng làm việc. Ví dụ: Ngành đóng tàu Việt Nam nhu cầu lao động mỗi năm khoảng 10 nghìn công nhân, trong khi 4 trường cao đẳng kĩ thuật của ngành mỗi năm chỉ cung ứng được 4-5 nghìn công nhân. Theo khảo sát của công ty phần mềm Quang Trung (TPHCM) trong quá trình xin việc có tới 72% số ứng viên thiếu kinh nghiệm thực tiễn, 46% ứng viên thiếu kiến thức chuyên môn, 42% không biết làm việc theo nhóm và kém ngoại ngữ, 41% kém kĩ năng làm việc, không biết cách diễn đạt và 28% không tự tin trong công việc.khi được tuyển vào các doanh nghiệp, lượng lao động này hầu như không được đào tạo lại, đào tạo mới và nâng cao.
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam hiên nay chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Lượng vốn đầu tư cho đào tạo và phát triển còn chưa nhiều. Người lao động làm việc trong doanh nghiệp với mức lương trung bình thấp do đó việc học tập để nâng cao trình độ tay nghề còn gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy lương của người lao động có khá hơn nhưng lại mất thời gian làm thêm giờ, tăng ca. Điều đó khiến cho thời gian nghỉ ngơi và học tập của người lao động bị thu hẹp. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam trình độ công nghệ chưa cao do đó còn xảy ra việc chia nhỏ dây chuyền sản xuất, mỗi người lao động chỉ đảm nhận một công việc nhỏ, việc học tập và nâng cao kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật không được các nhà quản lý quan tâm. Đây cũng là một trong những lý do khiến cho người lao động trong doanh nghiệp ít được đào tạo và phát triển.
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong tiến trình hội nhập
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ vị trí quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tiến trình hội nhập hiện nay, phát triển nguồn nhân lực là một phần hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước.
Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Đảng và Nhà nước coi đây là quốc sách hàng đầu của đất nước, điều này đã được khẳng định trong đại hội Đảng lần thứ X. Chính vì vậy, để có được đội ngũ lao động có trình độ cao thì phải có những hệ thống giải pháp đồng bộ, khoa học và có tính khả thi cao.
1. Hoàn thiện đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo.
Hệ thống giáo dục đào tạo luôn giữ vai trò chính trong vấn đề: xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam ; nó là cái nôi của tri thức, nuôi dưỡng mọi tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên - thế hệ trẻ chủ nhân tương lai xây dựng đất nứơc, là nơi đào tạo ra đội ngũ trí thức, các nhà khoa học và công nghệ, các nhà quản lý và kinh doanh giỏi, các chuyên gia đầu ngành trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay đây là đội ngũ có thể đáp ứng một cách tốt nhất và có hiệu quả mọi yêu cầu đặt ra trong tiến trình hội nhập.
Chính vì vậy phải hoàn thiện và đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá” giáo dục. Phải thực hiện “chấn hưng nền giáo dục Việt Nam” bởi vì thực tế những năm qua cho thấy giáo dục Việt Nam có nhiều bất cập, yếu kém như: Những tiêu cực, bệnh thành tích trong giáo dục khá nặng nề, dẫn đến những hiệu quả xấu gây bất bình trong dư luận xã hội và làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam. Do vậy chấn hưng nền giáo dục là nhiệm vụ bức thiết phải được tiến hành trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chấn hưng dân tộc, phát triển đất nước. Đồng thời phải tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ về mô hình giáo dục: thay thế mô hình giáo dục khép kín trước đây bằng mô hình giáo dục mở, năng động, tạo ra một xã hội học tập , học tập suốt đời, đào tạo liên tục.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, song song với việc chăm lo cải thiện mức sống dân cư, nâng cao thể chất của người dân nói chung và của người lao động nói riêng, chúng ta phải đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển giáo dục và chiến lược phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đã nêu các mục tiêu cơ bản là: Nâng cao chất lượng toàn diện con người Việt Nam, sử dụng có hiệu quả đội ngũ lao động hiện có, nhất là số lao động đã qua đào tạo, hình thành đội ngũ lao động chất lượng cao, có cơ cấu và trình độ đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo được coi là vấn đề then chốt nhằm tạo ra nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có kỹ năng và có bản lĩnh chính trị vững vàng phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Đặc biệt phải phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp để đủ sức đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và kịp thời cung cấp đủ nguồn nhân lực được đào tạo nghề cho các khu công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động vốn hiện đang thiếu hụt nghiêm trọng do nhiều năm qua lĩnh vực đào tạo nghề bị xem nhẹ, thậm chí bị thu hẹp lại.
Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học để đào tạo các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi, chuyên gia đầu đàn cho các lĩnh vực, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ để vừa nghiên cứu sáng tạo khoa học, công nghệ mới vừa ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam một cách phù hợp.
1.1. Xây dựng cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng cao.
Để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phải tập trung nguồn lực xây dựng một số cơ sở giáo dục đào tạo đạt chuẩn mực khu vực và quốc tế, có tác dụng làm mẫu và kích thích đối với toàn hệ thống, sau đó tăng nhanh số lượng các cơ sở loại này, cụ thể:
-Xây dựng ở mỗi tỉnh /thành phố một số trường phổ thông, trường trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề chất lượng cao
-Xây dựng trong phạm vi cả nước một số trường đại học theo các chuẩn mực quốc tế về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ. Các cơ sở giáo dục đào tạo đại học chất lượng cao phải kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ.
- Xây dựng hệ thống giáo dục không chính quy được quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương, tạo mối liên hệ thường xuyên giữa người có nhu cầu học tập và các cơ sở giáo dục đào tạo; cung cấp cho mọi người thông tin đầy đủ về các chương trình hiện có để họ lựa chọn theo nhu cầu của mình; hình thành cơ chế đánh giá, kiểm tra chất lượng trong học tập và giảng dạy.
- Mở rộng phương thức giáo dục từ xa để thu hút đối tượng học tập và tăng khả năng tiếp nhận giáo dục đào tạo của dân cư khắp miền đất nước.
- Hoàn chỉnh mạng lưới các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học và cao đẳng trong cả nước. Khuyến khích xây dựng các trường đại học cao đẳng dân lập tư thục ở những nơi trường công lập không đáp ứng đủ nhu cầu đào tạo.
- Hiện đại hoá cơ sở vật chất của trường học: bảo đảm diện tích đất đai và sân chơi, bãi tập cho các trường. Ban hành chuẩn quốc gia về trường học. Tất cả các trường đều có tủ sách, thư viện và các trang bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình. Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học. Phát triển nhanh và quản lý tốt ký túc xá của học sinh, sinh viên.
- Xây dựng một số thư viện, phòng thí nghiệm trọng điểm và trạm sản xuất thử có khả năng tiếp nhận công nghệ tiên tiến. Bổ sung thường xuyên sách và tạp chí chuyên ngành để các trường có điều kiện tiếp cận những thành tựu mới của khoa học và công nghệ. Đầu tư cho các thư viện để tăng cường tài liệu tham khảo, sách báo trong và ngoài nước và hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ thư viện.
- Tăng nhanh nguồn nhân lực tài chính để thực hiện xây dựng, biên soạn, chương trình, sách giáo khoa, tài liệu, phương pháp giảng dạy ở các trường đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật.
- Phát triển cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ sở giáo dục từ xa. Đáp ứng tốt nhu cầu về trang thiết bị của chương trình tin học trong giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực.
1.2. Cải cách nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo.
- Thiết kế nội dung giáo dục đào tạo phù hợp với các yêu cầu của từng cấp đào tạo theo hướng đảm bảo tính cơ bản hiện đại nhưng tinh giản, vừa sức; tăng tính thực tiễn và thực hành.
- Các nội dung đào tạo phải cập nhật các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại, công nghệ đang được đổi mới áp dụng trong nền kinh tế; xây dựng các chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo.
- Đưa công nghệ thông tin vào trường học bằng cách tận dụng các nguồn đầu tư để trang bị và xây dựng các phòng máy vi tính, thiết kế các chương trình môn học máy tính phù hợp cho các loại trường. Tăng cường sử dụng máy tính trong dạy học ở những vùng có điều kiện, tiến tới sử dụng công nghệ thông tin để thay đổi phương pháp dạy và học. áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy và học.
- Tổ chức cho học sinh tham gia các hình thức giáo dục thể chất nội, ngoại khóa, các hoạt động văn hoá xã hội. Tăng cường năng lực giao tiếp, kĩ năng và thái độ hợp tác trong công việc.
1.3. Các giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đạt chuẩn quốc gia và quốc tế về chất lượng cho các trường đại học, cao đẳng. Theo tính toán, muốn đạt được những mục tiêu chung về chất lượng nguồn lao động có trình độ cao thì đến năm 2020, tỷ lệ giáo viên và sinh viên sẽ phải đạt 1/19, đội ngũ giao viên có trình độ khá phải đạt 60% trong tổng số giáo viên là thạc sĩ, 35% là tiến sĩ chuyên ngành.
- Có kế hoạch, chương trình thường xuyên thực hiện bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên theo yêu cầu chức danh ở các cấp bậc, ngành đạo tạo. Sử dụng phương pháp sư phạm tương tác trong việc bồi dưỡng giáo viên, tăng cương năng lực tự nghiên cứu, tự đào tạo của giáo viên, trên cơ sở đó để thực hiện hiệu quả việc đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực.
1.4. Các giải pháp về thu hút học sinh, sinh viên tham gia học tập.
- Tăng nhanh về số lượng sinh viên đào tạo cả về số lượng và chất lượng thông qua việc mở rộng mạng lưới trường đào tạo, đa dạng hoá các hình thức đào tạo, đồng thời tăng cường sự quản lý nhà nước đối cới công tác đào tạo để không ngừng nâng cao chất lượng sinh viên tốt nghiệp.
- Có chính sách thu hút học sinh giỏi vào trường dạy nghề, trường đại học, cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp. Tạo điều kiện để sinh viên học tập trong trường đạt được những kết quả tốt nhất. Có chính sách khuyến khích học sinh học tập và say mê nghiên cứu như: Miễn giảm học phí cho con em gia đình chính sách, gia đình khó khăn. có phần thưởng khuyến khích cho học sinh khá, giỏi, xuất sắc…
1.5. Giải pháp về hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đào tạo chuyên môn kỹ thuật một mặt góp phần phát triển khoa học công nghệ của cả nước, mặt khác có tác dụng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Hoạt động khoa học công nghệ còn tạo điều kiện và cơ hội cho sự hội nhập quốc tế.
- Khuyến khích các trường đại học thực hiện các chức năng: Giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và cung cấp dịch vụ cho xã hội. Giảng viên đại học vừa có nhiệm vụ đào tạo, vừa có nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn chuyển giao khoa học công nghệ. Có chế độ hợp lý để đảm bảo cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học và công nghệ có thu nhập tương xứng với kết quả các hoạt động nghiên cứu triển khai.
- Xây dựng ở các trường đại học một số phòng thí nghiệm trọng điểm, một số trung tâm khoa học công nghệ trọng điểm cấp quốc gia và cấp ngành.
- Tăng cường quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ sự tài trợ của các nước, các tổ chức quốc tế để phát triển công tác đào tạo và nghiên cứu của các trường.
- Đưa lực lượng khoa học công nghệ của các trường đại học tham gia vào thị trường khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công tác thông tin, quảng cáo giới thiệu năng lực và kết quả nghiên cứu của các trường. Các trường đại học một mặt đầu tư thành lập các tổ chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ phù hợp với năng lực và sở trường của mình, mặt khác mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết với các trường đại học khác, với các viện nghiên cứu và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó để tăng các nguồn thu từ các hoạt động chuyển giao công nghệ, dịch vụ tư vấn, sản xuất kinh doanh của các trường cho mục đích phát triển đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật.
1.6. Phát triển quan hệ quốc tế trong giáo dục đào tạo.
Phát triển các lĩnh vực hoạt động hợp tác quốc tế trong đào tạo :
- Hợp tác trong đổi mới chương trình, sách giáo khoa; đổi mới phương pháp giáo dục; nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên; tạo điều kiện cho giảng viên và học sinh, sinh viên có nhiều cơ hội tiếp cận với trí thức, nền đào tạo của khu vực và thế giới.
- Liên doanh, liên kết xây dựng các cơ sở đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề tại Việt Nam( kể cả cơ sở 100% vốn nước ngoài) nhằm hình thành hệ thống cơ sở đào tạo lao động chuyên môn kĩ thuật có uy tín trong khu vực và trên thế giới.
- Nhà nước giành một khoản ngân sách thích đáng cho đào tạo ở nước ngoài phục vụ những mục tiêu ưu tiên, phát triển những ngành công nghệ mũi nhọn, đồng thời tiếp tục khai thác và tận dụng các nguồn trợ cấp bằng học bổng để cử cán bộ và học sinh, sinh viên giỏi đi đào tạo ở nước ngoài.
- Phát huy hiệu quả phương thức đào tạo từ xa bằng việc tranh thủ kinh nghiệm và công nghệ đào tạo của các nước trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực này, tăng cường đầu tư trang thiết bị kĩ thuật tiên tiến thông qua các dự án hợp tác.
- Hợp tác đầu tư xây dựng một số trung tâm công nghệ cao trong các cơ sở đào tạo chất lượng cao; nhập thiết bị khoa học, thiết bị thí nghiệm tiên tiến để tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và phục vụ đào tạo lao động chuyên môn kĩ thuật.
2. Đào tạo chuyên môn kĩ thụât gắn với việc làm.
2.1. Đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật gắn với việc làm
- Xây dựng kế họach đào tạo dựa trên cơ sở phân tích nhu cầu nhân lực chuyên môn kỹ thuật của thị trường lao động. Xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo nhân lực gắn với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, chương trình đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho xuất khẩu lao động .
- Hoàn chỉnh hệ thống thông tin đào tạo, thông tin thị trường lao động. Phát triển các tổ chức tư vấn và hướng nghiệp cho học sinh chọn ngành nghề trước khi vào các trường đại học và chuyên nghiệp; thông tin cho người tốt nghiệp về thị trường việc làm trong và ngoài nước.
- Ban hành hệ thống chuẩn ngành nghề làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình, đánh giá và xác nhận kết quả đào tạo.
- Nhà nước thành lập các tổ chức có thẩm quyền đánh giá và công nhận các chức danh nghề nghiệp, làm cơ sở pháp lý cho việc tuyển dụng lao động và thúc đẩy người lao động tham gia các trường, lớp đào tạo.
+ Các giải pháp về tài chính cho đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật
Để tăng cường nguồn tài chính cho đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật, một mặt nhà nước phải tăng dần đầu tư cho đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật, đồng thời có cơ chế và chính sách đa dạng hoá nguồn tài chính cho phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo, sử dụng các nguồn tài chính một cách có hiệu quả, làm cho tài chính trở thành một công cụ đắc lực để phát triển và đảm bảo chất lượng giáo dục đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật. Ngoài ra phải tăng cường huy động nhiều nguồn tài chính khác từ xã hội và nước ngoài để đầu tư cho giáo dục và đào tạo như: thu từ người học; tăng hợp lý số lượng các trường bán công, dân lập, tư thục; phát triển các doanh nghiệp, viện nghiên cứu trong các trường đại học, ứng dụng kết quả nghiên cứu triển khai để sản xuất của cải vật chất và tạo ra thu nhập cho nhà trường, thành lập các trường đào tạo có vốn nước ngoài.
+ Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục, đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Đổi mới quản lý giáo dục, đào tạo theo hướng:
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về đào tạo, dạy nghề.
- Tăng cường chức năng thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách và quy định.
- Tăng cường công tác dự báo và xây dựng kế hoạch định hướng phát triển đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật. Đưa đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành và từng địa phương. Có chính sách điều tiết qui mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối trong từng thời kỳ.
-Tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường, thành lập và nhanh chóng triển khai hoạt động của các hội động kiểm định chất lượng để đảm bảo chất lượng đào tạo của các cấp trình độ.
- Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức và kĩ năng quản lý, lập kế hoạch cho cán bộ quản lý các trường; sử dụng các phương tiện, thiết bị kĩ thuật thích hợp để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý.
- Xây dựng hệ thống thông tin quản lý đào tạo lao động chuyên môn kĩ thuật, giúp cho việc đánh giá tình hình và ra quyết định nhanh chóng và đúng đắn.
2.2. Phối kết hợp đồng bộ các giải pháp của Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân người lao động trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
2.2.1. Nhà nước.
Để đáp ứng nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu chuyên gia, xuất khẩu lao động trong quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới, đòi hỏi phải có những giải pháp thiết thực và phù hợp nhằm khai thác triệt để tiềm năng lao động, nâng dần giá trị lao động Việt Nam để tham dự vào thị trường lao động quốc tế, tạo cơ hội giải quyết việc làm và ổn định thị trường lao động trong nước.
Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói chung trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trên cơ sở nghiên cứu, điều tra, khảo sát về thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nước ta và căn cứ vào những yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực trong phân công và hợp tác lao động quốc tế, Nhà nứơc cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói chung, là định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân viên chức của các Bộ, ban, ngành, địa phương và công tác đào tạo nghề của hệ thống các cơ sở đào tạo nghề cả nước.
Đồng thời nhà nước cần tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo phát triển cán bộ, công chức (kể cả cho việc gửi đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài), đầu tư cho hệ thống các cơ sở đào tạo nghề (trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập, đầu tư cho bồi dưỡng giảng viên).
- Tổ chức sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo nghề cả nước theo hướng đơn giản trong quản lý; đổi mới nội dung, phương pháp và danh mục ngành nghề đào tạo theo hướng tiếp cận đến trình độ và phương pháp của các nước trong khu vực và thế giới, nâng cao chất lượng đào tạo, tạo thuận lợi cho giao lưu, di chuyển lao động trong hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy vai trò tự chủ của mỗi cơ sở đào tạo nghề trong việc xây dựng uy tín, thương hiệu và liên doanh, liên kết trong công tác đào tạo; chú trọng bố trí các cơ sở đào tạo hướng ngành nghề đào tạo sang các loại hình công nghiệp và dịch vụ.
- Nhà nước cần có chương trình đào tạo nhân lực chuyên môn kĩ thuật cho các ngành nghề chịu sự tác động lớn, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà Việt Nam đã chính thức trở thành viên của tổ chức WTO.
- Mở rộng đào tạo nhân lực chuyên môn kĩ thuật thuộc các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ mà khu vực FDI có sự phát triển mạnh sau gia nhập WTO, kể cả trong các ngành sản xuất kinh doanh hàng hoá cũng như dịch vụ.Tăng nhanh nguồn nhân lực chuyên môn kĩ thuật để thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược xuất khẩu lao động trong bối cảnh thuận lợi mới.Trong đó cần mở rộng thị trường lao động ra nhiều nước.Tiếp cận và mở rộng thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ, Hoa Kỳ, trên cơ sở khai thác các thuận lợi về ưu đãi di chuyển lao động giữa các thành viên WTO.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tiêu chuẩn lao động phù hợp với thông lệ chung của WTO, tạo điều kiện cho lao động nước ta hội nhập vào thị trường lao động các nước thành viên WTO.
- Hoàn thiện chính sách thị trường lao động, đặc biệt là chính sách phát triển hệ thống trung gian của thị trường lao động như: Các trung tâm giới thiệu việc làm, dịch vụ tư vấn nghề nghiệp, pháp luật lao động, hệ thống tư vấn và hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động trong bối cảnh gia tăng tính di động lao động sau gia nhập WTO.
Con người chính là động lực phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy nhà nước phải đặc biệt quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, một mặt có các chính sách nâng cao chỉ số phát triển con người(HDI), mặt khác tạo điều kiện để họ tự lực vươn lên. Đầu tư trực tiếp cho đào tạo và phát triển con người chính là hiệu quả lâu dài trong việc phát huy nhân tố con người trong sự phát triển bền vững.
2.2.2 Trong các doanh nghịêp.
Khi chúng ta mở cửa vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực “con người “ rất khốc liệt. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào, các cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra, các doanh nghiệp sẽ dùng lương để thu hút người lao động giỏi, cho nên các doanh nghiệp phải có chiến lược đào tạo, giữ những người có năng lực làm cho mình, giữ như thế nào tuỳ vào từng doanh nghiệp, không có bài toán chung cho tất cả. Song song với các chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của nhà nước, các doanh nghiệp cũng phải có những chính sách riêng cho tổ chức mình.
Đối với doanh nghiệp, giải pháp chính để chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh, thích ứng nhanh với việc thực hiện các hiệp định đa phương của WTO là tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân lực kĩ thuật, tay nghề cao, có trình độ ngoại ngữ và pháp luật quốc tế.
Cần mở rộng quỹ đào tạo để thường xuyên đào tạo nâng cao, đào tạo lại chuyên môn kĩ thuật và ngoại ngữ cho người lao động, hình thành đội ngũ nhân lực theo tiêu chuẩn lao động của các thành viên WTO.
Trong các doanh nghiệp việc đạo tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò quan trọng nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực hiện có và nâng cao tính hiệu quả của tổ chức. Đào tạo và phát triển là điều kịên quyết định để một tổ chức có thể tồn tại, đứng vững và đi lên trong cạnh tranh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp đều phải hoàn thiện bộ máy tổ chức làm công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện và đổi mới chương trình đào tạo và phát triển cho tổ chức mình. Đây là nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần phối kết hợp đồng bộ các giải pháp để nâng cao công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Doanh nghiệp phải tiến hành phân tích nhu cầu đạo tạo. Nhu cầu đào tạo phải dựa trên cơ sở phân tích sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn cần có của cán bộ công nhân viên trong cơ cấu tổ chức ở hiện tại và tương lai để các nhân sự có thể đảm nhiệm vị trí công tác, công việc trong cơ cấu tổ chức đó và các kiến thức, năng lực, kinh nghiệm hiện tại của các cán bộ trong công ty. Doanh nghiệp phải tiến hành phân tích nhu cầu phát triển nhân sự căn cứ trên cơ sở kế hoạch phát triển cơ cấu trong tương lai. Doanh nghiệp dựa vào những kết quả xác định cán bộ tiềm năng có thể đảm đương vị trí công tác mới trong tương lai hoặc cần thuyên chuyển cán bộ để có thể tận dụng tối đa khả năng của các cán bộ để từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển phù hợp, khoa học .
* Giáo viên.
Chúng ta biết rằng chất lượng đào tạo phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ giáo viên. Vì vậy, việc sử dụng đội ngũ giáo viên như thế nào để vừa đảm bảo được kiến thức cho học viên vừa đảm bảo tiết kiệm được chi phí là hết sức cần thiết, tuỳ từng đối tượng đào tạo bố trí giáo viên có sự linh hoạt: Đối với công nhân nâng bậc thợ, một số kỹ sư để tiết kiệm chi phí, tránh tình trạng làm gián đoạn công việc mà họ đang thực hiện. Doanh nghiệp có thể sử dụng những nhân viên lâu năm giàu kinh nghiệm trực tiếp làm giáo viên hướng dẫn còn đối với lĩnh vực phức tạp đòi hỏi có sự hiểu biết cao về trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ đang phát triển từng ngày thì doanh nghiệp nên mời các chuyên gia trong ngành về hướng dẫn.
* Về cơ sở vật chất trang thiết bị cho công tác đào tạo.
Để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực thì việc đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất một cách đồng bộ cho các lớp học là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trang thiết bị phục vụ cho công tác này là khá tốn kém nên việc đầu tư trang thiết bị phải có trọng điểm và mang tính đồng bộ.
* Về hình thức và phương pháp đào tạo.
+ Đối với các nhân viên kỹ thuật làm việc thì khả năng tay nghề và kinh nghiệm đòi hỏi rất cao. Vì vậy, ngoài việc học tập và nâng cao tay nghề, các khoá học lý thuyết ngắn hạn thì phương pháp kèm cặp chỉ bảo tại chỗ là rất hiệu quả. Doanh nghiệp phải tiến hành phân loại tay nghề, trình độ của các nhân viên và từ đó biết được các nhân viên yếu kém ở khía cạnh nào để tiến hành đào tạo. Các nhân viên giỏi giàu kinh nghiệm sẽ được giao nhiệm vụ kèm cặp các nhân viên còn yếu hay các nhân viên mới vào nghề. ngoài ra có thể cử công nhân kỹ thuật đi học tại các trường đại học chính quy hay phương pháp học tập theo nhóm có sử dụng tài liệu.
+ Đối với các nhân viên làm việc tại văn phòng như: Kế toán, văn thư cần có sự chính xác, nhanh nhạy và có khả năng giao tiếp ứng xử. Doanh nghiệp nên chủ động mời các chuyên gia về tập huấn nghiệp vụ cho các nhân viên này để có thể nâng cao chất lượng đào tạo giúp họ đạt kết quả cao trong học tập cũng như hoàn thành tốt công việc của bản thân.
+ Với nhân viên kinh doanh: Cần trang bị những kỹ năng giao tiếp, sự hiểu biết sâu sắc về ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh nên áp dụng phương pháp đào tạo theo tình huống, truyền đạt kinh nghiệm và phát huy tính sáng tạo trong giải quyết vấn đề.
+ Đối với các nhà quản trị: Doanh nghiệp nên chọn những cán bộ giỏi có kinh nghiệm trong quản lý nhằm hướng dẫn, đào tạo những đối tượng sẽ được bổ nhiệm vào vị trí quản lý. Doanh nghiệp nên tổ chức các cuộc hội thảo theo nhóm như vậy sẽ giúp các học viên nắm bắt vấn đề nhanh hơn trong quá trình hội thảo.
Ngoài ra, doanh nghiệp nên khuyến khích các cấp quản trị các chương trình hàm thụ các khóa học đặc biệt mở tại trường đại học dưới nhiều hình thức: học ngoài ra làm việc, học hàm thụ. Doanh nghiệp có chính sách hỗ trợ phần lớn kinh phí học tập điều này sẽ khích lệ các nhân viên tích cực tham gia đào tạo.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần có chính sách khuyến khích lao động được đào tạo hợp lý, có chế độ khen thưởng kịp thời kết qủa hoc tập của các học viên đạt được, tạo môi trường văn hoá thuận lợi, chỉ ra các cơ hội thăng tiến sau đào tạo để tạo động lực hơn nữa đối với các học viên tham gia đào tạo.
Thấy được tầm quan trọng rất lớn của việc đánh giá sau đào tạo, doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa vấn đề này để rút kinh nghiệm cải tiến những chương trình đào tạo nhân sự tiếp theo. Để đảm bảo quá trình đào tạo đạt kết quả tốt nhất, các nhà quản lý cần nhớ rằng: đào tạo và phát triển luôn luôn là chìa khoá vạn năng cho mọi vấn đề trong doanh nghiệp. Đào tạo phải đúng nhu cầu, đúng người, đúng cách. Tuy nhiên, đào tạo mới là điều kiện cần cho nhân tài phát sinh, chỉ qua sử dụng nhân tài mới có khả năng phát huy.
* Các giải pháp khác:
+ Thứ nhất: Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp được tham gia vào công tác đào tạo nhân sự. Khi người lao động được đào tạo chuyên ngành để nâng cao tay nghề hay nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp thì họ sẽ có cơ hội khẳng định mình và doanh nghiệp sẽ phát huy năng lực của mỗi nhân viên, tránh tình trạng bỏ sót nhân tài.
+ Thứ hai: Kết hợp hài hoà giữa lợi ích và mục tiêu cục bộ với lợi ích và mục tiêu toàn diện, giữa lợi ích mục tiêu cá nhân người lao động với mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp.
+Thứ ba: Nghiêm túc lắng nghe các đề nghị, sáng kiến của cấp dưới về công tác đào tạo cũng như các lĩnh vực khác.
+ Thứ tư: Tạo động lực cho nhân viên được đào tạo. Nếu nhân viên có được sự tự nguyện và nhiệt tình tham gia vào quá trình đào tạo sẽ giúp nâng cao hiệu quả làm việc.
2.2.3. Đối với cá nhân người lao động.
Bên cạnh những giải pháp của doanh nghiệp về nâng cao tính tích cực của mỗi lao động, làm rõ chức năng nhiệm vụ cho mỗi thành viên, làm cho người lao động thấm nhuần, nắm rõ về mục tiêu hoạt động của tổ chức mình, thấy rõ trách nhiệm của mình. Đồng thời người lao động cũng phải thấy được việc cần thiết phải tự rèn luyện chính mình, chủ động tiếp cận và học những kiến thức, những kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng lao động tiên tiến hiện đại và tích luỹ thêm kinh nghiệm để nâng cao trình độ của bản thân.
Kết luận
Thực tế đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng của con người đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong bất kì tổ chức nào thì con người cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu. Thành công của tổ chức không thể tách rời yếu tố con người. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề nhân lực lúc này có ý nghĩa quyết định trong sự phát triển đi lên của quốc gia. Đây là vấn đề được các quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng quan tâm nhất. Thực trạng nguồn nhân lực cho thấy: nhân lực ở Việt Nam là khá dồi dào nhưng chất lượng so với mặt bằng chung ở khu vực và thế giới là chưa cao, việc phân phối sử dụng vẫn còn nhiều hạn chế; hơn nữa nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Việc đổi mới kĩ thuật công nghệ diễn ra tương đối dễ dàng hơn khi chúng ta tạo được nguồn vốn (kể cả đi vay) và dùng vốn đó để nhập khẩu kĩ thuật công nghệ (KT- CN) hiện đại từ các nước tiên tiến. Đối với người lao động thì không thể nhập khẩu được. Muốn có sự tương thức đồng bộ giữa kĩ thuật- công nghệ và con người đòi hỏi phải có đội ngũ lao động không những đủ về số lượng mà còn phải đáp ứng được cả về chất lượng đáp ứng được yêu cầu công việc hiện đại và hoàn thành tốt mục tiêu chiến lược đặt ra.
Có thể khẳng định rằng: Nhân lực luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong sự phát triển của đất nước. Từ thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta và thấy được tầm quan trọng của nó trong tiến trình hội nhập hiện nay, cần phải sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đồng thời phải làm tốt công tác đào tạo nhân lực để có thể thu hẹp khoảng cách giữa yêu cầu công việc trong thời kì mới và với trình độ người lao động. Đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ những giải pháp để sử dụng nguồn nhân lực một cách tối ưu- là chìa khoá giúp Việt Nam mở thành công cánh cửa hội nhập kinh tế thế giới.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Quản trị nhân lực- Nguyễn Ngọc Quân-Nguyễn Vân Điềm.
Giáo trình Kinh tế lao động- Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội.
Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam-Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân-Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Tạp chí Lao động và công đoàn.
Tạp chí Lao động và xã hội.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế.
Tạp chí Quản lý nhà nước.
Tạp chí kinh tế dự báo.
Tạp chí Con số và sự kiện.
Báo lao động và xã hội.
Thời báo kinh tế Việt Nam.
Thời báo kinh tế Sài Gòn.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25818.DOC