Tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO: ĐỀ TÀI:
“CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA VIỆT NAM
GIA NHẬP WTO”
TP.HCM ngày ... tháng ... năm 2012
1
PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế mà đỉnh cao là gia nhập WTO, đang trở thành yêu
cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia và VN không nằm ngoài “vòng hội
nhập” đó. Trước thực tế của xu thế toàn cầu hoá, mỗi quốc gia nói chung và VN
nói riêng, chỉ có cách lựa chọn duy nhất là “lối đi, bước đi” lộ trình sao cho
thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình.
Có thể nói mọi lĩnh vực hội nhập đều rất phức tạp nhưng hội nhập trong lĩnh
vực tài chính nói chung, hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng có những
nét đặc thù, có độ phức tạp, nhạy cảm cao nhất bởi vì ngân hàng là “trung tâm
của thị trường tài chính”, “nơi điều tiết sự chu chuyển của các dòng vốn”, là “bà
đỡ của các doanh nghiệp, là “tấm gương phản chiếu sức sống của nền kinh tế”.
Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế không còn là vấn đ...
35 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại Việt Nam trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI:
“CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TRƯỚC NGƯỠNG CỬA VIỆT NAM
GIA NHẬP WTO”
TP.HCM ngày ... tháng ... năm 2012
1
PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế mà đỉnh cao là gia nhập WTO, đang trở thành yêu
cầu bức xúc, tất yếu đối với mỗi quốc gia và VN không nằm ngoài “vòng hội
nhập” đó. Trước thực tế của xu thế toàn cầu hoá, mỗi quốc gia nói chung và VN
nói riêng, chỉ có cách lựa chọn duy nhất là “lối đi, bước đi” lộ trình sao cho
thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình.
Có thể nói mọi lĩnh vực hội nhập đều rất phức tạp nhưng hội nhập trong lĩnh
vực tài chính nói chung, hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng có những
nét đặc thù, có độ phức tạp, nhạy cảm cao nhất bởi vì ngân hàng là “trung tâm
của thị trường tài chính”, “nơi điều tiết sự chu chuyển của các dòng vốn”, là “bà
đỡ của các doanh nghiệp, là “tấm gương phản chiếu sức sống của nền kinh tế”.
Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế không còn là vấn đề mới đối với hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam(NHTM).Quá trình hội nhập của VN gia nhập
WTO đang tạo ra những cơ hội và thách thức rất lớn đối với NHTMVN. Với
mục đích làm rõ những cơ hội và thách thức của NHTM trong quá trình hội
nhập để từ đó có cơ sở xây dựng định hướng hoạt động em nghiên cứu đề tài
“Cơ hội và thách thức của các NHTMVN trước ngưỡng cửa VN gia nhập
WTO”.
Kết cấu đê tài của em bao gồm:
Phần I: Lời nói đầu
Phần II: Nội dung
I. Cơ sở lý luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Giải pháp
Phần III: Kết luận
Trong quá trình thực hiện đề tài em đã được sự chỉ bảo tận tình của giáo
viên hướng dẫn Th.s Nguyễn Thu Thuỷ.Tuy nhiên do thời gian hạn chế nên đề
tài của em mới chỉ ra được một phần nào đó những cơ hội và thách thức trong
hoạt động của hệ thống NHTM trước khi VN gia nhập WTO.
2
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. WTO và quá trình VN gia nhập WTO
Những vấn đề cơ bản về tổ chức thương mại thế giới(WTO).
WTO là một định chế thương mại toàn cầu, bao gồm một hệ thống các nguyên
tắc và quy định điều chỉnh các hoạt động của hơn 90% thương mại thế giới và
hiện nay WTO đã có 150 thành viên. WTO hoạt động dựa trên bốn chức năng
chính sau:
Thúc đẩy tự do hoá thương mại
Hỗ trợ và giám sát việc thực hiện các hiệp định WTO
Giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên
Có quyền can thiệp, rà soát chính sách thương mại của các nước thành
viên.
Về cơ bản để gia nhập WTO các nước cần phải cam kết trong các lĩnh vực
chủ yếu sau:
Phải thoả thuận với các thành viên về mức thuế quan tối đa áp dụng với
các hàng hoá nhập khẩu
Thoả thuận với các thành viên về điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài tham gia vào thị trường nội địa
Phải chấp nhận việc hạn chế trợ giá trong nông nghiệp do nó có ảnh
hưởng đến thương mại quốc tế
Cơ hội và thách thức của VN khi gia nhập WTO
Cơ hội
Gia nhập WTO đem lại cả cơ hội lẫn thách thức, đòi hỏi VN phải sớm triển
khai những bước chuẩn bị cần thiết để đảm bảo tối ưu hoá những thuận lợi và
giảm thiểu những nguy cơ của việc tham gia vào một nền kinh tế thế giới ngày
càng được tự do hoá nhiều hơn.
Gia nhập WTO sẽ mang đến cho VN những nguồn lực mới và cơ hội mới
để mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế - thương
mại, tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài…giúp VN tham gia vào việc xây
dựng một hệ thống thương mại đa biên bình dẳng, không phân biệt đối xử và
cùng có lợi. Tạo môi trường thông thoáng, minh bạch , tuân thủ các nguyên tắc
quốc tế.
3
VN sẽ có cơ hội thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, được hưởng đối
xử bình đẳng và các ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển ở trình độ
thấp. Đây là điều kiện hết sức cần thiết để VN mở rộng xuất khẩu những mặt
hàng có lợi thế nhờ những thành qủa của đàm phán giảm thuế và mở cửa thị
trường của GATT, tăng cường tiếp cận thị trường của các thành viên WTO, đặc
biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ
kéo theo những ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế trong nước, mở rộng
sản xuất và tạo ra nhiều việc làm.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và đàm phán gia nhập WTO
nói riêng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực
theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
giá trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành
và vùng đã có sự dịch chuyển theo định hướng về lợi thế năng lực cạnh tranh
khu vực và quốc tế, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công
nghiệp và khu chế xuất tập trung để hạ thấp giá thành và tạo điều kiện áp dụng
khoa học công nghệ hiện đại hơn trong sản xuất và đầu tư.
VN đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế thị
trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp nhà nước … Việc ký kết
một số điều ước quốc tế quan trọng đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản cho
việc thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, VN tiếp tục khẳng định là một quốc gia ổn định về mặt chính trị và kinh
tế cùng thực hiện các chuẩn mực điều tiết kinh tế chung với cộng đồng quốc tế.
Đây là yếu tố không thể thiếu để tạo dựng niềm tin của các nhà đầu tư, thương
nhân nước ngoài tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế với VN.
Thách thức
Bên canh những cơ hội, việc gia nhập WTO cũng đặt ra hàng loạt những
thách thức cho nền kinh tế xã hội trên các khía cạnh: thất nghiệp gia tăng, phân
hoá giàu nghèo trong xã hội …Đặc biệt, cạnh tranh trong nhiều ngành dịch vụ
quan trọng như: bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm …sẽ tăng đáng kể
sau khi gia nhập WTO . Các cuộc cạnh tranh về chất lượng, giá cả hàng hoá
,dịch vụ sẽ khốc liệt hơn trong khi năng lực cạnh tranh trong nước còn yếu. VN
phải điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với các quy định của WTO ở
nhiều lĩnh vực khác nhau như thủ tục cấp phép nhập khẩu, kiểm dịch động thực
vật, các quy định liên quan đến đầu tư và sở hữu trí tuệ…
4
Chính sách thuế sẽ phải điều chỉnh theo quy định của WTO, trước hết là
thuế xuất nhập khẩu, tiếp đến là các sắc thuế nội địa. Thuế suất thuế nhập khẩu
điều chỉnh theo hướng ngày càng giảm và đảm bảo nguyên tắc MFN ( không
phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác nhau); bỏ các biện
pháp phi thuế, chỉ bảo hộ bằng công cụ thuế. Những điều đó không những có
nhiều tác động khác nhau đến môi trường kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến
nguồn thu ngân sách nhà nước.
VN sẽ phải cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kế
toán, kiểm toán và tư vấn thuế), phải có các cam kết đối xử bình đẳng giữa
cácdoanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính trong nước và doanh nghiệp có
vốn đàu tư nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết này đòi hỏi sự nỗ lực của
ngành tài chính nói riêng cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt,
trong bối cảnh hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý trong nước còn
thiếu đồng bộ chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thậm chí còn nhiều lĩnh vực
chưa có văn bản quy định như tư vấn môi giới tài chính, tư vấn thuế…
Về phía doanh nghiệp, do còn yếu kém trên nhiều lĩnh vực(chất lượng,
thương hiệu sản phẩm, phát triển kênh tiêu thụ và khả năng giải quyết tranh
chấp) nên các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong
việc tìm chỗ đứng trên thị trường hoặc phát triển thị phần của mình, nhiều doanh
nghiệp có nguy cơ phá sản, trước sức ép nặng nề của các dòng hàng hoá, dịch
vụ, công nghệ, nhân lực và các chấn động khủng hoảng trong khu vực và toàn
cầu, nhất là cuộc khủng hoảng về tài chính tiền tệ gây hiệu ứng lan truyền.
Một thách thức nữa là đội ngũ nguồn nhân lực hiện nay của chúng ta còn
quá yếu kém chưa thể đáp ứng được yêu cầu hội nhập. Trình độ nguồn nhân lực
thấp, cơ chế quản trị điều hành cứng nhắc,thiếu năng động… không thể đáy ứng
được yêu cầu cạnh tranh khi hội nhập.
2. Các cam kết của VN trong lĩnh vực ngân hàng khi VN gia nhập
WTO
Tài chính - ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất
ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Theo cam kết giữa Việt Nam và các
nước thành viên, từ nay đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép
thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng như một ngân hàng trong nước (trừ
dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin ngân hàng). Cụ thể, kể từ ngày 1/4/2007,
các ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương mại của mình
tại Việt Nam dưới các hình thức như: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng
thương mại, các ngân hàng thương mại liên doanh với nước ngoài có vốn nước
5
ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các công ty cho thuê tài chính liên doanh, các công
ty tài chính cho thuê 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước
ngoài... Cũng như các pháp nhân Việt Nam, các chi nhánh, văn phòng đại diện,
và ngân hàng nước ngoài này sẽ được hưởng quy chế đối xử không phân biệt
ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Các cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực ngân hàng sẽ cho phép các tổ
chức tín dụng nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới các hình thức khác
nhau, mở rộng phạm vi và loại hình cung cấp các dịch vụ ngân hàng, tạo ra một
sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng.
Chúng ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không
muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập
chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ
và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam
trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua
cổ phần trong ngân hàng Việt Nam, không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có
ý nghĩa đối với ngành ngân hàng
Đối với ngân hàng thương mại nước ngoài: văn phòng đại diện, chi
nhánh, ngân hàng thương mại liên doanh với số vốn đầu tư chiếm không quá
50%, công ty cho thuê tài chính, công ty liên doanh tài chính và công ty tài
chính 100% vốn nước ngoài.
Trong vòng 5 năm sau khi gia nhập, Việt Nam có thể giới hạn quyền của
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc nhận tiền gửi bằng tiền đồng
Việt Nam từ người tiêu dùng Việt Nam. Trong đó, những chi nhánh ngân hàng
nước ngoài chưa có quan hệ tín dụng với khách hàng là người Việt Nam thì mức
độ huy động vốn so với vốn pháp định được thực hiện theo lộ trình sau: từ ngày
1.1.2007 được huy động gấp khoảng trên 6 lần so với vốn pháp định đã góp đủ,
từ năm 2008 gấp 8 lần, từ năm 2009 gấp 9 lần, từ năm 2010 gấp 10 lần. Từ năm
2011 được hưởng chế độ đối xử quốc gia.
Theo Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ban hành ngày 28/2/2006, thời hạn
hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, hoặc
ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam không được quá 99 năm; thời hạn
hoạt động của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được vượt quá thời
hạn hoạt động của ngân hàng mẹ ở nước ngoài; thời hạn hoạt động của văn
phòng đại diện của một tổ chức tín dụng nước ngoài không được vượt quá thời
hạn hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài đó. Thời hạn hoạt động của các
6
tổ chức nói trên sẽ được quy định cụ thể trong giấy phép được cấp và có thể
được gia hạn theo yêu cầu.
Tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với ngân hàng cổ phần: 30%
Tổng tỷ lệ cổ phần mà ngân hàng nước ngoài được mua sẽ vẫn khống chế ở
mức 30% như hiện nay; riêng tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư chiến lược sẽ được nâng từ
10% lên 20%.
Trường hợp ngân hàng cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán, tỷ lệ
trên có thể vẫn khống chế ở mức 30%, thay vì mức 49% như quy định đối với
các doanh nghiệp niêm yết khác. Vì theo ông, “ngân hàng là doanh nghiệp đặc
biệt nên sự khống chế là cần thiết”.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng và lấy ý kiến để hoàn thiện
Nghị định về việc các tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần trong ngân hàng
Việt Nam, trong đó dự kiến hạn chế cổ phần mà một ngân hàng nước ngoài có
thể nắm giữ trong các ngân hàng Việt Nam là 20% trong tổng số 30% cổ phần
nước ngoài.
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Để được lập chi nhánh hoặc ngân hàng nước ngoài 100% vốn tại Việt Nam,
ngân hàng nước ngoài phải thực sự có năng lực tài chính mạnh, có uy tín trong
hoạt động và có quy mô lớn.
Đây là những điều kiện cơ bản được quy định tại Nghị định số 22/2006/NĐ-
CP, về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín
dụng nước ngoài tại Việt Nam, do Thủ tướng Phan Văn Khải vừa ký ban hành.
Cụ thể, để được cấp giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thành
lập ngân hàng liên doanh hoặc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân
hàng nước ngoài phải đáp ứng những điều kiện như không vi phạm nghiêm
trọng các quy định về hoạt động ngân hàng và các quy định pháp luật khác của
nước nguyên xứ trong vòng 3 năm gần nhất liền kề trước khi xin cấp giấy phép.
Ngoài ra, ngân hàng nước ngoài phải có kinh nghiệm hoạt động quốc tế,
được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực
hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều
kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi; ngân hàng nước ngoài
phải đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo thông lệ
quốc tế…
7
Để được cấp giấy phép mở chi nhánh tại Việt Nam, ngân hàng nước ngoài
phải có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 20 tỷ USD vào năm trước năm xin
cấp giấy phép.
Trường hợp thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, giấy phép thành
lập và hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng
nước ngoài phải có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 10 tỷ USD vào năm
trước năm xin cấp giấy phép.
Trong các ngân hàng liên doanh, mức góp vốn của bên nước ngoài được quy
định tối đa không quá 50% vốn điều lệ. Những trường hợp đặc biệt sẽ do Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
Với ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các thành viên góp vốn (bao gồm cả
ngân hàng mẹ) có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn góp
thuộc sở hữu của mình cho các thành viên góp vốn hoặc các tổ chức nước ngoài
khác nhưng phải đảm bảo luôn có một ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50%
vốn điều lệ của ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
Ngoài những điều kiện trên, các ngân hàng nước ngoài sẽ phải tuân thủ
những quy định khác về cơ cấu tổ chức hội đồng quản trị, ban kiểm soát của
chính nhánh, ngân hàng đó tại Việt Nam cũng như tuân thủ phạm vi hoạt
động…
II. Cơ sở thực tiễn
1. Hoạt dộng của hệ thống NHTM trước khi gia nhập WTO.
- Hệ thống ngân hàng được phân thành 2 cấp: NHTW và NHTM
Cuối những năm 80, cùng với công cuộc cải cách kinh tế, hệ thống NHVN
cũng được cải cách. Từ hệ thống ngân hàng duy nhất lẫn lộn giữa chức năng của
NHTW với NHTM đã tách ra thành hệ thống ngân hàng 2 cấp riêng biệt và đã
khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của chúng đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế ở nước ta thời gian qua.
- Hệ thống NHTM VN:
Hệ thống NHTMVN bao gồm các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần ,
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính và
các quỹ tín dụng.
Cho đến nay, có 5 NHTM nhà nước, đó là: Ngân hàng ngoại thương VN,
ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
VN và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài 5 ngân hàng
trên còn có NH chính sách xã hội. Các NHTMNN có tổng tài sản chiếm 70%
8
toàn hệ thống và dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm 75% trong tổng dư nợ cho
vay của các NHTM.
Hệ thống các NHTM cổ phần gồm có 26 NHTMCP đô thị và 7 NHTMCP
nông thôn, với tổng tài sản chiếm 15.6% toàn hệ thống và dư nợ cho vay nền
kinh tế chiếm trên 13% trong tổng dư nợ cho vay của các NHTM.
Có 28 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với nước
ngoài, 5 công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính và khoảng 904 quỹ tín
dụng nhân dân cùng hàng loạt các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác.
Số lượng và mạng lưới hoạt động của hệ thống NHTM tính đến 30/9/2005
( không tính chi nhánh cấp IV và văn phòng giao dịch)
NHTMNN NHTMCP
Chi nhánh
NHNN
NH liên
doanh
Số lượng 6 33 37 4
Mạng lưới 568 370 37 13
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
2.Cơ hội và thách thức của NHTM khi gia nhập WTO
2.1. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của thời đại, là điều kiện cần
thiết để mỗi quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới, là cơ hội để các nước
tận dụng được dòng vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội
nhập trong lĩnh vực ngân hàng VN sẽ thu được rất nhiều cơ hội:
Gia tăng các luồng vốn đầu tư:
Quá trình hội nhập WTO sẽ làm gia tăng các luồng vốn đầu tư vào VN và gia
tăng lợi tức cho các nước đang thừa vốn. Quá trình này sẽ giúp làm giảm lợi tức
bù đắp rủi ro(risk premium) mà các nhà đầu tư đòi hỏi trong bối cảnh VN bắt
đầu tham gia thị trường tài chính quốc tế.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế còn giúp khơi thông các kênh chuyển vốn giữa thị
trường trong nước với thị trường quốc tế, góp phần khai thác các nguồn vốn
tiềm năng trong nước. Trong hội nhập, việc áp dụng các loại hình dịch vụ tài
chính – ngân hàng phong phú và hiện đại sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển thị
trường tài chính - ngân hàng VN.
Giảm chi phí vốn nhờ phân tán rủi ro:
Quá trình tự do hoá sẽ mang lại nhiều cơ hội đầu tư, chia sẻ rủi ro giữa các
nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ khả năng phân tán rủi
ro tăng mà các nhà đầu tư, các doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn đầu tư hơn, góp
9
phần thúc đẩy tăng trưởng. Nhờ các luồng vốn gia tăng nên tính thanh khoản
trong thị trường tài chính - ngân hàng cũng gia tăng, nhờ đó giảm lợi tức bù đắp
rủi ro và giảm chi phí thu hút vốn cho đầu tư.
Chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý, đổi mới trang thiết bị:
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nền kinh tế hội nhập tài chính quốc tế
thường thu hút được các luồng vốn FDI khá lớn, đi kèm với các dòng vốn này là
công nghệ và trình độ quản lý theo thông lệ quốc tế. Ngoài ra chúng ta còn có
khả năng “đi tắt đón đầu” do kế thừa được những thành tựu khoa học kỹ thuật
hiện đại của thế giới. Các tác động lan truyền này giúp gia tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng.
Tạo ra động lực đổi mới và cải cách NHTM:
Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài thúc đẩy quá trình tham gia vào
thị trường tài chính quốc tế của các NHTM.
Hơn nữa, ngân hàng nước ngoài đem vào các công cụ và kỹ thuật tài chính
mới thúc đẩy cải tiến công nghệ
Hội nhập sẽ tạo ra sự cạnh tranh gay gắt và không kém phần khốc liệt giữa
các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Được cạnh tranh bình đẳng
để phát triển cũng là một cơ hội. Do vậy, muốn cạnh tranh để tồn tại và phát
triển, các ngân hàng trong nước không thể nào khác là phải nỗ lực kiện toàn
công tác quản lý ngân hàng nhằm đạt hiệu quả cao, giảm bớt rủi ro và tăng
cường độ tin cậy đối với khách hàng. Đổi mới sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh
tranh, giảm chi phí và hiện đại hoá trang thiết bị để các nhà cung cấp dịch vụ
ngân hàng trong nước có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
Tiếp cận thị trường toàn cầu:
Hội nhập WTO không chỉ khơi thông các kênh chuyển vốn giữa thị trường
trong nước với thị trường quốc tế, góp phần khai thác các nguồn vốn tiềm năng
trong nước mà còn có điều kiện thuận lợi hơn khi mở rộng kinh doanh ở thị
trường tiền tệ nước ngoài, thu hút khách nước ngoài sử dụng dịch vụ của ngân
hàng VN và mở rộng đầu tư tín dụng với tất cả các thành phần kinh tế.
Thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá:
Theo các nhà kinh tế cũng như kinh nghiệm quốc tế của một số nước cho
thấy quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy chuyên môn hoá các nghiệp vụ tài chính,
ngân hàng. Chuyên môn hoá có thể làm gia tăng năng suất, hiệu quả và thúc đẩy
tăng truởng. Tuy nhiên, một cơ cấu kinh tế chuyên m ôn hoá sâu mà không có sự
hỗ trợ của cơ ch ế quản ký, phân tán rủi ro sẽ làm tăng sự biến động. Nhờ hội
10
nhập, việc chia sẻ cảc rủi ro trên các thị trường quốc tế khác nhau sẽ khuyến
khích qúa trình chuyên môn hoá trong lĩnh vực ngân hàng.
Minh bạch về thông tin:
Mở cửa thị trường tài chính đòi hỏi các ngân hàng phải công khai các thông
tin về hoạt động của mình, các yêu cầu về kế toán, kiểm toán cũng như công bố
thông tin phải được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó tạo điều kiện cho
các NHTMVN bắt kịp thực hiện các tiêu chuẩn và kỹ năng quản trị ngân hàng
hiện đại.
2.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, quá trình hội nhập cũng đi kèm với những yếu tố
bất lợi không thể tránh khỏi, vấn đề là nhận ra và có những biện pháp, bước đi
phù hợp để giảm thiểu các yếu tố đó là một bài toán mà các ngân hàng đặc biệt
là hệ thống NHTM cần phải giải quyết.
Thách thức ngay trước mắt đặt ra đối với hệ thống NHTM là xuất phát
điểm thấp:
Hiện tại, tổng vốn điều lệ của các NHTMNN mới đạt trên 21.000 tỷ đồng.
Dư nợ tín dụng mới đạt xấp xỉ 55% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trên 80%
của các nước trong khu vực. Bình quân, mức vốn tự có của các NHTMNN
khoảng từ 200 đến 250 triệu USD, chỉ bằng một ngân hàng cỡ trung bình trong
khu vực. Còn các NHTMCP có mức vốn điều lệ bình quân chỉ khoảng từ 200
đến 300 tỷ đồng.
Quy mô này nhỏ bé hơn rất nhiều so với quy mô của các NHTM trong khu vực
ASEAN và càng nhỏ bé hơn nếu so sánh với các ngân hàng lớn ở khu vực châu
Á.
Quy mô vốn chủ sở hữu như là tấm đệm để đảm bảo cho mỗi ngân hàng có
khả năng chống đỡ trước những rủi ro của môi trường kinh doanh . Điều này
ngày càng trở lên quan trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh có nhiều
biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày
càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện nay những rủi ro bất ngờ luôn
tiềm ẩn. Vốn tự có còn ảnh hưởng đến mức đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì
ngân hàng chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư vào công nghệ.
Ngoài quy mô vốn nhỏ thì thách thức đặt ra dối với các NHTM là sản phẩm,
dịch vụ nghèo nàn. Các ngân hàng vẫn chủ yếu cung cấp các sản phẩm, dịch vụ
truyền thống và đơn giản như nhận tiền gửi và cho vay với kênh phân phối
truyền thống qua các chi nhánh.Các sản phẩm có tính chất phức tạp như quản lý
tài sản, quản lý danh mục đầu tư, các sản phẩm bán chéo hay các sản phẩm phái
11
sinh, kênh phân phối điện tử như: ATM, Internet Banking, Phone Banking chưa
phát triển.
Với xuất phát điểm thấp như hiện nay, các NHTM sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc đầu tư mở rộng chi nhánh, nâng cao trình độ công nghệ, đa dạng hoá
sản phẩm để nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn trong tương lai ngay tại thị trường
trong nước chứ chưa nói đến vươn ra thị trường quốc tế.
Thách thức thứ hai đối với hệ thống NHTM là cơ chế quản trị, điều hành
và nguồn nhân lực:
Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia. Trong
đó việc xây dựng một đội ngũ các nhà quản trị hiện đại có tầm vóc quốc tế là
một yêu cầu cực kỳ quan trọng. Một vấn nạn hiện nay về nguồn nhân lực nói
chung là: nhiều người giỏi, nhưng làm việc không có tâm, chỉ quan tâm đến
lương cao, nhiều người dở nhưng lại không chịu làm và học hỏi. Hiện nay tồn
tại không ít những giám đốc độc quyền, nghi ngờ cấp dưới, không phân quyền
nên suốt ngày nhận “trình, bẩm”, từ đó ra quyết định chậm, bỏ lỡ cơ hội kinh
doanh. Không ít ngân hàng vẫn còn tình trạng chưa phân định trách nhiệm và
quyền hạn giữa NHTM, ban kiểm soát và ban điều hành, công tác quản trị, kiểm
soát điều hành của NHTM không theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
và việc thực hiện các nghiệp vụ của chính bản thân ngân hàng. Các thành viên
trong hội đồng quản trị mà trực tiếp là giám đốc chưa thực sự quan tâm đến
ngân hàng mình và gần như giao phó hết cho chủ tịch HĐQT, ban điều hành
giải quyết công việc. Kiểm soát viên tại nhiều ngân hàng chưa thực hiện đầy đủ
vai trò giám sát và cảnh báo các nguy cơ mất khả năng an toàn của ngân hàng.
Bản thân một số lãnh đạo do trình độ, năng lực còn hạn chế nên không biết
cách quản lý, điều hành doanh nghiệp mình ,giao việc cho cấp dưới thường giao
một chiều, không hướng dẫn, động viên nhân viên…Ngoài ra, nhiều nhà lãnh
đạo không dự kiến được các khó khăn, trở ngại, những biến động của môi
trường kinh doanh và không có những kế hoạch dự phòng, không đánh giá được
chính xác con số nợ xấu của ngân hàng mình là bao nhiêu, có tâm lý sợ thay
đổi, do vậy dẫn đến trường hợp các ngân hàng hoạt động theo lối mòn, không
phát triển được sản phẩm , dịch vụ và quy mô của ngân hàng.
Về nguồn nhân lực, một mặt hiểu biết và kỹ năng thực hiện chuyêm môn
của nhiều cán bộ còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động ngân
hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Mặt khác, có một số cán bộ tuy
12
được đào tạo cơ bản nhưng lại chưa được bố trí, sử dụng hợp lý gây lãng phí và
hiệu quả sử dụng cán bộ không cao.
Như vậy, khi các ngân hàng 100% vốn nước ngoài xuất hiện sẽ làm thay đổi
mạnh cơ cấu thị phần tiền tệ thì những ngân hàng yếu kém không thể đứng vững
được sẽ buộc phải sáp nhập đồng thời nguy cơ chảy máu chất xám mất đi những
người cán bộ giỏi là điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, đó là thách thức về công nghệ:
Sự phát triển của công nghệ thông tin(CNTT) trong những năm gần đây tạo
điều kiện cho ngành ngân hàng đưa các dịch vụ ngân hàng mới như ngân hàng
điện tử (e-banking), ngân hàng tại nhà (home banking), ngân hàng qua điện
thoại (telephone banking). Đến nay, các NHVN đã sử dụng trên 80% các giao
dịch giữa ngân hàng với khách hàng bằng máy tính và các thiết bị CNTT hiện
đại . Mặc dù, hệ thống NHVN đã đạt được một bước đáng kể trong việc ứng
dụng CNTT. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu quản lý và hoạt động kinh doanh
của ngân hàng hiện đại, nhất là kinh doanh theo nguyên tắc của GATS, nơi có
hệ thống thông tin vào loại số 1 trên thế giới thì trình độ CNTT của NHVN chỉ
là bước đầu, sơ khai.
Đối chiếu với các dịch vụ ngân hàng Mỹ được cung cấp tại VN cũng như các
dịch vụ theo quy định của GATS khi VN là thành viên của WTO thì NHVN còn
quá non nớt. Các ngân hàng nước ngoài có trình độ CNTT ngân hàng phát triển
rất cao trong mọi lĩnh vực như nối mạng quản lý rủi ro, quản lý vốn khả dụng,
quản lý khe hở nhạy cảm tài sản nợ và tài sản có, quản lý khách hàng không chỉ
trong nước mà trên cả toàn cầu. Còn các ngân hàng của chúng ta thì hệ thống cơ
sở, hạ tầng, truyền thông còn rất thấp, mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng
với nhu cầu thị trường còn hạn chế. Hiện nay, các ngân hàng chưa có sự liên kết
với nhau mà hoạt động của các ngân hàng mang tính độc lập, hệ thống thẻ rút
tiền tự động ATM hiện nay của các ngân hàng vẫn chưa kết nối được với nhau.
Hiện nay, chúng ta thấy, có một chỗ đặt mấy máy ATM của các ngân hàng khác
nhau nhưng thẻ ngân hàng nào chỉ dùng cho ngân hàng ấy, tại sao lại không liên
kết, thay vì một chỗ đặt nhiều máy thì chỉ cần một máy nhưng chấp nhận nhiều
thẻ của các ngân hàng khác nhau thì sẽ rất tiện lợi và tiết kiệm. Các ngân hàng ra
sức mở rộng mạng lưới của mình mà không liên kết là một sự lãng phí và nảy
sinh nhiều vấn đề như đẩy giá thuê mặt bằng lên cao đồng thời công nghệ không
đồng bộ, không hiện đại nên dần bị mất khách hàng, thị trường thanh toán thẻ
chuyển dần sang các ngân hàng nước ngoài, có công nghệ cao hơn nhâ Bank,
AZN… Thực tiễn cho thấy, công nghệ lạc hậu không những làm hạn chế khả
13
năng cung ứng các dịch vụ mới của các NHTM mà còn làm giảm đi hiệu quả
trong công tác quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng là một trở ngại rất lớn
khi hệ thống ngân hàng phải đối mặt với các ngân hàng nước ngoài theo như
cam kết của WTO lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa dần theo lộ trình 7 năm.
Thách thức thứ tư mà các NHTM phải đối mặt đó là năng lực cạnh tranh
thấp:
Hiện nay, các NHTM nhìn chung là năng lực tài chính rất yếu. Tỷ lệ an toàn
vốn bình quân khoảng 3.72% trong khi theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ an toàn
vốn bình quân tối thiểu 8%. Vốn tự có của NHTMVN nhỏ hơn rất nhiều so với
các ngân hàng trong khu vực. Ngân hàng có vốn tự có lớn nhất cũng chỉ khoảng
200 triệu USD, bằng 1/5 vốn tự có của ngân hàng các nước trong khu vực. Tốc
độ tăng vốn tự có của các NHTM còn thấp trong khi tốc độ tăng tài sản hiện nay
tăng bình quân từ 20-25% nếu như không có những biện pháp thiết thực tăng
vốn tự có với lộ trình cụ thể thì e rằng NHTMVN khó đạt được tỷ lệ an toàn
vốn. Năng lực tài chính yếu là trở ngại lớn đối với việc mở rộng kinh doanh và
tăng trưởng cũng như tạo ra những bất lợi trong quá trình cạnh tranh với những
ngân hàng nước ngoài.
Chất lượng tài sản thấp:
Chất lượng tài sản có cũng là một điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của
các NHTM
Chất lượng tài sản có thể hiện trước hết ở chỉ tiêu nợ quá hạn trên tổng dư
nợ. Đến thời điểm cuối năm 2000, tổng số nợ khó đòi tồn đọng của các
NHTMNN là 22.299 tỷ VND, chiếm tỷ lệ 10.78% trên tổng dư nợ tại thời điểm
đó.
Sự yếu kém về chất lượng tài sản có của các NHTMNN còn thể hiện ở sự tập
trung quá lớn của danh mục tín dụng cho các DNNN.Hiện nay, vốn đầu tư cua
các dự án trọng điểm phần lớn đang tiếp tục phải trông chờ vào vay các NHTM,
các tổng công ty đều đang dư nợ rất lớn.
Hiệu quả của các dự án đầu tư trong thực tế so với lúc thẩm định và phê
duyệt ban đầu có khoảng cách nhất định. Bởi vậy, các NHTM không thu hồi
được nợ vay đúng hạn, ảnh hưởng đến thanh khoản, chưa kể có những khoản
vay có thể rơi vào nợ khê đọng nếu như dự án đó không hiệu quả, bị đổ vỡ.
Đồng thời các NHTM cũng không thu được lãi, ảnh hưởng ngay đến tình hình
tài chính.
Nguyên nhân chính của tình trạng nợ tồn đọng trong những năm qua là do
các nguyên nhân chủ quan từ phía các ngân hàng như sự yếu kém trong tổ chức,
14
quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp…, sự bất cập
trong chính sách ,cơ chế cũ không phù hợp với thực tế hoạt động của các ngân
hàng. Trong đó một nguyên nhân quan trọng gây ra sự yếu kém đó là quyền tự
chủ trong kinh doanh của các ngân hàng chưa được tôn trọng. Việc cho vay của
các ngân hàng này chịu ảnh hưởng của những yếu tố phi kinh tế, đặc biệt các
khoản cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước. Chính những điều này làm cho
tiềm lực tài chính của các NHTM tăng chậm, nguồn tài chính để tái cơ cấu bị
suy kiệt theo chu kỳ xử lý nợ. Sự không tách bạch giữa cho vay chính sách với
cho vay thương mại cũng là nguyên nhân chính khiến cho tình trạng nợ quá hạn,
đặc biệt nợ quá hạn đối với DNNN lại ở mức cao như hiện nay.
Chất lượng tài sản có cả khối NHTMCP có những cải thiện đáng kể trong
những năm gần đây nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ nợ quá hạn của các
NHTMCP trong những năm gần đây giảm đáng kể, làm cho tình hình hoạt động
của các ngân hàng này lành mạnh hơn nhiều. Nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ quá
hạn dưới 2%. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTMCP năm 2003 chỉ chiếm 6.35%
tổng số nợ quá hạn của toàn hệ thống, giảm 7.25% so với năm 2002 và 10.45%
so với năm 2001. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn là một con số đáng lo ngại.Thêm vào
đó, tỷ lệ này mới chỉ tính toán trên cơ sở VAS, chưa được xác định theo tiêu
chuẩn quốc tế (IAS) nê n chưa phản ánh chính xác mức độ rủi ro thực tế mà các
ngân hàng này phải đối mặt.
Danh mục tài sản có thiếu tính đa dạng, chưa có sự phân tán rủi ro hợp lý
cũng như sự mất cân đối trong cơ cấu tín dụng trung, dài hạn so với nguồn vốn
huy động cũng phản ánh chất lượng tài sản có của các NHTMNN còn thấp.
Bên cạnh đó, hệ thống báo cáo, kế toán thiếu minh bạch. Sự khác biệt giữa hệ
thống kế toán ngân hàng VN (VAS) và hệ thống kế toán ngân hàng quốc tế
(IAS) đã dẫn đến việc sai lệch đáng kể trong đánh giá hiệu quả hoạt dộng của hệ
thống NHTMVN, từ đó tạo nên việc quản trị ngân hàng kém hiệu quả và thiếu
minh bạch.
Năng lực cạnh tranh của các NHTM thấp còn do mạng lưới hoạt dộng ở nước
ngoài của các ngân hàng rất nhỏ bé. Các NHTMVN chưa có chi nhánh ở nước
ngoài( trừ một số ngân hàng có văn phòng đại diện). Điều này hạn chế việc mở
rộng các hoạt dộng ngân hàng quốc tế như thanh toán xuất nhập khẩu, tài trợ dự
án, chuyển tiền, cũng như hạn chế khả năng mở rộng thị trường kinh doanh,
cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng nước ngoài. Nguyên nhân chính là do hệ
thống NHTMVN hội nhập quốc tế trong điều kiện điểm xuất phát thấp về trình
độ phát triển, nguồn nhân lực phục vụ cho các chi nhánh ở ngân hàng nước
15
ngoài là một cản trở rất lớn, phong tục tập quán tại mỗi quốc gia chúng ta còn
am hiểu rất hạn chế, chi phí thuê mặt bằng cao…
Ngoài ra, năng lực quản trị rủi ro của các NHTM còn rất yếu kém. Hiện nay,
các NHTM còn chưa đánh giá và xác định được đầy đủ rủi ro trên cơ sở khoa
học chặt chẽ. Các mô hình và công cụ hiện đại để đo lường và quản lý rủi ro
cũng chưa được ứng dụng rộng rãi(quản lý tài sản nợ - tài sản có, quản trị ngân
hàng theo nguyên tắc CAMEL…). Một số ngân hàng mới chỉ bắt đầu áp dụng
các chuẩm mực quốc tế ở mức độ thấp. Chất lượng và năng lực quản trị rủi ro vì
thế còn rất yếu.
Thứ năm, là chất lượng dịch vụ ngân hàng chậm đổi mới:
Một điểm yếu khác của hệ thống ngân hàng VN là chấtlượng hoạt động.
Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là dịch vụ thì ngân hàng
trong nước vẫn chủ yếu là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng
vẫn còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị rủi ro,
nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ.
sự đơn điệu trong hoạt động dịch vụ khiến hệ thống ngân hàng không tận
dụng được lợi thế về mạng lưới, về khách hàng, về kênh phân phối và công
nghệ. Cũng chính vì thế nên giá thành dịch vụ của các ngân hàng VN khá cao so
với các nước trong khu vực. Nếu như ở các nước phát triển, NHTM thường là
những tổ hợp ngân hàng – tài chính kinh doanh đa ngành nghề( tín dụng, thanh
toán, bảo hiểm, chứng khoán…) thì các NHTM VN vẫn xoay quanh các sản
phẩm truyền thống: tín dụng, bảo lãnh thanh toán. Một số dịch vụ mới ra đời
nhưng vẫn ở mức nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng doanh thu.
Một chuyên gia của WB cảnh báo: Nếu dịch vụ ngân hàng không được cải
tiến mạnh mẽ, hệ thống phân phối của ngân hàng trong nước sẽ mất dần, nhất là
khi sự phân biệt giữa tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài căn bản được
xoá bỏ vào năm 2010. Mặt khác, với điều kiện hạ tầng như hiện nay, sẽ rất khó
có các ngân hàng nội địa cạnh tranh được với ngân hàng nước ngoài về mặt
công nghệ. Một cuộc thăm dò ý kiến khách hàng gần đây cho biết:45% số khách
hàng được hỏi, kể cả cá nhân và doanh nghiệp trả lời sẽ chuyển sang vay vốn
ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của ngân hàng VN. Nguyên nhân
ngoài lý do chênh lệch lãi suất thì cơ bản là do chất lượng dịch vụ và thủ tục
hành chính quá rườm rà và phức tạp.
Thứ sáu, đó là sự tham gia của các NHTM nước ngoài:
Khi VN tham gia vào tổ chức WTO thì việc phải mở cửa cho các NH nước
ngoài vào và áp dụng quy chế đối xử quốc gia đối với các NH nước ngoài là
16
không thể tránh khỏi. Trong điều kiện hiện nay đây sẽ là một thách thức lớn cho
các NHTMVN khi phải cạnh tranh với các NH nước ngoài.
Trước hết, năng lực quản lý kinh doanh của các NH nước ngoài là rất cao, họ
có một bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh ngân hàng. Hơn nữa, họ lại được
đào tạo bài bản về nghiệp vụ kinh doanh, quản trị điều hành trong nền kinh tế thị
trường.
Các chi nhánh NH nước ngoài được trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại,
qua đó giúp họ tạo được những kênh phân phối hiện đại như sử dụng E-
banking… và các công nghệ khác.
Ngoài ra, các chi nhánh NH nước ngoài có nhiều lợi thế hơn các NHTM
trong nước trong việc sử dụng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Họ
hiểu biết đầy đủ hơn các sản phẩm phái sinh như: hợp đồng kỳ hạn, quyền lựa
chon, hợp đồng tương lai… Do vậy, việc đưa các sản phẩm này vào hoạt động
sẽ thuận lợi hơn các NHTM trong nước.
Năng lực tài chính của các chi nhánh NH nước ngoài là mạnh hơn các
NHTM trong nước:Tỷ lệ vốn điều lệ/tổng tài sản có của các chi nhánh NH nước
ngoài là 14.6% trong khi đó NHTM trong nước chỉ là 4.6%.
Mức độ rủi ro trong hoạt động của các NHTM trong nước lớn hơn rất nhiều
so với các chi nhánh NH nước ngoài. Trước hết, là khả năng sinh lời rất thấp và
có xu hướng giảm, sự mất cân đối về các loại tiền tệ do tình trạng đô la hoá nền
kinh tế.
Do các ngân hàng nước ngoài thường tập trung vào những phân khúc thị
trường nhất định nên một số lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ có thể khó tiếp cận
nguồn vốn tín dụng hơn.
Sự ổn định của thị trường trong nước cũng bị ảnh hưởng do các NH nước
ngoài đột ngột rút ra khỏi thị trường trong nước một khi xảy ra khủng hoảng
hoặc bị ảnh hưởng bởi những vấn đề của ngân hàng mẹ.
III:GIẢI PHÁP
Đứng trước bước ngoặt lịch sử vĩ đại- bước vào giai đoạn sống còn, giai đoạn
cạnh tranh khốc liệt, do những đòi hỏi của hội nhập WTO thì chỉ có một con
đường duy nhất là cạnh tranh, phát triển và hội nhập. Ngoài những công cụ,
chính sách điều tiết vĩ mô từ phía các cơ quan nhà nước và NHTW thì bản thân
mỗi NHTM cần phải chủ động xây dựng cho mình một môi trường kinh doanh
thuận lợi để có tồn tại và đứng vững trong điều kiện hiện nay.
1. Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn
17
Để có một chiến lược kinh doanh hiệu quả thì điều kiện cần đâù tiên là các
nhà hoạch định phải có được trong tay những thông tin đầy đủ, chính xác về thị
trường bao gồm nhưng không giới hạn những thông tin như: các phân đoạn
khách hàng cơ bản và hành vi của từng nhóm khách hàng trên các phân đoạn đó;
quy mô, tính chất, tốc độ phát triển của cầu, tốc độ bão hoà; các đối thủ cạnh
tranh chủ yếu và tiềm năng trên từng phân đoạn… Hiện nay, việc nghiên cứu thị
trường của các NHVN vẫn chưa được tiến hành một cách bài bản. Và hầu như
các ngân hàng đều xây dựng chiến lược kinh doanh mà không tiến hành nghiên
cứu thị trường toàn diện. Điều đó đã dẫn đến tính mơ hồ, chung chung của các
chíến lược kinh doanh của phần đông các NHTM VN hiện nay. Chủ động tìm
hiểu nhu cầu khách hàng còn là cơ sở quan trọng để mỗi ngân hàng tiến hành đa
dạng hoá sản phẩm, đầu tư vào những phân đoạn thị trường mới để tạo ra và duy
trì lợi thế cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc tiến hành nghiên cứu thị trường như thế thường rất tốn kém
và đòi hỏi những kĩ thuật điều tra, chọn mẫu phân tích rất phức tạp mà với trình
độ của đội ngũ nhân lực làm công tác phân tích thị trường hiện nay của các ngân
hàng VN thì việc độc lập tiến hành nghiên cứu sẽ rất khó khăn.
Vì thế, các ngân hàng có thể phối hợp với nhau tiến hành việc nghiên cứu thị
trường chung trên những vấn đề cơ bản về cầu trong nước cũng như một số thị
trường tiềm nămg ở nước ngoài và khả năng thâm nhập của các đối thủ mới, đặc
biệt là các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài. Việc tiến hành nghiên cứu thị
trường chung có thể được tiến hành thông qua một ban độc lập thuộc hiệp hội
ngân hàng với sự tư vấn của các chuyên gia phân tích thị trường có uy tín trên
thế giới. Các ngân hàng có thể cử các chuyên viên nghiên cứu thị trường của
mình tham gia vào ban này để một mặt giám sát hoạt động của ban soang mặt
khác quan trọng hơn là học hỏi kinh nghiệm của các chuyên gia tư vấn nước
ngoài.
Việc tiến hành nghiên cứu thị trường chung có rất nhiều ưu điểm. Thứ nhất,
việc phối hợp nghiên cứu sẽ giúp các ngân hàng VN tránh được sự lãng phí các
nguồn lực . Thứ hai, việc cùng nhau phối hợp nghiên cứu thị trường cho phép
tập trung một nguồn lực đủ lớn để tiến hành những nghiên cứu thị trường đủ
rộng và đủ sâu, đảm bảo tính toàn diện và chính xác của thông tin trên cơ sở
đảm bảo mẫu điều tra về số lượng và mức độ đa dạng.
Trên cơ sở kết qủa của cuộc điều tra thị trường đó, các ngân hàng căn cứ vào
các nguồn lực hiện có của mình, xây dựng một tầm nhìn mới, một chiến lược
kinh doanh dài hạn nhằm khai thác tối ưu và không ngừng nâng cao các nguồn
18
lực của mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Điểm cốt yếu trong mỗi
chiến lược kinh doanh chính là việc phải xác định được các thị trường mục tiêu
và định vị các sản phẩm, dịch vụ của mỗi ngân hàng trên từng phân đoạn thị
trường đó. Đây là một việc làm không hề dễ dàng song lại không thể không làm.
Việc xác định thị trường mục tiêu quá chung chung sẽ dẫn đến hậu quả là làm
phân tán các nguồn lực đầu tư thể hiện đầu tư dàn trải, manh mún và tự phát,
không có hệ thống và định hướng gây lãng phí các nguồn lực.
Xét trên giác độ hệ thống, các ngân hàng của một nước cần có sự phân chia
tương đối vầ thị phần và thị trường. Sự phân chia tương đối các phân đoạn thị
trường giữa các ngân hàng trong nước thể hiện ở chiến lược đầu tư của mỗi ngân
hàng tập trung và các mảng thị trường khác nhau. Nó không phải là một sự thoả
thuận ngầm định hay công khai về sự phân chia thị trường giữa các tập đoàn để
tạo ra ưu thế độc quyền. Sự phân chia tương đối này vẫn đảm bảo tính lành
mạng của môi trường cạnh tranh.
Trong tình trạng hiện nay sự quá giống nhau trong chiến lược kinh doanh của
các NHTMNN đã dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt và có dấu hiệu không lành
mạnh làm suy yếu đi sức mạnh của toàn hệ thống trong khi vẫn còn nhiều mảng
thị trường đang bị bỏ ngỏ và rất dễ bị khai thác bởi các ngân hàng nước ngoài.
Rõ ràng, dù phát triển thành các ngân hàng đa năng khổng lồ, mỗi ngân hàng
vẫn cần xác định cho mình những thị trường mục tiêu nhất định để có thể khai
thác tối ưu các nguồn lực hiện có của mình. Rất khó có một ngân hàng nào lại có
lợi thế trên tất cả các mảng hoạt động. Hơn nữa, Với nguồn lực đang rất có hạn
như hiện nay thì việc tập trung nguồn lực cho một số lĩnh vực thế mạnh lại là
việc làm cần thiết hơn bao giờ hết đối với các NHTMVN. Sự mở rộng đầu tư
trong tương lai vẫn cần dựa trên nền tảng từ hiện tại. Michael Porter cũng đã có
phân tích sự mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp. Ông cho rằng, các doanh
nghiệp khi mở rộng hoạt động trên cở sở thế mạnh của mình sẽ thu được hiêụ
quả cao. Sự mở rộng sang các lĩnh vực khác không có thế mạnh sẽ làm yếu đi
hoạt động của chính doanh nghiệp đó. Vì vậy các NHTMVN, đặc biệt là các
NHTMNN cần phải xem xét lại chiến lược phát triển của mình để có được
những định hướng rõ ràng hơn, cụ thể hơn, không dẫm chân lên nhau và có thể
khai thác tối ưu những lợi thế đã có.
Các NHTMCP cũng có xu hướng tập trung phát triển vào mảng thị trường
bán lẻ. Song bản thân mảng thị trường này cũng có rất nhiều phân đoạn mà việc
cụ thể hoá hơn nữa các phân đoạn thị trường mục tiêu vẫn là việc làm cần thiết
của các ngân hàng này.
19
2. Nâng cao trình độ quản lý, năng lực quản lý và đào tạo nguồn nhân
lực, cơ cấu laị tổ chức bộ máy quản trị.
Nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
Thứ nhất, là phải đổi mới mạnh mẽ về nhân thức và tổ chứcthực hiện việc
đào tạo và sử dụng cán bộ theo đúng đường lối , chủ trương của Đảng và nhà
nước; cần xuất phát từ yêu cầu của mỗi vị trí công tác và lấy mức độ đáp ứng
yêu cầu này cũng như yêu cầu nângcao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động chung của ngân hàng làm căn cứ, tiêu chuẩn để xây dựng và đánh giá kết
quả đào tạo và sử dụng cán bộ.
Thứ hai, tập trung giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc phải dành nguồn cán
bộ để đáp ứng các yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời dành sự đầu tư thoả đáng
cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đảm bảo tốt cho các bước phát triển
tiếp theo.Bên cạnh việc dứt khoát chọn một số cán bộ trẻ được đánh giá là có
năng lực và đạo đức tốt cử đi đào tạo dài hạn và chuyên sâu ở trong và ngoài
nước để có khả năng triển khai và áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm học được;
đồng thời coi trọng việc đào tạo thông qua công việc hằng ngày , bằng cách cán
bộ lãnh đạo tạo điều kiện, dành thời gian chỉ dẫn và giao việc cụ thể có đánh giá
sát sao để cán bộ tăng cường tự học, tự lên.
Thứ ba, ưu tiên đề bạt sử dụng số cán bộ trẻ có năng lực và đạo đức tốt thay
thế một bộ phận cán bộ lãnh đạo không theo kịp yêu cầu do sự đổi mới nhanh
chóng trong công nghệ khoa học tổ chức và quản lý hiện đại.
Nâng cao kỹ năng quản trị. điều hành
Năng lực quản trị điều hành là một trong những yếu tố quyết định năng lực
và hiệu quả hoạt dộng của mỗi ngân hàng. Năng lực này phụ thuộc vào khả năng
dự báo và chủ động xử lý kịp thời các tình huống phát sinh, sử dụng có hiệu quả
các cơ hội và vượt qua các thách thức. Do vậy, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý
vừa phải có tầm nhìn chiến lược, vừa phải có sự khôn khéo, linh hoạt trong sách
lược và áp dụng các biện pháp cụ thể.
Trong quá trình đổi mới năng lực quản trị, điều hành của đội ngũ cán bộ ngân
hàng đã được nâng lên đáng kể nhưng nếu so với yêu cầu cạnh tranh và hội nhập
một cách có hiệu quả, cần phải khắc phục một số hạn chế, yếu kém theo các
hướng sau:
Xác định rõ và kiên trì thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của ngân
hàng, tránh chạy theo các thành tích trước mắt nhưng có thể gây thiệt hại cho
tương lai, ví dụ huy động với lãi suất cao để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín
dụng quá mức, dẫn đến giảm chất lượng tín dụng, giảm tỷ suất lợi nhuận.
20
Tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh, minh bạch và dân chủ thực sự.
Trong quản trị điều hành, trách nhiệm và quyền lợi được phân định rõ ràng và
gắn liền với từng cương vị công tác và từng công việc, thực hiện nhất quán đối
với tất cả các cấp lãnh đạo, cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ.
Áp dụng các phương pháp hiện đại và công nghệ thông tin phục vụ cho công
tác quản trị điều hành, trước hết là trong các khâu thu thập, xử lý thông tin phục
vụ lãnh đạo.
Cổ phần hoá NHTMNN là động lực thúc đẩy nâng cao năng lực điều hành
trong NHTM.
Cổ phần hoá thực chất là đa dạng hoá sở hữu, hoặc xã hội hoá nguồn vốn
CSH của các DN. Một DN Cổ phần hoá là một doanh nghiệp do nhiều thành
viên góp vốn đồng sở hữu. Trách nhiệm của mỗi thành viên ngang bằng và giới
hạn trong số lượng vốn mà mỗi thành viên đã bỏ ra để mua cổ phiếu của DN đó.
DN cổ phần được quản trị bởi một hội đồng quản trị mà các thành viên của hội
đồng do đại hội cổ đông bầu ra. Do tính chất này, nên các cổ đông lớn sẽ là
người quyết định lựa chọn người tham gia vào HĐQT. Đây chính là ưu điểm của
công ty cổ phần, vì những cổ đông lớn luôn quan tâm đến trách nhiệm và lợi ích
mà mình được hưởng do đó họ phải tìm kiếm người có khả năng để bầu vào
HĐQT. Bên cạnh HĐQT còn có ban kiểm soát cũng do đại hội đồng cổ đông
bầu ra, thay mặt cho cổ đông kiểm soát quá trình hoạt động của DN, bảo đảm
DN phải thực hiện các nghị quyết của HĐCĐ.
Công việc điều hành hoạt động hàng ngày do BGĐ thực hiện. BGĐ điều
hành do HĐQT thuê bất kỳ người nào có năng lực điều hành, kể cả người nước
ngoài. Điều này cho phép các Ngân hàng được CPH có thể lực chọn người điều
hành có năng lực, trình độ chuyên môn để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động của HĐQT còn gắn với việc quyết định mạng lưới phát triển quy
mô, chiến lược nhân sự và xây dựng cơ sở vật chất của Ngân hàng. Do vậy cần
phải lực chọn cân nhắc để có những thành viên HĐQT là những chuyên gia am
hiểu sâu sắc lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, có khả năng đóng góp kinh nghiệm
cho việc xây dựng chiến lược kinh doanh của ngân hàng và nâng cao trình độ
quản trị của ngân hàng phù hợp với yêu cầu mới.
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh
Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ
Đây là một vấn đề mang tính chiến lược dài hạn nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của các NHTM. Để thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ thành công,
các ngân hàng một mặt cần chú ý nghiên cứu các sản phẩm, dịch vụ đang được
21
các ngân hàng trên thế giới triển khai, song mặt khác cũng cần có những nghiên
cứu cụ thể về nhu cầu trong nước để có những sửa đổi hoặc cải tiến cho phù hợp
với nhu cầu thực tế của thị trường trong nước. Trên cơ sở đó, xây dựng chiến
lược mở rộng dịch vụ với những bước đi cụ thể, có định hướng nhằm tránh việc
đầu tư lãng phí, không hiệu quả. Trong cải tiến phát triển sản phẩm mới, bên
cạnh việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cho vay, các ngân hàng
cũng cần tập trung vào các dịch vụ thu phí, đặc biệt là các dịch vụ được ứng
dụng trên cơ sở công nghệ hiện đại.
Việc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới cũng cần phải được tiến hành đồng
bộ với những giải pháp Marketing khác nhằm quảng bá sản phẩm dịch vụ rộng
rãi đồng thời xác định được phản ứng của khách hàng để có được những quyết
định đầu tư đúng đắn.
Tìm hiểu các sản phẩm hiện có trên thế giới là bước đi ban đầu giúp các ngân
hàng theo kịp với các ngân hàng trên thế giớí, nhưng để đạt được lợi thế cạnh
tranh quốc tế thì việc nâng cao năng lực tự nghiên cứu và triển khai các sản
phẩm mới chưa từng có chính là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Tuy nhiên, để thực
hiện được giải pháp này đòi hỏi một sự đầu tư lớn về con người và công nghệ.
Nâng cao chất lượng tài sản
Để nâng cao chất lượng Tài sản trước hết cần đẩy mạnh việc giải quyết nợ
tồn đọng. Giải pháp trước mắt là một mặt cần tích cực tăng cường việc xử lý các
khoản nợ tồn đọng bằng quỹ dự phòng rủi ro, mặt khác cần tăng cường hiệu quả
của việc khai thác các tài sản xiết nợ, tích cực thu hồi nợ của các DNNN bằng
các biện pháp mạnh.
Một giải pháp khác cho vấn đề xử lý nợ tồn đọng là chứng khoán hoá các
khoản nợ dưới hình thức CDO. Khi thực hiện việc chứng khoán hoá một khoản
nợ thì khoản này sẽ được loại ra khỏi bảng CĐKT, từ đó tăng cường chất lượng
TS có.
Song song với các biện pháp xử lý nợ tồn đọng, việc thực thi các biện pháp
nâng cao chất lượng tín dụng nói riêng, tài sản nói chung cũng như các hoạt
động kiểm soát tín dụng là một việc làm rất quan trọng để hạn chế sự phát sinh
các khoản nợ không sinh lời. Hầu hết các ngân hàng đều đã thành lập Uỷ ban
quản lý tài sản nợ - có và hội đồng tín dụng trực thuộc ban điều hành nhằm đề ra
và theo dõi việc thực thi các chính sách, các quy trình kiểm soát rủi ro nói chung
và rủi ro tín dụng nói riêng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cũng như hiệu quả
hoạt động của Uỷ ban và Hội đồng tín dụng là giải pháp quan trọng để nâng cáo
chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng TS nói riêng của các ngân hàng.
22
Nâng cao năng lực về vốn
VCSH là yếu tố cơ bản quyết định sức mạnh tài chính của ngân hàng, để đảm
bảo an toàn hoạt động trước hết các ngân hàng phải đảm bảo có đủ vốn tự có.
Để tăng vốn CSH một mặt tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng để sáp nhập hoặc giải thể các ngân hàng có mực vốn quá nhỏ, không đủ
sức cạnh tranh. Mặt khác, bắt buộc các ngân hàng không đủ vốn phải có các
biện pháp bổ sung để tăng vốn từ các nguồn bên ngoài kết hợp với phát triển vốn
từ bên trong.
Lợi nhuận của ngân hàng để lại có thể đáp ứng được nhu cầu gia tăng vốn của
mình thì thông thường đây chính là nguồn bổ sung vốn tốt nhất. Khi ngân hàng
có thể tự bổ sung vốn mà không làm tổn hại đến hoạt động SXKD, đến các CSH
cũng như ngân sách nhà nước thì đó là việc rất nên làm. Có 3 yếu tố kết hợp với
nhau để xác định lợi nhuận để lại có thể đảm bảo được khả năng tăng trưởng
nguồn vốn đến mức nào là hợp lý: Mức vốn mà ngân hàng và các cơ quan quản
lý cho là đủ; lợi nhuận thu được; tỷ lệ phần trăm số lợi nhuận để lại. Muốn tăng
trưởng bền vững, phải giữ lại phần lợi nhuận thoả đáng để bổ sung vào nguồn
vốn CSH tương ứng với mức tăng trưởng tài sản. Các ngân hàng thương mại
phải xác định rõ mục tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và mức vốn cần đạt
được để quyết định tỷ lệ lợi nhuận giữ lại sau khi đã tính toán các nguồn bổ sung
khá. Để có căn cứ quản lý, phải thiết lập 1 cơ chế buộc các NHTM phải tự tích
luỹ vốn, bên cạnh các quy định về mực vốn tối thiểu và tỷ lệ an toàn vốn nhất
thiết phải đặt ra chỉ tiêu về tỷ lệ số nhân đòn bẩy tối đa buộc các Ngân hàng
muốn mở rộng quy mô hoạt động phải tích luỹ một lượng vốn tương ứng.
Các nguồn bên ngoài có thể giúp ngân hàng gia tăng vốn bao gồm:
Vốn từ ngân sách cấp bổ sung, nguồn vay giúp cơ cấu lại các NHTM của WB và
IMF, vốn do phát dành cổ phiếu hoặc chứng khoán cấp cao.
4. Đổi mới công nghệ thông tin
Trong bối cảnh hội nhập hạ tầng công nghệ thông tin ( CNTT ) ngân hàng
được coi là yếu tố có ý nghĩa quyết định khả năng cạnh tranh với các ngân hàng
trong khu vực và thế giới. Nhưng hiện tại CNTT thông tin ngân hàng của các
NHTM còn yếu kém, hạn chế nhiều đến năng lực cạnh tranh. Khắc phục vấn đề
này là cả một bài toán lớn cho từng NHTM từ chiến lược, lộ trình, giải pháp cụ
thể.
Thứ nhất, các NHTM phải tăng quy mô vốn tự có mạnh mẽ mới có điều kiện
vững chắc để có khả năng đầu tư cho CNTT. Bên cạnh đó, chính phủ và NHTW
cần hỗ trợ, tạo điều kiện ở mức cao nhất giúp các NHTM tiếp cận các dự án tài
23
trợ quốc tế cho quá trình cơ cấu lại hệ thống tài chính VN, hỗ trợ vốn nhiều hơn
để tăng đầu tư CNTT, hiện đại hoá mọi hoạt động ngân hàng vàkhông bị khống
chế bởi luật các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, về đầu tư CNTT, các NHTM cần quán triệt và thực hiện theo
hướng:
Trong điều kiện nguồn lực hiện tại còn hạn chế, các NHTMVN nên tập trung
đầu tư có trọng điểm, có dự kiến đầu tư mở rộng khi điều kiện cho phép.
Đầu tư nhanh vào các công nghệ mà NHTMVN đang rất yếu hoặc chưa có so
với các ngân hàng nước ngoài như: Công nghệ thanh toán để nâng cao tốc độ, độ
chính xác, an toàn; công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử; công nghệ
phục vụ quản trị ngân hàng nhất là quản trị rủi ro, quản trị vốn khả dụng, quản
trị tài chính.
Khẩn cấp đầu tư xây dựng hệ thống dự phòng bảo đảm cho hoạt động kinh
doanh ngân hàng an toàn trong mọi tình huống.
Thứ ba, về hệ thống phần mềm và hệ thống hạ tầng công nghệ kỹ thuật( phần
cứng, thiết bị, đường truyền,viễn thông…).
Đối với hệ thống phần mềm, việc xây dựng các chương trình phần mềm cần
chú ý hơn đến khả năng ứng dụng, mở rộng dịch vụ. Hiện nay và trong vài năm
tới các NHTMVN nên chọn phương án nhập khẩu trọn gói chương trình phần
mềm. Phương thức này cho phép các ngân hàng rút ngắn thời gian triển khai
dịch vụ và thuận lợi trong xử lý sự cố sẽ xảy ra.
Đối với hệ thống phần cứng việc nâng cấp, đổi mới cần đặc biệt quan tâm
đến dung lượng, tốc độ xử lý và có cấu trúc mở, sẵn sàng giao diện với bên
ngoài.
Đối với hệ thống đường truyền viễn thông, đây là khâu mà các NHTM đều
phụ thuộc chủ yếu vào nhà cung cấp nên bị động trong việc bảo đảm chất lượng
dịch vụ. Việc này sẽ được cải thiện tốt hơn trong quá trình nâng cao chất lượng
dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. Tuy nhiên, để hạn chế các sự
cố về mạng viễn thông, ngành ngân hàng(các NHTM) liên kết tạo ra hệ thống
mạng truyền thông phục vụ riêng cho hoạt động của các ngân hàng tại VN hoặc
liên kết quản lý, hợp tác giữa NHTM và đối tác cung cấp dịch vụ viễn thông trên
cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Quá trình phát triển hạ tầng công nghệ ngân hàng mà nòng cốt của nó là công
nghệ kỹ thuật và công nghệ tin học sec đạt hiệu quả thấp nếu quy trình nghiệp
vụ và con người xử lý không được đổi mới tương ứng. Do đó, việc rà soát,
nghiên cứu đổi mới, ứng dụng quy trình quản lý, giao dịch đối với từng NHTM
24
là hết sức quan trọng cần được xử lý theo kịp tiến độ đổi mới công nghệ, đồng
thời cần đẩy nhanh việc đầu tư đào tạo phát triển nhân lực đảm bảo đáy ứng
được phát triển công nghệ hiện đại của ngân hàng. Thường xuyên chú trọng đến
hệ thống an ninh bảo mật đối với CNTT của ngân hàng.
5. Xây dựng tập đoàn ngân hàng.
Xây dựng các ngân hàng thành những tập đoàn tài chính nhamừ tao jđiều
kiện cho ngân hàng cạnh tranh thành công trong môt trường kinh doanh ngày
càng mở cửa và năng động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.Để xây dựng
các ngân hàng đa năng theo các tập đoàn tài chính- ngân hàng, có nhiều hướng
đi:
Một NHTM có thể tự xây dựng thành một tập đoàn tài chính nếu có đủ
điều kiên về nguồn lực.
Cũng có thể sử dụng biện pháp hợp nhất một số NHTM để trở thành
tập đoàn tài chính lớn mạnh đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài.
Thông qua cổ phần hoá(CPH) những NHTMNN mà nhà nước cho
phép hoặc liên doanh.CPH nhằm đạt được 2 mục tiêu quan trọng: Tăng vốn để
đạt được các chuẩn mực quốc tế và tạo dựng một cơ chế quản lý, văn hoá kinh
doanh ngân hàng hiện đại phù hợp với xu thế của thời đại,.Mục tiêu CPH cần
được xác định rõ ràng: quy mô vốn cần huy động, đối tượng nhà đầu tư, nhà
đầu tư chiến lược, tỷ lệ nắm giữ của nhà nước, quá trình mua bán và sáp nhập để
tăng quy mô và năng lực cạnh tranh. Điều cần đặc biệt lưu ý là việc lựa chọn
được các đối tác chiến lược nước ngoài phù hợp để tận dụng được các thế mạnh
về kinh nghiệm, kỹ năng quản trị điều hành, công nghệ, vốn… Sự lớn mạnh của
các NHTMNN sau CPH góp phần quan trọng vào việc xây dựng được một hệ
thống tài chính vững mạnh. Nhà nước cũng sẽ đảm bảo được quyền kiểm soát
hay chi phối đến hoạt động của các ngân hàng với một công ty cổ phần nhất
định.
Ngoài ra, có thể hợp nhất, thậm chí sáp nhập một vài NHTM với nhau,
qua đó, cơ cấu sở hữu cũng sẽ thay đổi, tạo cơ sở pháp lý cho sự thay đổi cơ cấu
tổ chức trong các NHTM, tăng quy mô hoạt động ở trong và ngoài nước. Điều
này xuất phát từ làn sóng tập trung và mở rộng, hợp nhất mạnh mẽ trong ngành
ngân hàng thế giới gần đây và nhu cầu phát triển ngân hàng nội địa để đáp ứng
các yêu cầu cạnh tranh.
Một hướng khác đó là hợp nhất giữa NHTM và công ty bảo hiểm, có
thể là từ các đơn vị kinh doanh riêng lẻ để tạo ra những tập đoàn kinh doanh tài
chính lớn hơn.
25
Đối với các ngân hàng, thông thương việcbán các sản phẩm bảo hiểm được
thực hiện qua các công ty con, hoặc công ty liên doanh hoặc liên kết với các
công ty bảo hiểm. Tuy nhiên việc liên kết với các công ty bảo hiểm để thực hiện
bán các sản phẩm bảo hiểm được các ngân hàng sử dụng chủ yếu. Bởi vì, các
ngân hàngthương không muốn tập trung quá nhiều các nguồn lực với chi phí cơ
hội cao vào việc thành lập một công ty bảo hiểm trực thuộc ngân hàng khi chưa
có đủ kinh nghiệm và mạng lưới hoạt động. trong khi đó, việc liên kết với các
công ty bảo hiểm có sẵn nhiều kinh nghiệm, mạng lưới trong nước và quốc tế sẽ
thuận lợi và tiết kiệm chi phí với doanh thu không chênh lệch lớn.
Đối với các công ty bảo hiểm, việc liên kết với các ngân hàng để bán các sản
phẩm bảo hiểm là một kênh phân phối mới bên cạnh kênh phân phối truyền thốn
giúp khai thác tối đa thị trường và nâng cao hiệu quả của việc thu phí bảo hiểm
đối với khách hàng.
Để phát huy tối đa những ưu điểm, đồng thời hạn chế những nhược điểm của
việc liên kết với các công ty bảo hiểm, các NHTM cần thực hiện các giải pháp
sau:
Các ngân hàng có thể xem xét Bancassurance( bán các sản phẩm bảo hiểm
qua hệ thống NHTM) với nhiều công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, tuỳ thuộc điều
kiện cụ thể của mỗi ngân hàng mà ngân hàng có thể triển khai dưới nhiều hình
thức khác nhau: ngân hàng hoạt động như một đại lý của công ty bảo hiểm hoặc
công ty bảo hiểm bố trí nhân viên bảo hiểm hoạt động thường trực tại ngân
hàng.
Trường hợp 1: Ngân hàng làm đại lý bảo hiểm chính thức của công ty
Trường hợp 2: Công ty bảo hiểm chia hoa hồng và tiền thưởng cho ngân
hàng.
Công ty bảo hiểm Ngân hàng
Khách hàng
Công ty bảo hiểm Ngân hàng
Khách hàng
Công ty bảo hiểm bố trí nhân viên bảo
hiểm tại ngân hàng
26
Đồng thời ngân hàng cần phải thường xuyên đánh giá hiệu quả của
Bancassurance để có các giải pháp kịp thời nâng cao hiệu quả của
Bancassurance cũng như các hoạt động khác của ngân hàng.
Đối với các ngân hàng có mạng lưới các chi nhánh cấp 2( phòng giao dịch)
hoạt động ngoài giờ, đặc biệt là tại các siêu thị, ngân hàng có thể triển khai bán
các sản phẩm bảo hiểm tại các siêu thị. Bởi vì, siêu thị cũng là một trong những
kênh bán các sản phẩm ngân hàng và các sản phẩm bảo hiểm khá hiệu quả vì
lượng khách hàng ngày càng tương đối lớn nên hiệu quả hoạt động marketing sẽ
tương đối cao.
Ngân hàng cần nghiên cứu kết hợp một số sản phẩm bảo hiểm thuần tuý với
các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng để cung cấp cho khách hàng, cụ thể như:
tiết kiệm tích luỹ với bảo hiểm thân thể 24/24, tín dụng dân cư, cho vay mua nhà
trả góp, tín dụng du học sinh với bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm thân
thể…Các sản phẩm bảo hiểm lúc này được coi như là những sản phẩm cộng
thêm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng.
6. Mở chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài.
Sự phát triển các chi nhánh NHTM ra nước ngoài là chiếc cầu quan trọng,
nối kết kinh tế Việt Nam với thị trường thế giới không chỉ tài trợ vốn cho các
doanh nghiệp mà còn cung cấp dịch vụ tiện ích cho các giao dịch xuyên biên
giới.
Việc mở chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài là yêu cầu tất yếu và là muạc tiêu
cụ thể được đặt ra trong lộ trình hội nhập quốc tế và ngân hàng. Ngay từ bây giờ
nghành ngân hàng phải có những bước chuẩn bị thật khẩn trương và đồng bộ
theo các bước sau:
Xác định vị trí, điểm đặt các chi nhánh NHTM tại nước ngoài ở các nước
trong khu vực và trên thế giới: Vấn đề này NHNN và các NHTMNN phải có sự
nghiên cứu, phân tích đầy đủ các yếu tố khả thi để đặt địa điểm mở chi nhánh
ngân hàng ở mỗi nước cho phù hợp. Trước mắt sẽ thúc đẩ mở ở một số nước có
quan hệ hiểu biết lẫn nhau, sau đó dần đần mở ra nhiều nước khác.
Hiện nay các NHTMVN nên khảo sát thị trường trước dưới dạng là các văn
phòng đại diện để tạo nền móng vững chắc trước khi tiến đến thành lập các chi
nhánh ngân hàng ở nước ngoài. Điều này ở VN hoàn toàn phù hợp với lội trình
hội nhập quốc tế ngân hàng đã đề ra và cũng chính trong khoản thời gian này
các NHTM trong nước đang đẩy mạnh cơ cấu lại về tài chính, về tổ chức quản
27
lý, khắc phục những yếu kém tồn tại hoàn thiện mình trước khi xuất hiện trên thị
trường thế giới.
Nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực cho các chi nhánh ngân hàng mở ở
nước ngoài. Xây dựng cho được một đội ngũ các bộ, công nhân viên thật vững
vàng về chuyên môn, có đủ năng lực, phẩm chất chính trị đảm đương được các
nhiệm vụ của một chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài.
Xúc tiến việc chuẩn bị năng lực tài chính theo yêu cầu của ngân hàng nước
sở tại về vốn điều lệ khi thành lập chi nhánh ở nước ngoài.
Cho phép các ngân hàng thương mại nhà nước cần đánh giá lại tài sản theo
đúng giá trị thực thông qua các công ty định giá với những qui định cụ thể và
chặt chẽ, nên tổ chức đấu giá công khai trên thị trường. Bởi vì khối kượng tài
sản của NHTMNN rất lớn cũng như thương hiệu của ngân hàng thương mại là
tài sản vô hình khá phức tạp khi định giá. Đồng thời phát hành thêm cổ phiếu
nhằm tăng vốn diều lệ, góp phần đa dạng hàng hoá trên thị trường tài chính. Các
ngân hàng cổ phần thì khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỉ lệ tối
đa không quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó. Đây là bước đệm quan trọng
để tăng vốn cho các NHTM đồng thời có đủ năng lực tài chính kinh doanh ở thị
trường nước ngoài.
7. Nâng cao hiệu quả marketing:
Hoạt động marketing trong ngân hàng càng tinh sảo có chất lượng cao, có
tính chuyên nghiệp…càng chứng tỏ trình độ phát triển, thế mạnh trong cạnh
tranh của ngân hàng đó, nó càng làm cho thương hiệu của ngân hàng ngày càng
có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Để có thể thấy được marketing là một
công nghệ ngân hàng, một công cụ quảng bá thương hiệu thực sự có hiệu quả thì
trước tiên chúng ta phải xem xét nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động marketing.
Con người là yếu tố quyết định đến hiẹu quả marketing. Người quản ký, điều
hành thực thi việc hoạch định chiến lược, tổ chức thực hiện, phối kết hợp giữa
các bộ phận , đơn vị, chi nhánh, các cán bộ trong hoạt dộng marketing. Cán bộ
marketing là người trực tiếp thực thi các hoạt động marketing cũng như tham
mưu, đề xuất chiến lược, các biện pháp cụ thể cho hoạt động marketing. Yếu tố
con người ở đây còn là trình độ chuyên môn còn là nhận thức và am hiểu, thành
thoạ về marketing ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng hiện đạicho phép triển khai các hoạt động
marketing hiện đại, đa dạng và có chất lượng; tiến hành liên tục trên phạm vi
rộng và tiết kiệm chi phí. Năng lực tài chính và qui mô của ngân hàng là điều
28
kiện đầu tư kinh phí cho hoạt động marketing, đào tạo cán bộ đầu tư cho tiếp thị,
có điều liên tổ chức hoạt độnh marketing có hiệu quả…
Một số nội dung chủ yếu củ hoạt động marketing ngân hàng:
Trước tiên là quảng cáo: Mục đích của quảng cáo là quảng bá hình ảnh,
thương hiệu, danh tiếng ngân hàng; giới thiệu các nghiệp vụ, dịch vụ cùng với
chất lượng, tiện ích đi kèm vủa ngân hàng cho khách hàng; giới thiệu các thông
tin, chỉ dẫn cách sử dựn hay tiếp cận các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng…cách
thức tiến hành quảng cáo hết sức đa dạng: trên tạp chí, báo in, báo điện tử, trên
trang web của ngân hàng hoặc thuê trên trang web khác, xây dựng hay thuê các
bản quảng cáo bằng điện tử hay panô quảng cáo thông thường lắp đặt tại nơi
đông người, phát trên truyền hình, đài phát thanh; tài trợ cho hạot động thể thao,
các hoạt động văn hoá xã hội, từ thiệ khác…
Tổ chức hội nghị khách hàng, hội thảo, tập huấn,hội nghị chuyên đề với
khách hàng qua đó giới thiệu thông tin cho khách hàng với những nội dung mà
ngân hàng thấy cần truyền tải trực tiếp tới từng đối tượng khách hàng. Thông
qua đó cũng tạo sự gắn bó, gần gũi, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa ngân hàng và
khách hàng. Hoạt động marketing nói trên có thể tổ chức đơn lẻ hoặc kết hợp
với hội nghị tổng kết, khai trương chi nhánh mới, công bố các dịch vụ mới…
Cán bộ lãnh đạo ngân hàng chủ động gặp lãnh đạo doanh nghiệp hay tổ chức,
cán bộ marketing ngân hàng trực tiếp với khách hàng, thuyết phục họ, giới thiệu
với họ các sản phẩm dịch vụ cuả ngân hàng hoặc quảng bá, giới thiệu hình ảnh
của công ty…
8: Xây dựng thương hiệu ngân hàng.
Thương hiệu là yếu tố quan trọng , là nguồn tài sản lớn trong một số trường
hợp gía trị thương hiệu của DN có thể lớn hơn tổng số tài sản hữu hình. Để phát
triển thương hiệucủa mình mỗi ngân hàng cần có chiến lược và kế hoạch rõ ràng
, phải dành nguồn lực cần thiết để tiến hành nghiên cứu thị trường và khách
hàng, thực hiện thường xuyên việc quảng bá về thương hiệu của mình. Trong
quá trình này cần phải thực hiện các yêu cầu sau:
Cần tuyên truyền, giáo dục cho toàn thể cán bộ của ngân hàng hiểu rõ ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc quảng bá thương hiệu ngân hàng, tự giác tham
gia và có những đóng góp thiết thực cho hoạt động này.
Cần xác định và nêu rõ triết lý kinh doanh của ngân hàng đến từng khách
hàng, cố gắng tạo dựng hình ảnh của ngân hàng.
29
Không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ cao, tiện lợi và an toàn
cho khách hàng coi đây là yếu tố quyết định đối với giá trị và mức độ thành
công của thương hiệu ngân hàng.
Trong quá trình quảng bá, cần chú ý cung cấp các thông tin và chỉ ra cho các
khách hàng nhận biết những nổi trội của ngân hàng mình trong chất lượng và
cách thức cung cấp dịch vụ để họ có thể tự so sánh với các ngân hàng khác và tự
rút ra kết luận.
9.Bán cổ phần cho ngân hàng nước ngoài
Việc một loạt các ngân hàng thương mại cổ phẩn Việt Nam bán hoặc thương
thảo bán cổ phần cho các ngân hàng lớn của nước ngoài trong thời gian qua cho
thấy sức hấp dẫn của các ngân hàng Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế đang
ngày càng trở nên mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á châu (ACB) bán 10% cổ phần cho Ngân
hàng Anh Standard Chartered, Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) bán cổ
phần cho Ngân hàng Hồng Công-Thượng Hải (HSBC) và Ngân hàng Phương
Nam (Southern Bank) đang thương lượng bán 10% cho ngân hàng Mỹ Cathay
Bank.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, bình quân lãi ròng trên vốn tự có
đạt trên 30% của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần trong nước đang là một
con số rất hấp dẫn đối với giới đầu tư tài chính quốc tế. Mặt khác, với kinh
nghiệm hoạch định chiến lược, các nhà đầu tư này cũng hiểu rằng khi đầu tư vào
một doanh nghiệp trong nước có thương hiệu định hình sẽ mang lại giá trị lợi
nhuận cao hơn, rút ngắn giai đoạn đầu tư và thuận lợi hơn trong việc đóng góp
vào công tác quản trị nội bộ. Đây là lý do chính khiến ngày càng nhiều ngân
hàng nước ngoài 'nhòm ngó' các ngân hàng trong nước, tiến hành thương thảo,
tiếp xúc để trở thành cổ đông chiến lược của các ngân hàng của Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy hoạt động của những ngân hàng trong nước có sự tham
gia của các ngân hàng nước ngoài đang ngày càng phát triển, minh bạch và rõ
ràng hơn. Với những ưu thế về kinh nghiệm và tập quán kinh doanh hiện đại,
các nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào công tác quản trị những ưu thế kinh
doanh nổi trội. Nhờ đó, các ngân hàng trong nước tự hoàn thiện mình trong công
tác chăm sóc khách hàng, nâng cao 'hàm lượng' dịch vụ trong mỗi sản phẩm tài
chính đưa ra công chúng.
Chủ tịch Hội đồng quản trị Techcombank Nguyễn Thị Nga đã gọi HSBC là
đối tác chiến lược không chỉ trong thời điểm hiện tại, khi ngân hàng bán 10% cổ
30
phần cho HSBC, mà cả trong tương lai vì những lợi ích từ việc bán cổ phần cho
HSBC đem lại.
Chỉ trong một thời gian ngắn kể từ khi HSBC tham gia vào ngân hàng từ
cuối năm 2005, giá cổ phiếu của Techcombank trên thị trường chứng khoán phi
tập trung (OTC) đã tăng gấp gần 8 lần so với mệnh giá, đạt xấp xỉ 8 triệu
đồng/cổ phiếu, trong vòng vài tháng.
Với cam kết của HSBC về việc hỗ trợ Techcombank mỗi năm 1 triệu USD
trong vòng 3 năm (2006-2008) cho các chi phí về hỗ trợ nâng cao kỹ thuật, công
nghệ, Techcombank đã liên tục mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ và tiện
ích phục vụ khách hàng, tăng nhanh các loại hình dịch vụ công nghệ cao.
Nhiều chuyên gia cho rằng, trong giai đoạn sắp tới, chính sách linh hoạt hoàn
chỉnh về quy định nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng
cổ phần sẽ có tác động tích cực đến quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực tài chính ngân hàng - vốn dĩ là một trong những lĩnh vực có tỷ suất lợi
nhuận rất cao.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước nên để người mua (ngân hàng nước ngoài)
và người bán (ngân hàng trong nước) tự thỏa thuận với nhau mức tỷ lệ mà họ
mong muốn và cho phép ngân hàng trong nước được quyền tự quyết định có thể
chỉ bán cổ phần cho một hay nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
31
PHẦN III: KẾT LUẬN
Tóm lại, để chủ động cho quá trình hội nhập WTO thì ngành ngân hàng tài
chính nói chung và các NHTM nói riêng cần phải nghiêm túc và khẩn trương
khắc phục các điểm yếu, phát huy các điểm mạnh, vượt qua thử thách và tận
dụng các cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh. Bản thân mỗi NHTMVN cần
phải thực hiện một loạt các biện pháp như tiếp tục công cuộc cải cách, định
hướng phát triển thành các tập đoàn tài chính, cổ phần hoá các NHTMNN, nâng
cao năng lực quản trị…Bên cạnh đó thì các cơ quan quản lý nhà nước thông qua
việc họach định và thực thi các chính sách, cần nâng cao tính chủ động cho các
NHTM về các phương diện như hoạt động kinh doanh, nhân sự, tài chính, quản
trị rủi ro để hệ thống NHTMVN có thể tồn tại và đứng vững được trong giai
đoạn cạnh tranh khốc liệt khi mà các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng được
thực hiện và hàng loạt ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào thị trường VN.
32
MỤC LỤC
Phần I: Lời giới thiệu .................................................................................... 1
Phần II: Nội dung
I. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 2
1. WTO và quá trình Việt Nam gia nhập WTO ............................................ 2
Những vấn đề cơ bản về tổ chức WTO .......................................................... 2
Cơ hội và thách thức của VN khi gia nhập WTO........................................... 2
Cơ hội ........................................................................................................... 2
Thách thức .................................................................................................... 3
2. Các cam kết trong lĩnh vực ngân hàng khi VN gia nhập WTO ................. 4
II. Cơ sở thực tiễn .................................................................................... 7
1. Hoạt động của hệ thống NHTM trước khi gia nhập WTO ........................ 7
2. Cơ hội và thách thức của NHTM khi gia nhập WTO ............................... 8
Cơ hội ........................................................................................................... 8
Thách thức .................................................................................................. 10
III. Giải pháp ........................................................................................... 16
1. Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn................................................ 16
2. Nâng cao trình độ quản lý, năng lực quản lý và đào tạo nguồn nhân lực,
cơ cấu lại tổ chức bộ máy quản trị .......................................................... 18
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh ................................................................ 20
4. Đổi mới công nghệ thông tin .................................................................. 22
5. Xây dựng tập đoàn ngân hàng ................................................................ 24
6. Mở chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài ................................................... 26
7. Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing ................................................. 27
8. Xây dựng thương hiệu ngân hàng ........................................................... 28
9. Bán cổ phần cho ngân hàng nước ngoài ................................................. 29
Phần III. Kết luận ........................................................................................ 31
33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS,TS Nguyễn Thị Quy- Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu
thế hội nhập- Nhà xuất bản lý luận chính trị-trang 78
2. TS.Hoàng Đức-Chuẩn bị điều kiện cho việc mở chi nhánh NHTM ở nước
ngoài một yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế ngân hàng ở nước ta
hiện nay- Tạp chí phát triển kinh tế- T2/2005- Trang36
3. PGS.TS.Phương Ngọc Thạch- Một số thách thức lớn khi Việt Nam hội
nhập kinh tế thế giới- Tạp chí phát triển kinh tế-T1/2005-Trang 30
4. Lê Thị Vân Anh- Gia nhập WTO: cơ hội và thách thức-Tạp chí thông tin
tài chính- Số 6 T3/2006- Trang19
5. Lê Minh Hưng- Quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt
Nam:một số kinh nghiệm quốc tế cần lưu ý-Tạp chí ngân hàng- Số
1+2/2006- Trang7
6. PGS.TS. Nguyễn Đình Tự- Cải cách ngân hàng thương mại, góp phần
phát triển kinh tế ở nước ta và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế-Tạp chí
ngân hàng-Số 1+2/2006- Trang52
7. GS.TSKH.Nguyễn Duy Gia- Hệ thống ngân hàng Việt Nam cạnh tranh-
phát triển- hội nhập quốc tế xu hướng tất yếu của thời đại- Tạp chí ngân
hàng- Số 8/2006- Trang 14
8. Ths. Trần Ngọc Lân- Mở rộng hoạt động dịch vụ đối với các ngân hàng
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế- Tạp chí ngân hàng -số
11/2005- Trang 31
9. Ths. Lê Hoàng Lan- Một số cơ hội và thách thức của hệ thống ngân hàng
Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO- Tạp chí ngân hàng- Số 10/2005-
Trang 10
10. TS. Phạm Quang Thao- Cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập đối
với các ngân hàng thương mại Việt Nam- Tạp chí ngân hàng- Số
10T5/2005
11. PGS.TS.Lê Hoàng Nga- Xây dựng tập đoàn tài chính đa năng trong các
ngân hàng thương mại- Tạp chí ngân hàng -Số 5/2006-Trang 20
12.TS. Đinh Thị Diên Hồng- Đa dạng hoá hoạt động và nâng cao hiệu quả
kinh doanh của NHTMVN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế- Tạp chí
ngân hàng -Số 5/2002- Trang 19
TS. Lê Khắc Trí- Định hướng và giải pháp giải quyết một số vấn đề trong
quá trình đổi mới của các ngân hàng thương mại- Tạp chí ngân hàng -Số
5/2002- Trang5
34
13.TS. Nguyễn Đình Tự- Suy nghĩ về hội nhập kinh tế quốc tế của ngành
ngân hàng Việt Nam- Tạp chí ngân hàng- số 12/2003- Trang 1
14.Lê Văn Luyện- Vấn đề tăng vốn chủ sở hữu nhằm phát triển quy mô và
nâng cao sức cạnh tranh của các NHTMVN để hội nhập quốc tế- Tạp chí
ngân hàng - Số 9/2003-Trang 31
15.Ngô Vi Trọng- Lê Hồ An Châu- Bancassurance- bán các sản phẩm bảo
hiểm qua hệ thống ngân hàng thương mại- Tạp chí ngân hàng -số 8/2003-
trang 62
16. Ths. Tôn Thanh Tâm- Hội nhập quốc tế về ngân hàngcơ hôi jvà thách
thức xét từ môi trường pháp lý, vốn và dịch vụ- Tạp chí ngân hàng số
4/2003- Trang 4
17. Vũ Phúc Thái- Nâng coa hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại-
Tạp chí ngân hàng-số 1+2/2003- Trang 68
19.TS. Phạm Quốc Trung- Phát triển ngân hàng thương mại VN theo yêu cầu
hội nhập- Tạp chí tài chính- T5/2006- trang44
20.PGS.TS.Bùi Anh Tuấn, Ths. Phạm Thái Hưng- VN gia nhập WTO:sự lựa
chọn tất yếu- tạp chí tài chính –T5/2006- Trang 48
21. TS. Lê Thị Thu Thuỷ- Quản trị, điều hành NHTM trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế- tạp chí tài chính-T4/2006-Trang 47
22. Nguyễn Hoà Bình- Năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTMVN trong
bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá- Thị trường tài chính tiền tệ - T4/2006-
Trang 22
23. Trần Đình Định- Lựa chọn chiến lược kinh doanh của NHTMVN- Thị
trường tài chính tiền tệ -T11/2006- Trang 36
24. TS. Phạm Huy Hùng- Thách thức về công nghệ thông tin đối với hệ
thống NHTMVN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế- Thị trườngtài
chính tiền tệ - T5/2006-Trang 32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ hội và thách thức của các ngân hàng thương mại việt nam trước ngưỡng cửa việt nam gia nhập WTO.pdf