Tài liệu Đề tài Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam - Thực trạng và giải pháp: Mục lục
Lời giới thiệu
Chương I: Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh và các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1
I. Tập đoàn kinh doanh: Khái niệm, đặc điểm và các mô hình 1
1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh doanh 1
1.1. Khái niệm mô hình Tập đoàn kinh doanh 1
1.2. Tính tất yếu của các Tập đoàn kinh doanh 1
1.3. Các phương thức hình thành các Tập đoàn kinh doanh 3
2. Đặc điểm của Tập đoàn kinh doanh 4
3. Vai trò, ý nghĩa của các Tập đoàn kinh doanh 4
4. Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh doanh 6
4.1. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức 6
4.2. Căn cứ vào các hình thức biểu hiện và tên gọi 7
II. Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh 8
1. Vốn và yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả 9
1.1. Khái niệm vốn 9
1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp. 10
1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 10
1.2.2. Tầm quan trọng của vốn hay yê...
79 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời giới thiệu
Chương I: Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh và các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1
I. Tập đoàn kinh doanh: Khái niệm, đặc điểm và các mô hình 1
1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh doanh 1
1.1. Khái niệm mô hình Tập đoàn kinh doanh 1
1.2. Tính tất yếu của các Tập đoàn kinh doanh 1
1.3. Các phương thức hình thành các Tập đoàn kinh doanh 3
2. Đặc điểm của Tập đoàn kinh doanh 4
3. Vai trò, ý nghĩa của các Tập đoàn kinh doanh 4
4. Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh doanh 6
4.1. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức 6
4.2. Căn cứ vào các hình thức biểu hiện và tên gọi 7
II. Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh 8
1. Vốn và yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả 9
1.1. Khái niệm vốn 9
1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp. 10
1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 10
1.2.2. Tầm quan trọng của vốn hay yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả 11
2. Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh 12
2.1. Sự cần thiết phải tiến hành điều hòa vốn trong các TĐKD. 12
2.2. Các hình thức điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh. 13
2.1.1. Các Tâp đoàn điều hòa vốn thông qua các tổ chức tài chính. 13
2.2.2. Các HOLDING COMPANY ( Công ty Mẹ ) 16
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hòa vốn trong các TĐKD. 17
2.3.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 17
2.3.2. Các nhân tố thuộc môi trường vi mô. 17
III. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam và cơ chế điều hòa vốn trong các Tổng công ty Nhà nước (TCT) 19
1. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam. 19
1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước. 19
1.2. Một số kết quả ban đầu 20
2. Cơ chế điều hòa vốn trong các TCT Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 21
2.1. Cơ chế điều hòa vốn 21
2.1.1. Các TCT Nhà nước chưa hình thành các tổ chức tài chính trung gian. 21
2.1.2. Các TCT Nhà nước đã hình thành các tổ chức tài chính trung gian. 25
2.2. Một số tồn tại cơ bản của cơ chế điều hòa vốn trong các TCT Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 26
Chương II: Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 28
I. Khái quát về Tổng công ty Giấy Việt Nam. 28
1. Lịch sử hình thành và phát triển 28
2. Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức 30
3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. 34
II. Thực trạng cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam. 37
1. Các hình thức điều hòa vốn hiện nay ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 38
1.1. Điều động tài sản và vốn giữa các doanh nghiệp thành viên 38
1.2. Trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung. 30
1.3. Điều động vốn bằng cơ chế vay trả với lãi suất nội bộ. 45
2. Đánh giá công tác điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 47
2.1. Một số kết quả đã đạt được trong công tác điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 47
2.2. Một số tồn tại cơ bản trong cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 49
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam 51
I. Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp giấy và quan điểm cơ bản của Tổng công ty Giấy Việt Nam trong công tác điều hòa vốn 51
1. Quy hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp Giấy Việt Nam 51
2. Các căn cứ và quan điểm cơ bản của Tổng công ty Giấy trong công tác điều hoà vốn 54
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở TCT Giấy Việt Nam 55
1. Tiến tới thành lập công ty tài chính, công ty bảo hiểm ngành Giấy. 55
2. Ban hành chính sách công khai, cụ thể về kế hoạch và phương thức điều hòa vốn 58
3. Đầu tư vào các doanh nghiệp thành viên kinh doanh có hiệu quả 60
4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn. 61
5. Xây dựng hệ thống thông tin tài chính nội bộ 62
6. Kết hợp sự quản lý, điều tiết về vốn của Tổng công ty với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý vốn giữa các doanh nghiệp thành viên. 63
7. Cổ phần hóa một số doanh nghiệp vừa và nhỏ 64
8. Xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp giấy Việt Nam. 64
9. Phát hành trái phiếu công trình để huy động vốn 66
III. Một số kiến nghị với Nhà nước để thực hiện giải pháp. 69
1. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhà nước 69
2. Kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn ngân sách. 70
3. Kiến nghị phục vụ chương trình đầu tư phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam. 70
Kết luận 72
Tài liệu tham khảo 73
Lời giới thiệu
Việt Nam đã và đang có sự chuyển mình từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, bao gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong những năm qua, dù có những tồn tại song các xí nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế, các xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp,... đã ngày càng bộc lộ những yếu kém trong việc gánh vác vai trò nắm giữ các lĩnh vực kinh tế huyết mạch mà Đảng và nhà nước giao phó. Chính vì vậy, theo Quyết định 91/TTg ra ngày 7-3-1994 của Thủ tướng Chính phủ, mô hình Tập đoàn kinh doanh đã ra đời và hoạt động ở Việt Nam. Mô hình này có tác dụng thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương với doanh nghiệp địa phương, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với mọi thành phần kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Từ khi được thành lập, các tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, vừa mới được thành lập, các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg đã không tránh khỏi những khó khăn nhất định khi tiếp cận mô hình hoạt động mới. Trước những thách thức đó, đặc biệt phải đối mặt với xu hướng tự do hóa thương mại toàn cầu, xu hướng hội nhập khu vực ( đặc biệt là tiến trình hội nhập ASEAN ), để tồn tại và phát triển các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg phải không ngừng tự đổi mới toàn diện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của chính bản thân mình.
Điều hòa vốn là một khía cạnh trong các hoạt động tài chính của các Tổng công ty, là nội dung không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động của Tổng công ty nói chung và việc phân phối vốn nói riêng có hiệu quả. Vốn là điều kiện tiên quyết cho sự hoạt động của mỗi doanh nghiệp, do đó nó phải được đầu tư vào những nơi có khả năng sinh lợi cao nhất. Tuy nhiên, thực hiên điều hòa vốn ra sao vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, cũng như sự quan tâm của bản thân đối với sự phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam, sau một thời gian thực tập tại Tổng công ty Giấy Việt Nam, em đã chọn đề tài: “Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Bố cục của chuyên đề như sau:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh và các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam.
Chương II: Cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam.
Do sự hạn chế về kiến thức và do thời gian có hạn, chuyên đề không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô, các cô chú ở Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy Việt Nam,... để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHưƠNG I
Cơ chế điều hòa vốn trong các tập đoàn kinh doanh và các tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
I. Tập đoàn kinh doanh: Khái niệm, đặc điểm và các mô hình
1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh doanh
1.1. Khái niệm Tập đoàn kinh doanh
Mô hình TĐKD (TĐKD) là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh gồm nhiều doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm tạo thế mạnh chung trong việc thực hiện những mục tiêu nhất định. Những doanh nghiệp tham gia tập đoàn đều có tư cách pháp nhân độc lập, liên kết với nhau ở mức độ chặt chẽ hoặc lỏng lẻo thông qua các mối quan hệ tài sản, phân công và hợp tác.
Đáp ứng nhu cầu liên kết bậc cao giữa các doanh nghiệp trong nền sản xuất lớn, từ những năm 1960 các TĐKD đã nối tiếp nhau ra đời và ngày càng phát triển.
Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng TĐKD được hiểu là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước trong đó có một “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính và chiến lược phát triển. TĐKD là một cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng cường khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
1.2. Tính tất yếu của các Tập đoàn kinh doanh
TĐKD đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới, khoảng cuối thế kỷ 19 gắn với quá trình công nghiệp hoá dồn dập ở Châu Âu và ở Mỹ. Công việc này đòi hỏi phải có một lượng vốn khổng lồ. Để khắc phục nguồn vốn hạn chế của các cá nhân, doanh nghiệp đơn lẻ, Chính phủ các nước đã khuyến khích thành lập các công ty cổ phần lớn và đó là tiền thân của các TĐKD sau này. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất và tích tụ, tập trung vốn đặc biệt phát triển mạnh vào những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai và đã tạo ra một làn sóng hợp nhất mạnh mẽ chưa từng có để hình thành các tập đoàn tư bản cực lớn.
Tích tụ và tập trung đẩy mạnh quá trình liên kết ngang và liên kết dọc dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, đa chức năng trong từng TĐKD. Việc hình thành và phát triển có hiệu quả của các TĐKD đã đưa chúng trở thành những trung tâm thu hút, thâu tóm hàng loạt các công ty khác xung quanh nó. Kết quả các TĐKD ngày càng trở nên hùng mạnh. Sở dĩ TĐKD được hình thành, có sức sống mãnh liệt và có sự phát triển không ngừng như vậy bởi vì nó phù hợp với các quy luật khách quan và những xu thế phát triển của thời đại:
Thứ nhất: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và liên kết kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự phát triển sâu, rộng của phân công lao động xã hội, đến quy mô của sản xuất và tiêu thụ, sản xuất kinh doanh không còn manh mún, rời rạc và sở hữu không còn là sở hữu cá thể nữa mà đã và đang đi sâu vào xã hội hoá, vào hợp tác, phân công và sở hữu hỗn hợp. TĐKD với tư cách là một loại hình tổ chức kinh tế, tổ chức kinh doanh, tổ chức liên kết kinh tế, có nghĩa nó là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất cần phải ra đời, phát triển để đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là: Quy luật tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất.
Trong cơ chế thị trường vô cùng năng động, mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, nó phải tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt, do đó phải tái sản xuất mở rộng không ngừng. Quá trình đó cũng là quá trình tích tụ, tập trung vốn vào sản xuất. Để thực hiện quá trình này doanh nghiệp phải tích luỹ từ lợi nhuận thu được, đồng thời phải tìm cách tăng vốn từ lợi nhuận đi vay, liên doanh liên kết,... theo đó, TĐKD ra đời và phát triển.
Ba là: Quy luật cạnh tranh, liên kết và tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp không bao giờ chấm dứt ấy sẽ dẫn đến 2 xu hướng chính:
- Các doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thôn tính và sát nhập các doanh nghiệp thất bại để nâng cao trình độ hóa sản xuất.
- Nếu cạnh tranh qua nhiều năm mà không phân thắng bại thì trong số các doanh nghiệp đó sẽ có sự liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Có 3 hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp:
+ Liên kết ngang: diễn ra giữa các công ty trong cùng một ngành.
+ Liên kết dọc: là sự liên kết giữa các công ty trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi công ty đảm nhận một bộ phận hoặc một số công đoạn nào đó.
+ Liên kết hỗn hợp: là sự kết hợp liên kết ngang và dọc, gồm rất nhiều các công ty hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau, ít nhất không có mối liên hệ kinh tế với nhau. Đó là sự liên kết đa ngành, đa lĩnh vực.
Bốn là: Tiến bộ khoa học công nghệ.
Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ chính là yếu tố quyết định giúp các doanh nghiệp thắng trong cạnh tranh và đạt tới lợi nhuận cao.
Để đổi mới công nghệ cần phải có nhiều vốn, nhiều thời gian trong khi độ rủi ro lại cao và cần phải có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đủ mạnh. Một doanh nghiệp nhỏ, biệt lập, manh mún không đủ sức làm việc đó. Điều đó đòi hỏi phải có một doanh nghiệp lớn, mà TĐKD là một loại hình tiêu biểu.
1.3. Các phương thức hình thành Tập đoàn kinh doanh
Trên thực tế các TĐKD được hình thành theo các cách thức sau:
- Các công ty lớn mạnh thôn tính các công ty nhỏ yếu. Nhờ hoạt động có hiệu quả, công ty lớn thôn tính các công ty con dưới các hình thức mua toàn bộ các công ty con hoặc mua cổ phần với khối lượng lớn đủ để nắm quyền kiểm soát trong Hội đồng quản trị ( HĐQT ) công ty và buộc các công ty bị thôn tính phải phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương thức chiến lược của tập đoàn và công ty mẹ.
- Các công ty tự nguyện đàm phán, tự nguyện sát nhập hợp nhất thành một công ty mới lớn hơn hoặc liên kết xung quanh một công ty lớn được tôn sùng là công ty đầu đàn. Trong sự hợp nhất này có sự tham gia góp vốn của các công ty thành viên vào công ty đầu đàn và ngược lại. Có thể nói rằng đây là quá trình sát nhập tự nguyện do tác động của nhiều nguyên nhân. Các công ty thành viên cảm thấy nguy cơ bị thôn tính do sức ép cạnh tranh của các công ty khác lón hơn nếu chúng cứ tồn tại một cách biệt lập. Vì vậy, họ phải tự ngồi lại với nhau để đàm phán ký kết hợp đồng hoặc thỏa ước liên kết dưới các hình thức khác nhau để chống lại những thách thức từ bên ngoài. Có thể là thỏa ước về phân chia thị trường sản phẩm, nguyên liệu, quy định giá cả hoặc cùng góp vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
2. Đặc điểm của Tập đoàn kinh doanh
Nghiên cứu một số TĐKD trên thế giới, dễ nhận thấy rằng các TĐKD có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- TĐKD có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. Nhiều TĐKD có phạm vi hoạt động rộng, có các chi nhánh hoạt động trên nhiều quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
- TĐKD là một tổ hợp các công ty, gồm “công ty mẹ” và các “công ty con, cháu” phần lớn mang họ của “công ty mẹ”. Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn vốn cổ phần trong các công ty con, cháu. Nó chi phối các công ty này về chiến lược phát triển. Do vậy, sở hữu vốn của các TĐKD là sở hữu hỗn hợp nhưng có một chủ (công ty mẹ) đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính.
- TĐKD hoạt động chuyên ngành hoặc đa ngành, đa lĩnh vực. Mỗi TĐKD đều có định hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực kinh doanh đặc trưng, mũi nhọn. Bên cạnh các đơn vị sản xuất, trong các TĐKD thường có các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng, bảo hiểm; thương mại dịch vụ, nghiên cứu khoa học, đào tạo,... Xu hướng chung là các tổ chức tài chính và quá trình nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn vì nó là đòn bẩy cho sự phát triển của các TĐKD.
- TĐKD tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như: huy động, điều hoà, quản lý vốn, nghiên cứu triển khai, đào tạo, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư. Như vậy, TĐKD làm cả hai chức năng cơ bản là kinh doanh như một doanh nghiệp và liên kết kinh tế.
3. Vai trò, ý nghĩa của các Tập đoàn kinh doanh
Trên thực tế, sự phát triển kinh tế của những quốc gia phát triển trên thế giới luôn gắn với sự phát triển của các TĐKD. Dưới góc độ quản trị tài chính, sự hình thành và phát triển của các TĐKD có ý nghĩa và tác dụng trên những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của Tập đoàn cũng như của từng công ty thành viên. TĐKD cho phép huy động được những nguồn lực to lớn trong xã hội cho quá trình sản xuất kinh doanh, cải tạo cơ cấu sản xuất, hình thành các công ty hiện đại, quy mô và có tiềm lực kinh tế. TĐKD hạn chế tối đa sự cạnh tranh nội bộ, mặt khác tạo sự thống nhất, giúp đỡ nhau chiến thắng trong cạnh tranh với các công ty khác, đặc biệt là với các Tập đoàn tư bản nước ngoài.
Đối với các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa như nước ta, TĐKD có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó là giải pháp chiến lược bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự thâm nhập của các “gã khổng lồ” của nền kinh tế thế giới. Thực tế chỉ ra rằng, ngay ở các nước đang phát triển, với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các TĐKD vẫn có thể không ngừng mở rộng và vươn ra thị trường thế giới...
Hai là: Tích tụ, tập trung và điều hoà vốn.
TĐKD là giải pháp cho sự hạn chế về vốn của từng công ty cá biệt. Trong các TĐKD, nguồn vốn huy động được tập trung đầu tư vào những công ty, những lĩnh vực có hiệu quả nhất, khắc phục tình trạng vốn bị phân tán. Nhờ vậy:
+ Vốn của các công ty thành viên luôn được sử dụng vào những nơi có hiệu quả nhất.
+ Tập trung đầu tư vốn vào những dự án tạo ra sức mạnh quyết định cho sự phát triển của tập đoàn.
+ Vốn của công ty này được huy động vào công ty khác và ngược lại, giúp cho các công ty liên kết với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn và giúp nhau phát huy hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả Tập đoàn.
Ba là: Thành lập các TĐKD là một giải pháp hữu hiệu, tích cực cho việc đẩy mạnh việc nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên, bởi vì:
+ Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi một lượng vốn rất lớn mà mỗi công ty riêng biệt sẽ rất khó huy động được. Tập trung và điều hoà vốn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cần thiết cho triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học mới vào sản xuất.
+ Các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lớn đòi hỏi phải có sự hợp lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu mà chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty lại mới tạo ra được tiềm năng nghiên cứu khoa học to lớn đó.
+ Thông qua sự hợp tác trao đổi thông tin và những kinh nghiệm trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ cho phép các công ty thành viên có khả năng đưa nhanh những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn, nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu hồi vốn nhanh.
Bốn là: TĐKD với các hình thức là công ty đa quốc gia có ý nghĩa rất lớn, được coi là giải pháp quan trọng giúp các nước công nghiệp hóa sau thực hiện chiến lược chuyển giao công nghệ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất. Các tập đoàn với chiến lược chung về phát triển và chuyển giao công nghệ đã giúp cho các nước giải quyết một số vấn đề sau đây:
+ Tránh nhập cùng một loại công nghệ trùng lắp trong nhiều công ty thành viên, nhờ đó cơ cấu công nghệ trong tập đoàn đa dạng, hợp lý và có hiệu quả hơn.
+ Việc phổ biến rộng rãi những thông tin và kinh nghiệm trong chuyển giao công nghệ từ các công ty thành viên trong tập đoàn sẽ giúp tránh được những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra do thiếu những hiểu biết cơ bản trong chuyển giao công nghệ nước ngoài.
+ Thông qua sự chỉ đạo thống nhất, các công ty thành viên sẽ lựa chọn được những công nghệ thích hợp trong chuyển giao công nghệ với chi phí thấp nhất, giảm lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào việc thực hiện những mục tiêu chiến lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cho cả tập đoàn.
4. Các hình thức chủ yếu của Tập đoàn kinh doanh
Hiện nay trên thế giới, người ta phân chia TĐKD thành các loại hình tổ chức khác nhau theo nhiều cách:
4.1. Căn cứ vào phương thức hình thành và các nguyên tắc tổ chức, các TĐKD trên thế giới được phân thành 3 loại hình sau:
- Những TĐKD được thành lập theo nguyên tắc “kết hợp chặt chẽ trong một tổ chức kinh tế ”, các công ty thành viên thuộc một tổ chức thống nhất và mất tính độc lập về tài chính, sản xuất và thương mại. Những TĐKD này được cấu tạo dưới dạng đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau.
- Những TĐKD được thành lập theo nguyên tắc “liên kết kinh tế” thông qua những hiệp ước và hợp đồng kinh tế. Các công ty thành viên ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau về những nguyên tắc chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh như xác định quy mô sản xuất, hợp tác nghiên cứu trao đổi bằng phát minh sáng chế kỹ thuật. Về tổ chức thường có ban quản trị chung điều hành các hoạt động phân phối của tập đoàn theo đường lối chung thống nhất, nhưng những công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức sản xuất và thương mại của mình.
- Những TĐKD được thành lập trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính và kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định, hình thành một công ty tài chính chung gọi là Holding Company.
Công ty này trở thành công ty mẹ của tập đoàn. Đây là hình thức phát triển cao của TĐKD. Trong TĐKD không chỉ còn thống nhất hạn chế những hoạt động mà lúc này đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực từ tài chính đến các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ.
4.2. Căn cứ vào hình thức biểu hiện và tên gọi, trong thực tiễn các TĐKD có các hình thức sau:
- Cartel: Là loại hình TĐKD giữa các công ty trong một ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cùng ký hợp đồng với nhau hoặc thoả thuận kinh tế nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh.
Trong các Cartel các công ty vẫn giữ nguyên độc lập về mặt pháp lý, còn tính độc lập về mặt kinh tế được điều hành bằng hợp đồng kinh tế. Đối tượng của những thoả thuận kinh tế có thể là: thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu thụ sản phẩm,...Tuy nhiên do các Cartel thường dẫn đến độc quyền nên Chính phủ nhiều nước ngăn cấm và hạn chế hình thức tập đoàn này bằng cách thông qua những đạo luật chống độc quyền hay luật Cartel.
- Syndicate: Thực chất đây là một dạng đặc biệt của Cartel. Trong Syndicate có một văn phòng thương mại chung được hình thành do một ban quản trị chung điều hành và tất cả các công ty thành viên phải tiêu thụ hàng hóa qua kênh của văn phòng tiêu thụ này.
- Trust: là một liên minh độc quyền của các tổ chức sản xuất kinh doanh do một ban quản trị thống nhất điều hành. Khi gia nhập Trust, các doanh nghiệp bị mất độc quyền về thương mại, các nhà tư bản trở thành cổ đông. Việc thành lập Trust nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao, chiếm nguồn nguyên liệu và khu vực đầu tư.
- Consortium: là một trong những hình thức tổ chức độc quyền ngân hàng nhằm mục đích chia nhau mua trái khoán trong và ngoài nước hoặc tiến hành công việc buôn bán nào đó.
- Concern: là hình thức tập đoàn phổ biến nhất hiện nay. Concern không có tư cách pháp nhân. Các công ty thành viên trong các Concern vẫn giữ nguyên độc lập về pháp lý. Mối quan hệ giữa các thành viên trong Concern dựa trên cơ sở những thỏa thuận về lợi ích chung như: phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học công nghệ, hợp tác sản xuất kinh doanh và có hệ thống tài chính chung.
- Conglomerate: là một tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất với nhau mà chủ yếu quan hệ về tài chính và hành chính. Conglomerate được hình thành bằng cách thu hút vốn cổ phần của những công ty có lợi nhuận cao nhất thông qua thị trường chứng khoán. Đặc điểm cơ bản của hình thức TĐKD này là hoạt động của nó chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính. Do đó, các Conglomerate có mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng. Vai trò của ngân hàng và các tổ chức tín dụng với các Conglomerate là cực kỳ to lớn.
- Các TĐKD xuyên quốc gia: là những công ty có quy mô tầm cỡ quốc tế với hệ thống chi nhánh dày đặc ở nước ngoài. Nó gồm hai bộ phận là công ty mẹ thuộc nước chủ nhà và hệ thống chi nhánh ở nước ngoài. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty chi nhánh là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chủ yếu về tài chính, công nghệ và kỹ thuật. Các công ty chi nhánh có thể mang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ty hỗn hợp với hình thức góp vốn cổ phần.
II. Cơ chế điều hòa vốn trong các tập đoàn kinh doanh
1. Vốn và yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả
1.1. Khái niệm vốn
Vốn có vai trò vô cùng quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, do vậy nó được đặc biệt quan tâm. Khái niệm về vốn cho đến nay vẫn là một đề tài gây nhiều tranh luận. Tùy theo cách tiếp cận cũng như những mục đích khác nhau mà các khái niệm về vốn được đưa ra, song nhìn chung có một số khái niệm đáng chú ý sau:
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ là các yếu tố của sản xuất, ông cho rằng:
“ Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất ”. Định nghĩa này có tính khái quát cao, song do hạn chế của trình độ phát triển của nền kinh tế đương đại, ông cho rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư.
Paul. A. Samuelson - nhà kinh tế học hiện đại cho rằng “ vốn ” là một loại hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp, bao gồm máy móc, vật tư, trang thiết bị, nguyên liệu,...Quan niệm của ông là một bước tiến lớn so với các bậc tiền bối của ông, song ông không đề cập đến các tài sản tài chính, giấy tờ có giá đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Như vậy, ông đã đồng nhất vốn với tài sản cố định của doanh nghiệp.
Trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg, tác giả đưa ra hai định nghĩa “vốn hiện vật” và “vốn tài chính” của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá khác. Vậy là ông đã bổ sung thêm một khoản mục vào định nghĩa của P.Samuelson.
Nhìn chung, trong hai khái niệm về vốn trên, các tác giả đều thống nhất ở một điểm chung cơ bản là: vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các tác giả đã đồng nhất vốn với các tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, vốn là biểu hiện bằng tiền, là toàn bộ giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ; vốn và tài sản, là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và trong các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Khái niệm này chỉ ra vốn là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Nó cũng đề cập đến vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình riêng biệt, chia cắt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, kéo dài từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên tới chu kỳ cuối cùng. Vai trò của vốn được thể hiện khá rõ ràng qua khía cạnh đó. Ngoài ra, khái niệm còn cho thấy sự khác biệt cơ bản trong quan niệm cơ bản về vốn và tài sản khi khẳng định vốn là “các giá trị ”.
Chúng ta cũng cần phải phân biệt sự khác nhau giữa vốn và tiền, hai phạm trù hay bị lẫn lộn. Vốn chính là tiền nhưng tiền được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư nhằm tăng thêm giá trị cho chủ sở hữu.
Tóm lại, có thể nhận định “Vốn là giá trị được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.”
1.2. Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
1.2.1. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Xã hội loài người đã từng trải qua nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Trong nền kinh tế này, sản phẩm làm ra nhằm để thoả mãn nhu cầu của từng cá nhân, từng gia đình cụ thể. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động được mở rộng, nền kinh tế hàng hoá ra đời. Kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi các thị trường hay ta thường gọi là kinh tế thị trường. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh đây là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hóa cho hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế thị trường có ưu điểm là hết sức năng động, mềm dẻo, tự cân đối, tự điều chỉnh, tạo môi trường công bằng, kích thích sự phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật cố hữu của nó như làm xuất hiện tình trạng độc quyền, xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo, khủng hoảng kinh tế,... cần có sự can thiệp ở quy mô rộng do một thế lực đủ mạnh, đó là Nhà nước. Nhà nước đặt ra một môi trường pháp lý, cho phép các doanh nghiệp tự do kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp.
Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề kinh tế cơ bản: “sản xuất cái gì? ”, “sản xuất như thế nào? ”, “sản xuất cho ai? ” được giải quyết hoàn toàn khác so với các hình thái kinh tế xã hội khác. Việc sản xuất cái gì là do nhu cầu thị trường quyết định, nhà sản xuất và người tiêu dùng gặp nhau trên thị trường để định giá cả và sản lượng. Để sản xuất cái gì, nhà doanh nghiệp phải tìm hiểu, nắm bắt thông tin về nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị thuộc chủ sở hữu. Điều này sẽ dẫn họ đến khu vực sản xuất hàng hóa mà người tiêu dùng có nhu cầu cao hơn và nó cũng mách bảo các nhà sản xuất kinh doanh rời bỏ những khu vực mà người tiêu dùng ít có nhu cầu.
Sản xuất theo phương thức nào được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa những người sản xuất. Cách duy nhất để doanh nghiệp có thể cạnh tranh được về giá và đạt được lợi nhuận tối đa là giảm chi phí tới mức tối thiểu bằng việc áp dụng những phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất, tiết kiệm chi phí trong mọi công đoạn.
Sau khi hàng hoá được sản xuất ra, doanh nghiệp phải tổ chức tốt khâu tiêu thụ nhằm nhanh chóng thu hồi vốn bỏ ra đồng thời thực hiện mục tiêu lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ các yếu tố cung cầu, giá cả, sự cạnh tranh, các dịch vụ bán hàng,...
Để giải quyết được ba vấn đề trên, doanh nghiệp luôn cần một lượng vốn nhất định, tuỳ thuộc vào quy mô cũng như ngành nghề kinh doanh của mình.
1.2.2. Tầm quan trọng của vốn hay yêu cầu sử dụng vốn có hiệu quả
Sản xuất giống như một cỗ máy mà vốn là bộ phận quan trọng hàng đầu. Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi hình thành doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp bao giờ cũng phải đầu tư một số vốn tối thiểu gọi là vốn pháp định. Mức vốn này quy định cho từng ngành nghề kinh doanh và mục tiêu của nó là đòi hỏi doanh nghiệp phải chuẩn bị những điều kiện vật chất tối thiểu sao cho hoạt động kinh doanh sau đó có thể diễn ra trôi chảy bình thường, vừa bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền lợi của các đối tác có quan hệ. Với số vốn đó, doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư ban đầu, mua sắm các tài sản phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp và sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Chu kỳ sản xuất đầu tiên đã bắt đầu, các chu kỳ khác nối tiếp nó, ngày càng mở rộng và phát triển. Trong quy trình phức tạp đó, doanh nghiệp phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên tục nảy sinh mà vốn luôn luôn là vấn đề bức xúc hàng đầu: có vốn mới có thể đổi mới máy móc, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng phương pháp quản lý mới, đào tạo thu hút nhân tài,... qua đó nâng cao chất lượng sản xuất một cách toàn diện.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa “dòng” và “dự trữ ” sẽ giúp chúng ta làm rõ hơn vai trò của vốn. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền tệ, tương ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền tệ đi ra và ngược lại. Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường đầu vào hoặc với thị trường đầu ra. ở đây, các dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu những hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền tệ trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi tài sản tích luỹ của doanh nghiệp. Một khối lượng hàng hóa tiền tệ đo được tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Tổng hợp các khoản dự trữ do doanh nghiệp nắm giữ tại một thời điểm nhất định cấu thành nên vốn của doanh nghiệp và được phản ánh trong bảng cân đối tài sản. “Dự trữ” và “dòng” có quan hệ chặt chẽ và là cơ sở cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Quy trình này thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ quá trình chuyển hoá vật chất
Dòng vật chất đi vào Dòng tiền tệ đi ra
Tài sản
Quá trình chuyển hoávật chất
Dòng vật chất đi ra Dòng tiền tệ đi vào
Mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp có thể khác nhau nhưng xét cho cùng cũng là vì lợi nhuận. Thế nhưng một quy luật phổ biến trong kinh tế học là ở đâu có lợi nhuận thì ở đó có rủi ro. Rủi ro xảy ra đe dọa hoạt động của doanh nghiệp, làm hao hụt và thất thoát vốn, làm cho doanh nghiệp có thể bị phá sản. Để tránh hậu quả này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả nhất, trong đó có công tác điều hoà vốn đối với các TĐKD.
2. Cơ chế điều hoà vốn trong các TĐKD
2.1. Sự cần thiết phải tiến hành điều hoà vốn trong các TĐKD
“Điều hoà vốn” có thể được hiểu là toàn bộ những hoạt động nhằm phân bổ vốn giữa các bộ phận trong một tổng thể để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, có hiệu quả.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tại mỗi thời điểm đều đồng thời có các doanh nghiệp thừa vốn và có các doanh nghiệp thiếu vốn trong một thời gian nhất định. Với chức năng nắm giữ, hỗ trợ nhau về tài chính, các TĐKD đứng ra dàn xếp để doanh nghiệp cần có thể vay vốn và doanh nghiệp có vốn nhàn rỗi có thể cho các doanh nghiệp thiếu vốn vay để hưởng lãi.
Sở dĩ nói điều hòa vốn trong nội bộ có vai trò quan trọng trong hoạt động của TĐKD là vì nó có những lợi thế sau:
- Lợi thế về thời hạn khoản vay và cho vay: thông thường tình trạng dư thừa và thiếu hụt có thể giải quyết trong nội bộ là những khoản dư thừa và thiếu hụt tạm thời khi doanh nghiệp thu hoặc trả tiền hàng. Hai đối tượng gặp nhau lại trùng nhau về nhu cầu, về thời gian đáo hạn của khoản vay thì hoàn toàn có khả năng cho nhau vay vốn. Trong trường hợp những doanh nghiệp này cho vay ra bên ngoài thì sẽ gặp phải những ràng buộc lớn về thời gian cho vay và hoàn trả.
- Lợi thế về tính thuận tiện: khi các doanh nghiệp cho nhau vay trong nội bộ chỉ thông qua các trung gian tài chính ngành hoặc các công ty mẹ của tập đoàn hoặc Tổng công ty, việc giao dịch sẽ diễn ra nhanh hơn qua hệ thống tài khoản chung. Khi có những biến động các doanh nghiệp cũng có thể rút tiền một cách nhanh chóng.
- Chi phí trung gian giảm, tức là bên cho vay nhận được lãi suất cao hơn, còn bên đi vay sẽ phải trả chi phí thấp hơn cho việc sử dụng vốn.
- Các đơn vị đi vay và cho vay không phải mất thời gian cũng như chi phí để tìm hiểu bạn hàng.
2.2. Các hình thức điều hoà vốn trong các Tập đoàn kinh doanh
Các TĐKD trên thế giới, với khối lượng công việc tài chính khổng lồ, có nhiều biện pháp khác nhau để phân phối, sử dụng tốt nhất nguồn vốn hữu hạn của mình. Có thể chia các TĐKD này thành hai nhóm:
2.1.1. Các tập đoàn điều hoà vốn thông qua các tổ chức tài chính ngành
Các tổ chức tài chính như công ty tài chính hoặc ngân hàng của tập đoàn có hoạt động vô cùng năng động. Và với hoạt động của mình, nó đạt được cùng một lúc nhiều mục tiêu.
Về khía cạnh tài chính, các tổ chức trung gian tài chính ngành có các hoạt động sau:
- Thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu và trái phiếu.
- Cho vay chủ yếu là trung và dài hạn.
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua.
- Cầm cố các loại vật tư, hàng hoá, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và vật bảo đảm khác.
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng, đá quý, mua bán chuyển nhượng chứng khoán,...
Như vậy, các trung gian tài chính này giải bài toán điều hoà vốn toàn diện và có hiệu quả hơn. Với các hoạt động đa dạng của mình, các trung gian tài chính trong các TĐKD có các lợi thế sau:
- Thứ nhất: cho phép khai thác nhiều nguồn vốn phục vụ cho phát triển sản xuất kinh doanh của TĐKD.
Trên thế giới, ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm nguồn vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán, song cũng không phải không cần đến các trung gian tài chính. ở nước ta hiện nay, do vai trò hoạt động của thị trường chứng khoán còn hạn chế nên nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu là vay của các trung gian tài chính. Thế nhưng, trên thực tế nguồn này không đủ đáp ứng nhu cầu vốn để phát triển của các tập đoàn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Trong hoàn cảnh đó, các trung gian tài chính ngành là nguời đại diện cho các tập đoàn, cho các công ty thành viên huy động trong nội bộ tập đoàn hoặc trong dân chúng thông qua việc phát hành tín phiếu, trái phiếu có mục đích để đầu tư vào các dự án đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất, xây dựng và cải tạo cơ sở vật chất của các công ty thành viên. Với vị thế của mình, nó còn có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng để cung cấp cho các công ty thành viên, cho các dự án của tập đoàn. Tuy nhiên, trong các mối quan hệ tín dụng, không phải công ty nào ở thời điểm nào cũng có thể khai thác tốt mối quan hệ vay mượn với các tổ chức tín dụng. Trong những thời điểm đó thì việc điều hòa vốn qua trung gian tài chính của tập đoàn sẽ góp phần tháo gỡ được khó khăn cho các đơn vị thành viên.
Thêm vào đó, các trung gian tài chính trong tập đoàn còn là một kênh dẫn các nguồn vốn đầu tư quốc tế cho các dự án đầu tư của tập đoàn và của các công ty thành viên. Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm cùng với uy tín của mình, các trung gian tài chính ngành sẽ tư vấn đầu tư cho các đối tác làm ăn với tập đoàn và với các công ty thành viên. Khi sự liên kết hợp tác giữa các đối tác nước ngoài với tập đoàn và với các công ty thành viên được hình thành thì nó trở thành người quản lý hữu hiệu vốn đầu tư cho các đối tác nước ngoài.
- Thứ hai: Việc thành lập các trung gian tài chính sẽ giúp các tập đoàn quản lý một cách tối ưu hiệu quả các nguồn vốn thông qua việc đảm bảo đầu tư vốn đúng định hướng phát triển, đúng công trình và dự án, vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa đáp ứng được nhiệm vụ chính trị xã hội trong quá trình phát triển của tập đoàn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của cả tập đoàn.
- Thứ ba: Việc thành lập các trung gian tài chính sẽ cho phép tập đoàn khai thác triệt để sức mạnh của nó trên thị trường tài chính tiền tệ thông qua việc quản lý tập trung thống nhất các nguồn vốn, điều hòa vốn linh hoạt, có hiệu quả. Nhìn chung các công ty đều trong tình trạng thiếu vốn nhưng tại một thời điểm nào đó có một số công ty tạm thời thừa vốn, trong khi đó một số công ty khác trong TĐKD lại trong tình trạng thiếu vốn và các nguồn vốn khác không được khơi thông. Để giải quyết mâu thuấn này, các trung gian tài chính sẽ giúp tập đoàn hình thành nên các quỹ tài chính tập trung có tính chất dự trữ nhưng rất “lỏng”.
Quỹ này cho phép đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các công ty bị rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm thời và giúp các công ty có vốn tạm thừa không bị “chết vốn”. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các công ty tài chính là mối quan hệ “vay–trả” có dựa trên quan điểm tương hỗ nhau, và chính nguyên tắc này tạo nên chức năng quản lý, giám sát việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả của các công ty thành viên.
- Thứ tư: Việc thành lập các trung gian tài chính sẽ giúp tập đoàn phát huy được tối đa thế mạnh về các nguồn lực vật chất cũng như nguồn lực con người, tận dụng được thành tựu khoa học công nghệ thông qua việc thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tham gia thị trường tài chính tín dụng, thị trường vốn trong và ngoài nước.
ở các nước có nền kinh tế phát triển hiện nay trên thế giới, công ty tài chính có thể tham gia thị trường tiền tệ để bảo đảm cho tập đoàn mình luôn cân đối được các ngoại tệ cần thiết cho việc sản xuất và buôn bán; tham gia thị trường tiền tệ để vừa gọi vốn vừa đầu tư; can thiệp có hiệu quả vào vấn đề tài chính của tập đoàn mình, thậm chí thu lợi từ việc can thiệp tài chính vào các tập đoàn khác. Ngoài ra, các công ty tài chính còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự sôi động trên thị trường chứng khoán.
2.2.2. Các HOLDING COMPANY ( Công ty mẹ )
Holding Company của tập đoàn được hình thành trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính và kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định về tài chính hình thành một công ty tài chính chung, gọi là Holding Company. Đây là hình thức phát triển cao của TĐKD. Trong TĐKD không chỉ còn thống nhất hạn chế các hoạt động mà lúc này đã mở ra nhiều lĩnh vực từ tài chính đến các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ,...khác nhau. Công ty mẹ chỉ quan tâm đến lĩnh vực tài chính của tập đoàn mà không quan tâm đến lĩnh vực sản xuất cũng như quản lý hành chính, kế hoạch. Thực chất, nó là một công ty nắm giữ cổ phần của các công ty thành viên. Công việc chính của công ty mẹ là xem xét, theo dõi tình hình tài chính của các công ty thành viên trong tập đoàn để có những biện pháp điều chỉnh thích hợp. Holding Comany có những lợi thế sau:
- Tạo ra một thế lực tài chính lớn, phát triển kinh doanh và gây ảnh hưởng tới chính trị, xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Tập đoàn.
- Đầu tư vào nhiều lĩnh vực nhằm phân tán rủi ro.
- Đầu tư cho các công ty hiệu quả nhất.
- Tập trung vốn, đầu tư vốn vào những dự án tạo ra sức mạnh quyết định cho sự phát triển của tập đoàn.
- Vốn của công ty này được huy động vào công ty khác và ngượclại đã giúp cho các công ty liên kết với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả nhiều hơn, giúp nhau phát huy hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả tập đoàn.
ở nước ta, mặc dù còn nhiều hạn chế trong hoạt động của các công ty tài chính nhưng đứng về phía góc độ quản lý có thể nhận thấy rằng các công ty tài chính đang được kỳ vọng sẽ đóng vai trò to lớn trong việc làm cho các mối quan hệ còn lỏng lẻo trong các Tổng công ty nhà nước trở nên chặt chẽ hơn.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế điều hòa vốn trong các Tập đoàn kinh doanh
2.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
Một là: Chính sách của Nhà nước. Nhân tố ảnh hưởng trước tiên đến phương pháp và hiệu quả điều hòa vốn của các TĐKD là chính sách của Nhà nước. Các chính sách được cụ thể hoá bởi các văn bản, pháp luật, nghị định, thông tư của Chính phủ, các Bộ ngành liên quan. Pháp luật quy định thẩm quyền điều hoà vốn trong TĐKD cho bộ máy quản lý, cụ thể là HĐQT. Trên cơ sở pháp luật và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các công ty phát triển sản xuất kinh doanh. Chính sách của Nhà nước trong mỗi thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hòa vốn của mỗi TĐKD: nếu là những ngành nghề, lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thì công tác điều hòa vốn được thuận lợi. Mặt khác, nếu chính sách của Nhà nước thuận lợi thì công tác này cũng được thực hiện dễ dàng, thuận lợi và có hiệu quả.
Hai là: Thực trạng nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hòa vốn của TĐKD. Khi nền kinh tế ở vào tình trạng suy thoái, hoạt động của công ty gặp phải khó khăn. Lúc này hoạt động điều hòa vốn của TĐKD cũng gặp khó khăn và kém hiệu quả. Hơn nữa, trong giai đoạn này các công ty thành viên thường thu hẹp sản xuất, theo đó chính sách điều hòa vốn của tập đoàn cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình. Ngược lại, trong thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu mở rộng đầu tư của doanh nghiệp tăng lên, tích luỹ lớn, việc điều hòa vốn cũng được tiến hành dễ dàng hơn.
Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động điều hòa vốn của các doanh nghiệp. Trong các nước có nền kinh tế phát triển cao, với hành lang pháp lý chặt chẽ, đầy đủ, việc điều hòa vốn của các TĐKD thông qua các công ty tài chính, qua ngân hàng của tập đoàn hay qua các công ty mẹ sẽ cho kết quả tốt hơn, toàn diện hơn so với các nước như chúng ta. Bởi lẽ ở những nước này, các công cụ qua đó các công ty, tập đoàn tiến hành điều hòa vốn đều phát triển cao với nhiều hình thức, giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn phù hợp với mình nhất.
2.3.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô
Một là: Tình hình tài chính của tập đoàn.
Đây là một trong những yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của việc điều hoà vốn. Một doanh nghiệp có tình trạng tài chính kém thì không thể nào có vốn nhàn rỗi để cho doanh nghiệp khác vay. Mặt khác, việc này còn kéo theo khả năng thất bại trong khi thu hút vốn đầu tư bên ngoài vì khả năng hoàn trả vốn vay kém. Một nhà đầu tư khi quyết định trước hết phải cân nhắc xem tình hình sản xuất hiện nay của doanh nghiệp ra sao, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của doanh nghiệp so với chỉ tiêu trung bình của ngành, nghề kinh doanh như thế nào,...Chỉ khi chắc chắn rằng doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất kinh doanh tích cực hoặc đang trong thời gian phục hồi, có triển vọng phát triển thì họ mới quyết định đầu tư.
Hai là: Hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn có tác động rất lớn đến hoạt động điều hoà vốn của tập đoàn, với vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm việc huy động vốn của tập đoàn. Một tập đoàn khi có hiệu quả sử dụng vốn cao sẽ làm tăng lợi nhuận giữ lại, từ đó tăng khả năng tự tài trợ cho doanh nghiệp. Khi đó việc tìm kiếm đầu tư ngay trong nội bộ tập đoàn cũng có thể thực hiện dễ dàng.
Ba là: Lãi suất nội bộ.
Đây là nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc điều hoà vốn của tập đoàn. Khi tiến hành bất kỳ một hoạt động huy động vốn nào chúng ta đều phải bỏ ra một chi phí gọi là chi phí cơ hội. Đối với hoạt động điều hoà vốn, chi phí vốn mà doanh nghiệp vay vốn trả cho doanh nghiệp cho vay gọi là lãi suất vay trả nội bộ.
Hiển nhiên không phải tự nhiên mà doanh nghiệp có được vốn để sản xuất kinh doanh mà phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau và phải trả bằng những chi phí khác nhau. Một chi phí hợp lý trong nội bộ sẽ giúp các nhà quản trị tài chính có thể giải bài toán điều hoà vốn một cách dễ dàng. Lãi suất này phụ thuộc vào nhiều yếu tố song nó phải gắn với lãi suất thị trường. Có như vậy đơn vị thừa vốn mới từ bỏ ý định sử dụng vốn của nó vào một mục đích khác để nhượng lại cho đơn vị thiếu vốn vay. ở Việt Nam, vấn đề còn khó khăn hơn khi vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là vốn vay hoặc vốn ngân sách cấp. Việc họ vẫn phải trả lãi ngân hàng và thu sử dụng vốn trong khi họ cho vay mà không nhận được lãi hoặc lãi suất rất thấp là vô lý. Các doanh nghiệp không chấp nhận điều kiện này hoặc chấp nhận một cách gượng ép, tìm cách dấu giếm các khoản vốn nhàn rỗi. Điều này làm cho công tác điều hòa vốn của Tổng công ty trở nên khó khăn hơn nhiều.
Bốn là: Định hướng phát triển của tập đoàn.
Cách thức cũng như mức độ điều hoà vốn trong TĐKD phụ thuộc rất nhiều vào định hướng phát triển của tập đoàn. Nếu dự kiến trong tương lai tập đoàn sẽ mở rộng đầu tư cho sản xuất kinh doanh thì việc điều hoà vốn sẽ phải khẩn trương hơn để tìm kiếm nguồn vốn cho đầu tư phát triển và ngược lại. Mặt khác, ngành mà tập đoàn ưu tiên phát triển cũng sẽ được chú trọng, ưu tiên về vốn hơn nhiều so với các lĩnh vực khác.
III. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt nam và cơ chế điều hoà vốn trong các Tổng công ty nhà nước
1. Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước
Để phát huy hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc quan trọng mang tính sống còn là tìm kiếm những loại hình tổ chức kinh doanh mới, thích hợp và có hiệu quả nhằm phát huy được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã xác định: “ Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường..., xây dựng một số Tổng công ty hoặc liên hiệp xí nghiệp lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài ”. Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7 khoá VII tiếp tục khẳng định: “ Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từng bước xoá bỏ chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với nhà nước.”
Nhằm quán triệt và từng bước triển khai chủ trương của Đảng về thành lập Tổng công ty theo hướng TĐKD, ngày 07 tháng 03 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 91/TTg về “ thí điểm thành lập các TĐKD ”, trong đó nêu ra mục tiêu là “ tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương và địa phương, tăng cường vai trò quản lý của nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả nền kinh tế ”. Các đơn vị được lựa chọn là “ một số Tổng công ty, công ty có mối quan hệ theo ngành hoặc vùng lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp do TW hay địa phương quản lý, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, bảo đảm yêu cầu cần thiết cho thị trường trong nước và có triển vọng mở rộng quan hệ kinh tế ra nước ngoài ”.
Theo Quyết định 90/TTg các Tổng công ty muốn thành lập phải có đủ 6 điều kiện, quan trọng nhất là: Tổng công ty là DNNN có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin đào tạo; toàn Tổng công ty phải có số vốn pháp định ít nhất là 500 tỷ đồng. Đối với một số Tổng công ty trong những ngành đặc biệt thì vốn pháp định có thể là thấp hơn, nhưng cũng không được dưới 100 tỷ.
Theo Quyết định 91/TTg các Tổng công ty muốn thành lập thì phải có ít nhất 7 doanh nghiệp thành viên kinh doanh đa ngành, đồng thời phải có xu hướng là ngành chủ đạo. Đối với các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg thì Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập, bổ nhiệm HĐQT ( 7 đến 9 thành viên ), ký quyết định việc ban hành điều lệ mẫu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty. Toàn Tổng công ty phải có số vốn pháp định ít nhất là 1000 tỷ đồng.
Đến nay, tính đến tháng 4/2000, đã có 17 Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg và 76 Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ như Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Hàng không, Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Giấy, Tổng công ty Cà phê,...
1.2. Một số kết quả ban đầu
Theo số liệu đã được thông báo đầu năm 2000, các Tổng công ty nhà nước chỉ chiếm 24% về số lượng nhưng chiếm tới 68% về vốn, 60% về lao động và góp phần vào ngân sách nhà nước tới 69% so với toàn bộ các DNNN hiện có. Riêng 17 Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ hiện có 600 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, nắm 56% tổng số vốn thuộc sở hữu nhà nước trong các DNNN, 35% tổng số lao động đang làm tại DNNN, 65% về lãi trước thuế, 56% về thu nộp ngân sách trong khi chỉ chiếm 9,2% về số lượng.
Cùng với thời gian, các cơ chế chính sách được hoàn thiện dần, mô hình hoạt động rõ nét hơn. Một số Tổng công ty tập trung đổi mới trang thiết bị, công nghệ, đào tạo nhân lực, đa dạng hoá ngành nghề, vững vàng trong cạnh tranh và thắng thầu trong các công trình trong và ngoài nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các Tổng công ty nhà nước cũng còn nhiều hạn chế, đó là những vướng mắc trong việc phân chia quyền hạn, nghĩa vụ giữa HĐQT và Tổng giám đốc (TGĐ); bộ máy quản lý nặng nề, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành cao, giảm sức cạnh tranh. Các chỉ tiêu hiệu quả giảm dần: năm 1996, các Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 91/TTg đạt tỷ suất lợi nhuận bình quân trên vốn là 15% thì năm 1997 rút xuống còn 13,2%.
So với các DNNN khác, các Tổng công ty nhà nước chiếm tỷ trọng lớn về vốn ( 72%) nhưng hiệu quả sử dụng không cao, chỉ tạo ra 49,8% doanh thu. Đa số các Tổng công ty đều tăng chỉ số tuyệt đối nhưng mức tăng đều giảm qua các năm. Thậm chí nhiều Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 91/TTg làm ăn thua lỗ buộc phải chuyển thành các Tổng công ty nhà nước như các Tổng công ty được thành lập theo Quyết định 90/TTg hoặc phải được nhà nước hỗ trợ bằng cách hoãn nợ, khoanh nợ.
2. Cơ chế điều hoà vốn trong các Tổng công ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay
2.1 Cơ chế điều hòa vốn
2.1.1 Các Tổng công ty Nhà nước chưa thành lập các tổ chức tài chính trung gian
Nhà nước thành lập các TĐKD với mục đích nhằm tăng cường sức tập trung, tích tụ các nguồn lực hiện có để phát triển nền kinh tế. Trong quá trình phát triển đó sẽ hướng các Tổng công ty phát triển lên thành các TĐKD lớn mạnh, làm đầu tầu cho nền kinh tế. Các Tổng công ty càng lớn mạnh thì yêu cầu về một quy chế tài chính phù hợp càng trở nên bức thiết. Hiện nay, các Tổng công ty đang có yêu cầu thành lập các tổ chức tài chính ngành mà đặc biệt là công ty tài chính để phục vụ cho hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh cũng như việc phân bổ, sử dụng tốt nhất nguồn vốn giới hạn hiện có. Tuy nhiên, việc thành lập công ty tài chính còn đang được Chính phủ xem xét phê duyệt các điều kiện, trong đó quan trọng nhất là điều kiện về vốn điều lệ của công ty tài chính vì trong tình trạng tài chính còn yếu của phần lớn các Tổng công ty nhà nước được thành lập theo Quyết định 90/TTg, 91/TTg như hiện nay thì việc bỏ ra vài chục tỷ làm vốn kinh doanh cho các công ty này khó có thể thực hiện được.
Trong khi chờ đợi sự cho phép thành lập các tổ chức tài chính ngành, các Tổng công ty này hoạt động theo quy chế tài chính dành cho các Tổng công ty nhà nước theo Luật DNNN cũng như quy chế tài chính được quy định trong điều lệ của Tổng công ty. Quy chế tài chính bao gồm nhiều vấn đề về hoạt động tài chính của Tổng công ty trong đó có hoạt động điều hòa vốn.
Nhìn chung, trong các Tổng công ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay gồm các phương thức điều hòa vốn chủ yếu sau :
Điều hoà vốn bằng việc điều động tài sản:
Theo quy chế tài chính thì các Tổng công ty có quyền thay đổi cơ cấu cũng như điều động vốn và tài sản bằng cách ghi tăng vốn và tài sản thuộc vốn ngân sách và vốn tự bổ sung cho đơn vị nhận còn ghi giảm vốn và tài sản cho đơn vị giao. Riêng tài sản bằng vốn vay đơn vị nhận sẽ phải trả cho đơn vị bị điều động phần giá trị tài sản còn lại của tài sản bằng vốn vay. Đối với khối sự nghiệp việc điều hoà vốn được thực hiện theo quy chế tài chính và chỉ giới hạn ở phần tài sản thuộc nguồn tự bổ sung hoặc vốn vay để tránh làm mất vốn ngân sách cấp.
Điều hoà vốn bằng việc trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung:
Các quỹ tài chính tập trung được thành lập nhằm đề phòng những biến cố bất thường có thể xảy ra làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc trích lập được thực hiện đều đặn hàng năm ngay cả khi chưa có rủi ro. Vì vậy, nếu có kế hoạch sử dụng hợp lý thì lượng vốn nhàn rỗi này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các Tổng công ty được thành lập nhằm tập trung quản lý các đơn vị nhỏ riêng lẻ một cách tâp trung, nhờ đó tăng sức mạnh tài chính cũng như sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Để thực hiện chức năng quản lý tài chính tập trung của mình, Tổng công ty cần có một lượng tài chính đủ mạnh. Vì vậy, các quỹ tài chính tập trung ra đời để phục vụ cho hoạt động của Tổng công ty. Các quỹ này hình thành từ phần lợi nhuận sau thuế của các đơn vị thành viên theo quy chế tài chính, cụ thể bao gồm các quỹ sau:
- Quỹ đầu tư và phát triển:
Đây là quỹ có vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động của mỗi doanh nghiệp đơn lẻ cũng như của các Tổng công ty. Nó được hình thành từ các nguồn sau:
- Huy động không hoàn lại quỹ đầu tư phát triển được trích hàng năm của các doanh nghiệp hạch toán độc lập. Mức huy động cụ thể được quy định trong Quy chế tài chính của từng Tổng công ty.
- Lợi nhuận sau thuế các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và phần lợi nhuận được chia từ liên doanh do Tổng công ty trực tiếp quản lý. Mức cụ thể do HĐQT phê duyệt theo đề nghị của TGĐ.
Tổng công ty được huy động dưới hình thức vay với lãi suất nội bộ quỹ đầu tư phát triển và nguồn vốn khấu hao cơ bản của doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập. Mức huy động do TGĐ quyết định theo uỷ quyền của HĐQT. Lãi suất nội bộ do HĐQT quyết định nhưng không được thấp hơn mức thu về sử dụng vốn ngân sách do nhà nước quy định.
Quỹ này được dùng để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh như liên doanh, góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu, bổ sung vốn điều lệ cho Tổng công ty cũng như các đơn vị thành viên,...
- Quỹ dự phòng tài chính:
Tổng công ty được điều động quỹ dự trữ tài chính được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để hình thành quỹ dự trữ tài chính tập trung của Tổng công ty. Mức điều động cụ thể được quy định trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Quỹ này được sử dụng để khắc phục rủi ro về thiên tai, địch hoạ, rủi ro trong kinh doanh của Tổng công ty và của các đơn vị thành viên mà các khoản dự phòng được trích trong giá thành, tiền đền bù của cơ quan bảo hiểm không đủ bù đắp. Trong trường hợp cần thiết, Tổng công ty có thể huy động dưới hình thức vay với lãi suất nội bộ quỹ dự trữ tài chính của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để sử dụng chung cho Tổng công ty và hỗ trợ cho doanh nghiệp thành viên khi rủi ro mất vốn. Ngoài ra, khi quỹ này nhàn rỗi hoặc có số dư lớn nó cũng được dùng để đầu tư phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, các đơn vị thành viên hạch toán độc lập gặp rủi ro mất vốn lớn có thể vay từ quỹ này với lãi suất do Tổng công ty quy định để khắc phục tình trạng khó khăn của mình. Thông thường, mức lãi suất này lớn hơn tỷ lệ thu trên vốn phải nộp ngân sách nhưng lại thấp hơn lãi suất quy định của ngân hàng.
- Quỹ trợ cấp mất việc làm:
Quỹ trợ cấp mất việc làm được trích từ phần lợi nhuận sau thuế của văn phòng Tổng công ty và các đơn vị thành viên với định mức trích nộp được quy định cụ thể trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Quỹ được sử dụng để trợ cấp cho người lao động bị mất việc hoặc tạm nghỉ việc trong khi chờ đi làm lại. Trong khi nhàn rỗi nó cũng được Tổng công ty sử dụng để đầu tư sinh lợi.
- Quỹ Khen thưởng - Phúc lợi:
Tổng công ty được huy động một phần quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên để hình thành quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng của Tổng công ty. Mức huy động cụ thể được quy định cụ thể trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Nó được dùng để khuyến khích người lao động sản xuất, tăng năng suất bằng việc khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích tốt hoặc làm các công tác phúc lợi xã hội như thăm bệnh, chúc Tết... Cũng như các quỹ trên, bình thường lượng tiền nhàn rỗi của quỹ này có thể dùng đầu tư cho các hoạt động sinh lợi khác.
- Quỹ khấu hao cơ bản:
Quỹ này được hình thành trên cơ sở trích quỹ khấu hao vốn ngân sách cấp hàng năm của đơn vị. Mức trích cụ thể được quy định trong quy chế tài chính của từng Tổng công ty. Vì các đơn vị thành viên chủ yếu là các DNNN nên số khấu hao trích nộp Tổng công ty là rất lớn. Quỹ này phục vụ cho hoạt động đầu tư và đổi mới trang thiết bị, tăng cường sức sản xuất của toàn Tổng công ty.
Điều hoà vốn bằng cơ chế vay, trả với lãi suất nội bộ:
Trong mọi thời điểm, trong Tổng công ty đều có các doanh nghiệp thừa và thiếu vốn. Với chức năng tài chính của mình, các Tổng công ty hoàn toàn có thể điều hoà vốn, làm cho những đơn vị thừa và thiếu vốn gặp nhau, cùng thoả mãn nhu cầu vay và cho vay của mình một cách nhanh nhất, thuận tiện và hiệu quả nhất bằng việc tạo ra một môi trường chính sách, một mức lãi suất hợp lý và đứng ra làm trung gian, kết nối những đơn vị có nhu cầu lại với nhau. Thế nhưng hiện nay các Tổng công ty của chúng ta chưa thực hiện được điều này bởi vì có quá nhiều vướng mắc trong đó quan trọng nhất là cơ chế chính sách. Các đơn vị chỉ thừa vốn trong một thời gian nhất định và họ chỉ vui lòng cho thuê quyền sử dụng lượng vốn nhàn rỗi tạm thời này nếu họ được bù đắp một cách xứng đáng với việc họ phải từ bỏ cơ hội được giữ tiền, được duy trì khả năng thanh khoản cao. Điều kiện có thể là một mức lãi suất hấp dẫn, việc giao dịch thuận tiện hoặc khả năng rút tiền khi cần một cách nhanh chóng. Trong khi đó, các Tổng công ty áp dụng một mức lãi suất nội bộ quá nhỏ so với lãi suất ngân hàng, tạo tâm lý cho các đơn vị giấu giếm các khoản nhàn rỗi, không khuyến khích cho vay.
2.1.2 Các Tổng công ty nhà nước đã hình thành các tổ chức tài chính trung gian
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính trung gian ( công ty tài chính, công ty bảo hiểm, ngân hàng) của ngành có hoạt động rất đa dạng và với các mặt hoạt động đó, nó thực hiện điều hoà vốn dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều so với một phòng hay ban tài chính trong các Tổng công ty.
Việc xây dựng và phát triển các trung gian tài chính mà khởi đầu là các công ty tài chính đối với Tổng công ty là dấu hiệu để phân biệt Tổng công ty theo mô hình TĐKD với Tổng công ty kiểu cũ. Đây thực sự là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, bởi vì:
Thứ nhất: Việc thành lập và phát triển công ty tài chính nhằm tìm kiếm những nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của Tổng công ty trên cơ sở triển khai đồng bộ các hình thức huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty, trên các thị trường tài chính trong nước và quốc tế, gồm vay thương mại, vay tài trợ dự án, vay tài trợ xuất khẩu, thuê mua, phát hành cổ phiếu, trái phiếu,...
Thứ hai: Việc thành lập và phát triển công ty tài chính nhằm nâng cao hiệu quả các nguồn vốn huy động, hoàn trả vốn và lãi vay đúng hạn, bảo đảm sự cân đối vững chắc và linh hoạt về hoạt động tài chính thông qua việc điều hoà vốn linh hoạt, gắn với hoạt động kinh doanh tiền tệ, tham gia thị trường tiền tệ, thị trường vốn trong và ngoài nước.
Thứ ba: Việc thành lập và phát triển công ty tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho các dự án thông qua việc đầu tư đúng định hướng phát triển, đúng công trình, dự án.
Thứ tư: Công ty tài chính trong Tổng công ty nhà nước là một trung gian tài chính đáng tin cậy thay mặt cho các công ty thành viên (chưa đủ tiêu chuẩn tham gia vào thị trường chứng khoán) tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Công ty tài chính có thể huy động được một khối lượng vốn lớn bằng các hình thức:
- Phát hành thương phiếu và trái phiếu.
- Cầm cố các loại vật tư, hàng hoá, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và vật bảo đảm khác.
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng, đá quý, mua bán chuyển nhượng chứng khoán,...
Nhờ có thể huy động được một lượng vốn lớn bằng nhiều nguồn khác nhau, công ty tài chính có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các đơn vị thành viên, kể cả vốn trung và dài hạn. Công ty tài chính góp phần giải bài toán điều hòa vốn toàn diện và có hiệu quả hơn.
Tóm lại, công ty tài chính có vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức và chiến lược phát triển của Tổng công ty nhà nước. Hoạt động kinh doanh tài chính- ngân hàng của Tổng công ty có vai trò to lớn và rất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của các Tổng công ty bởi vì xu hướng cơ bản của các TĐKD chủ yếu là kiểm soát, chi phối về mặt tài chính, đầu tư của các đơn vị thành viên.
2.2. Một số tồn tại cơ bản của cơ chế điều hòa vốn trong các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Theo quy chế tài chính mẫu của Bộ tài chính ban hành cho các Tổng công ty nhà nước và theo quy chế tài chính riêng của từng Tổng công ty nhà nước thì hiện nay các Tổng công ty nhà nước có thể thực hiện hoạt động điều hòa vốn cho các đơn vị thành viên theo các phương thức sau:
- Điều hòa vốn bằng việc điều động tài sản.
- Điều hòa vốn bằng việc trích và sử dụng các quỹ tài chính tập trung.
- Điều hòa vốn bằng cơ chế vay, trả với lãi suất nội bộ.
- Điều hòa vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian của Tổng công ty như công ty tài chính, công ty bảo hiểm.
Việc thực hiện hoạt động điều hoà vốn theo các hình thức trên đã phần nào giải quyết được nhu cầu về vốn của các đơn vị thành viên, góp phần không nhỏ cho sự phát triển của các đơn vị thành viên, cho toàn Tổng công ty và đáp ứng được vai trò to lớn cho sự phát triển chung của toàn nền kinh tế.
Tuy nhiên thực tế hiện nay, việc thực hiện hoạt động điều hòa vốn theo các hình thức này còn nhiều hạn chế. Công tác điều hòa vốn còn mang nặng tính chủ quan, chưa có phương pháp đánh giá hiệu quả công tác điều hòa vốn, chưa phát huy được vai trò của việc vay vốn lẫn nhau trong nội bộ Tổng công ty, chưa xây dựng được hệ thống thông tin tài chính nội bộ để hỗ trợ cho công tác điều hòa vốn. Cụ thể là:
- Điều động tài sản là hoạt động khá thường xuyên và phổ biến ở các Tổng công ty nhà nước hiện nay song việc theo dõi và đánh giá hiệu quả của nó còn gặp nhiều khó khăn.
- Mặc dù quy chế tài chính của các Tổng công ty đều quy định các Tổng công ty có quyền điều hoà vốn thông qua việc cho vay giữa các đơn vị thành viên với một mức lãi suất nội bộ do Tổng công ty tự quy định nhưng hình thức này hầu như không tồn tại hoặc đang rất không hiệu quả bởi tính chất mệnh lệnh của nó và sự khó khăn chung về vốn của các doanh nghiệp thành viên. Nếu có tồn tại thì đó là hình thức biến tướng của nó như là: cho vay trả chậm, hố trợ về giá, cho vay nguyên vật liệu,...
- Các Tổng công ty nhà nước có công ty tài chính mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay và đều là các Tổng công ty lớn mạnh hàng đầu của Việt Nam. Các công ty tài chính này còn gặp nhiều khó khăn trong đó khó khăn lớn nhất là thiếu một hệ thống chính sách tương thích để hướng dẫn và điều tiết hoạt động của nó. Thậm chí có Tổng công ty trong cơ cấu tổ chức thì có công ty tài chính song chưa có nhân viên và vẫn ở trên giấy tờ.
- Việc sử dung các quỹ tài chính tập trung còn rất hạn chế. Lượng vốn trích lập các quỹ này là rất ít và hơn thế nữa nó rất ít được sử dụng cho đầu tư phát triển.
CHƯƠNG II
Cơ chế điều hòa vốn ở tổng công ty giấy việt nam
I. Khái quát về Tổng công ty Giấy Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam là DNNN thuộc Bộ Công nghiệp và chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Công nghiệp, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Tổng công ty Giấy là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng và có con dấu để giao dịch theo quy định của nhà nước.
Tiền thân của Tổng công ty Giấy Việt Nam là Liên hiệp các xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm. Năm 1976 , công ty Giấy Gỗ Diêm phía Bắc và công ty Giấy Gỗ Diêm phía Nam được thành lập. Hai công ty thực hiện chức năng quản lý sản xuất đối với các xí nghiệp quốc doanh Giấy Gỗ Diêm. Công ty vừa là cơ quan quản lý cấp trên, vừa là cấp kế hoạch, vừa là cơ quan cấp điều hành sản xuất - kinh doanh của các đơn vị trực thuộc. Kế hoạch sản xuất - kinh doanh của đơn vị trong công ty hoàn toàn do công ty phân giao và quyết định. Công ty cân đối đầu vào, giao chỉ tiêu vật tư, chỉ định địa chỉ và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra, đánh giá, công nhận mức hoàn thành kế hoạch sản xuất - kinh doanh và duyệt quyết toán tài chính năm đối với các xí nghiệp thành viên.
Năm 1978 - 1984 Liên hiệp xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm toàn quốc (LHXNGGD) được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai công ty Giấy Gỗ Diêm phía Bắc và phía Nam theo Nghị định 302/ CP ngày 01/12/1978 của hội đồng Chính phủ. Liên hiệp vừa là cơ quan cân đối, phân giao kế hoạch - sản xuất kinh doanh vừa là cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp cửa các đơn vị thành viên.
Năm 1984 - 1990: trong hoàn cảnh địa lý nước ta, điều kiện thông tin trao đổi giữa các khu vực trong cả nước còn gặp khó khăn, để thuận lợi trong quản lý và điều hành trong sản xuất, năm 1994 Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm toàn quốc được tách ra thành hai liên hiệp khu vực: Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 1 ( phía Bắc) và Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 2 ( phía Nam ).
Mặc dù đến năm 1987 mới có Quyết định 217/HĐBT, nhưng thực tế hai liên hiệp khu vực vẫn hoạt động như LHXNGGD toàn quốc vì thời gian này vẫn còn cơ chế bao cấp. Các đơn vị thành viên vẫn phụ thuộc toàn diện vào hai liên hiệp. Nhìn chung mô hình tổ chức của công ty, liên hiệp lúc bấy giờ hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế vận hành thời bao cấp. Điều đó thể hiện :
+ Công ty, liên hiệp là cấp trên trực tiếp của các xí nghiệp.
+ Công ty, liên hiệp là cấp kế hoạch.
+ Kinh phí hoạt động của công ty, liên hiệp do các xí nghiệp thành viên đóng góp.
Năm 1990-1993, sự ra đời của Quyết định 217/ HĐBT đã xoá bỏ cơ chế quản lý bao cấp, tháo gỡ khó khăn cho các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Sự đổi mới cơ chế quản lý tạo cho các xí nghiệp thành viên có quyền tự chủ về tài chính và sản xuất kinh doanh. Vai trò tác dụng của liên hiệp từ đó bị lu mờ dần. Để phù hợp với cơ chế quản lý mới, ngày 13/8/1990 liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Giấy Gỗ Diêm toàn quốc (LHSX—XNKGGD) được thành lập theo Quyết định 368/CNg - TCLĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ trên cơ sở hợp nhất hai Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 1 và Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 2. Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Giấy Gỗ Diêm toàn quốc hoạt động theo điều lệ liên hiệp xí nghiệp quốc doanh ban hành tại nghị định 27/HĐBT ngày 22/3/1989. Đến năm 1995, ngành Giấy đề nghị nhà nước cho tách riêng vì ngành Gỗ Diêm là một ngành kinh tế - kỹ thuật khác không gắn liền với ngành Giấy. Mặc dù ngành Giấy và ngành Gỗ Diêm cùng sử dụng nguyên liệu là gỗ nhưng gỗ trong ngành Giấy khác hoàn toàn so với gỗ trong ngành Gỗ Diêm. Do vậy dẫn đến việc quản lý chuyên ngành khác nhau, tính chất sản xuất khác nhau, doanh thu khác nhau cho nên ngành Giấy cần tách riêng ra với mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tăng cường sức mạnh của ngành kinh tế - kỹ thuật, góp phần thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy dẫn đến sự ra đời của Tổng công ty Giấy Việt Nam. Tổng công ty Giấy Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 256/TTg ra ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 52/CP ra ngày 02/08/1995 của Chính phủ ban hành điều lệ về tổ chức hoạt động của Tổng công ty Giấy Việt Nam. Tổng công ty Giấy Việt Nam là DNNN có quy mô lớn nhất toàn ngành Giấy, bao gồm các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc vào các đơn vị sự nghiệp có liên quan gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ giấy và trồng rừng nguyên liệu giấy, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty, đáp ứng nhu cầu giấy của thị trường. Tổng công ty thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh giấy các loại đảm bảo cân đối nhu cầu thiết yếu về giấy do nhà nước giao, chăm lo phát triển vùng nguyên liệu giấy, cung ứng vật tư, nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị cho ngành giấy, thực hiện xuất nhập khẩu giấy và các loại hàng hoá khác có liên quan đến ngành giấy theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Giấy Việt Nam
2.1. Chức năng hoạt động của Tổng công ty Giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ công nghiệp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương với tư cách là các cơ quan quản lý nhà nước.
Tổng công ty Giấy có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác của nhà nước giao theo quy luật của pháp luật và có quyền giao lại cho các đơn vị thành viên quản lý, sử dụng.
Tổng công ty Giấy có quyền đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, mua một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật.
Tổng công ty Giấy có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của Tổng công ty.
Tổng công ty Giấy có quyền quản lý, tổ chức kinh doanh, đổi mới công nghệ, trang thiết bị.
Tổng công ty Giấy được mời và tiếp đối tác kinh doanh nước ngoài; được sử dụng vốn và các quỹ của Tổng công ty để phục vụ kịp thời các nhu cầu kinh theo nguyên tắc bảo toàn có hiệu quả; được hưởng các chế độ có ưu đãi đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của nhà nước.
Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán tập trung đối với các đơn vị trực thuộc Tổng công ty và hạch toán kinh tế tổng hợp trên cơ sở hạch toán đầy đủ của các đơn vị thành viên.
Các đơn vị trực thuộc Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế nội bộ. Các đơn vị thành viên của Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, có tư cách pháp nhân, tài khoản tại ngân hàng và con dấu riêng, có điều lệ hoạt động theo quy định của nhà nước và của Tổng công ty.
2.2. Cấu trúc tổ chức của toàn Tổng công ty Giấy Việt Nam
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức bộ máy quản trị
Tổng công ty Giấy Việt Nam
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Công ty Giấy Bãi Bằng
Công ty Giấy Tân Mai
Công ty VPP Hồng Hà
Trường Đào Tạo nghề giấy
Viện nghiên cứu giấy và Xenluylo
Công ty Gỗ Đồng Nai
Phòng XNK
Phòng kế hoạch kinh doanh
Phòng nghiên cứu phát triển
Phòng quản lý kỹ thuật
Phòng tài chính kế toán
Văn phòng
..........
Ta thấy rằng cấu trúc tổ chức của Tổng công ty là một cấu trúc ma trận bởi vì nó đã đáp ứng được đòi hỏi về kỹ thuật và công nghệ, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, trao đổi thông tin giữa các bộ phận được đáp ứng, nó khai thác được tối đa nguồn nhân lực, nhìn chung thì mô hình hoạt động và bộ máy Tổng công ty phần nào đã được kiện toàn và phù hợp với điều lệ. Tuy nhiên vẫn gây ra sự lẫn lộn về quyền lực giữa các bộ phận, đánh giá mức độ quản trị của các bộ phận gặp nhiều khó khăn, vẫn còn tình trạng hình thức quản lý đi sau chức năng tổ chức bị suy giảm đi.
Các đơn vị thành viên của Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, có tư cách pháp nhân, tài khoản tại ngân hàng và con dấu riêng, có điều lệ hoạt động theo quy định của Nhà nước và của Tổng công ty.
Tổng công ty Giấy Việt Nam là một DNNN dưới sự quản lý của trung ương với nhiệm vụ tổ chức sản xuất kinh doanh giấy, ngoài ra công ty còn thực hiện công tác quản lý các đơn vị trực thuộc. Do đó, cơ cấu của Tổng công ty bao gồm:
+ Hội đồng quản trị, ban kiểm soát.
+ Tổng giám đốc và bộ máy làm việc.
+ Các đơn vị thành viên.
Bộ máy của Tổng công ty do TGĐ quyết định và phê duyệt theo điều lệ hoạt động của Tổng công ty . Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Tổng công ty bao gồm các phòng theo sơ đồ 1.
Nhiệm vụ của các phòng ban của Tổng công ty.
Văn phòng : thay mặt TGĐ giao dịch với các cơ quan hữu quan, tham mưu truyền đạt những quy định của TGĐ về lĩnh vực hành chính, tổ chức in ấn lưu trữ tài liệu của Tổng công ty. Bố trí lịch làm việc của TGĐ, phó TGĐ và các phòng. Xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động của các đơn vị phụ thuộc Tổng công ty, quy chế lao động, quy chế tiền lương, kỷ luật, đơn giá tiền lương, đơn giá và định mức lao động, lĩnh vực hành chính pháp chế và trong lĩnh vực đối ngoại.
Phòng cố vấn: có nhiệm vụ tư vấn cho TGĐ về các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh và trong quản lý của Tổng công ty. Đây là trung tâm giao dịch của hiệp hội giấy Việt Nam ( cả trung ương và địa phương), là nơi tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra kiểm soát giúp TGĐ lo công tác an toàn lao động.
Phòng kế hoạch kinh doanh: có nhiệm vụ khảo sát tìm hiểu thị trường giúp TGĐ ra các quyết định chính xác, phù hợp trong sản xuất kinh doanh. Đôn đốc các đơn vị thành viên của Tổng công ty thực hiện các nhiệm vụ đã vạch ra, kết nối giữa các bạn hàng, các nhà cung cấp lớn cho các đơn vị thành viên. Phòng kế hoạch kinh doanh có vai trò lớn trong việc giúp TGĐ xây dựng chiến lược phát triển kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, dài hạn, kế hoạch giá thành, điều phối tác nghiệp sản xuất kinh doanh xây dựng chiến lược thị trường để cân đối nhu cầu giấy cho xã hội. Thực hiện việc bình ổn giá các sản phẩm giấy in, giấy viết, giấy in báo theo quy định của nhà nước.
Phòng dự án: có trách nhiệm tìm hiểu ngành giấy trên quy mô toàn cầu, nắm bắt các thông tin mới về khoa học kỹ thuật trong ngành giấy để định hướng phát triển ngành, phối hợp với các đơn vị thành viên trong Tổng công ty triển khai các đề tài khoa học, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật trong ngành, giúp TGĐ đưa ra các giải pháp kinh tế kỹ thuật, thực hiện chức năng quản lý cấp trên về kỹ thuật theo quy định của nhà nước ban hành.
Phòng xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ khảo sát thị trường trong nước và nước ngoài về mặt hàng xuất nhập khẩu, đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, máy móc với các đơn vị trong nước và nước ngoài. Giúp TGĐ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nhằm ổn định sản xuất và phát triển của ngành giấy, cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước, tham gia từng bước vào thị trường ngoài nước để tiến đến hòa nhập với ngành giấy trong khu vực .
Phòng quản lý kỹ thuật: chịu trách nhiệm tổ chức kiểm tra, kiểm soát và nghiên cứu các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm, từ đó đưa ra các chính sách, các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm của mình và còn phải quản lý nhân viên của đơn vị.
Phòng tài chính kế toán :
Cân đối vốn hiện có của các đơn vị thành viên để lập phương án giúp TGĐ giao lại vốn và các nguồn lực khác của nhà nước cho các đơn vị thành viên. Điều chỉnh vốn theo hình thức tăng, giảm khi có sự thay đổi nhiệm vụ hoặc quy mô phát triển sản xuất của các đơn vị thành viên theo quyết định của TGĐ.
Thực hiện thủ tục điều hoà vốn NSNN cấp giữa các doanh nghiệp trong nội bộ Tổng công ty theo quyết định của TGĐ, theo dõi chặt chẽ việc giao nhận vốn, nghĩa vụ nộp tiền sử dụng vốn cũng như quản lý vốn theo chế độ hiện hành giữa các đơn vị thành viên được điều hoà vốn.
Xây dựng và thực hiện phương án huy động và cho vay vốn, phục vụ yêu cầu vốn của Tổng công ty và các đơn vị thành viên.
Xây dựng kế hoạch tài chính năm của toàn bộ Tổng công ty trên cơ sở kế hoạch tài chính của các đơn vị thành viên.
Kiểm tra và kiến nghị Tổng công ty bảo lãnh đối với các khoản vay tín dụng của các đơn vị thành viên. Thực hiện vốn vay tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp của Tổng công ty.
Thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN theo chế độ hiện hành. Quản lý và hạch toán các loại quỹ của Tổng công ty được trích lập theo quy định của Bộ tài chính.
Tổ chức hạch toán tổng hợp các loại vốn, quỹ, tổng hợp giá thành, kết quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở báo cáo quyết toán của các đơn vị thành viên và hạch toán kinh tế đối với phần trực tiếp kinh doanh của Tổng công ty.
Thực hiện báo cáo kế toán định kỳ của Tổng công ty và các đơn vị thành viên theo quy định của nhà nước. Lập báo cáo tài chính tổng hợp hàng năm của Tổng công ty trên cơ sở tổng hợp các bảng cân đối kế toán của các đơn vị thành viên trình HĐQT để công bố báo cáo tài chính hàng năm theo quy định của Bộ tài chính.
Kiểm tra và chủ trì quyết toán cho các đơn vị thành viên. Tổng hợp báo cáo quyết toán toàn Tổng công ty trình Bộ tài chính xét duyệt.
Quy định các biểu mẫu báo cáo kế toán nội bộ toàn Tổng công ty ( ngoài các biểu báo cáo theo quy định của nhà nước) để phục vụ cho yêu cầu quản lý tổng hợp của toàn Tổng công ty.
Tổ chức phổ biến thi hành kịp thời các chế độ, thể lệ tài chính, kế toán nhà nước và các quy định của Tổng công ty cho các đơn vị thành viên.
3. Tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam được thành lập và hoạt động với chức năng thực hiện sản xuất và kinh doanh: nhập khẩu bột giấy, tiếp nhận vật tư hoá chất, thiết bị phụ tùng để phân phối cho các đơn vị thành viên. Là trung gian tiêu thụ sản phẩm giấy trên thị trường nội địa, thị trường thế giới và hợp đồng ủy thác các loại vật tư nguyên liệu cho các công ty thành viên và các thành viên trong hiệp hội giấy Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo của HĐQT, ban TGĐ, các chủ trương nhằm tạo “cú huých” và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như Tân Mai, Đồng Nai, Bình An,Việt Trì, Vạn Điểm, Hoà Bình... đã được thực hiện nghiêm túc. Trong những năm qua đã không xảy ra những “cú sốc” thiếu nguyên liệu, hoá chất, không bị thất thoát hư hỏng bất kỳ một tấn nguyên liệu nhập khẩu nào, mặc dù không phải không có những trục trặc trong thủ tục giao dịch, khó khăn trong giao nhận. Có thể nói, Tổng công ty đã hoàn thành khá xuất sắc ý đồ, mục đích thành lập của mình .
Tình hình sản xuất kinh doanh ở Tổng công ty Giấy Việt Nam được thể hiện qua các báo cáo tài chính sau:
Bảng 1: Bảng cân đối tài sản tính đến 31/12/2000.
Đơn vị : Triệu Đồng
A.Tài sản
1998
1999
2000
I. TSLĐ& Đầu tư ngắn hạn
1.312.712.930
1.599.294.983
1.681.399.743
1. Tiền mặt
49.472.424
47.851.861
44.230.114
2. Đầu tư ngắn hạn
535.000
3.535.000
3.535.000
3. Phải thu
526.059.912
685.466.668
685.872.767
4. Hàng tồn kho
706.454.319
802.976.796
899.132.020
5. TSLĐ khác
21.665.785
59.288.229
40.087.239
6. Chi phí sự nghiệp
8.525.490
176.429
8.542.603
II.TSCĐ& Đầu tư dài hạn
836.961.921
912.763.483
926.555.466
1. TSCĐ
742.801.492
715.962.149
696.900.319
2. Đầu tư tài chính dài hạn
15.534.318
14.868.249
14.629.809
3. Chi phí XDCB dở dang
76.282.111
180.436.185
213.419.673
4. Ký quỹ, ký cược dài hạn
2.344.000
1.496.900
1.605.665
Tổng cộng Tài sản
2.149.674.851
2.512.058.466
2.607.955.209
B. Nguồn vốn
I. Nợ Phải trả
1.024.540.114
1.405.988.134
1.505.015.959
1. Nợ ngắn hạn
845.041.747
1.125.168.973
1.133.931.880
2. Nợ dài hạn
170.750.716
273.541.287
362.454.705
3. Nợ khác
8.747.651
7.277.874
8.629.374
II. Nguồn vốn Chủ sở hữu
1125.134.737
1.106.070.332
1.102.939.250
1.Nguồn vốn – Quỹ
1.116.378.674
1.050.719.132
1.041.048.462
2. Nguồn kinh phí
8.756.063
55.351.200
61.890.788
Tổng cộng Nguồn vốn
2.149.674.851
2.512.058.466
2.607.955.209
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy Việt Nam
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh
Đơn vị: Triệu Đồng.
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1. Doanh thu thuần
2.220.880
2.238.534
2.241.357
2. Giá vốn hàng bán
1.968.253
2.007.820
1.957.553
3. LN gộp
252.627
230.533
283.804
4. Chi phí bán hàng
45.766
39.321
40.257
5. Chi phí quản lý DN
131.178
140.495
145.874
6.LN thuần từ HĐSXKD
75.683
50.517
97.673
7. Thu nhập hoạt động TC
8.567
3.943
4.587
8. Chi phí hoạt động TC
2.777
10.175
52.684
9. LN hoạt động tài chính
5.790
(6.232)
48.097
10. Các khoản TN bất thường
6.702
5.360
3.542
11. Chi phí bất thường
-
2.759
1.587
12. LN bất thường
6.702
2.600
1.955
13. LN trước thuế
88.157
47.086
51.531
14. Thuế TNDN phải nộp
31.736
17.197
16.490
15. LN sau thuế
56.421
28.890
35.041
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy Việt Nam
II. Thực trạng cơ chế điều hòa vốn ở Tổng công ty Giấy Việt Nam hiện nay
Quyết định 91/TTg của Thủ tướng Chính phủ về “ thí điểm thành lập các TĐKD ” ra ngày 7-3-1994 đã nêu rõ nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của tập đoàn, trong đó có nêu rõ: mỗi tập đoàn được thành lập các tổ chức tài chính ngành như công ty tài chính, công ty bảo hiểm,... để huy động vốn, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển nội bộ của tập đoàn hoặc liên doanh với các đơn vị kinh tế khác. Tuy nhiên do còn nhiều nguyên nhân, hiện nay Tổng công ty Giấy Việt Nam vẫn chưa thành lập được cho mình một tổ chức tài chính riêng để huy động, điều hòa vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của Tổng công ty. Vì vậy, hiện nay ở Tổng công ty Giấy Việt Nam, hoạt động điều hòa vốn vẫn được tiến hành theo các phương thức như của một TĐKD chưa có các tổ chức tài chính ngành.
1. Các hình thức điều hòa vốn hiện nay ở Tổng công ty Giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam có các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc và các đơn vị sự nghiệp. Tổng công ty giao vốn và các nguồn lực khác cho các đơn vị thành viên trên cơ sở số vốn và nguồn lực mà Nhà nước đã giao cho Tổng công ty, phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh của từng đơn vị thành viên và phương án sử dụng vốn được HĐQT phê duyệt. Các đơn vị thành viên chịu trách nhiệm trước nhà nước và Tổng công ty về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực được giao.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty, tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể của từng đơn vị thành viên, Tổng công ty có thể điều hòa nguồn vốn cho các đơn vị thành viên theo các phương thức sau:
1.1. Điều động tài sản và vốn giữa các đơn vị thành viên
1.1.1. Quy chế chung của Tổng công ty Giấy Việt Nam
Điều 7 - quy chế tài chính của Tổng công ty Giấy quy định: Tổng công ty được quyền điều động vốn nhà nước từ doanh nghiệp thành viên thừa sang doanh nghiệp thành viên thiếu tương ứng với nhiệm vụ kinh doanh đã được Tổng công ty phê duyệt. TGĐ xây dựng phương án điều động, báo cáo HĐQT phê duyệt và ra quyết định điều động theo nguyên tắc ghi tăng, giảm vốn.
Riêng tài sản bằng vốn vay đơn vị nhận sẽ phải trả cho đơn vị bị điều động phần giá trị còn lại của tài sản bằng vốn vay.
1.1.2. Một số kết quả đạt được trong việc điều động vốn
Nhà máy gỗ Đồng Nai và công ty giấy Việt Trì là một trong những doanh nghiệp thành viên gặp nhiều khó khăn trong những năm qua. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp này rất thiếu vốn trong việc đầu tư mở rộng sản xuất, đặc biệt là vốn lưu động. Căn cứ vào tình hình cụ thể của các doanh nghiệp thành viên trong toàn Tổng công ty, trong năm 1999, Tổng công ty đã quyết định điều động một lượng vốn lưu động từ công ty giấy Bãi Bằng sang để hỗ trợ khó khăn cho các đơn vị trên:
Bảng 3: Tình hình điều động vốn năm 1999
Đơn vị: Triệu đồng
Đơn vị
Vốn lưu động tăng
Vốn lưu động giảm
Công ty giấy Việt Trì
5300
Nhà máy gỗ Đồng Nai
5000
Công ty giấy Bãi Bằng
10300
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy Việt Nam
Nhờ có sự điều động vốn kịp thời của Tổng công ty, giá trị tài sản của các đơn vị được điều động đã có sự thay đổi rõ ràng, đặc biệt là sự bổ sung kịp thời về vốn lưu động. Tài sản lưu động của nhà máy gỗ Đồng Nai tăng 45%, của công ty giấy Việt Trì tăng 20,19%. Nhờ đó, các đơn vị này có điều kiện mở rộng sản xuất, phấn đấu thực hiện hoàn thành kế hoạch sản xuất mà Tổng công ty giao cho:
Bảng 4: Bảng kết cấu tài sản của các đơn vị trước và sau khi được điều động vốn (năm 1999)
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Đơn vị
Tslđ
Tscđ
Năm 1999
Năm 2000
Năm 1999
Năm 2000
Nhà máy giấy Việt Trì
20800
25000
83000
76100
Nhà máy gỗ Đồng Nai
9093
13203
6109
7600
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy Việt Nam
Bảng 5: Hiệu quả sử dụng vốn trước và sau khi được điều động vốn
của các đơn vị trên.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
Giấy
Việt Trì
Gỗ
Đồng Nai
Giấy
Bãi Bằng
Giấy
Việt Trì
Gỗ
Đồng Nai
Giấy
Bãi Bằng
Doanh thu
73400
8400
638900
101000
9800
722600
Lợi nhuận
468
(126)
34000
871
186
36000
DT/TSLĐ
3,53
0,92
1,4
3,74
0,96
1,45
LN/TSLĐ(%)
2,26%
0
-
3,26%
1,83%
-
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Sau khi có sự hỗ trợ tài chính của Tổng công ty thông qua công tác điều hòa vốn, tình hình sản xuất kinh doanh của các đơn vị trên đã tiến bộ hơn rất nhiều: lợi nhuận sau thuế của công ty giấy Việt Trì đã tăng lên gần gấp 2 lần, đặc biệt nhà máy gỗ Đồng Nai từ chố làm ăn thua lỗ đã bắt đầu có lãi. Mặt khác, việc điều động vốn của Tổng công ty từ công ty giấy Bãi Bằng đã không làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị này. Công ty giấy Bãi Bằng tiếp tục kinh doanh có hiệu quả: lợi nhuận sau thuế tăng hơn 2 tỷ đồng (Bảng 5).
1.2. Trích lập và sử dụng các quỹ tài chính tập trung
1.2.1. Quy chế chung của Tổng công ty Giấy
Các quỹ tài chính tập trung được thành lập nhằm đề phòng những biến cố bất thường có thể xẩy ra làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Việc trích lập được thực hiện đều đặn hàng năm ngay cả khi chưa có rủi ro. Vì vậy nếu có kế hoạch sử dụng hợp lý thì lượng vốn nhàn rỗi này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tổng công ty được thành lập nhằm quản lý các đơn vị thành viên một cách tập trung, nhờ đó tăng sức mạnh tài chính cũng như sức mạnh cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Để thực hiện chức năng quản lý tài chính tập trung của mình, Tổng công ty cần có một nguồn tài chính đủ mạnh, và vì vậy quỹ tài chính tập trung được ra đời. Các quỹ này được hình thành từ lợi nhuận sau thuế của các đơn vị thành viên theo quy chế tài chính, bao gồm:
Quỹ dự trữ tài chính
Tổng công ty được điều động 10% quỹ dự trữ tài chính được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để thành lập quỹ dự trữ tài chính tập trung của Tổng công ty. Quỹ này được sử dụng để bù đắp, hỗ trợ trong các trường hợp thiệt hại về vốn do thiên tai, địch hoạ, rủi ro trong kinh doanh của Tổng công ty và các đơn vị thành viên mà các khoản dự phòng được trích trong giá thành và tiền đền bù của cơ quan bảo hiểm không đủ bù đắp. Trong trường hợp cần thiết, Tổng công ty có thể huy động dưới hình thức vay với lãi suất nội bộ quỹ dự trữ tài chính của doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập để sử dụng chung trong Tổng công ty hay hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên khi rủi ro mất vốn. Tổng số dư quỹ dự phòng tài chính tập trung trên Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên tối đa không vượt quá 25% vốn điều lệ của Tổng công ty.
Quỹ đầu tư phát triển:
Đây là quỹ có vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động của mỗi doanh nghiệp thành viên cũng như của bản thân Tổng công ty. Quỹ này được hình thành từ các nguồn sau:
- Huy động không hoàn lại 20% quỹ phát triển kinh doanh được trích hàng năm của các doanh nghiệp hạch toán độc lập.
- Lợi nhuận còn lại sau thuế của doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc và phần lợi nhuận được chia từ liên doanh do Tổng công ty trực tiếp quản lý. Mức trích cụ thể do HĐQT phê duyệt từng năm theo đề nghị của TGĐ.
- Tổng công ty huy động 100% nguồn vốn khấu hao cơ bản được trích hàng năm của các đơn vị thành viên hạch toán độc lập (trừ nguồn vốn khấu hao cơ bản của tài sản cố định mua bằng nguồn vốn vay mà chưa trả hết nợ) dưới hình thức ghi tăng, giảm vốn.
Quỹ đầu tư phát triển được dùng để đầu tư tập trung, kể cả bổ sung vốn điều lệ cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên nhằm phát triển kinh doanh theo định hướng phát triển của Tổng công ty.
Quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng.
- Quỹ phúc lợi: Tổng công ty được huy động không hoàn lại 10% quỹ phúc lợi được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên để thành lập quỹ phúc lợi của Tổng công ty.
Quỹ này được dùng để chi phúc lợi cho bộ phận quản lý và điều hành Tổng công ty theo quy định hiện hành và hỗ trợ cho quỹ phúc lợi của các đơn vị thành viên khác. Trường hợp cần huy động mức cao để xây dựng công trình phúc lợi chung cho toàn Tổng công ty, TGĐ xây dựng phương án huy động của các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập trình HĐQT phê duyệt để tổ chức thực hiện.
- Quỹ khen thưởng: Tổng công ty được huy động không hoàn lại 10% quỹ khen thưởng được trích hàng năm của các doanh nghiệp thành viên để thành lập quỹ khen thưởng của Tổng công ty.
Quỹ này được dùng để chi khen thưởng cho bộ máy quản lý và điều hành Tổng công ty, các thành viên HĐQT, Ban kiểm soát của Tổng công ty, chi khen thưởng cho các đơn vị thành viên có thành tích suất sắc,...Cũng như các quỹ trên, bình thường lượng tiền nhàn rỗi của quỹ này có thể dùng cho các hoạt động đầu tư sinh lời khác.
Quỹ khấu hao cơ bản
Quỹ này được hình thành trên cơ sở trích 10% quỹ khấu hao hàng năm của các doanh nghiệp thành viên. Quỹ này được dùng để phục vụ cho hoạt động đầu tư, đổi mới trang thiết bị, tăng cường sức cạnh tranh của toàn Tổng công ty.
1.2.2. Một số kết quả đạt được trong việc trích và sử dụng các quỹ tài chính tập trung
Thực tế hiện nay, việc trích và sử dụng các quỹ tài chính tập trung ở Tổng công ty không được thực hiện, vì vậy không có số liệu tổng hợp của các quỹ này. Tuy nhiên, tổng hợp trong các báo cáo tài chính của các đơn vị thành viên ta có một số kết quả sau:
Bảng 6: Trích lập các quỹ tài chính
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Quỹ
1998
1999
2000
HTĐL
HCSN
HTĐL
HCSN
HTĐL
HCSN
Đầu tư phát triển
10200
-
10942
19
11790
-
Khen thưởng phúc lợi
8540
65
9520
136
8780
56
Dự phòng tài chính
2040
-
1617
-
1860
22
Trợ cấp mất việc làm
1020
-
808
-
780
-
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Bảng 6 cho thấy, việc trích lập quỹ Đầu tư phát triển, quỹ Dự phòng tài chính, quỹ Trợ cấp mất việc làm ở các đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN) hầu như không được thực hiện. ở các đơn vị hạch toán độc lập (HTĐL), chỉ có một vài doanh nghiệp lớn như Công ty Giấy Bãi Bằng, Công ty Giấy Tân Mai,...thì việc trích lập các quỹ tài chính được tiến hành thường xuyên, còn lại các doanh nghiệp khác do hiệu quả kinh doanh không cao nên việc trích lập các quỹ tài chính là rất khó khăn. Hiện nay, các doanh nghiệp này rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất trong khi số vốn trong các quỹ hầu như không có để sử dụng. Vì vậy, việc hình thành các quỹ tài chính tập trung ở Tổng công ty nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp quá khó khăn là việc làm cần thiết. Qua đó, công tác điều hòa vốn của Tổng công ty mới thực sự có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các quỹ tài chính ở các đơn vị thành viên trong Tổng công ty vẫn còn nhiều bất cập: trong khi hầu hết các doanh nghiệp thành viên đều thiếu vốn đầu tư phát triển trầm trọng thì việc sử dụng vốn lại rất thiếu hợp lý. Bảng 7 cho thấy quỹ khen thưởng phúc lợi toàn Tổng công ty sử dụng năm 1998 là 11998 triệu đồng trong khi việc trích lập chỉ có là 8540 triệu đồng. Quỹ dự phòng tài chính và quỹ trợ cấp mất việc làm đều được trích lập hàng năm ở Tổng công ty ( chủ yếu ở các đơn vị hạch toán độclập ) nhưng ít có nhu cầu sử dụng: với quỹ trợ cấp mất việc làm, năm 1998 trích 1020 triệu đồng, sử dụng có 35 triệu đồng; năm 2000 trích 780 triệu đồng nhưng không sử dụng. Tình hình cũng tương tự với quỹ dự phòng tài chính. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp thành viên do quá khó khăn về vốn cho đầu tư phát triển đã sử dụng vốn tính vào các quỹ tài chính ngay cả khi nó chưa được trích lập: năm 1999 quỹ khen thưởng phúc lợi của công ty văn phòng phẩm Hồng Hà bị thâm hụt tới 921 triệu đồng, của công ty nguyên liệu giấy Vĩnh Phú thâm hụt 418 triệu đồng.
Bảng 7: Sử dụng các quỹ tài chính ở các doanh nghiệp thành viên
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Quỹ
1998
1999
2000
HTĐL
HCSN
HTĐL
HCSN
HTĐL
HCSN
Đầu tư phát triển
1300
-
15069
-
35498
-
Khen thưởng phúc lợi
11998
158
11566
77
2600
2,5
Dự phòng tài chính
-
-
-
-
340
-
Trợ cấp mất việc làm
35
-
6
-
-
-
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Bảng 6 cũng cho thấy giá trị luỹ kế qua các năm của các quỹ tài chính toàn Tổng công ty là rất lớn. Nếu Tổng công ty tiến hành lập các quỹ này tập trung như trong quy chế tài chính của Tổng công ty quy định thì việc tiến hành công tác điều hòa vốn sẽ hiệu quả hơn rất nhiều và các doanh nghiệp sẽ đỡ khó khăn hơn trong việctìm vốn kinh doanh.
Do có một số doanh nghiệp gặp khó khăn đặc biệt nên trong năm 1999 Tổng công ty đã quyết định điều chuyển vốn từ quỹ đầu tư phát triển của Công ty giấy Bãi Bằng sang để hố trợ cho các doanh nghiệp này:
Bảng 8: Sử dụng quỹ đầu tư phát triển năm 1999
Đơn vị: Triệu đồng
Đơn vị
Số tiền
Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ
7000
Nhà máy giấy Việt Trì
4380
Nhà máy giấy Vạn Điểm
10118
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Bảng 9: Kết cấu tài sản của các đơn vị trước và sau khi được nhận quỹ đầu tư phát triển
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Đơn vị
TSLĐ
TSCĐ
Năm 1999
Năm 2000
Năm 1999
Năm 2000
Nhà máy giấy Việt Trì
20800
27000
83000
76100
Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ
9400
15800
6700
7100
Nhà máy giấy Vạn Điểm
9100
13500
12200
18000
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Số liệu ở bảng 9 cho thấy lượng vốn nhận được là rất lớn so với giá trị tài sản của chính các doanh nghiệp này: số vốn nhận được của Nhà máy giấy Vạn Điểm chiếm 47,5% tổng tài sản, của Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ chiếm 43,5% tổng tài sản, của Nhà máy Giấy Việt Trì chiếm 12% tổng tài sản. Giá trị tài sản của các doanh nghiệp nhận được vốn từ quỹ đầu tư phát triển ở công ty giấy Bãi Bằng đã thay đổi rõ ràng: giá trị TSLĐ của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đã tăng 68%, của nhà máy giấy Vạn Điểm tăng 48,3%. Do đó, các đơn vị trên đã có điều kiện cải tiến công nghệ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Bảng 10: Hiệu quả sử dụng vốn trước và sau khi nhận được quỹ đầu tư phát triển ở các đơn vị trên.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Đơn vị
1999
2000
DT
LN
DT/TS
DT
LN
DT/TS
Giấy Hoàng Văn Thụ
20000
(197,6)
1,24
29600
84
1,29
Giấy Vạn Điểm
13400
(103)
0,629
20700
45
0,657
Giấy Việt Trì
13900
68
0,134
19500
221
0,189
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị trên đã được nâng cao rõ rệt, đặc biệt Nhà máy Giấy Hoàng Văn Thụ, Nhà máy Giấy Vạn Điểm từ chỗ thua lỗ đã bắt đầu có lãi. Mặc dù lãi chưa cao nhưng cũng đã khẳng định phần nào hiệu quả của công tác điều hòa vốn ở Tổng công ty. Lợi nhuận sau thuế của nhà máy giấy Việt Trì tăng hơn 3 lần, tỷ suất doanh thu trên tổng tài sản cũng đã tăng lên cao (Bảng 10).
1.3. Điều hòa vốn bằng cơ chế vay, trả với lãi suất nội bộ
1.3.1. Quy chế chung của Tổng công ty Giấy
Thực tế hiện nay hầu hết các doanh nghiệp thành viên đều thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là vốn lưu động. Tuy nhiên ở trong một giai đoạn nhất định nào đó có thể có doanh nghiệp thừa vốn tạm thời. Với chức năng tài chính của mình, Tổng công ty hoàn toàn có quyền tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thừa và thiếu vốn đó gặp nhau, cùng đáp ứng được lợi ích của cả hai bên.
Điều 11 - Quy chế tài chính của Tổng công ty quy định: Tổng công ty được vay vốn và quỹ nhàn rỗi của các doanh nghiệp thành viên, cũng như cho các doanh nghiệp thành viên vay lại với mức lãi suất nội bộ. Mức lãi suất nội bộ do HĐQT quyết định. Việc vay trả theo các quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của Tổng công ty.
1.3.2. Một số kết quả đạt được trong việc cho vay với lãi suất nội bộ
Thực tế hiện nay hầu hết các doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty Giấy đều thiếu vốn lưu động. Nguyên nhân của tình trạng này tập trung ở ba vấn đề sau: sản xuất được đẩy mạnh, sản lượng được nâng cao nhưng vốn lưu động không được bổ sung thêm, công nợ phải thu của các doanh nghiệp luôn ở mức cao, lượng dự trữ vật tư và sản phẩm tồn kho ở mức cao làm vốn kinh doanh bị ứ đọng. Vì vậy, các doanh nghiệp thành viên khó có thể có tiền mặt để cho nhau vay. Tuy nhiên trên cơ sở mối quan hệ về công nghệ sản xuất, sản phẩm của doanh nghiệp này có thể là nguyên liệu của doanh nghiệp kia. Vì vậy, các doanh nghiệp thành viên có thể hỗ trợ nhau trong phân công sản xuất và tiêu thụ theo hình thức vay trả chậm nguyên vật liệu.
Với tình trạng làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả thì việc vay vốn ngân hàng đối với Công ty văn phòng phẩm Hồng Hà và Nhà máy In văn hóa phẩm Phúc Yên là rất khó khăn. Để tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị trên, trên cơ sở giữa các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ với nhau về công nghệ sản xuất, Tổng công ty với chức năng tài chính của mình đã chỉ đạo cho công ty Giấy Bãi Bằng bán giấy (nguyên liệu đầu vào của 2 doanh nghiệp trên) cho các đơn vị này dưới hình thức cho vay chậm trả.
Bảng 11: Cho vay theo lãi suất nội bộ năm 1999
Đơn vị: Triệu đồng
Đơn vị
Giá trị cho vay
Giá trị nhận vay
Nhà máy In VHP
-
2500
Công ty VPP Hồng Hà
-
3100
Công ty Giấy Bãi Bằng
5600
-
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Giá trị cho vay mà công ty văn phòng phẩm Hồng Hà và nhà máy in văn hóa phẩm Phúc Yên nhận được là rất lớn: chiếm 32,6% giá trị TSLĐ của công ty văn phòng phẩm Hồng Hà và chiếm 43,8% giá trị TSLĐ của nhà máy in văn hóa phẩm Phúc Yên (Bảng 12). Điều này chứng tỏ công tác điều hòa vốn của Tổng công ty nhất định sẽ có tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị trên.
Bảng 12: Giá trị tài sản lưu động các đơn vị trước và sau khi nhận được vốn vay
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Đơn vị
TSLĐ
Năm 1999
Năm 2000
Công ty VPP Hồng Hà
9500
12600
Nhà máy In VHP
5700
8200
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế toán Tổng công ty Giấy
Bảng 13: Hiệu quả sử dụng vốn trước và sau khi nhận được vốn vay ở các đơn vị trên
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
DT
LNST
DT/TSLĐ
DT
LNST
DT/TSLĐ
In VHP
12900
(11000)
2,26
19500
0
2,37
VPP Hồng Hà
21000
190
2,21
28800
270
2,28
Giấy Bãi Bằng
638000
34000
1,4
722600
36000
1,45
Nguồn: Phòn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12097.DOC