Tài liệu Đề tài Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vai trò của nó đối với con người: MỤC LỤC
Mở đầu Trang.
Chương I : Phép biện chứng và khái quát lịch sử phép biện chứng 5
Khái niệm phép biện chứng và siêu hình 5
Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình 6
Khái quát lịch sử hình thành phép biện chứng 6
Phép biện chứng cổ đại 6
Phép biện chứng duy tâm 7
Phép biện chứng duy vật 9
Chương II : Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vât 11
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
Cái riêng và cái chung 13
Nguyên nhân và kết quả 14
Tất nhiên và ngẫu nhiên 16
Nội dung và hình thức 17
Bản chất và hiện tượng 18
Khả năng và hiện thực 19
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật lượng và chất 20
Quy luật mâu thuẫn 21
Quy luật phủ định của phủ định 22
Chương III : Vai trò của phép biện chứng đối với thực tiễn con
người
Tính Cách Mạng của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa 24
của nó với thực tiễn cách mạng Việt nam
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào thự...
31 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1842 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vai trò của nó đối với con người, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mở đầu Trang.
Chương I : Phép biện chứng và khái quát lịch sử phép biện chứng 5
Khái niệm phép biện chứng và siêu hình 5
Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình 6
Khái quát lịch sử hình thành phép biện chứng 6
Phép biện chứng cổ đại 6
Phép biện chứng duy tâm 7
Phép biện chứng duy vật 9
Chương II : Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vât 11
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
Cái riêng và cái chung 13
Nguyên nhân và kết quả 14
Tất nhiên và ngẫu nhiên 16
Nội dung và hình thức 17
Bản chất và hiện tượng 18
Khả năng và hiện thực 19
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật lượng và chất 20
Quy luật mâu thuẫn 21
Quy luật phủ định của phủ định 22
Chương III : Vai trò của phép biện chứng đối với thực tiễn con
người
Tính Cách Mạng của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa 24
của nó với thực tiễn cách mạng Việt nam
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn quản lý DN 25
Phép biện chứng duy vật trong việc vận dụng vào hoạt động 27
nhận thức và thực tiễn đối với y học.
KẾT LUẬN 29
PHẦN MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề:
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa học cụ thể, nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Và triết học có hai vấn đề cơ bản. đó là: + giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, và cái nào quyết định?
+ Ý thức của chúng ta có phản ánh trung thực thế giới quan hay không?
Và nếu quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy là vấn đề cơ bản chi phối đối với bất cứ hệ thống triết học nào thì một vấn đề quan trọng khác mà triết học quan tâm và muốn làm sáng tỏ là: các sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh tồn tại như thế nào? Chúng hoàn toàn biệt lập với nhau hay phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau; hoàn toàn ở trong trạng thái tĩnh ngưng đọng, “ nhất thành bất biến” hay vận động không ngừng? Lịch sử của triết học cho thấy, mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn đề này, nhưng suy cho cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình. Trong đó, qua từng thời kì phát triển của triết học ta đã thấy được rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu những quy luật phổ biên của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy, nó cung cấp phương pháp luận khoa học cho con người nhận thức và cải tạo thế giới, vì lợi ích của mình.
Những lý thuyết về phép biện chứng duy vật không chỉ giúp ta nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận của các khoa học triết học, mà còn cung cấp vũ khí luận sắc bén cho giai cấp vô sản chiến thắng kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Chính nhờ vậy mà Đảng và Nhà nước ta luôn trung thành với những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin nói chung và triết học Mac-Lenin nói riêng. để vận dụng nó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục thực hiện kế hoạch hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, vì vậy việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhất là nắm vững bản chất của phép biện chứng duy vật là một đòi hỏi cần thiết và quan trọng.
Để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu đó thì đề tài: “ Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vai trò của nó đối với con người” đã được chọn để làm tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Bích Thuỷ đã nhiệt tình chỉ bảo để em có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này, trong quá trình làm bài có gì sơ sót mong cô giáo thông cảm.
Mục tiêu và nhiệm vụ của tiểu luận:
Mục tiêu là làm rõ thế nào là phép biện chứng, lịch sử ra đời của phép biện chứng và những nội dung của nó đồng thời nêu lên được những ứng dụng của nó trong cuộc sống hiện tại.
Nội dung của tiểu luận:
Nêu lên những khái niệm, những phạm trù những nguyên lý tồn tại trong phép biện chứng duy vật.
Nêu lên được những vai trò, những ứng dụng của phép biện chứng duy vât trong cuộc sống.
Phần I : Phép biện chứng và khái quát lịch sử phép biện chứng
Khái niệm phép biện chứng & siêu hình
+ Phép biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp chung nhất của tư duy. Chúng được xây dựng trên hai quan điểm đối lập là quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình.
+ Phép biện chứng : theo Anghen chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và tư duy.
+ Phép siêu hình:theo Arixtôt siêu hình học là học thuyết về những nguyên tắc và các bản nguyên tối cao , siêu kinh nghiệm của tồn tại , của nhận thức , của văn hóa và của con người.
Sựđối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình
. Phương pháp siêu hình đãđóng một vai trò tích cực nhất định trong quá trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó thích ứng với trình độ sưu tập, mô tả của khoa học tự nhiên.
+ Phương pháp siêu hình nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có ranh giới tuyệt đối.
+ Phương pháp siêu hình nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thìđó chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm bên ngoài sự vật.
Phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và ngưng đọng như phương pháp này quan niệm.
Phương pháp biện chứng
+ Phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.
+ Phương pháp biện chứng nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy làđấu
tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phương pháp biện chứng phản ánh đúng hiện thực như nó tồn tại. Nhờ vậy phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Khái quát lịch sử hình thành phép biện chứng.
+ Cũng như chủ nghĩa duy vật, phương pháp biện chứng đã xuất hiện ngay từ thời cổđại, từđóđến nay lịch sử phát triển của khoa học cũng như của thực tiễn. Do vậy phép biện chứng được chia làm ba hình thức lịch sử của nó:phép biện chứng cổđại ( phép biện chứng tự phát ), phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng cổđại.
+ Giai đoạn đầu tiên của tư duy triết học biện chứng là phép biện chứng tự phát thời kỳ cổđại vàđược thể hiện rõ nét nhất qua thuyết âm dương của triết học Trung Quốc và các học thuyết của triết học Hy Lạp cổđại.
+ Hoàn cảnh ra đời:
- Điều kiện kinh tế xã hội văn hoá: Xã hội Hy Lạp xuất hiện sớm vào khoảng thế kỷ thứ VIII trước công nguyên đến thế kỷ thứ III sau công nguyên. Vào thế kỷ thứ VI–IV trước công nguyên, xã hội chiếm hữu nô lệ Hy Lạp đãđạt tới hoàn thiện. Sự khác nhau giữa hai thành phố phát triển nhất đó dẫn tới cuộc nội chiến tương tàn và cuối cùng chiến thắng thuộc về thành bang Spác. Sau cuộc nội chiến, Hy Lạp bị vua Phillip xứ Maxedoan xâm chiếm. Đất nước Hy Lạp cổđại có một nền văn minh phát triển rực rỡ. Về tôn giáo, họ thờ nhiều thần và vị thần tối cao là thần Dớt. Về giáo dục, họ coi trọng đạo đức, trí dục, thể dục. Về chính trị, họ coi trọng chếđộ dân chủ. Vềđời sống, họ sống giản dị, chất phác. Về kiến trúc, họ có tính cách điều độ cân đối.. Về triết học có nhiều trường phái.
- Sự hình thành triết học: triết học Hy Lạp ra đời vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên trên các cơ sở:
§ Do có nhiều biến chuyển kinh tế và chính trị mà một bộ phận của tầng lớp chủ nô cóđiều kiện chăm lo xây dựng thế giới quan của mình đểđịnh hướng cho cuộc đấu tranh.
§ Do sự phát triển kinh tế, đặc biệt do sự phát triển của lao động và tổ chức lao động nô lệ.
§ Do liên hệ mật thiết với các tri thức khoa học, cuộc đấu tranh tôn giáo, tín ngưỡng.
§ Do vị trí của Hy Lạp cổđại thuận lợi trong giao lưu kinh tế văn hoá với các nước phương Đông.
+ Đặc điểm: Ngay từ thời bấy giờ, các nhà duy vật biện chứng cổđại đã thấy rằng sự vật của thế giới xung quanh ta nằm trong một mớ chằng chịt vô tận những sợi dây liên hệ và những tác động qua lại lẫn nhau. Nhưng do chưa đạt đến trình độđi sâu phân tích giới tự nhiên cho nên các nhà biện chứng cổ Hy Lạp chúýđến sự vận động, đến sự quáđộ từ cái này sang cái khác, đến những mối liên hệ nhiều hơn là chúýđến cái đang vận động, đang quáđộ vàđang liên hệ với nhau.
+ Đại biểu:
- Hêraclit(520-460 TCN): nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổđại. Khác với các nhà triết học phái Milê, Hêraclit cho rằng không phải nước, apeirôn, không khí, mà chính lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi sự vật. “Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”. Lửa không chỉ là cơ sở của mọi vật mà còn là khởi nguyên sinh ra chúng . Luận điểm bất hủ của Hêraclit : “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” . Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lòng nó luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau. Nhờ vậy mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi sự vật khác ra đời.. Vì thếđấu tranh là vương quốc của mọi cái , là quy luật phát triển của vũ trụ. Bản thân cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập luôn luôn diễn ra trong sự hài hòa nhất định.
Phép biện chứng duy tâm.
+ Hoàn cảnh:
- Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nước Đức vẫn là một nước phong kiến lạc hậu, tình trạng cát cứ phân tán nhỏ lẻ phổ biến.
- Giai cấp tư sản Đức đã hình thành nhưng tách rời nhau vì thế giai cấp tư sản Đức nhỏ bé về số lượng, yếu kém về thế lực chính trị -> giai cấp tư sản không thể làm cách mạng hiện thực mà chỉ làm cách mạng trong tư duy.
+ Đặc điểm:
- Sự mâu thuẫn giữa nội dung tư tưởng triết học mang tính khoa học và cách mạng với những hình thức thể hiện có tính chất duy tâm, tôn giáo và có tính chất siêu hình. Vào thời kỳ này, Đức là một nước phong kiến với tình trạng lạc hậu cả về kinh tế chính trị, những mầm mống của chủ nghĩa tư bản mới bắt đầu hình thành trong xã hội Đức. Giai cấp tư sản vì thế chưa thể thực hiện được một cuộc cách mạng trong thực tiễn. Anghen nhận xét: “ Triết học Đức của cách mạng Pháp. Chúng ta những người Đức cùng thời đại về mặt tư tưởng nhưng không cùng thời đại về mặt lịch sử.”
Triết học cổđiển Đức là thế giới quan vàý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Triết học cổđiển Đức đặc biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người. Triết học cổđiển Đức có tính lý luận rất cao. Triết học cổđiển Đức đã cung cấp cho chúng ta phương pháp tư duy biện chứng,
Nhưng bên cạnh đó triết học cổđiển Đức còn duy tâm, do quáđề cao sức mạnh của trí tuệ, hoạt động của con người.
+ Đại biểu:
Cantơ:
+ Nét nổi bật trong triết học của Cantơ làđã trình bày những quan niệm biện chứng của mình về giới tự nhiên. Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các “ vật tự nó” ở bên ngoài con người. Nhưng mặt khác thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại chỉ là “ các hiện tượng”… phù hợp với cái cảm giác và cái tri thức do lý tính tạo ra.
+ Tính duy tâm trong triết học Cantơ còn thể hiện ở chỗông coi không gian, thời gian, tính nhân quả cũng như các quy luật của giới tự nhiên không phải là những cái thuộc bản thân giới tự nhiên, mà là sản phẩm của lý trí tiên nghiệm, có trước kinh nghiệm.
Hênghen: Triết học của HênGhen đầy mâu thuẫn.. Ông đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ thống triết học duy tâm của mình, Hênghen không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, phủđịnh, mâu thuẫn…mà còn nói đến cả các quy luật như “ lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “ phủđịnh của phủđịnh”, và quy luật mâu thuẫn. Tóm lại, hệ thống triết học của Hênghen là một hệ thống duy tâm, mà thực chất của nó “làở chỗ lấy cái tâm lý làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới tự nhiên” ( Lênin ). Tuy nhiên, phép biện chứng của Hênghen đã mâu thuẫn với hệ thống triết học duy tâm của ông và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Macxit
c ) Phép biện chứng duy vật
+ Hoàn cảnh:
Điều kiện kinh tế xã hội: Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một giai cấp vô sản ngày càng lớn mạnh, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản cũng ngày càng gay gắt, quyết liệt. Thời kỳđầu, các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chỉ hướng tới những mục tiêu kinh tế hàng ngày và hình thức đấu tranh chủ yếu là kinh tế. Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân có sự thay đổi về chất, nhiều cuộc đấu tranh lớn diễn ra. Những cuộc đấu tranh này làm xuất hiện những yêu cầu:
§ Làm rõ vai trò lịch sử của giai cấp vô sản. Mác và Anghen tham gia phong trào công nhân, tổng kết kinh nghiệm và xây dựng nên học thuyết tư tưởng của mình trong đó có triết học.
§ Thay đổi quan niệm về lịch sử, chỉ ra được động lực bên trong của sự phát triển lịch sử
Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời ngoài những điều kiện kinh tế xã hội, nó còn kế thừa được những yếu tố tích cực của các giai đoạn trước Đặc biệt trong triết học cổđiển Đức những nội dung cách mạng toàn bộ trong phép biện chứng của Hêghen cùng những tư tưởng duy vật của Pháp đã làm một trong những cơ sở lý luận cho sự hình thành tư tưởng duy vật biện chứng trong triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên: Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX nhiều phát minh khoa học lớn xuất hiện. Đáng chúý có 3 phát minh
§ 1842 – 1845: ra đời định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng
§ 1859: ra đời thuyết tiến hoá của Đácuyn
§ Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 19 ra đời học thuyết tế bào.
Kết luận: những điều kiện và tiền đề trên cho thấy sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội và phù hợp với quy luật phát triển của nhận thức nhân loại.
+ Đặc điểm: Sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra sự biến đổi cóý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại và nóđược thể hiện qua các nội dung:
- Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại. Mác và Anghen đã sáng tạo lên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để,.
- Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và biện chứng trong các tư tưởng triết học của các giai đoạn trước.
Sự ra đời của triết học Mác đã làm cho vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học được nâng cao.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, tạo nên bước chuyển về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác.
Triết học Mác là thế giới quan của khoa học và phương pháp luận chung, cần thiết cho sự phát triển của tất cả các môn khoa học.
+ Đại biểu:
Mác vàĂnghen : chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác vàĂnghen sáng lập là thành tựu vĩđại nhất của tư tưởng khoa học.
+Triết học Mác trở thành thế giới quan khoa học để tiếp tục phát triển khoa học và cải tạo thực tiễn . C.Mác đã phê phán phép biện chứng duy tâm của Heghen một cách sâu sắc. Mác cho rằng sai lầm chủ yếu của Hêghen làở chỗông quan niệm mâu thuẫn của hiện tượng như sự thống nhất trong bản chất, trong tư tưởng, trong khi bản chất của mâu thuẫn này tất nhiên là một cái gìđó sâu sắc hơn , cụ thể là mâu thuẫn bản chất. Mác vàĂnghen đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hêghen .Hai ông không chỉ thoả mãn với việc cải tạo duy vật phép biện chứng duy tâm màđồng thời cũng tiến hành cải tạo một cách biện chứng chủ nghiã duy vật siêu hình trước đó . Mác vàĂnghen đã liên kết đã gắn bó, không tách rời chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
Phép biện chứng duy vật đãđược xây dựng và phát triển với tính cách một lí luận phê phán cách mạng. Với tính cách một lí luận khoa học triệt để, phép biện chứng duy vật gạt bỏ sự thoả hiệp với hệ tư tưởng của các giai cấp bóc lột.
Lênin: Lênin đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác vào quá trình giải quyết những nhiệm vụ của cách mạng vô sản trong thời cổđại đế quốc chủ nghĩa và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin đã cóđóng góp to lớn và quan trọng vào kho tàng lý luận triết học xã hội: vấn đề nhà nước và cách mạng, chuyên chính vô sản, lý luận vềĐảng kiểu mới. Dựa trên sự phân tích quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một số nước, thậm chíở một nước riêng lẻ. Luận điểm đó của Lênin cóảnh hưởng to lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Lênin chấp nhận thay đổi một quan niệm nào đó về chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều hay bảo thủ. Chính những điều này đãđưa chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng lên một giai đoạn mới gắn liền với tên tuổi của Lênin vàđược gọi là triết học Mác – Lênin nói riêng và chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung
Phần II: Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
a ) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
+ Khái niệm : liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
+ Tính chất: các mối liên hệ của tất cả sự vật hiện tượng luôn luôn có tính khách quan, tính phổ biến và biểu hiện trong tính đa dạng của nó.
+ Nội dung nguyên lý:
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều luôn luôn tồn tại trong các mối liên hệ xác định. Vì vậy trong các quá trình nhận thức để xác định được một đối tượng nào đó nhất định phải xem xét nó trong các mối liên hệ xác định
Mỗi một sự vật luôn luôn tồn tại trong tính quy định, tính tương tác, những biến đổi tác động tới nó.
Mỗi một sự biến đổi trong thế giới đều có khả năng khách quan tất yếu tác động đến những biến đổi khác một cách trực tiếp, gián tiếp…
Với mỗi một sự vật, hiện tượng nhất định trong một điều kiện xác định thì các mối liên hệ mà nó có là không đồng nhất về vị trí và vai trò
+ ý nghĩa:
Từ những nội dung trên có thể thấy: chỉ có thể nhận thức đúng và giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề thực tiễn một khi thực hiện nguyên tắc toàn diện và lịch sử cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi
§ Nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề nào cũng cần phải trên nhiều mặt, nhiều mối liên hệ khách quan của nó, tránh phiến diện, tránh siêu hình trong giải quyết các vấn đề.
§ Trong các điều kiện xác định cần đánh giáđược vị trí vài trò khác nhau của các mặt, các mối quan hệ
Trong giải quyết vấn đề thực tiễn cũng đòi hỏi phải xác định được những vấn đềở tầm chiến lược và sách lược hoặc cần xác định được những nhiệm vụ trọng tâm và trọng điểm
b ) Nguyên lý về sự phát triển
+ Khái niệm:
Phát triển là những quá trình biến đổi với 3 đặc trưng sau:
§ Sự biến đổi về chất ở trình độ mới cao hơn
§ Quá trình biến đổi về mặt cơ cấu tổ chức hệ thống và về cơ chế phương thức hoạt động của hệ thống
§ Là sự biến đổi diễn ra một cách toàn diện hoá.
Ví dụ: . Từ phương thức bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối sang giá trị thặng dư tương đối thuộc phạm trù phát triển tư bản.
+ Tính chất: Phát triển cũng có ba tính chất: Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dang, phong phú.
+ Nội dung nguyên lý:
Phát triển là những khuynh hướng khách quan và phổ biến ở trong mọi lĩnh vực của tự nhiên xã hội, nhận thức, tư duy trong giới tự nhiên đó là quá trình phát triển từ vật chất đơn giản đến phức tạp hơn.
Trên con đường phát triển bao hàm nhiều giai đoạn không loại trừ những bước thụt lùi tạm thời.
Luận điểm về mô hình phát triển: không có một mô hình phát triển tuyệt đối cho mọi lĩnh vực. Trái lại tuỳ theo các điều kiện cụ thể mà tồn tại các mô hình phát triển đa dạng.
Quy luật phát triển: Có 3 quy luật cơ bản của mọi quá trình phát triển:
§ quy luật về phương thức phát triển .
§ quy luật về thống nhất vàđấu tranh các mặt đối lập
§ quy luật phủđịnh của phủđịnh
+ ý nghĩa:
Các nguyên tắc cơ bản của quan điểm phát triển.
§ Muốn thực hiện sự phát triển cần phải hướng vào việc tạo sự biến đổi về chất của sự vật ở trình độ mới.
§ Trọng tâm và mấu chốt của sự phát triển phải là tạo ra những biến đổi về cấu trúc hệ thống, phương thức hoạt động, cách thức tổ chức nhờđó tạo ra chất mới.
Các cặp phạm trù của phép duy vật biện chứng
a ) Cái riêng và cái chung
+ Khái niệm cái riêng và cái chung
Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những cóở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
+ Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
- Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng, nhờ có cái riêng cái chung nói lên sự tồn tại của nó nhưng sự tồn tại của cái chung chỉđược nhận biết bằng kết quảcủa quá trình tư duy của quá trình khái quát hoá, còn sự tồn tại của cái riêng có thể nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các giác quan.
Cái riêng bao giờ cũng liên hệ với cái chung bằng cách này hay cách khác. Ví dụ mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội
Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng được tách ra khỏi cái riêng vì thế cái chung bao giờ cũng lệch lạc, phiến diện còn cái riêng là cái phong phú, đầy đủ, toàn bộ. Nhờ những yếu tốđơn nhất, cá biệt đó chúng ta mới phân biệt được sự khác nhau giữa những sự vật hiện tượng. Tuy vậy cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại.
Cái chung và cái riêng có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện nhất định. Sự chuyển hoá này được thực hiện thông qua mối quan hệ cái cá biệt và cái phổ biến.
+ ý nghĩa:
- Giữa cái chung và cái đơn nhất có sự chuyển hoá lẫn nhau. Chính vì vậy trong quá trình phát triển, người ta không chỉ cần nhận biết cái mới mà còn phải duy trì, bảo vệ, tạo điều kiện đáp ứng cho khả năng tồn tại và phát triển của nó.
- Vì cái riêng gắn bó với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài mối liên hệ dẫn tới cái chung, cho nên khi giải quyết những vấn đề riêng một cách đúng đắn thì không thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung,
- Cái chung và cái riêng thống nhất với nhau, và khác biệt nhau ở cái đơn nhất – cái đặc trưng riêng có của sự vật. Chính vì vậy, để nhận thức sâu sắc và thấu đáo một đối tượng nào đó, không thể chỉở những thuộc tính chung mà cần cả những nét đặc trưng riêng có,như thế hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người mới đạt được hiệu quả.
b ) Nguyên nhân và kết quả
+ Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một biến đổi nhất định nào đó
Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa sự vật với nhau gây ra.
+ Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân và kết quả luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong đó nguyên nhân luôn có trước kết quả, còn kết quả chỉ xuất hiện khi có sự tác động của nguyên nhân. Vì thế nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh.
- Một nguyên nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả và nhiều nguyên nhân có thể chỉ sản sinh ra một kết quả. Ví dụ nguyên nhân của mất mùa có thể do hạn hán, có thể do lũ lụt, có thể do sâu bệnh… Nếu nhiều nguyên nhân tác động theo cùng một chiều sẽđẩy nhanh quá trình sản sinh ra kết quả. Nếu nhiều nguyên nhân tác động ngược chiều nhau sẽ hạn chế quá trình sản sinh ra kết quả.
è Cần phân biệt sự khác nhau giữa nguyên nhân với nguyên cớ. Nguyên nhân có trước kết quả sản sinh ra kết quả. Nguyên cớ có trước kết quả nhưng không sản sinh ra kết quả
Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá lẫn cho nhau. Cùng một sự vật một hiện tượng khi đặt trong quan hệ này là nguyên nhân nhưng khi đặt trong quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại.
è Cần phân biệt sự khác nhau của quan hệ nhân quả với vòng tuần hoàn. Liên hệ nhân quả có quan hệ sản sinh còn vòng tuần hoàn chỉ là sự lặp lại cái cũ sau một khoảng thời gian vận động biến đổi nào đấy.
+ ý nghĩa
- Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ cơ bản và quan trọng, thường gắn liền với đặc trưng bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Mối liên hệ nhân quả thể hiện trong thực tế rất phức tạp vàđa dạng, cùng một sự biến đổi xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy muốn giải quyết một vấn đề nào đó, trước hết và sau cùng phải xét từ nguyên nhân cơ bản để có biện pháp giải quyết đúng đắn, thích hợp.
- Một hiện tượng trong mối liên hệ này là kết quả trong mối quan hệ khác là nguyên nhân. Cho nên, trong nhận thức cũng như hành động cần phải xem xét hiện tượng một cách toàn diện và tích cực, chống lại những quan niệm siêu hình áp đặt về mối quan hệ nhân quả.
- Muốn tác động vào sự vật phải tác động vào nguyên nhân của chúng theo những hình thức phù hợp, và biết khai thác vận dụng kết quảđãđạt được để nâng cao nhận thức, tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của sự vật. Cần phải phân biệt rõ nguyên nhân và nguyên cớđể tác động vào đúng nguyên nhân.
c ) Tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên
Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định.
Tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được
+ Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người vàđều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần tuý cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần tuý. Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau. Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cũng với sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành ngẫu nhiên và ngược lại. Cùng một sự vật hiện tượng khi đặt trong mối quan hệ này là tất nhiên nhưng khi đặt trong mối quan hệ khác lại là ngẫu nhiên và ngược lại. Vì thế ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ cóý nghĩa tương đối.
+ ý nghĩa:
- Từ nội dung của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, trong hoạt động thực tiễn, ta phải căn cứ vào tất nhiên, nhưng không được bỏ qua ngẫu nhiên, vì nó cóảnh hưởng đến sự phát triển vàđôi khi có thể làm cho tiến trình đột ngột ấy biến đổi.
- Nhiệm vụ của khoa học chân chính là phải nhận thức được cái tất nhiên, nhưng cái tất nhiên không thuần tuý tồn tại mà biểu lộ ra ngoài thông qua cái ngẫu nhiên. Cho nên chỉ có thể vạch ra được cái tất nhiên bằng cách nghiên cứu rất nhiều cái ngẫu nhiên. Bản thân cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại một cách thuần tuý mà bao giờ cũng là hình thức trong đóẩn giấu cái tất nhiên. Vì vậy nếu không hiểu đúng về mối liên hệ biện chứng này, chúng ta sẽ rơi vào thuyết định mệnh, biến hoạt động thực tiễn có mục đích của con người thành trò chơi của số phận, của định mệnh, làm cho khoa học đi vào con đường thần bí, biến khoa học thành công cụ của tôn giáo. Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể chuyển hoá thành cái ngẫu nhiên và ngược lại, cho nên tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn mà có thể tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy hoặc ngăn trở sự chuyển hoáđó.
d ) Nội dung và hình thức
+ Khái niệm nội dung và hình thức
Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật và những quá trình biến đổi diễn ra trong sự vật đó.
Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Nội dung bao giờ cũng có hình thức thể hiện và hình thức bao giờ cũng chứa đựng một nội dung nhất định. Không có nội dung và hình thức thuần tuý tách rời nhau. Một nội dung có thểđược thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau và nhiều nội dung có thểđược thể hiện bằng một hình thức nhất định.
Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức nội dung thường xuyên biến đổi còn hình thức tương đối ổn định. Sự biến đổi của nội dung đến một trình độ nào đấy sẽ mâu thuẫn với hình thức hiện có. Để giải quyết mâu thuẫn cần xoá bỏ hình thức cũ, thiết lập hình thức mới để mởđường cho nội dung tiếp tục phát triển
Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung sẽ thúc đẩy nội dung phát triển. Còn nếu hình thức không phù hợp với nội dung sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.
Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá lẫn cho nhau. Cùng một sự vật, hiện tượng khi đặt trong mối quan hệ này là nội dung nhưng khi đặt trong mối quan hệ khác lại là hình thức và ngược lại.
+ ý nghĩa
- Vì nội dung và hình thức thường không có sự phù hợp hoàn toàn nên trong nhận thức không nên từ một hình thức nhất thời mà vội vàng phán xét nội dung và ngược lại.
- Vì nội dung quyết định hình thức nên để nhận thức được sự vật, hiện tượng, trước hết phải tác động vào nội dung của nó.
- Vì hình thức và nội dung luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn cần phải xem xét một cách toàn diện không được coi thường và tuyệt đối hoá một mặt nào; đồng thời cần vận dụng linh hoạt các hình thức biểu thị nội dung tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
e ) Bản chất và hiện tượng
+ Khái niệm bản chất và hiện tượng
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của bản chất
+ Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Bản chất luôn luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Sự thống nhất ấy còn được thể hiện ở chỗ: bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
§ Mâu thuẫn giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Bản chất là cái bên trong khó thấy và chỉđược nhận biết bằng kết quả của tư duy còn hiện tượng là những cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
§ Bản chất tương đối ổn định còn hiện tượng thường xuyên biến đổi
§ Bản chất thì sâu sắc còn hiện tượng thì phong phú. Trong tổng số hiện tượng mà sự vật có sẽ có những hiện tượng không thuộc về bản chất, nằm ngoài bản chất thậm chí trong một số trường hợp hiện tượng có thể phản ánh không đúng bản chất, sai lệch bản chất.
+ ý nghĩa:
- Do hiện tượng biểu hiện bản chất dưới những dạng khác nhau thậm chí có hiện tượng biểu hiện một cách sai lệch bản chất do tác động của những hoàn cảnh nhất định. Vì vậy không nên đồng nhất hiện tượng với bản chất. Muốn nhận thức về sự vật đúng đắn, khoa học không nên xem xét ở một vài hiện tượng riêng lẻ, phiến diện mà phải phân tích một cách tổng thể các hiện tượng để không mắc phải những kết luận sai lầm, chủ quan, tuỳ tiện.
f ) Khả năng và hiện thực
+ Khái niệm khả năng và hiện thực
Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế.
Khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng.
+ Đặc điểm:
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Hiện thực bao giờ cũng chứa đựng khả năng và khả năng bao giờ cũng nằm trong hiện thực.
Trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.
Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng.
Khả năng và hiện thực không ngừng chuyển hoá cho nhau. Trong hiện thực có chứa đựng khả năng. Khả năng đó khi đủđiều kiện sẽ biến thành hiện thực mới. Trong hiện thực mới lại có chứa đựng khả năng mới và khả năng mới đó khi đủđiều kiện lại biến thành hiện thực mới hơn.
Để khả năng biến thành hiện thực thường cần không chỉ một điều kiện mà là một tập hợp các điều kiện.
+ ý nghĩa
Do mối quan hệ chặt chẽ giữa khả năng và hiện thực nên trong nhận thức và hành động tránh sự nhầm lẫn giữa cái đang tồn tại dưới dạng khả năng với cái hiện thực, đồng thời phải biết tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy hoặc ngăn cản quá trình chuyển biến khả năng thành hiện thực tuỳ theo yêu cầu của thực tiễn.
Do hiện thực tồn tại thực sự, khả năng là cái chưa có cho nên tính toán mọi việc phải căn cứ trên cơ sở của hiện thực. Do khả năng biểu hiện tính hiện thực của sự vật trong tương lai nên phải xét đến các khả năng đểđề ra chủ trương và kế hoạch hành động phù hợp.
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
a ) Quy luật lượng – chất
+ Các khái niệm
Chất: Chất là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời thường cũng như trong triết học. Chất không chỉ được tạo nên từ các nhân tố cấu thành sự vật mà còn được tạo nên từ cách sắp xếp nhân tố ấy.
Lượng: mỗi sự vật được tạo nên bởi một số lượng các yếu tố xác định, tồn tại với một quy mô xác định đồng thời sự vận động và phát triển của nó cũng diễn ra với những tốc độ, với những chu kỳ nhịp điệu biến đổi nhất định. Tất cả những phương diện đóđược gọi chung là lượng của sự vật.
Độ: là khoảng giới hạn mà trong đó những biến đổi về lượng chưa dẫn tới những biến đổi căn bản về chất.
Điểm nút: là giới hạn mà tại đó những biến đổi về lượng trực tiếp dẫn đến những biến đổi về chất.
Bước nhảy: là quá trình biến đổi về chất tại điểm nút. Trong thực tế có nhiều hình thức bước nhảy khác nhau.
§ Bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ:
©Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt những yếu tố riêng lẻ của sự vật, là tiền đề cho bước nhảy toàn bộ.
©Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt các yếu tố cấu thành sự vật, nó hoàn thiện cho bước nhảy cục bộ.
§ Bước nhảy lớn và bước nhảy nhỏ:
©Bước nhảy lớn là bước nhảy làm thay đổi thuộc tính căn bản của sự vật
©Bước nhảy nhỏ là bước nhảy làm thay đổi thuộc tính không cơ bản của sự vật.
+ Nội dung quy luật:
Tổng quát: Chất và lượng là những phương diện cùng tồn tại trong bất kỳ một sự vật nào. Chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau. Vì vậy những biến đổi về lượng bao hàm những biến đổi về chất và ngược lại.
Ở đây có hai trường hợp xảy ra:
Lượng đổi dẫn đến chất đổi: Lượng không ngừng biến đổi theo nhiều phương diện. Sự biến đổi đó bao hàm khả năng tất yếu khách quan dẫn đến sự biến đổi cấu trúc tổ chức sự vật làm thay đổi thuộc tính căn bản từđó dẫn đến sự biến đổi về chất. Tuy nhiên khả năng biến đổi về chất chỉ trở thành hiện thực với các điều kiện:
§ Lượng phải biến đổi đến giới hạn điểm nút.
§ Cùng với sự thay đổi về lượng phải diễn ra quá trình biến đổi về cấu trúc tổ chức của sự vật mới có thể biến đổi về chất
§ Sự biến đổi của loại lượng nào sẽ dẫn đến sự biến đổi chất tương ứng.
Những biến đổi về chất lại có khả năng tạo ra những biến đổi về lượng của sự vật trên các phương diện khác nhau.
+ ý nghĩa:
Trong thực tiễn: để sự vật không thay đổi về chất nhất định là phải có biện pháp hạn chế sự thay đổi về lượng tới giới hạn điểm nút của nó.
Trong công tác thực tiễn cần phải tránh tả khuynh và hữu khuynh:
§ Tả khuynh: trong công tác thực tiễn khi chưa tích luỹđủ về lượng mà cứ thay đổi về chất.
§ Hữu khuynh: coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy
b ) Quy luật mâu thuẫn
+ Khái niệm:
Mâu thuẫn: được dùng với nhiều nghĩa
§ Trong logic học, toán học thì mâu thuẫn dùng để chỉ những gì loại trừ nhau, không hợp lôgíc, không tương đồng trái với tiên đề.
§ Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ sự thống nhất của những mặt đối lập ( mối liên hệ của những mặt đối lập )
Mặt đối lập: dùng để chỉ tất cả những gì có tính chất có hướng vận động trái ngược nhau, khuynh hướng phủđịnh nhau, bài trừ nhau
- Thống nhất là khái niệm dùng để chỉ sự quy định lẫn nhau, là tiền đề tồn tại của nhau giữa các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Ví dụđấu tranh giai cấp
+ Nội dung quy luật
- Mọi sự vật, hiện tượng, mọi quá trình trong tự nhiên xã hội cũng như nhận thức, tư duy luôn luôn bao hàm những mâu thuẫn của nó. Sở dĩ như vậy vì tính chất đối lập là phổ biến khách quan. Mặt khác căn cứ vào mối liên hệ phổ biến tất cả luôn luôn trong tính quy định nhau.
Vai trò của mâu thuẫn:
-Mọi quá trình vận động và phát triển trong tự nhiên xã hội cũng như trong tư duy luôn có nguồn gốc động lực cơ bản nhất, xuất phát từ mâu thuẫn khách quan vốn có của nó. Vì suy đến cùng nguyên nhân của mọi biến đổi, mọi sự phát triển chính từ những sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Mà trong đó tương tác của mặt đối lập là nguồn gốc cơ bản nhất, động lực cơ bản nhất.
- Mỗi sự vật có nhiều mâu thuẫn khác nhau. Theo Lênin: “ sự vật là tổng số mâu thuẫn” và các loại mâu thuẫn đó giữ vị trí vai trò khác nhau với tư cách làđộng lực, nguồn gốc của sự phát triển.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối còn sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tương đối tạm thời.
+ ý nghĩa
- Vì mâu thuẫn là khách quan phổ biến do vậy đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng mâu thuẫn vốn có của sự vật.
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển do vậy trong công tác thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa học, để thực hiện sự phát triển cần tạo ra được điều kiện để thực hiện các mâu thuẫn biện chứng.
c ) Quy luật phủđịnh của phủđịnh
+ Khái niệm:
Phủđịnh: Mỗi sự vật trong quá trình vận động và phát triển của nóđều trải qua các hình thái tồn tại khác nhau và hình thái mới ra đời thì hình thái cũ phải mất đi.
Phủđịnh biện chứng và phủđịnh siêu hình: Trong thực tế khách quan có những phủđịnh tạo ra tiền đề, điều kiện của sự phát triển. Gọi là phủđịnh biện chứng. Mặt khác có những phủđịnh dẫn đến chấm dứt sự phát triển của sự vật gọi là phủđịnh siêu hình.
+Đặc trưng của phủđịnh biện chứng:
§ Tính khách quan, tính tất yếu, tính tự thân của sự phủđịnh nghĩa là quá trình phủđịnh biện chứng xuất phát từ nhu cầu khách quan, tất yếu của sự phát triển.
§ Tính kế thừa, tính vượt qua, tính lọc bỏ: về cơ bản đó là sự kế thừa nội dung cũ nhưng vượt qua hình thái tồn tại cũ và do đó tái cấu trúc nội dung cũ trong một phương thức mới.
è Kế thừa là bản chất và nguyên tắc của mọi sự phát triển.
+ Nội dung quy luât:
- Mọi quá trình phát triển chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở trải qua nhiều lần phủđịnh biện chứng. Đó chính là quá trình phủđịnh của phủđịnh.
- Quá trình phát triển với nhiều lần phủđịnh tạo ra tính chu kỳ lặp lại hình thái cũ trên cơ sở cao hơn về trình độ. Chính vì vậy có thể nói đó là hình thức xoáy trôn ốc
è Quy luật phủđịnh của phủđịnh nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa cái khẳng định và cái phủđịnh, nhờđó phủđịnh biện chứng làđiều kiện cho sự phát triển.
+ ý nghĩa:
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, để thực hiện các quá trình phát triển nhất định phải thực hiện phủđịnh biện chứng chứ không phải phủđịnh siêu hình. Trong đó có hai nguyên tắc cơ bản:
§ Trong nhận thức cần phải nghiên cứu và phát hiện nhu cầu phát triển khách quan của sự vật. Trong thực tiễn phải tạo được điều kiện thích hợp để thực hiện nhu cầu ấy.
§ Trong nhận thức phát hiện được yếu tố cần có sự kế thừa. Và trong thực tiễn phải tạo ra những cơ chế, cách thức để thực hiện sự kế thừa nội dung cũ nhưng tái tạo nội dung cũ thành nội dung mới.
Phần III: Vai trò của phép biện chứng đối với hoạt động
thực tiễn của con người
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù, những nguyên lí , những qui luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Cho nên nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ , sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tùy theo nhu cầu thực tiễn và trình độ nhận thức của con người mà phạm vi các vấn đềđược bao quát trong phép biện chứng duy vật ngày càng được phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Nhưng ở bất kì cấp độ phát triển nào của nó, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển vẫn được xem là những nguyên lí cóý nghĩa khái quát nhất.
Tính cách mạng của phép biện chứng duy vật vàý nghĩa của nóđối với thực tiễn cách mạng Việt Nam
+ Phép biện chứng duy vật mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc.
- Tính phê phán và cách mạng là bản chất của phép biện chứng duy vật.
-Tính cách mạng và khoa học của phép biện chứng duy vật thống nhất với nhau vì phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất, không phiến diện.
-Cách mạng là quá trình xoá bỏ cái cũ, lỗi thời và xác lập cái mới, tiến bộ hơn. Với bản chất ấy cách mạng là quá trình không thẳng tắp trơn tru mà là quá trình khó khăn phức tạp thậm chí có sự tụt lùi, nhưng cuối cùng cái tiến bộ sẽ chiến thắng. - 24 -
+ ý nghĩa đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam
- Lênin là tấm gương sáng về việc nắm vững và vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật trong việc nhận định khả năng vàđề ra phương pháp cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc.
- Thực tiễn đã cho chúng ta thấy hình thức và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là những công thức có sẵn, không phải bất biến, chúng phải được vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo luôn đổi mới, phù hợp với điều kiện quốc tế và mỗi nước.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đãđược đại hội là thứ IX khẳng định: “ thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.”
2. Vận dụng phép biện chứng duy vật vào thực tiễn quản lí doanh nghiệp:
a) Tác hại của tư tưởng duy tâm chủ quan, duy ý chí trong việc quản lý sản xuất và những biểu hiện của nó.
Trong lĩnh vực quản lý sản xuất, cần kịp thời phát hiện, ngăn chặn, phê phán các hình thức biểu hiện của tư tưởng duy tâm chủ quan đồng thời phải củng cố, xây dựng quan điểm và phương pháp tư duy duy vật biện chứng để chỉđạo sản xuất. Đó là vấn đề bức thiết cần phải có trong việc tạo dựng những tố chất của con người quản lý sản xuất hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những nhân viên quản lý sản xuất hoặc nhiều, hoặc ít, tự giác, hoặc không tự giác biểu hiện ra một số quan điểm duy tâm và phương pháp siêu hình trong công việc, nên đẫn đến những tổn thất nhất định trong công tác sản xuất. Vì vậy, tư duy của con người quản lý cũng phải linh động, mềm dẻo để phù hợp với những điều kiện khách quan đang biến đổi đó
Tóm lại, ở bất cứ nơi nào, bất cứ người quản lý sản xuất nào, nếu mắc bệnh duy tâm chủ quan, duy ý chí thì trong chỉđạo sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến sản xuất đình trệ, kém hiệu quả kinh tế, người lao động thiếu yên tâm, môi trường kinh doanh bất ổn.
b) Người quản lý phải nắm bắt được chính xác quy luật khách quan.
Xa rời thực tế, ngại xâm nhập, tìm hiểu và coi thường thực tế sinh động mà chỉđề cao lý luận, chỉ nghiên cứu "lý luận" suông., thoát ly thực tế; ngược lại chỉ lao vào công tác thực tế, lấy ý muốn chủ quan của mình định ra chủ trương, đưa ra những quyết định công việc đều không đúng về cả lý luận và phương pháp công tác. Hai loại người này đều dựa vào chủ quan, coi thường sự tồn tại của sự vật khách quan. Trong sản xuất, chính họ là người coi nhẹ " sự tồn tại" của sự vật khách quan, mà chỉ dựa vào nguyện vọng chủ quan, lý luận suông, từ những kinh nghiệm hẹp hòi, hoặc vận dụng một cách máy móc kinh nghiệm của người khác, ở nơi khác mà thôi.
ý nghĩa của việc nhận thức một cách chính xác tính quy luật khách quan của sự vật làở chỗ :
- Làm cho sản xuất đạt tới kết quả nhưđã chỉđịnh.
- Tạo thế chủđộng, sáng tạo, linh hoạt trong điều hành sản xuất xủa người quản lý.
c) Phát huy tính cách sáng tạo của công nhân viên chức trong doanh nghiệp.
Là người quản lý doanh nghiệp, đòi hỏi phải có cách nhìn bao quát mọi hoạt động, lực lượng, yếu tố khách quan cũng như phải cóđánh giá hết sức xác đáng tình trạng hiện tại và xu hướng tương lai cả xí nghiệp, cả thế mạnh và hạn chế, cả cái tích cực và cái tiêu cực của từng bộ phận, thậm chí từng con người trong tổ chức. Chỉ nhìn thấy mặt hạn chế, khó khăn của tình hình, chỉ thấy mục tiêu kinh tế, không thấy mục tiêu tinh thần của xí nghiệp là rơi vào tư tưởng bi quan. Phép biện chứng duy vật đòi hỏi người quản lý phải thấy được tính năng động sáng tạo của người lao động.
Muốn phát huy được đầy đủ tinh thần tích cực và sáng tạo của quần chúng, thì quan trọng trước hết là phải " giải phóng tư tưởng, bài trừ mê tín ", làm cho công nhân, viên chức xây dựng được phong cách lao động cộng sản chủ nghĩa, dám nghĩ, , dám làm, dám chịu trách nhiệm.
d)Phát huy, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ, đủđiều kiện.
. Mâu thuẫn là quy luật phổ biến của vũ trụ nên trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh luôn tồn tại mẫu thuẫn. Khắc phục được những mâu thuẫn trong sản xuất, tức là thúc đẩy được quá trình sản xuất phát triển hơn một bước. Chúng ta không thể hoàn toàn đạt được điều đó, nhưng cần xem xét toàn diện thì mới tránh khỏi sai lầm, tránh khỏi cứng nhắc.
Tóm lại, vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét việc quản lý sản xuất. Căn cứ vào sự phân tích đó, đề ra phương pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, kịp thời, đưa sự việc phát triển không ngừng.
e) Khắc phục biểu hiện của phương pháp xem xét siêu hình trong quản lý sản xuất.
Trong quản lý sản xuất, người mắc bệnh siêu hình thường xem xét tình hình một cách cô lập, tĩnh tại, không đi tìm nguyên nhân bên trong, mà họ tin tưởng nguyên nhân bên ngoài, không phát động quần chúng tự lực cánh sinh theo phương châm kết hợp biện pháp thô sơ với biện pháp hiện đại, thực hiện song song biện pháp thô sơ và hiện đại, mà họ chỉ khoanh tay yêu cầu cấp trên chi viện, yêu cầu bộ phận khác hoặc cử người đi hỏi thiên hạ, mua sắm máy móc mới, thuê mượn công nhân một cách vô tổ chức. Sở dĩ sinh ra tình trạng ấy là do họ nhìn vấn đề một cách phiến diện, chủ quan, bề ngoài.
3.Phép biện chứng duy vật trong việc vận dụng vào hoạt động nhận thức và thực tiễn với y học
Phép biện chứng duy vật là công cụ nhận thức của người thầy thuốc.
+ ở khía cạnh lý luận: phép biện chứng duy vật có thể giúp người thầy thuốc định hướng công tác nghiên cứu.
+ ở khía cạnh phương pháp: phép biện chứng duy vật giúp người thầy thuốc định hướng phương pháp cho các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn trong y học.
- Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật đối với các hoạt động thực tiễn và nhận thức của người thầy thuốc :
§ Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ phổ biến của đối tượng nghiên cứu.
§ Trong tổng số các mối liên hệđã tìm ra phải rút ra được mối liên hệ bản chất, chủ yếu để hiểu sâu sắc bản chất đối tượng
§ Từ bản chất của đối tượng đã phát hiện, quay trở lại hiểu toàn bộđối tượng trên cơ sở liên kết mối liên hệ bản chất.
Nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của người thầy thuốc có những nội dung chính sau:
§ Khi xem xét đối tượng nghiên cứu phải đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng.
§ Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó vềđối tượng cóđược trong hoàn cảnh cụ thể nhất định, xem đó là nhận thức tư duy đúng về toàn bộđối tượng trong quá trình phát triển tiếp theo.
Nguyên tắc định luận của phép biện chứng duy vật đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của người thầy thuốc có những nội dung chính sau:
§ Khi xem xét toàn diện các mối liên hệ của các đối tượng, người thầy thuốc ghi nhận các thuộc tính của đối tượng và lý giải chúng thông qua các phạm trù của khoa học chuyên môn.
§ Vận dụng lý luận phép biện chứng duy vật về nguyên nhân và kết quả vào việc xem xét nguyên nhân của bệnh có thể kết luận rằng mọi bệnh đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong.
Nguyên tắc từ trừu tượng đến cụ thể: là nguyên tắc được rút ra từ tính quy luật chung của tự nhiên, xã hội, nhận thức là một hoạt động từ nội dung kém phong phú, phiến diện đến một nội dung phong phúđa diện, cụ thể diễn ra trong quá trình những thành tựu này bị những thành tựu khác phủđịnh biện chứng..
Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận để xây dựng lý thuyết và lý giải các thành tựu của nhận thức y học.
+ Muốn xây dựng được một lý thuyết đúng đắn, người thầy thuốc phải xuất phát từ lập trường duy vật, phải có cách nhìn, cách xem xét đối tượng trong một cách biện chứng.
+ Người thầy thuốc vận dụng những phương pháp riêng thủ thuật riêng của ngành y do đối tượng của nó quy định để giải quyết vấn đề chuyên môn của mình.
+ Các quan điểm triết học duy vật biện chứng liên quan với đối tượng nghiên cứu của y học được người thầy thuốc vận dụng để giải thích về mặt lý luận bản chất các thành tựu đã thu được ở giai đoạn trước đó.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận duy nhất đúng đắn để giải quyết những vấn đề triết học nảy sinh trong quá trình nghiên cứu y học.
+ Sự xâm nhập của các tư tưởng và phương pháp của khoa học tự nhiên hiện đại dẫn đến sự hình thành các khoa học mới như: lý – sinh, hoá - sinh, điều khiển học – sinh học, sinh học phân tử. Xác định nội dung và phương pháp của các khoa học đó môt cách đúng đắn chỉ có thể tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng.
Phép biện chứng duy vật là khoa học duy nhất đúng đắn về tư duy lý luận, về nghệ thuật vận dụng các khái niệm của người thầy thuốc.
+ Các kết quả nghiên cứu trong y học phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật vận dụng các khái niệm, phạm trù, nghệ thuật vận dụng các hình thức trừu tượng. Các nhà y học phải biết vận dụng không chỉ các khái niệm có sẵn, các phạm trù cốđịnh bất biến như lôgíc hình thức đang làm mà còn phải biết vận dụng các khái niệm phạm trù thường xuyên biến đổi, chuyển hoá lẫn nhau nữa. Phép biện chứng duy vật góp phần đáp ứng được yêu cầu đó của người thầy thuốc.
Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận đúng đắn giúp người thầy thuốc đấu tranh chống lại tư tưởng chính trị phản động thông qua khoa học tự nhiên.
KẾT LUẬN:
Như vậy, chúng ta đã nghiên cứu các nguyên lý các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật, đó là những nội dung cơ bản nhất của phép biện chứng. Các nguyên lý là những nguyên tắc tổng quát của thế giới khách quan, và nó cũng là nguyên tắc tổng quát nhất của phép biện chứng duy vật. Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật đề cập đến những phương diện khác nhau của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự tác động tổng hợp của tất cảnhững quy luật cơ bản do phép biện chứng duy vật trừu tượng hoá và khái quát hoá. Do đó, trong hoạt động của mình, cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn để đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn con người cần vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc năng động sáng tạo phù hợp điều kiện cụ thể.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tr26.doc