Đề tài Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới

Tài liệu Đề tài Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới: LỜI MỞ ĐẦU. Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết của Nhà nước về tình hình sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá dịch vụ trong nước. Ngoài ra chính sách thuế còn là một trong những công cụ để thực hiện chiến lược kinh tế của đất nước. Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các nước thường dùng công cụ quản lý như: hạn ngạch, tỷ giá, giấy phép, thuế quan. Trong đó thuế xuất nhập khẩu thường được sử dụng cơ bản nhất bởi nó là cơ sở trong trao đổi buôn bán và là một nguồn thu đối với ngân sách quốc gia. Ở Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu được ban hành thành Luật vào tháng 12 năm 1987, có hiệu lực vào 01-01-1988 với tên gọi Luật Thuế xuất nhập khẩu hàng mậu dịch. Sau hai lần sửa đổi vào các năm 1991 và 1993 và gần đây nhất là tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X (tháng 4, tháng 5 năm 1998), Luật Thuế xuất nhập khẩu đã có những nội dung thay đổi cơ bản về thời hạn tính thuế, thuế suất, về xử lý vi phạm.v.v. Tuy vậy trong quá trình thực hiện, thuế xuất nhập khẩu vẫ...

docx26 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU. Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết của Nhà nước về tình hình sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá dịch vụ trong nước. Ngoài ra chính sách thuế còn là một trong những công cụ để thực hiện chiến lược kinh tế của đất nước. Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các nước thường dùng công cụ quản lý như: hạn ngạch, tỷ giá, giấy phép, thuế quan. Trong đó thuế xuất nhập khẩu thường được sử dụng cơ bản nhất bởi nó là cơ sở trong trao đổi buôn bán và là một nguồn thu đối với ngân sách quốc gia. Ở Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu được ban hành thành Luật vào tháng 12 năm 1987, có hiệu lực vào 01-01-1988 với tên gọi Luật Thuế xuất nhập khẩu hàng mậu dịch. Sau hai lần sửa đổi vào các năm 1991 và 1993 và gần đây nhất là tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X (tháng 4, tháng 5 năm 1998), Luật Thuế xuất nhập khẩu đã có những nội dung thay đổi cơ bản về thời hạn tính thuế, thuế suất, về xử lý vi phạm.v.v. Tuy vậy trong quá trình thực hiện, thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều hạn chế và có những điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế trong nước, cần phải tiếp tục bổ xung sửa đổi. Mặt khác, trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước cũng như bối cảnh quốc tế mới, làm cho Luật thuế xuất nhập khẩu vừa đáp ứng được nhu cầu quản lý kinh tế trong nước , vừa phù hợp với luật lệ và thông lệ quốc tế là một yêu cầu khách quan : Một là, nền kinh tế trong nước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường bước đầu mang lại những kết quả khả quan. Nền kinh tế chuyển từ cung hàng hoá không đủ cho tiêu dùng sang cung vượt cầu. Nhu cầu xuất khẩu những sản phẩm có thế mạnh như hàng nông , thuỷ sản và nhập các mặt hàng có yếu tố kỹ thuật cao phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá là rất lớn. Đổi mới nâng cao chính sách thuế xuất nhập khẩu chính là tạo môi trường thuận lợi để thoả mãn các nhu cầu trên. Hai là, sự gia nhập vào các tổ chức trong khu vực như ASEAN, sự tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA và gần đây nhất là việc Việt Nam ký hiệp định song phương với Mỹ đang đặt ra nhiều vận hội cho đất nước, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mà chúng ta phải nỗ lực mới đạt được những mục tiêu phát triển mong muốn. Thách thức trước mắt là chúng ta phải cắt giảm thuế quan với nhiều mặt hàng theo yêu cầu của CEPT (Common Effective Preferential Tariffs) trong chuơng trình tiến tới AFTA (ASEAN FREE TRADE AREA), xa hơn nữa là ra nhập WTO. Các chương trình này đòi hỏi chúng ta phải có những thay đổi về chính sách thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp. Hơn nữa, quá trình quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ, ở khắp các châu lục, các khu vực của thế giới, kéo theo sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của các nước chậm phát triển nhất. Sự hoà nhập quốc tế này đòi hỏi phải có sự thống nhất ngày càng rộng rãi của những quy định pháp luật,và thông lệ quốc tế trong hợp tác phát triển. Sự hoà nhập tất yếu của Việt Nam vào hợp tác khu vực và quốc tế cũng đặt ra nhiệm vụ thích hợp hoá các chính sách quản lý phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh chính sách thuế xuất nhập khẩu, đối với các điều kiện và thông lệ chung thế giới. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi thực hiện bài viết này với tiêu đề: “Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới”. Mục đích của bài viết là nhằm làm sáng tỏ một phần về chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện hành và những biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới. Do thời gian có hạn và trình độ còn hạn chế chính vì vậy bài viết không tránh khỏi có những thiêú sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thày cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! I.Thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá: 1. Sự hình thành các khu vực mậu dịch tự do và các tổ chức thương mại quốc tế : Trên thế giới, xu hướng quốc tế hoá đang trở nên ngày càng mạnh mẽ. Các nước có xu hướng hợp tác với nhau để cùng phát triển, đặc biệt là trong thương mại. Chính vì lẽ đó các tổ chức thương mại mang tính khu vực và quốc tế được thành lập ngày càng nhiều. Tổ chức thương mại quốc tế quan trọng nhất trên thế giới hiện nay là WTO. WTO là một tổ chức quốc tế ra nhằm mục đích phối hợp hành động của các quốc gia trong nỗ lực chung là tiến tới tự do hoá thương mại toàn cầu. WTO được hình thành nhờ kết quả quả của vòng đàm phán mậu dịch Uruguay với mục đích nâng cao cơ chế của GATT. WTO kế thừa và củng cố các chức năng của GATT. Cụ thể : Một là, chức năng tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên. Hai là, đề ra những quy tắc mới về thương mại và đảm bảo các nước thành viên phải thực hiện những quy tắc đó. Ba là, giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế. Bốn là, phát triển nền kinh tế thị trường. Để nền kinh tế thị trường hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động của nó. WTO hoạt động dựa trên hai nguyên tắc quan trọng. Đó là: Sự đối xử không phân biệt. Nguyên tắc này được áp dụng bằng hai loại đãi ngộ song song, là đãi ngộ tối huệ quốc và cách đối xử quốc gia. Nguyên tắc thứ hai là bảo hộ sản nghiệp bằng thuế quan. Ngoài ra còn một số nguyên tắc như: ổn định thương mại, tăng cường cạnh tranh lành mạnh.v..v. Theo xu hướng của thời đại ở Đông Nam Á có một tổ chức thương mại được thành lập từ rất sớm. Đó là ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á). Được thành lập trên cơ sở tuyên bố Băng Cốc ngày 08/08/1967 của hội nghị ngoại trưởng năm nước thuộc khu vực Đông Nam Á: Thái Lan, Malayxia, Singapo, Philippin và Indonexia. ASEAN được thành lập với mục đích: Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực; thúc đẩy hoà bình ổn định trong khu vực; duy trì sự hợp tác chặt chẽ, cùng có lợi với các tổ chức quốc tế; Xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, tự do, thịnh vượng và trung lập không có sự can thiệp từ bên ngoài với bất kỳ hình thức nào. Nguyên tắc hoạt động của ASEAN. Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia. Hai là, tôn trọng quyền của mọi quốc gia được tồn tại mà không có sự can thiệp, lật đổ hoặc áp bức từ bên ngoài. Ba là, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Bốn là, giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình. Năm là, từ bỏ việc đe doạ hoặc sử dụng vũ lực. Sáu là, hợp tác với nhau một cách có hiệu quả. Ngoài hai tổ chức trên hiện nay trên thế giới tồn tại rất nhiều các tổ chức thương mại mang tính quốc tế và khu vực như: APEC (Nhóm hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương).v..v.Hay những hiệp định chung về thương mại, như: Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, hiệp định về khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA). Hiện nay việc hợp tác giữa các quốc gia để giải quyết các vấn đề chung thường thông qua hình thức đối thoại có thể là song phương hoặc đa phương. Trong thương mại cũng vậy các nước thường đàm phán với nhau để ký kết các hiệp định thương mại chung, từ đó thành lập nên các tổ chức thương mại. Các nước khác có nhu cầu sẽ xin ra nhập các tổ chức đó và xu hướng hội nhập trở nên phổ biến. Việc hội nhập đặt ra cho các quốc gia những thời cơ nhưng cũng không ít thách thức. Khi là thành viên của các tổ chức thương mại, các quốc gia được hưởng các ưu đãi về nhiều mặt, tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên, các quốc gia muốn trở thành các quốc gia thành viên phải có đầy đủ điều kiện và phải thoả mãn được những yêu cầu rất cao của các tổ chức mà họ muốn ra nhập. Chính vì vậy các quốc gia tham gia quá trình hội nhập thường phải đối mặt với một vấn đề đó là cải tổ nền kinh tế trong nước cho phù hợp với yêu cầu mà các tổ chức đó đặt ra. 2. Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập: 2.1. Mục tiêu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập thương mại khu vực và quốc tế: Một là, nhằm tạo ra những cơ hội mới, lộ trình mới cho sự phát triển đất nước. Hai là, nhằm liên kết các nguồn lực trong nước và ngoài nước một cách có chọn lọc, có định hướng để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH-HĐH. Ba là, kết nối giữa thị trường trong nước và quốc tế, kinh tế quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.2. Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, thời cơ và thách thức: Hội nhập thường được hiểu như là mức độ của các hoạt động giao thương. Nhưng thực ra hội nhập không phải là vấn đề kim nghạch hoặc ngay cả việc giao thương với ai. Hội nhập chính là sự tự do giao thương. Ví dụ Mỹ có mức độ hội nhập cao vì doanh nhân Mỹ được tự do giao thương với nước ngoài, nhưng mức độ giao thương tương đối của họ (tỷ lệ kim nghạch xuất nhập khẩu GDP) lại thấp; trong khi đó tỷ lệ tương ứng của Việt Nam khá cao (khoảng 50% GDP) nhưng Việt Nam không được xem là một nước có mức độ hội nhập cao. Hội nhập sẽ có tác động hạ thấp hoặc huỷ bỏ các rào cản gây khó khăn và hạn chế sự tự do chuyển dịch của hàng hoá cũng như con người, tạo nên một sự năng động mới làm cho mọi người tham gia cuộc chơi đều có lợi. Hiện nay, trên thế giới, xu hướng quốc tế hoá đang trở nên phổ biến. Nó mang lại cơ hội và không ít thách thức đối với nền kinh tế các nước. Trước hết nó khai thác lợi thế cạnh tranh giữa các nước( lao động, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá, truyền thống, mức độ phát triển...). Theo đó thì không có nước nào có lợi thế tuyệt đối về mọi mặt, ngay cả các cường quốc kinh tế lớn nhất nhì thế giới. Mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh khác nhau vì mỗi nước đều có điều kiện tài nguyên thiên nhiên khác nhau. Do đó, mỗi nước đều có vai trò tích cực trong hội nhập. Có thể đơn cử như trường hợp của Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ ngoại thương của Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hàng dọc( Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản, và nhập khẩu hàng công nghiệp). Những mặt hàng ở nhóm A là lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so sánh. Còn Trung Quốc thì có lợi thế so sánh ở những mặt hàng thuộc nhóm B. Tuy nhiên hội nhập đặt ra một cuộc chiến không khoan nhượng trên mọi mặt của đời sống kinh tế. Nó đặt các chủ thể của các nền kinh tế trước tình thế phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Vậy tại sao Việt Nam quyết định hội nhập? Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị chính là câu trả lời. Hội nhập sẽ đem lại nhiều cơ hội phát triển có tầm vóc chiến lược lâu dài, nếu chúng ta biết tổ chức và chuẩn bị tốt để đương đầu với những thách thức mới. 2.3. Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới: Vào năm 1993, hiệp định khung về hợp tác Việt Nam-EU đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai bên. Hiệp định về buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký tắt cuối tháng 12 năm 1992 và bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1993. Tiếp đó, vào ngày 01/10/1996 Việt Nam ra nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Nội dung chính là việc thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT, để thành lập một thị trường khu vực rộng lớn và mở cửa với mức thuế quan thấp (từ 0-5%), xoá bỏ các hàng rào thương mại cho các nước thành viên. Gần đây, Việt Nam và Hoa Kỳ vừa ký kết hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ. Mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ. Tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ ,một thị trường lớn và quan trọng bậc nhất thế giới. Ngoài ra Việt Nam còn ký nhiều hiệp định thương mại song phương với nhiều nước, đặt quan hệ buôn bán với nhiều nước và tham dự nhiều diễn đàn kinh tế quan trọng. II.Chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam : 1.Thuế xuất nhập khẩu và quá trình hình thành và phát triển của thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam : Thuế xuất nhập khẩu phát sinh khi có sự chuyển dịch hàng hoá qua cửa khẩu và khu chế xuất. Đối tượng nộp thuế là tất cả hàng hoá được phép xuất nhập khẩu qua biên giới và hàng hoá ngoài thị trường mua bán với khu chế xuất. Hàng vận chuyển quá cảnh, hàng chuyển khẩu và hàng nhân đạo không thuộc diện chịu thuế. Trong thời kỳ nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sự giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới rất kém phát triển nên thuế xuất nhập khẩu không quan trọng. Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành vào 01-01-1988 đánh dấu bước đầu tiên trong việc lập ra hệ thống thuế xuất nhập khẩu bao trùm toàn bộ. Biểu thuế ban đầu có nhiều điểm đã được hợp lý hoá vào năm 1992, bằng cách áp dụng hệ thống đồng bộ hoá (HS) của phân loại thuế và một biểu thuế tổng hợp đã sửa đổi toàn bộ dựa vào hệ thống này cũng được ban hành cùng năm đó. Ngay từ đầu, cơ cấu thuế quan đã hàm chứa một thiên vị chính sách có lợi cho những ngành và những sản phẩm định hướng thị trường nội địa, đặc biệt là trong những ngành do doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm lĩnh. Trong định hướng chính sách lớn này, việc điều chỉnh cơ cấu thuế quan trong những năm sau đó phản ánh xu hướng gia tăng bảo hộ có chọn lọc hàng tiêu dùng (mỹ phẩm, một số loại dược phẩm), những mặt hàng thuộc công đoạn đầu nguồn có liên quan đến dệt may (lụa, bông, và một số loại sợi) và một số hàng trung gian được bảo hộ đặc biệt (sản phẩm kim loại, xi măng, kính). Nhóm hàng duy nhất cho thấy có tỷ lệ bảo hộ bằng thuế quan trung bình giảm là thiết bị và một số nhóm thực phẩm chế biến. Trong những năm đầu cải cách định hướng thị trường, Việt Nam đã áp dụng thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng xuất khẩu. Điều đó là cơ sở để bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, và giữ đầu vào cho sản xuất trong nước. Những loại thuế này đã dần được bãi bỏ. Đến năm 1998, chỉ còn hai sản phẩm là dầu thô và kim loại phế thải là chịu thuế xuất khẩu. 2.Tác dụng của thuế xuất nhập khẩu: Một là, thuế xuất nhập khẩu là một trong những biện pháp tài chính mà các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thuế xuất nhập khẩu thực chất là một khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của hàng hoá, dịch vụ được trao đổi buôn bán giữa các quốc gia mà chủ sở hữu chúng phải nộp thuế cho nhà nước. Hai là, thuế chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thông thường nguồn thu từ thuế chiếm từ 60-90% ngân sách. Cho nên thuế thường trở nên là một công cụ quan trọng của chính phủ góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mất cân đối lớn trong nền kinh tế; góp phần khuyến khích tăng trưởng kinh tế; khuyến khích cạnh tranh và mở rộng các thành phần kinh tế, động viên khai thác tài nguyên lao động, nguyên nhiên vật liệu trong nước; kích thích nguồn vốn khai thác từ nước ngoài; mở rộng giao lưu hàng hoá...Ngoài ra, thuế còn có tác dụng góp phần đảm bảo công bằng xã hội, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế... Ba là,Việt Nam là một trong những nước mà hệ thống thuế chưa phát triển thì thuế xuất nhập khẩu được xem là nguồn thu quan trọng trong ngân sách Chính phủ. Khối lượng thuế nhập khẩu là chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ nguồn thu của nước ta, do đặc điểm là sản xuất công nghiệp còn non yếu và tiêu thụ lại theo xu hướng chuộng đồ ngoại. Nên tốc độ nhập khẩu luôn tăng nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế và vì vậy thuế nhập khẩu càng trở nên quan trọng. Thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước, đảm bảo các cam kết với chính phủ nước ngoài, là công cụ để nhà nước thực hiện các chiến lược lớn liên quan tới thương mại quốc tế. Thuế xuất nhập khẩu còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu. 3. Chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam : Với mốc son lịch sử là Đại hội Đảng VI của Đảng năm 1986. Nền kinh tế Việt Nam bước sang một thời kỳ phát triển mới. Với phương châm “Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” Việt Nam ngày càng có nhiều bạn hàng buôn bán làm ăn, nền kinh tế ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết. Một trong những vấn đề đó là những tồn tại trong chính sách thuế xuất nhập khẩu. Trong thời kỳ sau khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, Chính sách thuế xuất nhập khẩu mang nặng tính bảo hộ hàng hoá trong nước, điều này là dễ hiểu vì nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ còn nhỏ yếu, lạc hậu, thiếu sức cạnh tranh. Việc đưa ra các chính sách thiên về bảo hộ hàng hoá trong nước vào giai đoạn đó là tất yếu. Chính vì vậy trong giai đoạn này kim nghạch xuất nhập khẩu còn thấp, chủ yếu tập trung xuất khẩu và nhập khẩu với các nước bạn hàng cũ như Liên Xô sau này là Nga hay các nước Đông Âu... Kim nghạch nhập khẩu trong giai đoạn này là thấp, do các nước bạn hàng phải đương đầu với cả chính sách bảo hộ hàng hoá trong nước. Trong những năm sau đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam đã từng bước được đổi mới để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Nhờ đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện chủ trương tăng nguồn thu cho ngân sách, dần trở thành công cụ quản lý vĩ mô, khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với chính sách mở cửa, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong tình hình mới. Sau khi gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và chuẩn bị để ra nhập WTO, việc cơ cấu lại một cách căn bản hệ thống thuế quan đã được tiến hành từ đầu năm 1999 (theo Quyết định 1983 của Bộ Tài chính, ban hành ngày 11-12-1998). Theo cơ cấu thuế quan mới thì biểu thuế xuất nhập khẩu nước ta bao gồm hai loại thuế xuất là thuế xuất ưu đãi và thuế xuất phổ thông, được chia thành ba loại thuế suất (ba thuế suất khác nhau cho cùng một hạng mục thuế): Một là, thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các nước thành viên Hiệp hội Thương mại tự do ASEAN (thuế suất ưu đãi có hiệu lực chung, CEPT). Hai là, thuế suất ưu đãi áp dụng cho những nước mà Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, hầu hết các nước Châu Á ngoài ASEAN, New Zealand, Australia và Mỹ) Với điều kiện phải ghi rõ ràng từng mặt hàng, số lượng, mức thuế suất ưu đãi cụ thể. Ba là, thuế suất thông thường được áp dụng cho các loại hàng hoá nói chung không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nước nào, hàng hoá từ mọi nước dùng chung một mức thuế.(Thuế suất danh nghĩa cao hơn cao hơn so với thuế suất ưu đãi loại hai 50% ) Để khuyến khích xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với việc nhập khẩu hàng hoá phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, chính sách thuế xuất nhập khẩu còn quy định các trường hợp được miễn giảm và hoàn lại thuế. Đã có sự điều chỉnh đáng kể trong cơ cấu thuế quan mới trong những năm qua. Thuế suất trung bình (không gia quyền) đã tăng từ 12,8% năm 1995 lên 13,4% năm 1997, lên 15,7% vào năm 2002. Sự gia tăng đôi chút này lại kèm theo việc giảm đáng kể về độ phân tán của từng loại thuế suất riêng biệt xung quanh thuế suất trung bình; hệ số biến thiên đã giảm từ 131% năm 1997 xuống 116,3% năm 2002. Cơ cấu thuế quan hiện tại chỉ có 15 dòng thuế, so với 35 vào năm 1997. Thuế suất tối đa cũng đã giảm từ 200% xuống còn 120% trong giai đoạn này, kèm theo là giảm số dòng thuế nằm ở mức cao nhất của biểu thuế. Cho đến đầu năm 2002, chỉ có 1,1% tổng số dòng thuế (74 trong tổng số 6296) là có thuế suất trên 50%.( Số liệu được lấy từ ba bảng HS chính: HS22( đồ uống, rượu mạnh và dấm), HS24( thuốc lá sợi và thuốc lá chế biến), HS87 (phương tiện giao thông trừ đường sắt). Việc giảm độ phân tán của thuế quan vào năm 2002 so với năm 1997 chủ yếu là do điều chỉnh lại một số thuế suất ở mức giữa, theo hướng tăng thuế suất. Ví dụ, những dòng thuế có thuế suất trong khoảng 12%-28% (có bao gộp) đã biến mất trong năm 2002. Kèm theo là gia tăng những thuế suất 30%-50% (có bao gộp), trước đây là 20%-30%. không có thay đổi gì đáng kể trong phân bổ thuế suất ở mức thấp (0%-10%) Một phần ba số dòng thuế vẫn còn có mức thuế suất bằng 0. Việc phân bổ thuế suất giữa các bảng HS thể hiện tính leo thang trong cơ cấu thuế của Việt Nam, trong đó sản phẩm cuối cùng (chủ yếu là hàng tiêu dùng) có tỷ lệ bảo hộ cao, trong khi hàng trung gian có thuế suất bằng 0 hoặc thuế suất thấp. Mức thuế đặc biệt cao đối với thực phẩm và nông sản và một số hàng tiêu dùng (nhất là quần áo, giầy dép, sản phẩm sứ, và đồ da). Điều quan trọng cần lưu ý là trong khi thuế đánh vào hàng trung gian thường thấp hơn so với sản phẩm cuối cùng, hàng trung gian nhập khẩu để làm đầu vào cho những nghành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh xuất khẩu thường cao hơn nhiều so với những đầu vào cho những nghành cạnh tranh với nhập khẩu. Ví dụ: sợi để dệt và dệt kim chịu thuế nhập khẩu là 40%. Hầu hết những thuế suất thấp hoặc bằng không áp dụng cho những mặt hàng chủ yếu do khu vực doanh nghiệp Nhà nước sử dụng làm đầu vào cho sản xuất hàng trung gian hoặc thành phẩm do thị trường nội địa. Khi so sánh cơ cấu thuế quan danh nghĩa hiện tại của Việt Nam với Trung Quốc, Indonesia,Philippines, Malaysia và Thái Lan. Thuế suất trung bình của Việt Nam (theo bình quân đơn giản và gia quyền theo lượng nhập khẩu) là ngang với Trung Quốc và Thái Lan, nhưng cao hơn nhiều so với ba nước còn lại. Điều suy luận này cũng đúng cho hàng công nghiệp chế tạo và hàng nông sản nhập khẩu. Tuy nhiên, cơ cấu thuế quan của Việt Nam cho đến nay tỏ ra có độ phân tán cao nhất (chênh lệch xa so với mức thuế trung bình) so với năm nước kia. Việc thay đổi chính sách thuế xuất nhập khẩu đã mang lại một số kết quả khả quan. So với năm 1994, năm trước khi Việt Nam ra nhập ASEAN, kim ngạch xuất khẩu năm 2001 của Việt Nam sang các nước khác thuộc ASEAN đạt trên 2,55 tỷ USD, lớn gấp 2,8 lần. Còn kim nghạch nhập khẩu từ các nước khác trong hiệp hội đạt khoảng 4,12 tỷ USD gấp hơn 2,3 lần. III. Những ưu điểm, những hạn chế và các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay: 1. Những ưu điểm của thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay: Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành hiện nay đã có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện hơn trước đây. Cụ thể: Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hoà(HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hoá dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hoá...góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế. Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số hàng như dầu thô, một số loại quặng và song mây. Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức là thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện. Theo tài liệu của Bộ Thương mại, hiện nay Việt Nam đã có thoả thuận về đối xử ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với một số nước trong khu vực như: Brunei, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philipines, Singapore, Tháilan. Nước ta đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với 66 nước trên thế giới. Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm, hiện nay mức tối đa hạ xuống còn 60%. Số lượng mức thuế được giảm từ 25 xuống còn 18 mức, mức độ phân tán giữa các mức thuế giảm dần. Ngoài việc giảm số lượng các mặt hàng chịu sự quản lý giá tối thiểu của Nhà nước xuống còn 15 mặt hàng, Nhà nước còn quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn. Quy trình thu thuế xuất nhập khẩu mới được ban hành có hiệu lực từ 01.01.1999. Theo quy trình này, các thủ tục hải quan được thực hiện nhanh chóng, công khai, đảm bảo thông thoáng, nhanh chóng và thuận tiện tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu. Do hệ thống chính sách, cơ chế quản lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được cải tiến theo hướng này càng đơn giản, thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực thúc đẩy sản xuất xuất khẩu tăng nhanh và hướng nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống. Trong thời gian qua kim nghạch xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Tổng kim nghạch xuất nhập khẩu của Việt Nam thời gian qua 1995 1996 1997 1998 Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại 5.459 8.155 2.707 7.256 11.144 9.888 9.145 11.622 2.477 1.861 11.494 2.133 Nguồn: Thống kê hải quan-Tổng cục hải quan. Thị truờng xuất khẩu của nước ta được mở rộng và ngày càng tăng so với trước đây. Nhiều thị trường xuất nhập khẩu đã được mở ra như thị trường Liên minh Châu Âu(EU), Nhật Bản, Hồng Kông, Trung quốc, Australia, Trung cận đông, Châu Phi và các nước Đông Nam Á. Đến nay Việt Nam đã đặt quan hệ buôn bán với 105 quốc gia, trong đó có 10 quốc gia là bạn hàng lớn nhất chiếm trên dưới 75% tổng kim nghạch xuất khẩu, nhập khẩu. Hàng Việt Nam đã từng bước thâm nhập thị trường Mỹ, hiện nay ta đang khôi phục lại thị trường truyền thống đối với các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu... Có thể nói rằng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có tác động tích cực trong việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần phát triển, bảo vệ sản xuất trong nước, hưóng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. 2. Hạn chế: Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể gần đây nhằm hợp lý hoá cơ cấu thuế quan, nhưng cơ cấu thuế xuất nhập khẩu vẫn còn có nhiều hạn chế: Một là, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện hướng mạnh về xuất khẩu. Hai là, chưa phù hợp với chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần Ba là, chưa phù hợp với thông lệ và các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế mà nước ta đã và sẽ hội nhập. Bốn là, trong tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập. Cụ thể 2.1.Biểu thuế: Việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu (xuất nhập khẩu) hiện hành là chưa phù hợp: thuế suất dàn trải quá rộng, thuế xuất nhập khẩu do gánh chịu nhiều mục tiêu bao gồm cả kinh tế, văn hoá và xã hội, cho chính sách thuế xuất nhập khẩu nằm trong hê thống thuế với tính chất là công cụ điều tiết trong tay Nhà nước. Do vậy, mà cơ cấu thuế trở nên phức tạp, trùng lặp và nhiều mức thuế quy định quá chi tiết. Một vài mức thuế rất sát nhau, đặc biệt là thuế nhập khẩu: 0,5%, 1%, 2%, 3%, 5%, 6%, 7%, 10%.......38%, 40%. Có thể hiểu có nhiều mức thuế chi tiết như thế là do phải thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội, nhiều trường hợp bảo hộ đến từng doanh nghiệp sản xuất trong từng nhóm doanh nghiệp trong nước. Điều này làm cho biểu thuế mất tính tập trung, quá nhiều mức thuế làm cho cơ cấu thuế phức tạp một cách không cần thiết. Thuế dàn trải là có hại- thậm chí tai hại hơn mức thuế suất cao nhưng không thống nhất vì chúng làm nguồn vốn đưa vào hoạt động không có hiệu quả. Việc ban hành biểu thuế nhập khẩu hiện nay có quá nhiều mức thuế suất dưới 5% làm cho kết quả thu vào ngân sách bị hạn chế, dồn gánh nặng về yêu cầu động viên ngân sách nhà nước cho các mặt hàng khác. Biểu thuế nhập khẩu mặc dù quy định theo khung thuế suất tạo điều kiện cho việc quy định mức thuế suất được linh hoạt nhưng lại dẫn đến thiếu ổn định, làm cho doanh nghiệp thiếu yên tâm trong việc đầu tư phát triển sản xuất và nhập khẩu. 2.2.Thuế nhập khẩu bao gồm nhiều thứ thuế, cả thuế doanh thu cả thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng nên thuế suất rất cao (như rượu, bia từ 100-150%, ôtô từ 50%-200%...). Tuy có thuận tiện là tập trung nhưng không phù hợp với thông lệ quốc tế, dễ bị hiểu lầm là hạn chế hàng nước ngoại nhập khẩu vao Việt Nam. 2.3.Thuế suất cao và quá cao đánh vào một số mặt hàng tiêu dùng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ đã khuyến khích tình trạng buôn lậu và trốn thuế của các doanh nghiệp. Nhiều phương thức trốn thuế được sử dụng kể cả hối lộ cán bộ hải quan và kết hợp với nhiều hiện tượng tiêu cực khác. Biểu thuế nhập khẩu càng có nhiều tầng, nhiều sự phân biệt chiếu cố theo mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế hay hạn chế tiêu thụ đều là chỗ dựa cho hiện tượng tiêu cực. Việc giảm xuất nhập khẩu tiểu nghạch đã phần nào hạn chế hiện tượng tiêu cực theo các cửa khẩu biên giới rất khó kiểm soát. 2.4. Việc ban hành biểu thuế với nhiều thứ thuế suất cao, thấp còn căn cứ vào mục đích sử dụng chứ không theo tính chất hàng hoá. Vì vậy nhiều mặt hàng có cùng tính chất nhưng mục đích sử dụng khác nhau có thuế suất nhập khẩu chênh lệch khá lớn như: Xe đua(thuế suất 5%), xe đạp thường (70%), ôtô 4 chỗ (200%), xe cứu thương (0%)...Cho nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng điều này để thực hiện hành vi gian lận thương mại, trốn thuế. Thủ thuật quan trọng nhất để trốn thuế là hạ thấp giá trị hàng nhập khẩu để hạ thấp giá trị tính thuế hay hạ quy cách kê khai để hưởng mức thuế suất thấp hơn đã trở nên phổ biến với hàng hoá có đơn giá lớn và thuế suất cao như: xe hơi, rượu mạnh...Điển hình là các doanh nghiệp nhập khẩu xe tải nhẹ nhưng nguỵ trang dưới hình thức là nhập khẩu xe đông lạnh chuyên dụng để trốn thuế từ 60% xuống còn 10% hay xe ôtô du lịch thì được lắp thêm đèn, còi thành xe cứu thương để được hoàn thuế. 2.5. Thuế chồng lên thuế được thể hiện ở việc đánh thuế trên giá CIF và thuế đánh trên phụ thu, cụ thể như sau: Ví dụ: Một công ty xuất nhập khẩu gạo với giá FOB (hàng giao tại cảng Việt Nam ) khoảng 250 USD/MT, thì phải đóng thuế suất là 1% tức là 25USD. Nhưng nếu công ty đó xuất khẩu với giá CIF (hàng đưa đến tận cảng nước người bán) thì giá hàng cộng với phí vận chuyển là 40USD/MT, do đó giá thành xuất khẩu là 290USD/MT, với thuế suất xuất khẩu là 1% tức là 29USD. Như vậy nhà xuất khẩu bị thiệt 4USD chi phí vận chuyển, đơn vị vận tải biển cũng phải đóng thuế doanh thu trên 40USD đó. Và đơn vị bảo hiểm cũng đóng thuế doanh thu khi hưởng phí vận chuyển qua biển do đơn vị xuất nhập khẩu đóng. Như vậy một tấn gạo xuất khẩu với giá CIF thì đóng thuế là 29USD, thêm vào đó đơn vị vận chuyển, đơn vị bảo hiểm cũng phải đóng thuế. Trong đó, đơn vị xuất khẩu chịu thiệt thòi nhất, nên họ chỉ bán với giá FOB cho có lợi. Nếu đơn vị xuất khẩu với giá FOB thì đơn vị vận tải và bảo hiểm bị giảm doanh thu do đó ngân sách Nhà nước cũng giảm, đây chính là điều cần nghiên cứu sửa đổi ở Việt Nam. Trên thực tế, không phải công ty nào cũng muốn xuất theo giá CIF, lý do là số công ty này sợ rủi ro khi vận tải bằng đường biển nên chỉ xuất theo giá FOB. Nhưng một khi ngành bảo hiểm hoạt động mạnh, thì số công ty xuất nhập khẩu theo giá CIF sẽ nhiều hơn (vì giá CIF là giá bán tận ngọn nên có lợi nhuận cao hơn giá FOB). Vì vậy đổi mới chính sách thuế cho phù hợp cũng chính là khuyến khích phát triển, tăng thu ngân sách Nhà nước. 2.6. Quy định trong việc nộp thuế nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu và hoàn trả thuế xuất khẩu cũng còn hạn chế, bất hợp lý. Với biểu thuế từ 30%-40% cho những lô hàng nguyên liệu, phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, trong thời gian nộp thuế 30 ngày thì cơ sở sản xuất sẽ không đủ vốn để tạm ứng nộp thuế, vì khi nguyên liệu về, cơ sở phải lo triển khai sản xuất trong thời gian vài tháng thậm chí có lô kéo dài tới nửa năm. 2.7.Việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới còn bất hợp lý. Điều này được thể hiện ở chỗ: Thông thường thì các mặt hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc là những mặt hàng khuyến khích xuất khẩu như than số 11, 12; chuối xanh, tiêu, điều, ớt, dừa...Với số lượng ít, kém chất lượng, những mặt hàng khó xuất sang theo con đường chính ngạch. Nhưng xuất khẩu theo con đường tiểu ngạch phải chịu mức thuế suất là 5%, cao hơn xuất khẩu chính ngạch... Chính thuế nhập khẩu đánh vào hàng nguyên liệu đầu vào đã làm tăng giá cả hàng sản xuất và xuất khẩu trong nước, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng hoá của ta trên trường quốc tế. Như vậy thuế xuất đó là một lực cản kìm hãm xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại với nhiều nước, trong đó có điều khoản dành cho nhau ưu đãi tối huệ quốc về thuế nhập khẩu (MFN) nhưng không ghi rõ từng mặt hàng với số lượng cụ thể . Do đó, trên thực tế, biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam chỉ có duy nhất một loại thuế suất áp dụng phổ cập cho tất cả các loại hàng hoá không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hoặc tình huống áp dụng. Hơn nữa, Việt Nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC), và sắp tới sẽ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên trong quan hệ thương mại với các thành viên của các tổ chức này và một số nước Việt Nam có chung biên giới. Việt Nam đã, đang và sẽ có những thoả thuận ưu đãi riêng. Như vậy quy định về thuế suất ưu đãi của Luật Thuế xuất nhập khẩu hiện hành chưa cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về ưu đãi tối huệ quốc (MFN). Đặc biệt, gần đây ta mới ký hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ, do đó hàng hoá của ta sẽ thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường Hoa Kỳ, một thị trường lớn, có sức tiêu thụ lớn nhất thế giới. Hơn nữa, qua hiệp định này mở ra khả năng Việt Nam có thể ký hiệp định thương mại với nhiều nước nữa. Như vậy, quy định về thuế suất ưu đãi của Luật Thuế xuất nhập khẩu hiện hành không còn phù hợp với tình hình kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay cũng như trong giai đoạn tới. Do đó cần phải hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu của ta cho phù hợp với chính sách thuế của khu vực và thế giới. 3.Các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới: Trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu nên thực hiện theo những mục tiêu, phương hướng sau: Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải là công cụ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, hướng về xuất khẩu phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trở thành công cụ định hướng và hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế của Việt Nam được xác định là có lợi thế cạnh tranh trong thương mại khu vực và thế giới. Điều này đòi hỏi bảo hộ có chọn lọc, hợp lý chứ không tràn lan, chung chung như trước đây. Chức năng hướng dẫn tiêu dùng, tăng thu cho ngân sách của thuế này được chuyển cho thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT để phù hợp với thuế giá trị gia tăng mới ban hành và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được bổ xung trong thời gian tới. Chính sách thuế xuất nhập khẩu cần bảo hộ có điều kiện sản xuất trong nước, nhưng không cản trở hoạt động mở rộng buôn bán, đầu tư giữa nước ta với các nước ASEAN, và sự tham gia của ta vào WTO. Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện mới, đồng thời bảo đảm quản lý tốt hoạt động xuất nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với cải cách toàn diện hệ thống thuế nước ta hiện nay. Để phù hợp với nội dung này cần bổ xung những quy định về giá tính thuế, kê khai, nộp thuế, thời hạn nộp thuế một cách rõ ràng, chặt chẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng xác định được nghĩa vụ thuế của mình và thực hiện nộp thuế đầy đủ nghiêm túc theo đúng luật định. Đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện việc tổ chức, quản lý thực hiện chính sách thuế, giảm thiểu những phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới đòi hỏi chính sách thuế phải phù hợp với yêu cầu của hội nhập kinh tế, thông lệ quốc tế chống lại thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh của nước ngoài. Tham gia vào các khối liên kết kinh tế, chúng ta đã ký các cam kết về ưu đãi thuế nhập khẩu, ưu đãi tối huệ quốc trong hiệp định thương mại giữa Việt Nam với các nước, ưu đãi đặc biệt với các nước ASEAN, APEC, EU trong thời gian qua và cam kết trong thời gian tới với các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và mới đây là hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Các cam kết này là cơ sở pháp lý, cũng như thể hiện rõ ràng chính sách thuế xuất nhập khẩu được phân biệt theo mức độ quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi cho đàm phán về thuế với các nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy chính sách thuế xuất nhập khẩu cũng cần phải quy định các mức thuế suất khác nhau. Đồng thời, để tăng cường các công cụ pháp lý bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay, thuế xuất nhập khẩu cần được bổ xung những quy định về các mức thuế suất tạm thời áp dụng trong các trường hợp nước nào đó sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, hoặc có những phân biệt đối xử trong buôn bán với Việt Nam. Từ những mục tiêu, phương hướng cơ bản nêu trên, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu cần phải tập trung vào cả nội dung, tổ chức thực hiện và áp dụng đồng bộ các loại thuế khác nhau: 3.1Đối với thuế xuất khẩu: Trong việc hoàn thiện, sửa đổi biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành thì chính phủ nên bỏ việc thu thuế xuất khẩu. Bỏ thuế xuất khẩu sẽ hỗ trợ cho hàng hoá Việt Nam khả năng cạnh tranh tại thị trường nước ngoài. Mặc dù bỏ thuế sẽ giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước , nhưng bù lại chính phủ sẽ thu được các khoản thuế khác do phát triển sản xuất và mở rộng xuất khẩu. Hoặc ít ra cũng nên thu hẹp diện các mặt hàng chịu thuế. Nếu có đánh thuế xuất khẩu thì chỉ nên đánh thuế đối với các sản phẩm thật cần thiết, thuế có khả năng hạn chế hoặc có khả năng thu được như: những mặt hàng là nguyên liệu sản xuất trong nước, những tài nguyên khoáng sản không khuyến khích xuất khẩu, những sản phẩm có thị trường ổn định. Trước mắt xin bỏ thuế xuất khẩu đối với nhóm mặt hàng thuỷ hải sản để hỗ trợ thêm trong xuất khẩu và phát triển nghành nghề khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, tăng kim ngạch xuất khẩu. Trong tương lai, cùng với việc đẩy mạnh quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt Nam thì số mặt hàng bị đánh thuế xuất khẩu còn tiếp tục giảm. 3.2Đối với thuế nhập khẩu: Việc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cần hướng vào những vấn đề sau: Một là, xây dựng các mức bảo hộ khác nhau cho các nghành sản xuất trong nước, nhằm bảo vệ, hỗ trợ tối đa cho các nghành có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu, khắc phục tình trạng bảo hộ tràn lan làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả. Hai là, giảm mức thuế nhập khẩu hiện nay xuống còn bốn hoặc năm mức. Sự chênh lệch giữa các mức là do yêu cầu bảo hộ đối với từng nghành sản xuất. Nếu bảo hộ ở mức 1 là dưới 10% thì mức 2 là 20%, mức 3,4,5 tương ứng là 30%, 40%, 50%. Thuế suất cao tối đa chỉ nên chiếm khoảng trên dưới 10% tổng danh mục hàng nhập khẩu chịu thuế. Và để phù hợp với yêu cầu hội nhập ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng mức thuế. Về lâu dài mức thuế phù hợp với yêu cầu của AFTA là từ 0-5%, nhưng trước mắt ta phải giảm dần. Đối với các mặt hàng mà chúng ta không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những năm sắp tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu cho sản xuất của các ngành có thể nhấn mạnh cạnh tranh và xuất khẩu hoặc là thiết bị đặc biệt chuyên dùng cho các ngành quốc phòng, an ninh, ytế, giao thông, nông nghiệp, cần xây dựng các mức thuế nhập khẩu từ 0%-5%. Cùng với việc thu hẹp đến mức tối cần thiết diện mặt hàng có mức thuế suất 0%, cần giảm bớt diện mặt hàng miễn thuế nhập khẩu, theo hướng chỉ miễn thuế suất thuế nhập khẩu cho một số trường hợp theo thông lệ quốc tế. Với việc giảm số lượng mức thuế nhập khẩu, có những mặt hàng thì tăng thuế nhập khẩu, có những mặt hàng nhập khẩu thì giảm thuế. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu được thì tăng thuế sát thuế nhập khẩu, còn đối với những mặt hàng sẽ tăng thuế tiêu thụ, thuế giá trị gia tăng hoặc chuyển sang thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, hoặc những mặt hàng mà mức thuế nhập khẩu cao quá mức cần thiết thì giảm mức thuế suất nhập khẩu. Điều này sẽ tạo điều kiện để Việt Nam hoà nhập vào hệ thống thuế quan của các nước ASEAN trong thời gian tới và thực hiện đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Ba là, có thể áp dụng một phương pháp khác trong việc sửa đổi biểu thuế nhập khẩu để cho nó phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta đã cam kết và sẽ thực hiện, để áp dụng trong các trường hợp khác nhau tuỳ thuộc vào quan hệ của Việt Nam với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, chính sách thuế xuất nhập khẩu nên quy định ba loại thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu đó là: thuế suất phổ thông, thuế suất ưu đãi, thuế suất tạm thời. Trong đó: Thuế suất phổ thông( thuế suất tiêu chuẩn) là mức thuế suất để áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu của các nước không có quan hệ, thoả thuận song phương và đa phương về thuế quan với Việt Nam. Thuế suất tạm thời là loại thuế suất do chính phủ quy định để áp dụng trong thời gian nhất định, nhằm bảo hộ sản xuất trong nước trong những trường hợp sản xuất trong nước bị thiệt hại do những tác động của hàng nhập khẩu. Đó là trường hợp: Một là, hàng nước ngoài áp dụng chính sách trợ giá nhập khẩu vào thị trường Việt Nam do một nước đang có chính sách cạnh tranh với hàng hoá trong nước và hàng các nước khác nhập khẩu vào Việt Nam; hàng của nước ngoài cố tình bán phá giá vào thị trường Việt Nam; Hai là, hàng của nước ngoài hạn chế xuất khẩu nhưng Việt Nam lại rất muốn nhập khẩu. Thuế suất này có thể cao hơn hoặc thấp hơn thuế suất phổ thông Thuế suất ưu đãi là loại thuế áp dụng cho các nước có ký các điều khoản ưu đãi trong quan hệ thương mại quốc tế với Việt Nam, với điều kiện phải ghi rõ từng mặt hàng, thuế suất, mức ưu đãi cụ thể. Bốn là, tăng hiệu qủa thu thuế. Nhà nước cần có các chế tài xử lý nghiêm khắc các tình trạng trốn thuế, khai man thuế để có thể từng bước tăng thu cho ngân sách. 3.3.Về miễn giảm thuế: Trong điều kiện mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Nhà nước ta đã có những quy định xét miễn, giảm thuế cho một số trường hợp. Điều đó là cần thiết, song các quy định chưa thật cụ thể, chặt chẽ. Vì vậy, trong việc quy định miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải ghi rõ hơn đối với những hàng hoá liên quan tới khuyến đầu tư nước ngoài, phục vụ liên doanh liên kết. 3.4. Thực hiện đồng bộ thuế xuất nhập khẩu với thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt và các loại thuế khác: Cho đến nay, do trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta ở mức độ thấp, các ngành kinh tế chưa đạt được trình độ phát triển đồng đều thể hiện ở những mức độ khác nhau về hiệu qủa sản xuất và tỷ lệ lợi nhuận, đòi hỏi những mức độ khác nhau về sự trợ giúp của Nhà nước , về bảo hộ, về điều tiết. Trong điều kiện như vậy, chính sách thuế bị chi phối và chưa thể tính toán về các mức thuế suất dựa trên mức lợi nhuận bình quân trong các ngành. Việc tham gia vào quá trình hội nhập đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống thuế trung lập thể hiện rõ nhất ở việc đơn giản các mức thuế để tạo điều kiện phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh, có thể đạt được hiệu quả sản xuất cao, có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá các nước. Một hệ thống thuế trung lập và rõ ràng sẽ tạo điều kiện thu ngoài, khơi trong. Việc đơn giản các mức thuế suất này cần được thực hiện cụ thể với từng sắc thuế. Cùng với việc giảm số lượng các mức thuế suất và giảm dần thuế suất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như đã trình bày ở trên đây, cần nhanh chóng mở rộng thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và tiến tới áp dụng thuế thu nhập dân cư...Với các biện pháp như vậy, thì nguồn thu của ngân sách Nhà nước bị giảm sút do giảm thuế suất nhập khẩu sẽ phần nào được bù bằng các loại thuế khác. 3.5. Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu: Những nội dung về chính sách thuế xuất nhập khẩu nêu trên không thể thực hiện tốt nếu công tác tổ chức, kiểm tra việc thi hành các chính sách, luật pháp về thuế xuất nhập khẩu không được đổi mới hoàn thiện. Vì vậy, trong việc xây dựng luật thuế xuất nhập khẩu, cần giảm tối đa việc giao cho các bộ chức năng đưa ra những quy định hướng dẫn việc thực hiện luật. Việc sửa đổi, bổ xung hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu một cách thường xuyên kịp thời là cần thiết, để phù hợp với tình hình thay đổi của thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên cần có thời gian cho các doanh nghiệp thích ứng kịp thời, tránh gây ra cho doanh nghiệp, sự thiếu hiểu biết về những chính sách mới. Nhà nước cần làm một cách kiên quyết hơn nữa việc cải cách hành chính để đảm bảo những chính sách đúng đã có trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói chung, chính thuế xuất nhập khẩu nói riêng được thực hiện một cách nghiêm minh. Tóm lại, thuế xuất nhập khẩu là một phạm trù kinh tế lịch sử. Sự ra đời và phát triển của sắc thuế này gắn liền với qúa trình phát triển của hoạt động ngoại thương và Nhà nước. Quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện của các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ này. Do đó, cùng với sự tiến bộ của hoạt động ngoại thương Việt Nam, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu là xu hướng tất yếu khách quan của thời đại.%. TÀI LIỆU THAM KHẢO. I.Giáo trình: 1.Giáo trình Luật Kinh doanh 2. Giáo trình Luật Thương mại. 3.Giáo trình Luật Quốc tế. 4.Giáo trình Luật Thương mại quốc tế. II. Bộ luật, luật và hệ thống các văn bản có liên quan: 1.Luật thuế xuất nhập khẩu hàng mậu dịch-1987. 2. Luật thuế xuất nhập khẩu sửa đổi, bổ xung-1998. 3.Luật thương mại. 4. Nghị định 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31-07-1998. Quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu,... 5. Nghị định 14/ 1999/ NĐ-CP về ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt Nam để thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 2000 6. Nghị định 09/ 2000/ NĐ-CP về ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt Nam để thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN cho năm 2000 7.Hiệp định thương mại Viêt Nam- Hoa Kỳ. 8.Chính sách thuế trong kế hoạch năm năm 1996-2000. III.Báo, tạp chí, bài viết : +Tạ Cả( Thứ trưởng Bộ Thương mại)- Xuất nhập khẩu trong quá trình đổi mới và hội nhập thị trường thế giới- Tạp chí Thương mại. +Nguyễn Minh Tân& Võ Thành Hưng- Hội nhập ASEAN, thúc đẩy hàng thuế quan cơ hội và thách thức- Thông tin nghiên cứu- Trung tâm KHTC 3-1996. +PTS. Võ Văn Đức- Một số suy nghĩ về thuế với vấn đề hội nhập khu vực và quốc tế- Phát triển kinh tế. +Trần Sỹ Trương-Hội nhập: không có gì phải sợ-Thời báo kinh tế Sài Gòn(Số 27-2002) +Trần Văn thọ-Thách thức từ sự lớn mạnh của công nghiệp Trung Quốc- Thời báo kinh tế Sài Gòn(Số 19-2002). +Trung Đức- Kết quả đáng khích lệ.Đầu tư của các nước ASEAN có vị trí quan trong tại Việt Nam- Báo Đầu tư(Số 95-2002). +Phan Hồng Tâm-Vấn đề thuế trong xuất nhập khẩu-Tạp chí Thương mại. +Nguyễn Thị Thanh Hoài- Thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại quốc tế-Tạp chí kinh tế&phát triển. +PGS.PTS Trần Chí Thành-Một số ý kiến đổi mới chính sách thuế xuất nhập khẩu để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá- Tạp chí kinh tế&phát triển. +Thạc sỹ Đoàn Ngọc Xuân- Chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế. Những bất cập và giải pháp hoàn thiện- Phát triển kinh tế. +PTS.Nguyễn Phú Tụ-Tìm hiểu về hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung: Công cụ của AFTA- Tạp chí Phát triển kinh tế. +Thu Hằng(Tổng cục thuế)-Các Luật thuế sau một năm triển khai thực hiện- Dân chủ&Pháp luật +Tuyết Mai- Các giải pháp về cải cách chính sách thuế trong điều kiện Việt Nam hội nhập với AFTA,CEPT-Thông tin tài chính-Số 12 Tháng 06/1998. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDA144.docx
Tài liệu liên quan