Tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương từ sau khi gia nhập WTO đến nay: ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHTW TỪ SAU KHI GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau 11 năm nộp đơn gia nhập WTO, đến tháng 11/2006 thì Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế gới. Song, để làm được điều này, chúng ta đã phải cam kết rất nhiều và từng bước sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Theo lộ trình, chúng ta từng bước phá bỏ những rào cản về thuế quan và phi thuế quan, mở cửa rộng hơn để các nước khác có thể vào đầu tư một cách thuận tiện và công bằng hơn. Do đó, chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức to lớn mà chúng ta phải vược qua. Vấn đề NSNN, vấn đề lãi suất, lạm phát, tỷ giá,…mà chúng ta phải đối mặt. Vì vậy, trên gốc độ quản lý vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là cả về khoa học lẫn nghệ thuật.
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu đ...
28 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương từ sau khi gia nhập WTO đến nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NHTW TỪ SAU KHI GIA NHẬP WTO ĐẾN NAY
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau 11 năm nộp đơn gia nhập WTO, đến tháng 11/2006 thì Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế gới. Song, để làm được điều này, chúng ta đã phải cam kết rất nhiều và từng bước sẽ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Theo lộ trình, chúng ta từng bước phá bỏ những rào cản về thuế quan và phi thuế quan, mở cửa rộng hơn để các nước khác có thể vào đầu tư một cách thuận tiện và công bằng hơn. Do đó, chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức to lớn mà chúng ta phải vược qua. Vấn đề NSNN, vấn đề lãi suất, lạm phát, tỷ giá,…mà chúng ta phải đối mặt. Vì vậy, trên gốc độ quản lý vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là cả về khoa học lẫn nghệ thuật.
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW (ngân hàng trung ương) thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư lạm phát và tăng trưởng kinh tế ... Trong từng thời kỳ nhất định, việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc ngân hàng nhà nước.
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở môn học và để cùng nhau phân tích và mổ xẻ vấn đề, nhóm 8 chọn đề “Chính sách lãi suất của NHNN từ sau khi gia nhập WTO đến nay”.
Vì có những hạn chế nhất định nên trong quá trình nghiên cứu sẽ trong tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm thực hiện rất mong sự đóng góp của các anh chị và Cô để đề tài hoàn thiện hơn.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khái niệm
Lãi suất
Theo Samuelson, lãi suất là giá mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng một khoản tiền trong một thời gian xác định. Nó là giá cả của việc mua bán quyền sử dụng tiền trong một thời gian xác định. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả của hàng hoá được hình thành là kết quả của sự vận động giữa cung và cầu... Quyền sử dụng vốn là một loại hàng hoá đặc biệt và kết quả của sự vận động giữa cung và cầu về vốn chính là lãi suất.
Một đồng tiền bỏ ra hôm nay sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn trong tương lai do đồng tiền đó được trả lãi. Chính vì vậy, lãi suất là một biến số làm cân bằng giá trị của một lượng tiền nhận được trong tương lai với giá trị của nó ở thời điểm hiện tại, hay còn gọi là lãi suất hoàn vốn. Lãi suất hoàn vốn là thước đo chính xác nhất của khái niệm "lãi suất" mà người ta thường dùng. Do đó phép đo lãi suất chính là phép đo lãi suất hoàn vốn. Tuỳ theo các công cụ tài chính mà chúng ta có các phép đo khác nhau.
Lãi suất là giá cả của tiền tệ và là tỷ lệ giữa số lợi tức phải trả cho một khoản vay và số tiền gốc cho vay tính cho cùng một thời kỳ nào đó (năm, tháng, ngày).
Lãi suất (i)
Tiền (M)
i
MS
MD
M
Lãi suất danh nghĩa & Lãi suất thực
Lãi suất danh nghĩa : Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát .
Lãi suất thực tế: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát .Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Lạm phát
Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (Điều 9 Luật NHNN 06/1997/QHX)
Lãi suất chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng. (Điều 9 Luật NHNN 06/1997/QHX)
Lãi suất tái cấp vốn
Tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng theo các hình thức sau đây:
a) Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
b) Chiết khấu giấy tờ có giá;
c) Các hình thức tái cấp vốn khác.
(Theo Điêu 11 Luật NHNN số 46/2010/QH12)
Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái cấp vốn. (Điều 9 Luật NHNN 06/1997/QHX)
Lãi suất thực dương (âm)
Lãi suất thực dương là lãi suất tiền cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền gửi phải cao hơn mức lạm phát.
Mục tiêu của chính sách lãi suất
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) của các nước trên thế giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia - thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của NHTƯ để đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Cơ chế truyền dẫn của chính sách lãi suất
Mô hình số nhân tiền tệ
Số nhân tiền (kM) là hệ số phản ánh khối lượng tiền được tạo ra từ một đơn vị tiền mạnh.
Tiền mạnh - H (tiền cơ sở) bao gồm tiền mặt ngoài ngân hàng và tiền dự trữ trong ngân hàng.
H = Tiền mặt ngoài NH + dự trữ trong NH
M1= Tiền mặt ngoài NH + tiền gửi SD séc
Nếu số nhân của tiền là kM, khi phát hành vào nền kinh tế H đồng, khối lượng tiền sẽ là:
M1 = kM*H Hay:
rM1 = kM*rH
Lãi suất chiết khấu: là lãi suất mà các ngân hàng trung gian phải trả khi vay tiền từ NHTW.
Tăng lãi suất chiết khấu làm giảm cung tiền.
Giảm lãi suất chiết khấu làm tăng cung tiền.
M1 M1 + rM
MS1 MS2
MD
rM
Lãi suất (i)
I1 I1 + rI
I =f(i)
Lãi suất (i)
Chính sách tiền tệ mở rộng
#M1 " r$ "I# "AD# "Y#
Chính sách tiền tệ thắt chặt
$M1 " r# "I$ "AD$ "Y$
Tăng Lãi suất chiết khấu à Giảm Cung tiền à Lãi suất thị trường tăng à Đầu tư giảm à Tổng cầu giảm à Sản lượng giảm
Giảm Lãi suất chiết khấu à Tăng lượng cung tiền à Lãi suất thị trường giảm à Đầu tư tăng à Tổng cầu tăng à Sản lượng tăng
Mối quan hệ giữa lãi suất với một số yếu tố
Mối quan hệ giữa chính sách lãi suất với lạm phát Chính sách lãi suất trong cuộc chiến lạm phát – TS Nguyễn Minh Phong
Chính sách lãi suất có quan hệ trực tiếp theo tương quan tỷ lệ nghịch tới xu hướng và động thái lạm phát của một nước. Lãi suất càng thấp, đồng tiền càng ‘rẻ”, càng kích thích mở rộng đầu tư và tiêu dùng, do đó, càng làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ và lạm phát cơ cấu. Vì vậy, khi lạm phát gia tăng, chính phủ nào cũng phải có chính sách đề cao bản tệ, mà tiêu biểu là tuân thủ chính sách lãi suất thực dương .
Nâng lãi suất sẽ khuyến khích tiết kiệm cả trong đầu tư và trong tiêu dùng, hạn chế tích trữ - đầu cơ, làm tăng tiền gửi và sử dụng tiết kiệm các khoản vay, làm tăng cung và giảm cầu tín dụng, thu hẹp nhập khẩu. Mức lãi suất càng cao hơn mức lạm phát thì tác động tức thời của nó đến việc giảm phát càng rõ rệt.
Tuy nhiên, lãi suất quá cao sẽ thu hẹp đầu tư xã hội, dẫn đến tăng đình trệ, suy thoái, thất nghiệp và phá sản. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay cao "ở đầu vào" sẽ được người vay - doanh nghiệp tự động chuyển vào giá cả hàng hóa và dịch vụ "ở đầu ra", từ đó làm tăng mức giá xã hội chung, tức lại làm tăng lạm phát... Thêm nữa, nguyên tắc thị trường đòi hỏi tiền huy động được phải sinh lợi thông qua cho vay lại hoặc đầu tư, nếu không muốn gây áp lực lạm phát tương lai bởi gánh nặng nợ lãi huy động cho ngân hàng và ngân sách nhà nước.
Vì thế, mức lãi suất thông thường trong nền kinh tế bình thường luôn được khuyến nghị tuân theo bất phương trình sau:
L1<L2<L3<L4, trong đó:
L1: mức lạm phát;
L2: lãi tiền gửi;
L3: lãi cho vay và
L4: lợi nhuận bình quân xã hội trong cùng kỳ hạn lãi suất.
Nhiệm vụ của Nhà nước là lựa chọn mức "trần" lãi suất hoặc sử dụng “lãi suất cơ bản” sao cho phù hợp điều kiện cụ thể và mục tiêu vĩ mô kinh tế - xã hội của mình, đồng thời, phải luôn tính đến và có những biện pháp khắc phục hậu quả mặt trái luôn song hành của cả việc nâng cao hay hạ thấp lãi suất, nếu không, sẽ vấp phải vòng xoáy mới của lạm phát tuỳ theo mức độ phản ứng cuả các chủ thể kinh tế…
Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá
Lãi suất cao còn có thể làm gia tăng lượng cung tiền từ nước ngoài, từ đó làm tăng áp lực lạm phát tiền tệ ngoại nhập. Điều này càng rõ nét và nguy hiểm trong bối cảnh tự do hoá tài chính cao theo cam kết hội nhập trong các tổ chức kinh tế quốc tế (vì nếu lãi suất cao thì dòng vốn nước ngoài đổ vào gửi hoặc cho vay trong nước càng cao nhằm hưởng chênh lệch lãi suất so với thị trường lãi suất khu vực và quốc tế).
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1988):
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006).
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của HĐBT (nay là Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau:
Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992):
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
Cơ chế điều hành khung lãi suất (6.1992-1995):
Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7.2000):
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002):
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2008):
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định.
ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
Cơ chế điều hành
NHNN có 2 cơ chế điều hành lãi suất:
Quy định lãi suất trần: NHNN sẽ công bố Lãi suất cơ bản và tỷ lệ lãi suất được phép cho vay của các Ngân hàng (ví dụ: không được cao hơn 150% LSCB)
Cơ chế tự thỏa thuận: NHTM sẽ được tự thỏa thuận mức lãi suất cho vay với khách hàng.
Từ năm 2007 đến nay có thể nói cơ chế điều hành lãi suất của NHNN qua 3 giai đoạn:
16/05/2008
14/04/2010
01/06/2002
Lãi suất thỏa thuận
Lãi suất trần (150% LSCB)
Lãi suất thỏa thuận
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết trên thị trường tiền tệ, có 3 nhóm lãi suất chủ yếu:
Một là lãi suất kinh doanh (huy động, cho vay…) của tổ chức tín dụng được hình thành trên cơ sở cung -cầu vốn thị trường, lạm phát, mức độ rủi ro và sự điều tiết của ngân hàng trung ương;
Hai là lãi suất vay mượn ngắn hạn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng, chịu tác động chủ yếu của cung- cầu vốn khả dụng của tổ chức tín dụng và điều tiết của lãi suất chính sách Ngân hàng Trung ương;
Ba là lãi suất chính sách của Ngân hàng Trung ương (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu…) điều tiết trực tiếp lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
(Trích: Ngày 25/12/2010, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức phiên họp mời Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo giải trình về thực trạng và những giải pháp xung quanh vấn đề lãi suất hiện nay.)
Năm 2007
Mục tiêu
Tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 8.0% - 8.5%
Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 6.5% - 7%,
Bội chi ngân sách ở mức 5% GDP
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 43.4% GDP
Thành tựu kinh tế
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nên có nhiều tác động tích cực và nhiều thách thức với thị trường trong nước. Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên 2 chữ số, CPI ở mức 12,61% so với tháng 12 năm 2006 (cao nhất trong vòng 12 năm qua) nhưng nhiều chỉ tiêu đặt ra đều đạt và vượt mức kế hoạch. Kinh tế đất nước tăng trưởng nhanh, GDP đạt 8,5%, mức cao nhất trong 10 năm trở lại đây.
Nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung. Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 17,1%, cao hơn mức kế hoạch; các ngành dịch vụ phát triển khá, nhất là thương mại bán lẻ; hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông mở rộng hơn; xuất khẩu tăng trưởng cao, đạt hơn 48,3 tỉ USD; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục (hơn 20 tỉ USD); thị trường chứng khoán phát triển mạnh, thu hút trên 5 tỉ USD, nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn được tiến hành cổ phần hoá …
Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
Chính sách lãi suất
Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô năm 2007, NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng "thắt chặt" tiền tệ để rút mạnh tiền từ lưu thông về, giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ổn định lãi suất mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm,
Lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm.
Lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm.
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Riêng đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD, kể ngày 01/03/2007, NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân, các TCTD đã được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận, phù hợp với nhu cầu vốn kinh doanh, cung cầu vốn ở thị trường trong nước và lãi suất thị trường quốc tế.
Lý do chủ yếu của việc giữ ổn định lãi suất này là nhằm phát tín hiệu định hướng ổn định lãi suất thị trường để hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng hưởng làm tăng chi phí sản xuất, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Đối với việc kiểm soát mức tăng tiền tệ để kiềm chế lạm phát, thì chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, còn lãi suất chỉ đóng vai trò bổ trợ cho các công cụ này.
Đánh giá chính sách lãi suất
10 tháng đầu năm 2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006, do vốn khả dụng toàn hệ thống dư thừa. Tuần đầu của nửa cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước cao, giao dịch nội tệ liên ngân hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, do vốn khả dụng của một số NHTM Nhà nước giảm với nguyên nhân chủ yếu là các tổ chức kinh tế và KBNN rút tiền gửi thanh toán. Để ổn định thị trường nội tệ liên ngân hàng và tránh tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày trên nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các TCTD
NHNN thực hiện chào mua giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở mức 8% nhằm hạn chế tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị trường, gây tâm lý phản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của NHNN. Vì vậy, tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản được khắc phục, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu hướng giảm khoảng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007.
Trên cơ sở hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng bộ với việc phát triển thị trường tiền tệ, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam. Trong năm 2007, nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp nước ngoài vào rất lớn, thanh khoản các ngân hàng thừa, nên tăng dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% -> tăng lãi suất là hợp lý .
Tuy nhiên, mặt hạn chế :
Về nguyên nhân chủ quan do điều hành giá yếu, dự báo sai, điều hành chính sách tiền tệ chưa tốt. "Việc lúng túng trong điều hành thị trường tiền tệ cũng là một lý do khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) vượt quá tốc độ tăng GDP" (đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị Kế hoạch và Đầu tư năm 2007, ngày 30-11-2007.
Trong thực tiễn đối phó với lạm phát ở nước ta năm 2007 và 2008, chính sách lãi suất có những bất cập, những nghịch lý kéo dài. Vì vậy, đã và đang có những tác động tiêu cực đến kết quả chống lạm phát :
Các ngân hàng phải vào cuộc chống lạm phát (thể hiện qua việc tăng dự trữ bắt buộc, thắt chặt hạn mức tín dụng và nâng lãi suất cơ bản và chiết khấu, cũng như sử dụng một số công cụ nghiệp vụ thị trường mở khác để hút tiền thừa từ lưu thông). Trong khi đó, các ngân hàng ở Việt Nam mới thực hiện được một nửa “đơn thuốc”, tức chỉ thực hiện lãi suất tín dụng cho vay cao hơn hẳn lãi suất huy động, cũng như luôn cao hơn mức lạm phát, trong khi trần lãi suất cho vay dường như bị thả nổi. Các ngân hàng thương mại đều thống nhất thực hiện lãi suất huy động thấp hơn nhiều mức lạm phát (nhất là năm 2007). Kết quả là dư lượng tiền thừa trong lưu thông vẫn quá nhiều, trong khi nhiều ngân hàng không huy động đủ tiền mặt để bảo đảm tính thanh khoản và cho vay cần thiết.
=> Chính sách lãi suất “nửa âm - nửa dương” khiến cả người gửi và doanh nghiệp đều chịu thiệt, nhiều ngân hàng thu lợi lớn, trong khi nguy cơ giảm tính thanh khoản và ngưng trệ hoạt động cho vay lại tăng
Năm 2008
Mục tiêu
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%,
Thành tựu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
Năm 2008, Việt Nam đối mặt khó khăn do kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, với nỗ lực vượt qua khó khăn của cả nước, đến nay, các ngân hàng (NH), tổ chức tài chính vẫn ổn định; các doanh nghiệp (DN) lớn vẫn trụ vững…
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong nhiều năm đạt tốc độ tăng trưởng hơn 8%, đến năm 2008 chỉ đạt 6,23%. Đây là kết quả của việc linh hoạt trong điều hành chính sách trước hai trạng thái phức tạp của nền kinh tế cùng lúc diễn ra trong năm: lạm phát và giảm phát.
Điểm sáng nhất trong bức tranh kinh tế năm 2008 là thành tựu trong thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài. Theo Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư toàn xã hội năm 2008 theo giá thực tế đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP, tăng 22,2% so với năm 2007. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã tiếp tục phá kỷ lục mới, năm 2008, cả nước thu hút được 64 tỷ USD với 1171 dự án đăng ký mới (60,3 tỷ USD) và 311 dự án bổ sung vốn (3,7 tỷ USD), tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Cũng trong năm 2008, tại hội nghị Nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam, cộng đồng quốc tế đã tiếp tục cam kết hỗ trợ trên 5 tỷ USD nguốn vốn ODA… Với tốc độ tăng trưởng ở mức như hiện nay và kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm qua (65 tỷ USD), Việt Nam có quyền hy vọng và tin tưởng sẽ vượt qua suy thoái kinh tế.
Lạm phát
Năm 2008, lạm phát đã vượt lên mức hai con số, đỉnh điểm lên đến 23%. Đây là mức lạm phát cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây. Trong lịch sử kinh tế Việt Nam, lạm phát đại phi mã đã từng xảy ra vào năm 1986, với con số lên đến 776%.
Mức lạm phát hơn hai con số đã khiến đời sống người lao động, người làm công ăn lương rơi vào khó khăn. Giá cả nhiều mặt hàng trong nhiều tháng của năm 2008 đã vượt xa giá trị thật. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo nguy cơ triệt tiêu thành quả kinh tế.
Chính phủ đã phải thực hiện 8 nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát và cơ bản đã đạt được kết quả như mong muốn.
Đánh giá chính sách lãi suất
Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc (17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.
Lần đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ 8,25% lên 8,75% vào 1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó.
Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên, Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (không quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự).
Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22% - 25% trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ.
Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm.
Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%).
Ngược lại, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
Năm 2009
Mục tiêu
Điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 khoảng 5%, chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%, chỉ tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu 3%, mức bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) không quá 7% GDP. Căn cứ vào tình hình thực tế, Chính phủ điều hành bội chi NSNN ở mức thấp nhất và giảm dần trong một số năm tiếp theo. Bên cạnh đó, giữ tổng chi trong dự toán NSNN theo đúng kế hoạch.
Thành tựu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế
Mặc dù chịu ảnh hưởng không nhỏ từ suy thoái kinh tế chung nhưng tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam vẫn tăng dần qua 4 quý, lần lượt là 3,1%, 4,5%, 5,8% và 6,8%. Thực hiện cả năm 2009, GDP đạt 5,32% so với mục tiêu Quốc hội đề ra là khoảng 5%.
Lạm phát
Không có những đột biến lớn, không bất thường về quy luật, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 cho cảm giác khá trầm lắng. Nhưng trong một năm nền kinh tế trầm, thăng phức tạp, CPI vẫn có sự đảo chiều tương ứng.
Trên biểu đồ, tốc độ tăng CPI theo tháng đạt đỉnh 4 lần trong năm qua, ở các tháng Hai, Sáu, Chín và Mười hai, với các mức tăng 1,17%; 0,55%; 0,62% và 1,38%. Quy luật nén - nhả nới lỏng dần qua các vòng “xoắn ốc”, và lạm phát gia tăng sau mỗi chu kỳ được hình thành.
Trong 8 tháng đầu tiên, diễn biến chỉ số giá là biểu hiện của kìm nén, ít nhiều theo tính quy luật và cho cảm nhận an toàn. Tuy nhiên trong 4 tháng còn lại, đường biểu diễn xóc nhẹ, báo hiệu những đột biến, để rồi tăng dần và dựng ngược lên trong tháng tận cùng của năm, hiện thực hóa phần cảm nhận lơ lửng đâu đó về nguy cơ tái lạm phát.
Gói kích cầu trị giá 1 tỷ USD được đưa ra lần đầu tiên vào ngày 2/12/2008, thì đến cuộc họp Chính phủ cuối tháng Hai, hình hài và vóc dáng đã hình thành. Cũng trong thời gian này, đã có những công bố tổng giá trị gói kích cầu lên đến 6 tỷ USD, thậm chí hơn nữa.
Từ khoảng tháng Tư, các chính sách như hỗ trợ 4% lãi suất; miễn thuế thu nhập cá nhân 6 tháng đầu năm 2009; giảm thuế suất thuế xuất nhập khẩu nhiều loại hàng hóa; giãn thuế thu nhập doanh nghiệp; giảm 50% thuế giá trị gia tăng; và hàng loạt chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, tăng chi tiêu công… bắt đầu chuyển mạnh vào đời sống kinh tế xã hội.
Về cầu kéo, tính đến 30/10/2009, tổng phương tiện thanh toán M2 đã tăng 23,99%. Ngân hàng Nhà nước công bố, tín dụng tăng trưởng 37,73% so với cuối năm 2008…
Về tác động của tăng giá trên thị trường thế giới, đến tháng 11/2009, giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên mức 451,31 USD/tấn. Do có quyền số cao tới hơn 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, tăng giá lương thực tác động mạnh đến giá cả trong nước, CPI nhóm hàng này tháng 12/2009 đã tăng 7,54% so với một năm trước đó.
Tổng cục Thống kê cho biết, CPI tháng 12/2009 so với tháng 12/2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% mà Quốc hội đã thông qua. Qua đó, góp phần làm cho CPI bình quân năm 2009 chỉ tăng 6,88% so với năm 2008, mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (CPI bình quân năm 2004 t ăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%).
Năm 2009 khép lại với chỉ số giá chấp nhận được trong tất cả các mức so sánh. Nhưng sự gia tăng mạnh mẽ chỉ số CPI tháng cuối cùng của năm khiến gây lo ngại cho những tháng đầu năm 2010.
Tình hình lãi suất
Sáng 25/11, Thống đốc NHNN đã bất ngờ ký ban hành Quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 8%, sau 10 tháng liên tiếp duy trì ở mức 7%/năm. Bên cạnh đó, lãi suất tái cấp vốn cũng tăng từ 7% lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm.
Cũng trong ngày 25/11, Thống đốc NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 17.961 VND/USD và áp dụng biên độ tỷ giá mới cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND là +/-3%, thay cho +/-5%. Với các điều chỉnh này, mức tỷ giá sàn giao dịch là 17.422 VND/USD và tỷ giá trần giao dịch sẽ là 18.500 VND/USD.
Đánh giá chính sách lãi suất
Ngày 4/7/2009 Thủ tướng Chính phủ có kết luận về việc điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong thời gian tới. Theo đó, lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác được điều chỉnh theo hướng ổn định và ở mức hợp lý, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ chính sách tiền tệ khác để kiểm soát mức tăng các chỉ tiêu tiền tệ phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Về chính sách hỗ trợ lãi suất, Thủ tướng chỉ đạo tiếp tục triển khai thực hiện tích cực chính sách hỗ trợ lãi suất. Tăng cường thanh tra, giám sát, kiểm tra các khoản cho vay hỗ trợ lãi suất để đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu hỗ trợ. Thủ tướng cũng giao điều hành tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 25%, tín dụng tăng khoảng 25%-27% nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5%, khống chế lạm phát ở mức một con số trong năm 2009. Thủ tướng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Bộ Công thương kiểm soát nhập siêu năm 2009 không vượt quá 20% tổng kim ngạch xuất khẩu như mục tiêu đề ra.
Nếu như 2008 là năm lạm phát cao, buộc phải thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt thì sang 2009, tình hình kinh tế vĩ mô có phần phức tạp hơn mà biểu hiện rõ nét nhất là nền kinh tế chưa kịp "cắt cơn" lạm phát, đã phải đối mặt với suy giảm, Chính phủ phải điều chỉnh mục tiêu: ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát, tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và đảm bảo an sinh xã hội.
Trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế, Chính phủ đã ban hành Quyết định 131/CP, hỗ trợ lãi suất ngắn hạn cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, trị giá 1 tỷ USD. Để đưa gói hỗ trợ lãi suất vào thực tiễn, ban đầu có khá nhiều ý kiến khác nhau nhưng tập trung chủ yếu ở hai phương án:
Phương án thứ nhất, là nên dành cho một số công trình lớn làm động lực kích thích các ngành phụ trợ phát triển, giống như gói kích thích của Trung Quốc.
Phương án thứ hai là chỉ hỗ trợ một số khu vực, chẳng hạn như doanh nghiệp nhỏ và vừa, bởi lúc đó, ông Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa có đưa ra những con số bi quan về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp: 20% phá sản, 60% khó khăn và chỉ 20% có thể trụ vững.
Mặc dù bộ trưởng các bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đều vào cuộc xử lý và bàn đi tính lại nhiều lần, nhưng cuối cùng, ngày 17/1/2009, Chính phủ giao cho Ngân hàng Nhà nước chủ động đề xuất phương án triển khai. Ngân Hàng Nhà nước xây dựng phương án sử dụng chính các tổ chức tín dụng để giải ngân gói kích thích này.
Mặc dù giải pháp này không giống bất kỳ gói kích thích kinh tế nào trên thế giới, nhưng chúng có những ưu điểm:
Thứ nhất, gắn lợi ích và trách nhiệm của các ngân hàng với gói kích thích, ở chỗ: nguồn vốn là của ngân hàng thương mại được giải ngân theo cơ chế thông thường nhưng được Chính phủ hỗ trợ 4% lãi suất. Nhờ đó, ngân hàng thương mại khơi thông được tín dụng với lãi suất cho vay gần tương tự điều kiện nền kinh tế hoạt động bình thường, điều mà không một hệ thống ngân hàng của quốc gia nào làm được tại thời điểm đó.
Thứ hai, ngân hàng thương mại là tổ chức có đủ điều kiện vật chất để đảm bảo cho hàng triệu khoản vay được thực hiện an toàn, trong khi phương pháp khác không thể đạt được yêu cầu này. Kèm theo đó là cơ chế "hậu kiểm" nên nhìn chung làm yên tâm trước một số nghi ngại.
Nhược điểm
Khi triển khai gói hỗ trợ lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã lường trước những hiệu ứng phụ không mong muốn, và quả đúng như vậy, đến tháng 7/2009, thị trường tiền tệ bắt đầu xuất hiện sức ép tăng trưởng tín dụng.
Thực tế này trái với dự kiến kế hoạch đầu năm: nếu tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5%, Ngân hàng Nhà nước tính toán tăng trưởng tín dụng từ 21% - 23%, tương đương mức 3 - 3,2 lần GDP, đảm bảo thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.000 USD/người/năm là hợp lý.
Giới chuyên gia kinh tế, luật cảnh báo, chính sách kích cầu này mặc dù thực tế cũng có hiệu quả nhất định nhưng lại có rất nhiều kẽ hở dẫn đến việc cho vay, sử dụng vốn ngân sách sai quy định, thậm chí không tránh khỏi những hành vi trục lợi, tham nhũng tiền ngân sách.
Cùng đó, một bộ phận doanh nghiệp vay hợp pháp tại ngân hàng này nhưng gửi ngân hàng kia để hưởng lợi chênh lệch lãi suất khoảng 2%/năm lúc đó, nhưng về sau có thể lên tới 4 - 5%/năm.
Năm 2010
Mục tiêu
Theo Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, mục tiêu kinh tế - xã hội của năm 2010 là phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng, ngăn chặn lạm phát cao trở lại, tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội. Dựa trên các điều kiện, nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, NHNN đánh giá các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu năm 2010 như sau:
Tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 6,5%;
Chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 7%,
Bội chi ngân sách ở mức 6,2% GDP và
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 41%GDP
Trên cơ sở các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính phủ, các dự báo đánh giá của NHNN về lạm phát và tình hình kinh tế vĩ mô năm 2010, NHNN đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 linh hoạt, thận trọng và chặt chẽ để kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đối với nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, bảo đảm khả năng an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng, góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010.
Thành tựu kinh tế 2010
Tăng trưởng kinh tế
Năm 2010 GDP của Việt Nam ước đạt 1,981 ngàn tỉ đồng theo giá hiện hành, tương đương với khoảng 100 tỉ US$. Trong khi đó, GDP tính theo giá so sánh ước tăng khoảng 6,78%, vượt mục tiêu 6.5% đề ra hồi đầu ưnăm. Con số này được kì vọng sẽ tăng lên trên 7% nếu như kinh tế thế giới tiếp tục hồi phục khá và những ề bất ổn nội tại của nền kinh tế được giải quyết sớm.
Tăng trưởng khá cao của Việt Nam chủ yếu được dẫn dắt bởi các khu vực công nghiệp & xây dựng và khu vực dịch vụ. So với năm ngoái, khu vực công nghiệp & xây dựng tăng tới 7,70% trong khi khu vực dịch vụ tăng 7,52%. Lạc quan hơn, tăng trưởng của cả hai khu vực này tiếp tục xu hướng đi lên kể từ quý 1 năm 2009. Duy chỉ có khu vực nông, lâm, & ngư nghiệp, tăng 2,78% trong năm nay, là có xu hướng giảm nhẹ do ảnh hưởng của thiên tai vào nửa cuối năm.
Hình: Tăng trưởng GDP theo quý 2001-2010 (% so với cùng kỳ, cộng dồn)
Lạm phát
Chỉ số giá tiêu dùng CPI của tháng 12 được chính thức công bố tăng tới 1,98% so với tháng trước. Lạm phát tiếp tục ở mức cao do giá cả lương thực & thực phẩm và giá vật liệu xây dựng tiếp tục tăng mạnh. Trong khi đó, lạm phát so với cùng kì năm ngoái ở mức 11,75%, vượt xa con số mục tiêu 8% trong năm nay của chính phủ.
Ngoài tăng trưởng cung tiền và tín dụng cao ở mức trên 20% liên tiếp trong nhiều năm, thời tiết xấu trong nước cộng với sự gia tăng trở lại của giá nguyên nhiên liệu thế giới được cho là một trong những nguyên nhân chính gây ra mức lạm phát cao vào những tháng cuối năm 2010.
Trong nhiều năm, lạm phát của Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn bởi sự dao động mạnh của giá lương thực và thực phẩm. Năm 2010 cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Trong năm nay, giá cả nhóm hàng này tăng tới 16,18%, đóng góp khoảng 6,64% trong tổng mức tăng 11,75% của CPI. Sự gia tăng mạnh này chủ yếu xuất phát từ sự gia tăng của giá cả thế giới, thời tiết xấu trong nước, và sự mất giá của đồng nội tệ.
Hình:
Hình trên cho thấy giá cả nhóm hàng nhà ở & vật liệu xây dựng và giá cả nhóm hàng giáo dục cũng đóng góp đáng kể vào lạm phát năm nay. Giá cả nhóm hàng nhà ở & vật liệu xây dựng tăng 15,74%, đóng góp 1,45%, trong khi giá cả nhóm hàng giáo dục tăng 19,38%, đóng góp 1,11% vào tổng mức tăng 11,75% của gCPI năm nay. Trong khi đó, nhờ sự trợ giá của chính phủ, sự đóng góp vào lạm phát của nhóm hàng giao thông có xu hướng giảm trong quý 2. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng tình trạng này sẽ không thể kéo dài khi giá dầu thô thế giới đã vượt mức 90 $/thùng trong tháng 12 vừa qua. Hầu hết các nhóm hàng khác đều có mức đóng góp thấp hoặc vừa phải vào lạm phát của năm nay.
Đánh giá chính sách lãi suất
Lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát; lãi suất thị trường có xu hướng giảm vào giữa năm và tăng cao trở lại những tháng cuối năm.
* Chính sách điều hành lãi suất của NHNN
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thtị trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN.
* Lãi suất thị trường vẫn ở mức cao
Đối với lãi suất huy động VND: Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND về cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng.
Trong 6 tháng đầu năm lãi suất đã tăng so với cùng kỳ của năm 2009 với hai mốc tăng tương đối ổn định. Nếu như trong quý I/2010, lãi suất huy động tăng bình quân 0,03 – 0,07% cho tất cả các kỳ hạn chưa kể đến các hình thức khuyến mại thì bước sang tháng đầu tiên của Quý II, để chấm dứt các chính sách tặng thưởng được xem là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, các NHTM đã từng bước công bố tăng lãi suất vượt ngưỡng 10,5% - là tỷ lệ được duy trì từ tháng 12/2009 để hình thành nên một mặt bằng lãi suất mới biến động xoay quanh ngưỡng 12%.
Việc lãi suất huy động cao đã tác động đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong điều kiện áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận vì vậy đến tháng 7/2010 để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ – CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Và như vậy là sau khi tăng dần từ đầu năm, đến tháng 7 lãi suất huy động VND đón đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11 – 11,2% cho các kỳ hạn và duy trì khá ổn định cho đến tháng 10. Cho đến ngày 15/10/201, trên bình diện tốc độ huy động vốn đã được cải thiện rất nhiều so với năm 2009 và trước nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế trong bối cảnh lãi suất vay vốn ngày càng cao, dưới sự hỗ trợ của NHNN và sự đồng thuận của các ngân hàng, lãi suất huy động một lần nữa được điều chỉnh xoay quanh mức 10,8 – 11%. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ hai đã ngay lập tức gia tăng sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động mới được thiết lập ở mức 12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động xoay quay mức 17 – 18%. Trước tình trạng leo thang khó có điểm dừng của lãi suất huy động dưới nhiều hình thức, NHNN đã phải trực tiếp lên tiếng yêu cầu các ngân hàng giảm mặt bằng lãi suất huy động, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức, sẽ không vượt quá 14%/năm. Như vậy, mặc dù đã cho phép các ngân hàng được áp dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc chạy đua lãi suất, NHNN đã phải can thiệp bằng biện pháp hành chính.
Như vậy, có thể thấy rằng, mặt bằng lãi suất huy động chịu sức ép tăng trong năm do một số nguyên nhân chính:
Nhu cầu vốn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tiếp tục tăng cao trong bối cảnh phục hồi kinh tế;
Chịu sức ép từ chỉ số lạm phát do tác động trễ của các chính sách năm 2009 (trong năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng chỉ giữ được ổn định từ tháng 3 đến tháng 8, các tháng còn lại biến động tăng cao đã ảnh hưởng đến nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ và các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN);
Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của một vài các TCTD và tâm lý, kỳ vọng của người dân. Mặc dù mặt bằng lãi suất có nhiều biến động nhưng vẫn đảm bảo được lợi ích của người tiền trong bối cảnh lạm phát gia tăng vào cuối năm, vì vậy tốc động huy động vốn trong năm 2010 đã được cải thiện rõ rệt so với những năm trước
Lãi suất cho vay tuy đã có sự điều chỉnh giảm ở một số lĩnh vực, ngành nghề, nhưng nhìn chung vẫn ở mức cao.
Lãi suất cho vay trong năm 2010 thể hiện hai điểm nóng là trong những tháng đầu năm (trước và sau khi thực hiện lãi suất thỏa thuận theo Thông tư số 07/2010/TT-NHNN) và hai tháng cuối năm thì lãi suất cho vay ở mức khá cao (khoảng 14,5 – 18%).
Các tháng giữa năm, bắt đầu từ tháng 5/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị Quyết 23 ngày 7/5/2010 chỉ đạo NHNN có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay khoảng 12% và điều hành tỷ giá ở mức hợp lý. Tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc tăng tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Để thực hiện nhiệm vụ này, NHNN đã tích cực hỗ trợ vốn cho các NHTM thông qua hoạt động của thị trường mở và thị trường liên ngân hàng nên mặt bằng lãi suất cho vay VND có xu hướng giảm dần (giảm khoảng 1%), một số đối tượng và ngành nghề kinh doanh có mức giảm lớn hơn (giảm 2 - 2,5%) như: các khoản vay để sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, doanh nghiệp xuất khẩu, chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhỏ và vừa... Tuy nhiên, trước những diễn biến không thuận lợi của kinh tế vĩ mô, mặt bằng lãi suất đã tăng cao trở lại trong hai tháng cuối năm, giao động trong khoảng 13,5 – 18,5%.
Tóm lại, diễn biến của mặt bằng lãi suất huy động trong năm nổi lên một số điểm đáng chú ý như sau:
(i) Diễn biến của lãi suất đi theo đúng kịch bản của năm 2009: lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiếm chế lạm phát.
(ii) Lãi suất thị trường chịu áp lực tăng cao qua các tháng, đặc biệt các tháng cuối năm.
(iii) Không còn sự khác biệt về mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn, thậm chí những tháng cuối năm nghiêng hẳn về các kỳ hạn ngắn.
(iv) TCTD tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp nhằm hợp lý hóa các chi phí phụ cho hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng thông qua các chương trình khuyến mại, các loại phí...
Vấn đề cần đặt ra cho nền kinh tế trong năm 2011, cũng như một số năm tiếp theo là giải quyết được những tồn tại nêu trên. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả các giải pháp thì việc bám sát mục tiêu, định hướng vĩ mô của Quốc hội, Chính phủ, NHNN... và sự tham gia phối hợp của các bộ ngành có liên quan là rất cần thiết, qua đó sẽ từng bước xử lý được những vướng mắc, tồn tại của năm 2010.
Đến tháng 02 năm 2011
Mục tiêu
Trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô có những biểu hiện không ổn định: Giá cả trên thị trường thế giới và trong nước có xu hướng tăng, thị trường tài chính, tiền tệ biến động phức tạp, ngày 24 tháng 02 năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Theo đó Chính phủ yêu cầu các ngành, các địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước triển khai ngay kế hoạch hành động thực hiện đồng bộ 6 nhóm giải pháp:
Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng;
Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước;
Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng;
Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo;
Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội;
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Kết quả sản xuất kinh doanh cả nước hai tháng đầu năm 2011 cụ thể như sau:
Tình hình kinh tế
CPI tháng Hai chính thức được công bố tăng 2,09% so với tháng trước. Lạm phát so với cùng kì năm trước cũng tiếp tục tăng lên tới 12,3%, cao nhất trong vòng gần 2 năm.
Lương thực & thực phẩm là một trong những nhóm hàng chi phối lạm phát với mức tăng 3,56%.
Sản lượng công nghiệp tiếp tục tăng cao. Ước tính sản lượng công nghiệp tháng Hai tăng 17,7% so với cùng kì năm ngoái.
Thâm hụt thương mại chính thức của tháng 1 được công bố ở mức dưới 0,88 tỉ $, thấp hơn khoảng 0,12 tỉ $ so với con số ước tính ban đầu.
Thâm hụt thương mại của tháng Hai được ước tính ở mức trung bình khoảng 0,95 tỉ $.
FDI giải ngân của hai tháng đầu năm đạt gần 1,15 tỉ $, tăng khoảng 4,5% so với cùng kì năm ngoái.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thể hiện quyết tâm ổn định giá trị đồng nội tệ.
Khoảng 11 ngàn tỉ đồng trái phiếu chính phủ được phát hành thành công trong tháng Hai.
Cũng trong tháng Hai, hơn 37 ngàn tỉ đồng đã được NHNN hút ròng về thông qua hoạt động thị trường mở (OMO).
Lãi suất OMO và lãi suất tái cấp vốn được nâng lên lần lượt ở mức 12% và 11%.
Các mô hình của chúng tôi dự báo lạm phát của tháng Hai sẽ vào khoảng 1,6-2,0%.
Lạm phát
CPI tháng Hai chính thức được công bố tăng 2,09% so với tháng trước. Lạm phát tiếp tục ở mức cao do sự gia tăng của giá nhóm hàng lương thực & thực phẩm và đồ uống & thuốc lá. Lạm phát tính theo cùng kì năm ngoái cũng lên tới 12,31%, cao nhất kể từ tháng 3 năm 2009.
So với tháng trước, lương thực & thực phẩm tiếp tục đóng góp phần lớn vào lạm phát tháng này. Giá cả nhóm hàng này tăng lới 3,65%, chiếm khoảng gần 1,46% trong tổng mức tăng 2,09% của CPI tháng này, do nhu cầu tiêu dùng cao và sản xuất chậm lại trong kì nghỉ Tết Nguyên Đán.
Với lý do tương tự, các nhóm hàng đồ uống & thuốc lá, quần áo & giầy dép cũng đóng góp đáng kể vào lạm phát tháng Hai. Nhóm hàng đồ uống & thuốc lá tăng 2,14% trong khi nhóm hàng quần áo & giầy dép tăng 1,38%. Giao thông và nhóm hàng “khác” cũng là những nhóm hàng có giá cả tăng cao trong tháng qua.
Kinh tế Việt Nam hiện đang chịu những tác động tiêu cực của sự gia tăng giá hàng nguyên nhiên liệu. Giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng tới khoảng 20% vào cuối tháng Hai. Thêm vào đó, giá điện cũng được tăng khoảng trên 15% kể từ 1 tháng Ba. Cùng với sự phá giá tiền đồng vào đầu tháng Hai, những thay đổi chính sách này chắc chắn sẽ còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới mục tiêu lạm phát của Việt Nam trong năm nay. Sự thay đổi giá nguyên nhiên liệu không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp mà còn gây hiệu ứng tăng giá tràn lan trong nền kinh tế mà không dễ gì kiểm soát được trong một vài tháng tới.
Chúng tôi kì vọng rằng sức ép lạm phát sẽ tiếp tục ở mức cao trong vòng ít nhất là hai tháng tới cho tới khi các chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa hiện nay phát huy tác dụng.
Đề xuất một số giải pháp
Chính sách lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của chính sách tiền tệ, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010 hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn, đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, theo đó chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
Do vậy, tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song, với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, trong khi từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
Trước mắt, cần thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Đồng thời trong thời gian này NHNN cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Tuy nhiên về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ts. Nguyễn Mạnh Hùng - Điều Hành Chính Sách Lãi Suất và tỷ giá
2.
Hòa An – Những điểm nhấn trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2009
3.
Ts. Nguyễn Thị Kim Thanh – Chính sách lãi suất: từ lý thuyết đến thực tiễn
4.
Ts. Nguyễn Minh Phong – Chính sách lãi suất trong cuộc chiến chống lạm phát
5.
Ts. Nguyễn Đạt Lai – Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ở Việt Nam
6.
PGS. TS. Nguyễn Văn Trình, ThS. Nguyễn Sơn Hoa - Chính sách vĩ mô kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế
7.
PGS. TS. Phan Thị Cúc - Diễn Biến lạm phát ở Việt Nam và giải pháp kiềm chế linh hoạt
8.
ThS. Đinh Thị Thu Hồng - Hướng Đi cho chính sách tiền tệ VN thời kỳ suy giảm kinh tế - Tạp chí Phát triển Kinh tế Số 3 tháng Hai 2010
9.
TS. Quách Mạnh Hào – Tầm nhìn kinh tế (Vietnam Outlook) – Ngày 11 tháng 01 năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh sach lai suat.doc