Tài liệu Đề tài Chính sách khuyến khích xuất khẩu gạo của Mỹ: LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng gạo là một hàng hóa thực phẩm quan trọng nhất, là khẩu phần ăn chính trong hơn một nửa dân số, đặc biệt là những nước nghèo và là một trong năm lượng calo chính được tiêu dung trên toàn cầu. Trong khi đó gạo cũng chính là một mặt hàng được trợ cấp và bảo hộ bởi sự can thiệp của chính phủ nhiều nhất.
Mức thuế suất đánh vào gạo nhập khẩu trên thế giới trung bình là 43% theo World Bank. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới ước tính: các khoản trợ cấp chính phủ và hang rào thương mại đã cung cấp hơn 3/4 thu nhập của những người nông dân xét một cách tổng thể tại các nước thành viên OECD. Những người tiêu dung ở các nước có thị trường gạo được bảo hộ đã phải trả một giá cao gấp 4 lần so với giá gạo trên thế giới, từ đó đã làm giảm mức sống của người tiêu dung. Ở những nước giàu có hơn thì những người đóng thuế phải đóng thêm hang tỉ đôla để trợ cấp cho những người nông dân và hơn nữa là sự bóp méo thị trường gạo thế giới bởi các trợ cấp xuất khẩu. Hàn...
41 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chính sách khuyến khích xuất khẩu gạo của Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng gạo là một hàng hóa thực phẩm quan trọng nhất, là khẩu phần ăn chính trong hơn một nửa dân số, đặc biệt là những nước nghèo và là một trong năm lượng calo chính được tiêu dung trên toàn cầu. Trong khi đó gạo cũng chính là một mặt hàng được trợ cấp và bảo hộ bởi sự can thiệp của chính phủ nhiều nhất.
Mức thuế suất đánh vào gạo nhập khẩu trên thế giới trung bình là 43% theo World Bank. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới ước tính: các khoản trợ cấp chính phủ và hang rào thương mại đã cung cấp hơn 3/4 thu nhập của những người nông dân xét một cách tổng thể tại các nước thành viên OECD. Những người tiêu dung ở các nước có thị trường gạo được bảo hộ đã phải trả một giá cao gấp 4 lần so với giá gạo trên thế giới, từ đó đã làm giảm mức sống của người tiêu dung. Ở những nước giàu có hơn thì những người đóng thuế phải đóng thêm hang tỉ đôla để trợ cấp cho những người nông dân và hơn nữa là sự bóp méo thị trường gạo thế giới bởi các trợ cấp xuất khẩu. Hàng chục triệu người nông dân ở những nước nghèo thấy khó khăn để đưa gia đình ra khỏi cảnh nghèo đói bởi sự can thiệp của các chính sách ở các nước khác khiến cho giá gạo đang trở nên thấp hơn và không ổn định.
Chính sách gạo của Mỹ không phải là một ngoại lệ. Tuy luôn kêu gọi các quốc gia trên thế giới gỡ bỏ rào cản thương mại nhưng xem xét kỹ hơn, nhóm chúng em nhận thấy mặt hàng gạo nói riêng và nông sản của Mỹ nói chung lại được trợ cấp theo một hệ thống vô cùng tinh vi và không công bằng. Ngoài việc đánh thuế vào gạo nhập khẩu, chính phủ Mỹ đã trợ cấp sản xuất gạo trong nước thông qua ba chương trình trợ cấp chủ yếu: thanh toán trực tiếp, trợ cấp không theo định kỳ, và cung cấp các khoản cho vay bán hàng kết hợp với các biện pháp khuyến khích xuất khẩu. Cảm thấy hấp dẫn trước vấn đề này cũng như các tác động của những biện pháp trợ cấp này lên các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới và cả ngành nông nghiệp của Mỹ, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài nghiên cứu là “Chính sách khuyến khích xuất khẩu gạo của Mỹ”.
Do hạn chế về tầm hiểu biết cũng như nguồn tài liệu (phần lớn nguồn tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh), bài nghiên cứu của chúng em khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em mong cô góp ý, giúp đỡ để bài của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cám ơn cô!
Nhóm đề tài
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 20 – K44C - KTNT
Nguyễn Hồng Khuyên – Anh 9
Nguyễn Minh Hoàn – Anh 10
Phạm Thùy Dương – Anh 11
Nguyễn Thị Thu Thủy – Anh 11
Nguyễn Thị Trang – Anh 12
Phần 1: Sơ lược về chính sách trợ cấp gạo của Hoa Kỳ
1.1. Tình hình xuất khẩu gạo của Mĩ:
Mỹ là một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất về gạo, cung cấp khoảng 13% tổng lượng gạo trong thương mại quốc tế. Các bang sản xuất gạo chính ở Mỹ đó là: Arkansas, California, Louisiana, Texas, Mississippi, và Missouri. Gạo của Mỹ rất phong phú và đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng cao.Có khoảng 15000 người hoạt động trong ngành sản xuất lúa gạo.
Năm 2004, Mỹ là nhà xuất khẩu gạo lớn thứ tư thế giới với tổng khối lượng xuất khẩu là 3.097.000MT. Đến năm 2006, Mỹ vươn lên vị trí thứ 3 về xuất khẩu gạo, chỉ sau Thái Lan và Việt Nam.Các thị trường xuất khẩu chính xếp theo thứ tự từ lớn đến bé đó là: Mexico, Nhật Bản, Haiti, Canada, Cuba, Braxin,Philippin, Costa Rica, Anh và Honduras
Bảng: Tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo trung bình của Mĩ giai đoạn 2002 – 2005:
Hoá đơn tiền mặt (triệu $)
1,216
Giá trị xuất khẩu (triệu $)
638
Tỉ trọng của hoạt động xuất khẩu trong tổng sản lượng (%)
52%
Tỉ trọng của sản lượng gạo của Mĩ trong tổng sản lượng gạo thế giới (%)
2%
Tỉ trọng của sản lượng gạo xuất khẩu của Mĩ trong tổng sản lượng gạo xuất khẩu của thế giới (%)
13%
Nguồn: Tính toán của CRS dựa trên số liệu hàng năm của USDA, FSA
1.2. Chính sách xuất khẩu gạo của Mỹ:
Gạo luôn được thừa nhận là loại lương thực quan trọng nhất và cũng là mặt hàng được bảo hộ và trợ cấp nhiều nhất trên thế giới. Ngoài hình thức bảo hộ bằng thuế quan, hạn ngạch thuế quan, một số hàng rào thương mại khác được dựng lên như trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Những hình thức bảo hộ và khuyến khích xuất khẩu này đã không còn lạ lẫm trên thị trường thế giới. Các hàng rào bảo hộ và trợ cấp sản xuất (trong nước và xuất khẩu) góp phần đem lại ¾ thu nhập cho người nông dân ở các quốc gia phát triển.
Các chính sách hỗ trợ ngành sản xuất gạo của Mỹ cũng không phải là một ngoại lệ. Đứng đầu trong hàng rào bảo hộ mặt hàng gạo của Mỹ là ba chương trình trợ cấp trong nước: thanh toán trực tiếp, trợ cấp phi định kỳ và các khoản cho vay hỗ trợ nông nghiệp. Mặc dù là những khoản trợ cấp trong nước nhưng chúng lại đóng vai trò khuyến khích xuất khẩu gián tiếp. Ngoài ra Mỹ còn dành một phần lớn doanh thu của mình để trợ cấp xuất khẩu.
1.2.1. Thanh toán trực tiếp (Direct payment - DP):
a) Khái niệm:
- Đối tượng áp dụng: Ngoài gạo, số tiền thanh toán trực tiếp còn được cấp cho một số loại nông sản như lúa mì, ngô, lúa mạch, lúa miến, yến mạch, bông (theo dự luật nông sản 2002)
- Điều kiện:
+ Để nhận được khoản trợ cấp này thì người nông dân phải tham gia vào các hiệp định hàng năm từ năm 2002 đến năm 2007.
+ Người nông dân được tự do lựa chọn loại cây trồng, trừ hoa quả, rau, gạo hoang (wild rice). Diện tích đất trồng này phảI nằm trong diện tích sử dụng nông nghiệp (Diện tích sử dụng nông nghiệp là diện tích đất để trồng các cây nông nghiệp, trồng cỏ và thả súc vật ăn cỏ, gạo không trồng trọt được vì những lý do liên quan đến thời tiết và thiên tai, hoặc được chuyển từ hoạt động sản xuất nông sản sang những hoạt động văn hoá được ủng hộ nhằm ngăn ngừa sói mòn và thoái hoá đất) và người nông dân phải tuân theo những điều khoản về bảo tồn và đất đầm lầy (conservation & wetland provision).
+ Các nhà sản xuất có thu nhập cộng gộp đã được điều chỉnh vượt quá 2.5 triệu đô, (averaged over each of 3 years) thì không được nhận trợ cấp nữa trừ khi 75% thu nhập xu ất ph át t ừ ho ạt đ ộng nông nghiệp.
- Cơ chế:
+ Với khoản trợ cấp này, những người nông dân và chủ đất được nhận khoản trợ cấp này hàng năm. Số tiền trợ cấp được tính như sau:
Tiền trợ cấp = (tỉ lệ trợ cấp) x (payment yield ) x(diện tích đất trồng) x 0.85
+ Tỉ lệ trợ cấp theo qui định của chinh phủ là $2.35/ c wt
+ Người nông dân có hai cách lựa chọn diện tích cơ sở:
Chọn diện tích cơ sở bằng với diện tích trong được sử dụng đối với các khoản thanh toán PFC năm 2002 cộng với diện tích trồng các hạt có dầu trung bình trong các vụ mùa các năm 1998-2001, miễn là diện tích cơ sở không vượt quá so với diện tích đất trồng trọt đang sử dụng.
Chọn mức diện tích trung bình được trồng trọt trong 4 năm cộng thêm phần diện tích không thể trồng trọt được do điều kiện thời tiết trong các năm 1998-2001.
+ Diện tích đất được tính trợ cấp bằng 85% diện tích cơ sở.
+ Giới hạn trợ cấp đối với khoản trợ cấp trực tiếp là $40000/ người đối với một vụ mùa và qui luật “ba thực thể” vẫn được giữ lại. Trong qui luật này, một cá nhân có thể nhận một khoản trợ cấp đầy đủ trực tiếp cho một thực thể và một nửa khoản trợ cấp cho hai thực thể còn lại.
b) Phân tích:
Thanh toán trực tiếp có phải biện pháp không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng một cách tối thiểu đến thương mại và sản xuất?
Mỹ là một thành viên luôn chậm trễ trong việc thông báo tình hình trợ cấp lên WTO. Lần cuối cùng Mỹ b áo cáo lên WTO về tình hình trợ c ấp nông nghiệp là năm 2001. Khi đó, chỉ có trợ cấp PFC chứ không có trợ cấp DP. Lúc đó Mỹ xếp PFC vào nhóm các biện pháp hộp màu xanh lá (các biện pháp không gây ảnh hưởng hoặc gây ảnh hưởng một cách tối thiểu lên sản xuất và thương mại; thuộc nhóm biện pháp trợ cấp thu nhập bóc tách khỏi sản xuất, không phải cam kết cắt giảm mức trợ cấp). Trong đạo luật nông sản năm 2002, Mỹ mới thay trợ cấp PFC bằng trợ cấp DP nhưng chưa hề thông báo lên WTO, và như vậy Mỹ vẫn coi biện pháp thanh toán trực tiếp thuộc nhóm biện pháp hộp màu xanh lá. Mỹ cho rằng các khoản trợ cấp trực tiếp cũng này không có liên quan với việc sản xuất của các nông sản cụ thể, sản lượng và giá nông sản. Diện tích trồng trọt để đưa ra tính trợ cấp không phải diện tích hiện tại mà là diện tích được tính trợ cấp trong chương trình PFC hoặc mức diện tích trung bình trong 4 năm 1998 - 2001. Điều này nghĩa là chỉ cần nông dân hoặc bất kỳ ai sở hữu mảnh đất đã từng đượcc sử dụng để gieo trồng một số loại cây quy định được trợ cấp theo Đạo luật nông sản 2002 thì sẽ nhận được khoản thanh toán trực tiếp mà không nhất thiết trong thực tế phải tiến hành gieo trồng chúng. Vì vậy, theo Mỹ biện pháp này không gây ảnh hưởng đến sản xuất và thương mại.
Tuy nhiên, trong thực tế, biện pháp thanh toán trực tiếp của Mỹ không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của nhóm các biện pháp hộp màu xanh lá, tức là không phải chỉ gây ảnh hưởng một cách tối thiểu đối với thương mại và sản xuất do khoản trợ cấp này của Mỹ không được áp dụng cho hoa quả, rau và gạo hoang. Điều này dẫn tới việc nông dân trồng những loại cây này sẽ không được nhận trợ cấp. Theo như hiệp định nông nghiệp - phần XIII - phụ lục 2 - hỗ trợ trong nước: cơ sở để miễn trừ cam kết cắt giảm - các chương trình dịch vụ của chính phủ - mục 6 - khoản b: Hỗ trợ thu nhập bóc tách khỏi sản xuất được miễn trừ cam kết cắt giảm phải có trị giá thanh toán trong một năm cụ thể sẽ không liên quan đến hoặc dựa trên loại hình hay sản lượng (kể cả số gia súc) do nhà sản xuất đảm nhiệm trong bất kỳ năm nào sau giai đoạn cơ sở; và theo khoản e: không được yêu cầu về sản xuất để được nhận thanh toán loại này. Như vậy, biện pháp trợ cấp thanh toán trực tiếp không thoả mãn đầy đủ những yêu cầu của nhóm các biện pháp hộp màu xanh lá để được miễn trừ cam kết cắt giảm.
Trong vụ Brazil kiện Mỹ về trợ cấp cho mặt hàng bông vào năm 2004, ban hội thẩm đã không chấp nhận việc Mỹ xếp biện pháp PFC (từ năm 1997 – 2001) và sau đó là DP (2002 – 2007) vào hộp màu xanh lá mà nên cho vào hộp màu hổ phách.
Các biện pháp thuộc hộp màu hổ phách là những biện pháp bóp méo hoạt động sản xuất và thương mại, phải bị cắt giảm. Các biện pháp này được chia thành những biện pháp áp dụng cụ thể đối với từng mặt hàng và những biện pháp không áp dụng đối với từng mặt hàng. DP có thể được xếp vào nhóm các biện pháp không áp dụng đối với từng mặt hàng cụ thể.
Nếu DP, mà trước năm 2002 là PFC không được xếp vào nhóm các biện pháp hộp màu hổ phách thì mức AMS (AMS là giá trị tính bằng tiền của tất cả các biện pháp trợ cấp của hộp màu hổ phách) của Mỹ vẫn ở dưới mức giới hạn mà Mỹ cam kết với WTO là $19.1 tỉ cho các năm 2000 – 2006. Cụ thể là mức AMS của Mỹ trong trường hợp này sẽ là $16.082 tỉ, $14.413 tỉ, $14.007 tỉ, $9.497 tỉ, $7.018 tỉ, $13.385 tỉ, $13.291 tỉ lần lượt cho các năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006.
Tuy nhiên, nếu DP , trước năm 2002 là PFC được xếp vào nhóm các biện pháp không áp dụng đối với từng mặt hàng cụ thể thuộc hộp màu hổ phách thì Mỹ đã vượt quá mức cho phép của WTO đối với trợ cấp Deminimis và cam kết về AMS với WTO.
Đối với các thành viên phát triển, hỗ trợ cho phép của WTO trong Deminimis không phải tính vào AMS là 5% tổng trị giá sản lượng của một sản phẩm nông nghiệp (đối với trợ cấp áp dụng lên từng mặt hàng cụ thể) hoặc 5% trị giá tổng sản lượng nông nghiệp (đối với trợ cấp không áp dụng lên từng mặt hàng cụ thể). Đối với các Thành viên đang phát triển, tỷ lệ phần trăm tại khoản này sẽ là 10%. Mức trợ cấp của nhóm các biện pháp màu hổ phách của Mỹ vượt quá 5% cho phép đối với trợ cấp không áp dụng lên từng mặt hàng cụ thể.
Sources: The 2000 and 2001 U.S. domestic support notification to WTO; Estimates of the FY06 president’s budget as updates for estimates for 2005 and 2006; Farm Service Agency’s Budget Division; Risk Management Agency;
Economic Research, U.S. Farm Income Forecasts.
Note: The bold horizontal line represents the 5 percent limit, which is the maximum for the de minimis exemption of
non-product-specific support under WTO rules.
Do có sự vượt quá mức cho phép trong trợ cấp Deminimis mà giá trị AMS của Mỹ trong những năm này là $29.1 tỉ (2000), $25.3 tỉ (2001), $26.3 tỉ (2002), $26.3 tỉ (2006). Tất cả đ u v ượt mức cam k ết của Mỹ v ới WTO là $19.1 tỉ.
Sources: 2000 and 2001 U.S. domestic support notification to WTO; estimates of the FY06 president’s budget; Risk
Management Agency. USDA ERS value of production data, actual for 2001 and estimates for 2005 and 2006.
Note: Under this scenario, income support payments (production flexibility contract payments and direct payments),
which were originally classified as green box, are included in the non-product-specific AMS category.
The horizontal line represents the maximum U.S. AMS level as permitted by the WTO ($19.1 billion for the
2000–06 period).
1.2.2. Trợ cấp không theo chu kỳ (Counter – cyclical Payments):
a) Khái niệm:
- Đối tượng áp dụng (giống DP): Ngoài gạo, số tiền thanh toán trực tiếp còn được cấp cho một số loại nông sản như lúa m ì, ngô, lúa mạch, lúa miến, yến mạch, bông (theo dự luật nông sản 2002)
- Mục đích: Khoản trợ cấp này nhằm hỗ trợ và làm ổn định thu nhập nông dân khi giá hàng hóa thấp hơn giá mục tiêu.
- Điều kiện:
+ Để nhận được khoản trợ cấp này thì người nông dân phải tham gia vào các hiệp định hàng năm từ năm 2002 đến năm 2007.
+ Người nông dân được tự do lựa chọn loại cây trồng, trừ hoa quả, rau, (wild rice) gạo hoang. Diện tích đất trồng này phải nằm trong diện tích sử dụng nông nghiệp và người nông dân phải tuân theo những điều khoản về bảo tồn và đất đầm lầy (conservation & wetland provision).
+ Các nhà sản xuất có thu nhập cộng gộp đã được điều chỉnh vượt quá 2,5 triệu USD, (averaged over each of 3 years) thì không được nhận trợ cấp nữa trừ khi 75% thu nhập xuất phát từ hoạt động nông nghiệp.
- Cơ chế:
+ Với chương trình mới này, nông dân được nhận trợ cấp phi định kỳ khi giá gạo sản xuất hiệu quả thấp hơn giá mục tiêu. Số tiền trợ cấp này được xác định như sau:
CCP = (diện tích cơ sở) x 0.85 x (payment yield) x (tỉ lệ trợ cấp)
Tỉ lệ trợ cấp = (giá mục tiêu) - (tỉ lệ thanh toán trực tiếp) - (mức cao hơn giữa giá gạo và tỉ lệ cho vay).
Giá gạo sản xuất hiệu quả = (tỉ lệ thanh toán trực tiếp) + (mức cao hơn giữa giá gạo và tỉ lệ cho vay)
+ Tỉ lệ cho vay là $6.5/cwt, tỉ lệ thanh toán trực tiếp là $2.35/cwt. Điều này có nghĩa là giá gạo hiệu quả tối thiểu là $8.85/cwt.
+ Giá mục tiêu theo ấn định của chính phủ là $10.5/ cwt. Điều này có ý nghĩa là mức trợ cấp không theo chu kỳ tối đa là $1.65/cwt.
+ Người nông dân cũng có hai cách lựa chọn diện tích cơ sở (giống như khoản thanh toán trực tiếp):
Chọn diện tích cơ sở bằng với diện tích trong được sử dụng đối với các khoản thanh toán PFC năm 2002 cộng với diện tích trồng các hạt có dầu trung bình trong các vụ mùa các năm 1998-2001, miễn là diện tích cơ sở không vượt quá so với diện tích đất trồng trọt đang sử dụng.
Chọn mức diện tích trung bình được trồng trọt trong 4 năm cộng thêm phần diện tích không thể trồng trọt được do điều kiện thời tiết trong các năm 1998-2001.
+ Diện tích đất được tính trợ cấp bằng 85% diện tích cơ sở.
+ Nông dân có ba cách lựa chọn payment yield:
Sử dụng các payment yield hiện tại
Thêm 70% kho ản chênh lệch giữa program yields và yield trung bình của nông trại trong thời kỳ các năm1998-2001 vào program yields
Sử dụng 93.5% của yield trung bình các năm 1998-2001
+ Giới hạn của khoản trợ cấp không theo chu kỳ này là $65000 / người / năm vụ mùa và qui luật ba thực thể vẫn được áp dụng. Việc áp dụng qui luật này tương tự với thanh to án trực tiếp.
b) Phân tích:
CCP là một khoản trợ cấp mới được đưa vào đạo luật nông sản 2002, do đó cũng chưa được báo cáo lên WTO. Tuy nhiên, trên cơ sở những cuộc thảo luận không chính thức của USDA và theo như kết quả của vụ Brazil kiện các khoản trợ cấp bông của Mỹ năm 2004, khoản trợ cấp không theo chu kỳ của Mỹ đối với mặt hàng bông nói riêng và các mặt hàng nông sản trong chương trình nói chung, trong đó có mặt hàng gạo phải được xếp vào nhóm các biện pháp màu hổ phách vì chúng có liên quan đến giá thị trường, nhưng thuộc nhóm các biện pháp không áp dụng cụ thể đối với từng mặt hang vì chúng không yêu cầu nông dân phải sản xuất một loại nông sản cụ thể nào.
1.2.3. Các khoản hỗ trợ cho vay nông nghiệp (Marketing Loan Assistance - MLA):
a) Khái niệm:
- Đối tượng áp dụng: Các khoản hỗ trợ cho vay nông nghiệp của Mỹ được áp dụng cho một số mặt hàng: gạo, ngô, lúa mì, lúa miến, lúa mạch, bông, đậu nành, hạt dầu, lạc, len, mật ong, yến mạch, vải nỉ angora, đậu xanh, đậu lăng, đậu khô (dry pea)
Đây là chương trình do Cục dịch vụ nông nghiệp hải ngoại của bộ nông nghiệp Mỹ FAS (Foreign Agricultural service) quản lý thông qua tổ chức bảo lãnh tín dụng xuấ t khẩu Mỹ CCC (Commodity Credit Corporation). Chương trình này cho phép nông dân (trong khu ôn kh ổ b ài ti ểu lu ận n ày l à n ông d ân tr ồng l úa g ạo) nh ận m ột kho ản tiền vay từ chính phủ theo một tỉ lệ nhất định / một đơn vị sản xuất bằng cách cầm cố chính sản lượng gạo của mình. Khoản vay này được nhận sau vụ mùa, tương ứng với toàn bộ hoặc một phần sản lượng gạo của người nông dân.
- Mục đích: Khoản vay này nhằm giúp nông dân (sản xuất gạo) có thể tích trữ sản phẩm, cầm cố nó cho CCC để nhận được khoản vay. Khoản tiền này giúp nông dân có thể trả các hoá đơn đến hạn mà không phải bán gạo mà mình sản xuất khi giá có xu hướng ngày càng thấp. Sau đó, khi điều kiện thị trường thuận lợi hơn, nông dân có thể bán gạo và trả lại khoản vay.
- Điều kiện được nhận khoản vay:
+ Quyền được hưởng:
Quyền kiểm soát hàng hoá
Có nguy cơ chịu thiệt khi bán hàng hoá đó
Quyền đối với hàng hoá
Để được nhận khoản vay, nông dân phải duy trì quyền được hưởng trên trong suốt khoảng thời gian kể từ khi gieo trồng đến ngày khoản vay được trả hết hay khi CCC tiếp nhận quyền đối với hàng hoá. Để được nhận khoản LDP, nông dân phải duy trì quyền được hưởng trong suốt khoảng thời gian từ khi gieo trồng đến ngày yêu cầu được nhận LDP. Khi quyền được hưởng này mất đi, nông dân sẽ không được nhận một khoản vay nào hoặc LDP nào mặc dù có thể khôi phục lại quyền này về sau.
+ Cấp độ và chất lượng gạo: Khối lượng gạo đem ra cầm cố để đổi lấy khoản vay phải đáp ứng yêu cầu tối thiểu của CCC về cấp độ và chất lượng gạo.
+ Yêu cầu về bảo tồn và bảo vệ đất ẩm (đầm lầy): Để được nhận khoản vay, nông dân phải tuân theo yêu cầu về bảo tồn và bảo vệ đất ẩm.
+ Sản phẩm (gạo) bị kiểm soát. Nông dân nào bị khởi tố theo luật của liên bang hoặc của bang vì gieo trồng, sản xuất, thu hoạch, chế biến, tích trữ sản phẩm (gạo) đang bị kiểm soát sẽ không được nhận khoản vay cho mùa vụ năm đó và cho mùa vụ 4 năm sau.
+ Sử dụng diện tích đất gieo trồng: Nông dân hàng năm phải báo cáo diện tích đất gieo trồng và tình hình sử dụng diện tích đó.
+ Nông dân có thu nhập cộng gộp điều chỉnh hơn $2.5 triệu trung bình trong 3 năm không thuộc diện nhận trợ cấp, trừ khi 75% khoản thu nhập này có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp.
- Khoản vay này có thể được trả lại theo 3 cách:
+ Theo tỉ lệ cho vay + tiền lãi tích luỹ (t nh bằng lãi suất mà CCC phải trả cho Kho bạc Nhà nước +1% điểm).
Tiền lãi tích luỹ là tổng số lãi phát sinh trong thời gian khoản vay chưa được trả; tính từ ngày nông dân bắt đầu nhận tiền vay.
Tiền lãi tích luỹ = lãi suất áp dụng * (số ngày vay / tổng số ngày trong năm) * tiền vay ban đầu.
+ Chuyển giao lượng gạo cầm cố cho CCC khi khoản vay đáo hạn
Khoản vay đáo hạn vào ngày cuối cùng của tháng thứ 9 tính từ tháng mà nông dân nhận khoản vay.
+ Theo một tỉ lệ hoàn trả khác.
Tỉ lệ hoàn trả khác được tính trên cơ sở CCC dự tính giá của thị trường cạnh tranh.
- Cơ chế:
+ Khoản lời từ tiền vay (Market Loan Gain - MLG):
Chính phủ áp dụng hình thức hỗ trợ cho vay khi mức giá thế giới điều chỉnh do USDA quy định thấp hơn tỉ lệ cho vay. Đến khi thanh toán, nông dân được phép trả lại khoản vay này với một tỉ lệ thanh toán thấp h ơn mức khi vay + tiền lãi tích luỹ) (accured interest). Tỉ l ệ thanh toán được xác định trên cơ sở giá thị trường thế giới phổ biến được tính lại hàng tuần. Khi trả lại số tiền vay theo giá thị trường thế thới phổ biến như vậy, người nông dân được hưởng khoản tiền chênh lệch giữa tỉ lệ cho vay và tỉ lệ thanh toán gọi là khoản lợi từ tiền vay (MLG) . Tỉ lệ cho vay của mặt hàng gạo (rough rice ) giữ nguyên từ năm 2002 đến 2007 là $6.5/cwt.
Ví dụ: một nông dân được nhận khoản tiền vay từ chính phủ với tỉ lệ $6.5/bushel . Nếu cộng cả tiền vay và lãi , nông dân sẽ nợ CCC một khoản là $6.58/bushel. Nếu quyết định trả lại số tiền vay vào một ngày khi tỉ lệ thanh toán được áp dụng là $6/bushel, người nông dân có thể thanh toán khoản vay với tỉ lệ $6/bushel, như vậy đã có lợi 5 cent ($6.5 - $6 = $0.5) và 8 cent tiền lãi. Trong trường hợp này MLG là 5 cent.
Giới hạn của MLG là $75,000/ng ười/năm.
+ Tiền thanh toán cho hoạt động sản xuất không hiệu quả (Loan Deficiency Payment - LDP):
Thay vì nhận khảon tiền chênh lệch theo cách bù trừ số tiền thanh toán vào số tiền vay ban đầu để thu được MLG, nông dân có thể nhận trực tiếp số tiền chệnh lệch đó gọi là tiền thanh toán cho hoạt động sản xuất không hiệu quả (LDP).
Sản lượng gạo sau khi được đem ra cầm cố để thu về khoản vay cho người nông dân sẽ không được dùng cho những đợt vay sau này
Giới hạn của LDP là $75,000/người/năm.
+ Chứng chỉ hàng hoá:
Chứng chỉ hàng hoá là một hình thức trợ cấp gián tiếp của CCC thay vì trợ cấp bằng tiền mặt cho nông dân. Chứng chỉ được bán tại các trung tâm cung cấp dịch vụ của USDA cho những nông dân chưa thanh toán khoản vay cho CCC. Nông dân có thể mua chứng chỉ này với mức giá bằng tỉ lệ thanh toán hay chính bằng mức giá thế giới phổ biến đối với mặt hàng gạo được áp dụng vào ngày hôm đó. Ngay sau đó, nông dân đem đổi chứng chỉ này để lấy lại lượng gạo đã cầm cố cho CCC để nhận được khoản tiền vay trước đó. Như vậy, nông dân sẽ thu được khoản tiền lời từ việc trao đổi chứng chỉ hàng hóa (CEG).
CEG = tỉ lệ cho vay - tỉ lệ thanh toán hay giá thế giới phổ biến (đối với mặt h àng gạo)
Việc trao đổi chứng chỉ hàng hoá sẽ khôgn được thực hiện khi tỉ lệ thanh toán cao hơn tỉ lệ cho vay.
Việc sử dụng chứng chỉ hàng hoá như vậy giúp hạn chế hành động gán hàng lại cho chính phủ, giảm luợng hàng hoá dư thừa được chính phủ tích trữ khá nhiều , tốn nhiều chi phí lưu kho mà giá thành hàng hoá lại đang giảm. Đồng thời, sử dụng chứng chỉ hàng hoá còn là giúp nông dân có cơ hội hưởng lợi từ tỉ lệ hoàn trả thấp bời chũng không phải chịu một mức giới hạn trợ cấp nào như đối với MLG và LDP.
- Quy định về 3 thứ thuế được áp dụng giống hai biện pháp trợ cấp thanh toán trực tiếp và trợ vấp không theo chu kỳ
b) Phân tích:
MLA là khoản trợ cấp gây biến dạng lớn hoạt động thương mại
- MLA l à khoản trợ cấp nhằm khuyến khích sử dụng hàng trong nước hơn hàng nhập khẩu,
Khi giá thế giới xuống thấp (thấp hơn tỉ lệ cho vay, có khi thấp hơn cả chi phí sản xuất). nếu không được nhận trợ cấp, gạo cảu Mỹ sẽ không thể cạnh tranh được với gạo nhập khẩu từ những nước có chi phí sản xuất gạo thấp như Thái Lan, Việt Nam và một số nước đang phát triển khác. Nhờ dược trợ cấp, gạo của Mỹ vấn có thể bán ra ở thị trường trong nước với giá thế giới và như vậy khuyến khích người dân sử dụng gạo trong nước thay vì gạo nhập khẩu. Do đó , MLA là một khoản trợ cấp bị cấm ( theo hiệp định về trợ cấp và các biệ pháp đối kháng - phần II - điều 3 - Khoản 1 - mục b: các khoản trợ cấp quy định khối lượng trợ cấp, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng ngoại sẽ bị cấm. )
- MLA là một khoản trợ cấp xuất khẩu bị cấm.
Theo chương trình hỗ trợ cho vay nông nghiệp, tỉ lệ cho vay đóng vai trò như một mức giá bảo đảm. Khoản trợ cấp này phụ thuộc vào giá thị trường và tác động lên sản xuất. Nếu giá thị trường gạo tụt xuống thấp hơn tỉ lệ cho vay, ngưòi nông dân sẽ được nhận khoản tiền trợ cấp dưới dạng LDP hay MLG hay CEG. Như vậy, khi giá thế giới của mặt hàng gạo ở mức thấp, khoản trợ cấp này sẽ khuyến khích nông dân sản xuất nhiều gạo hơn. Điều này hoàn toàn trái ngược với những tín hiệu cảu thị trường là khi giá giảm thì sẽ làm giảm lượng cung( lưọng sản xuất) , một phần vì khoản trợ cấp này giúp san bằng chi phí sản xuất. Chi phí này sẽ không thể bị bù lấp nếu chỉ dựa vào doanh thu từ thị trường đang ở mức giá thấp. Như vậy, việc nhận hỗ trợ cho vay nông nghiệp này sẽ giúp nông dân bù lỗ sản xuất và khuyến khích họ sản xuất gạo nhiều hơn nhu càu của thị trường. Và nếu bắt nguồn từ lợi ích từ tiền vay mà lượng gạo thặng dư của Mỹ được xuất khẩu theo giá thị trưòng ở mức thấp hơn tỉ lệ cho vay ( và trong nhiều trườgn hợp là thấp hơn cả chi phí sản xuất), khoản trợ cấp cho vay này chính là một khoản trợ cấp xuất khẩu . Như vậy, MLA sẽ là một khoản trợ cấp làm bóp méo nghiêm trọng hoạt động thương mại và đóng vai trò như một khoản trợ cấp bị cầm ( prohibited Subsidies), được xếp vào danh sách trợ cấp của hộp màu hổ phách (Amber box), thuộc nhóm các biện pháp áp dụng cụ thể đối với từng mặt hàng.
Theo Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng - phần II - Điều 3 - Khoản 1- Mục a: các khoản trợ cấp quy định khối lượng trợ cấp, theo luật hay trong thực tế, dù là một điều kiện riêng biệt hay kèm theo những điều kiện khác, căn cứ vào kết quả thực hiện xuất khẩu sẽ bị cấm.
Theo như quy trình giải quyết tranh chấp của WTO, những khoản trợ cấp bị cấm sẽ phải cắt giảm nhanh hơn so với những khoản trợ cấp có thể bị đối kháng (Actionable Subsidies). Nếu biện pháp nêu ra được xác định là trợ cấp bị cấm, t ức là ban đầu chưa được nước thành viên duy trì chương trình trợ cấp đó xếp vào những khoản trợ cấp bị cấm, ban hội thẩm sẽ khuyến nghị thành viên này bỏ ngay trợ cấp đó. Ban hội thẩm sẽ nêu rõ trong khuyến nghị thời hạn để bỏ biện pháp đó. (Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng - Phần II - Điều 4 - Khoản 7).
1.2.4. Trợ cấp xuất khẩu:
Cùng với những chính sách trợ cấp nội địa đối với gạo, người sản xuất gạo của Mỹ còn nhận được một lượng trợ cấp lớn từ chính sách khuyên khích xuất khẩu của Mỹ.
Các chính sách này bao gồm:
a) Chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu (Export Credit Guarantee Program):
Chương trình này do bộ nông nghiệp Mỹ khởi sướng và chịu trách nhiệm.
Mục đích:
+ Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Mỹ
+ Cạnh tranh với các nhà xuất khẩu gạo từ các nước khác
+ Hỗ trợ các quốc gia, đặc biệt các nước đang phát triển đáp ứng nhu cầu lương thực, chất xơ cho người dân.
+ Mục đích khác do bộ trưởng bộ nông nghiệp xác định phù hợp, thống nhất với
các yêu cầu trong điều khoản của §1493.6.
Phát triển, mở rộng hoặc duy trì thị trường nước ngoài cho việc buôn bán, xuất khẩu nông sản trong đó có mặt hàng gạo của Mỹ mà không thay thế sản lượng thương mại th ông th ư ờng ở quốc gia nhập khẩu trên cơ sở dài hạn.
Tăng khả năng mua và sử dụng nông sản trong đó có mặt hàng gạo của Mỹ cho quốc gia nhập khẩu trên cơ sở dài hạn.
Thúc đẩy xuất khẩu nông sản trong đó có mặt hàng gạo của Mỹ.
Nội dung: Chương trình này nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu tới các quốc gia mà tín dụng là cần thiết trong việc duy trì và nâng cao khả năng xuất khẩu của Mỹ, tuy nhiên ở những quốc gia này, vấn đề tài chính không được đảm bảo nếu không có sự đảm bảo từ phía Hiệp hội tín dụng của USDA.
b) Chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu (GSM – 102) và chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu trung gian (GSM – 103):
Chương trình báo lãnh tín dụng xuất khẩu của USDA đảm bảo rằng tín dụng sẽ được dùng để tài trợ cho nông sản xuất khẩu của Mỹ bằng cách cung cấp các điều khoản tín dụng có tính chất cạnh tranh cho bên nhập khẩu như vậy sẽ bảo đảm rằng nhà xuất khẩu sẽ được thanh toán. Với việc giảm rủi ro tài chính cho người cho vay, bảo lãnh tín dụng khuy ến khích xuất khẩu nông sản, đặc biệt sang các nước đang phát triển, và bảo đảm rằng nhà xuất khẩu sẽ được thanh toán. Tại đó, muốn duy trì hoặc tăng lượng xuất khẩu của Mỹ phải cần đến tín dụng, nhưng việc tài trợ sẽ không thực hiện được nếu không có bảo lãnh.
Chương trình bảo lãnh tín dụng cam kết tài trợ tín dụng cho các ngân hàng nước ngoài được chấp thuận. Tín dụng này do khu vực ngân hàng tư nhân của Mỹ (hoặc nhà xuất khẩu Mỹ, tuy nhiên trường hợp này ít phổ biến hơn) cung cấp.
Điều kiện: Ngân hàng nước ngoài được chấp thuận phải sử dụng thư tín dụng không thể chuyển đổi và dùng đồng đô la để giúp nhà nhập khẩu nước đó có thể mua nông sản (gạo) của Mỹ.
Giới hạn bảo lãnh: Thông thường nhà bảo lãnh CCC bảo lãnh 98% giá trị của khối lượng nông sản Mỹ (gạo) được xuất khẩu cộng với một tỉ lệ lãi dựa trên tỉ lệ của ngân hàng thế giới Luân Đôn (LIB OR). Việc thu xếp sau này giữa ngân hàng và nhà nhập khẩu nước ngoài thực hiện hoàn toàn tách biệt và nhà bảo lãnh CCC không bảo lãnh cho những khoản này.
Thời kỳ tín dụng được bảo đảm trong GSM - 102 là 3 năm, GSM – 103 là trên 3 năm và không hơn 10 năm.
c) Chương trình bảo lãnh tín dụng cho người cung cấp (Supplier Credit Guarantee Program – SCGP):
Tương tự như chương trình tín dụng xuất khẩu, SCGP cũng do USDA quản lý.
Cơ chế:
Chương trình tín dụng này cũng đảm bảo về mặt tài chính cho các nhà xuất khẩu nông sản của Mỹ, nhờ đó đưa ra các điều khoản rất cạnh tranh cho các nhà nhập khẩu. Với sự hỗ trợ của chương trình này, các nhà xuất khẩu nông sản Mỹ có khả năng đề nghị các nhà nhập khẩu nước ngoài các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm một khoản tín dụng trực tiếp trong ngắn hạn. Để làm được viêc này, HIệp hội tín dụng (CCC) của USDA giảm bớt những rủi ro tài chính cho các nhà xuất khẩu Mỹ bằng cách đảm bảo một tỉ lệ lớn trong tổng giá trị hợp đồng mua bán sẽ được thanh toán bởi nhà nhập khẩu trong thời gian 180 ngày. Nói cách khác, các nhà nhập khẩu có thể chậm thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định mà các nhà xuất khẩu vẫn vui vẻ đồng ý vì họ có sự đảm bảo của USDA. Rõ ràng, sự trợ giúp này, sẽ khiến các hợp đồng xuất khẩu được kí kết dễ dàng hơn.
Điều kiện duy nhất đối với các nhà nhập khẩu là sự xác nhận chính thức và đảm bảo thanh toán của họ về việc trả chậm.
Giới hạn bảo lãnh: thấp hơn so với GSM – 102 và GSM – 103, chỉ khoảng 65 % giá trị của khối lượng nông sản Mỹ (gạo) được xuất khẩu cộng với một tỉ lệ lãi dựa trên tỉ lệ của ngân hàng thế giới Luân Đôn (LIBOR). Việc thu xếp sau này giữa ngân hàng và nhà nhập khẩu nước ngoài thực hiện hoàn toàn tách biệt và nhà bảo lãnh CCC không bảo lãnh cho những khoản này.
d) Chương trình đảm bảo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu (Facility Guarantee Program):
Chương trình này do USDA thay mặt CCC quản lý.
Cơ chế:
+ Tăng lượng nông sản (gạo) xuất khẩu của Mỹ sang các thị trường mới nổi.
Một thị trường mới nổi theo định nghiã của bộ trưởng bộ nông nghiệp phải có 2 đặc điểm:
Đang từng bước tiến lên một nền kinh tế thị trường thông qua khu vực nông nghiệp.
Có tiềm năng trở thành một thị trường lớn cho hàng nông sản (gạo) c ủa M ỹ.
Các thị trường này không đủ khả năng lưu kho, chế biến, buôn bán. Điều này làm hạn chế tiềm năng thương mại của các thị trường này. Các dịch vụ để tạo điều kiện thuận lợi liên quan đến nông nghiệp. Ví dụ: Mỹ sẽ xuất khẩu các dụng cụ, gửi chuyên gia sang các thị trường mới nổi để cải tiến hệ thống cảng biển, khả năng bốc dỡ hàng hoá, lưu kho, đông lạnh, hệ thống phân phối, và các điều kiện khác nữa, miễn là những hoạt động này được kỳ vọng là sẽ tạo thêm cơ hội cho hàng nông sản (gạo) của Mỹ được xuất khẩu sang các thị trường này.
+ Chương trình này cũng cung cấp hoạt động bảo lãnh thanh toán cho nhà xuất khẩu nông sản (gạo) của Mỹ. HIệp hội tín dụng (CCC) đảm bảo một tỉ lệ lớn trong tổng giá trị hợp đồng mua bán sẽ được thanh toán bởi nhà nhập khẩu. (ngân hàng n ước ngoài) cho nhà xuất khẩu hoặc tổ chức tài chính nào đó của Mỹ. Giới hạn bảo lãnh: 95% giá trị của khối lượng nông sản Mỹ (gạo) được xuất khẩu cộng với một tỉ lệ lãi dựa trên tỉ lệ của ngân hàng thế giới Luân Đôn (LIBOR).
Tỉ lệ nội địa hoá: Chỉ có những nông sản (gạo) của Mỹ mà giá trị kết hợp của các yếu tố nước ngoài chỉ chiếm ít hơn 50% giá trị của hợp đồng thương mại mới được hưởng lợi từ chương trình bảo đảm điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu.
Lượng thanh toán ban đầu: Ban đầu, nhà nhập khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu ít nhất 15% giá trị của hợp đồng thương mại.
Thời hạn thanh toán: Thời hạn thanh toán có thể dao động trong khoảng từ 1 năm đến 10 năm. Lãi tính theo nửa năm một.
Cơ chế thanh toán: Nhà nhập khẩu muốn thanh toán chậm cho nhà xuất khẩu thì phải trả bằng tiền đô và sử dụng thư tín dụng không thể chuyển đổi của ngân hàng nước mình.
Hàng tháng, các báo cáo về hiệu quả của hoạt động tín dụng xuất khẩu này đều được gửi lên USDA.
VD: bản báo cáo mới nhất vào ngày 17 tháng 8 năm 2007 (đơn vị: triệu USD)
+ Khu vực Trung Mỹ:
+ Mexico:
- Phân tích:
Trong vụ Brazil kiện trợ cấp xuất khẩu bông của Mỹ, ban hội thẩm WTO đã phán quyết rằng 3 chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu của Mỹ là GSM – 102, GSM – 103, và SCGP đóng vài trò như những khoản trợ cấp xuất khẩu bị cấm vì lợi ích tài chính thu về cho chính phủ từ những chương trình này không đủ bù đắp chi phí hoạt động dài hạn. (Theo Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng - Phụ lục 1- khoản j: Nếu chính phủ (hoặc các cơ quan đặc biệt do Chính phủ quản lý) thực hiện các chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, các chương trình bảo hiểm hoặc bảo lãnh nhằm chống lại sự tăng chi phí sản phẩm xuất khẩu hay các chương trình về rủi ro ngoại hối, với phí thu thấp không hợp lý, không đủ để chi trả cho chi phí hoạt động dài hạn hoặc thâm hụt của các chương trình đó thì những chương trình đó cũng sẽ bị cấm.
Hơn nữa, các chương trình này không chỉ áp dụng đối với mặt hàng bông mà còn với tất cả các mặt hàng nông sản được hưởng các chương trình hỗ trợ nông nghiệp của Mỹ, trong đó có gạo. Như vậy, với tư cách là các khoản trợ cấp xuất khẩu, các chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu này chỉ được phép áp dụng đối với các mặt hàng nông sản được đưa vào danh sách hưởng trợ cấp xuất khẩu và Mỹ phải cam kết cắt giảm dần lượng trợ cấp xuất khẩu này.
e) Luật công chúng 480 (Public Law 480):
Luật công chúng 480 (P.L. 480) là một chương trình hỗ trợ lương thực và phát triển thị trường hướng tới nhu cầu của các quốc gia đang phát triển và đặt mục tiêu là thiết lập vị thế của của các mặt hàng nông sản (trong đó có gạo) của Mỹ ở các thị trường này và hỗ trợ sự phát triển kinh tế của các thị trường đó. Luật công chúng 480 gồm 3 title.
* Title I:
Title I do USDA thực hiện. Title này cho phép chính phủ Mỹ được trợ cấp cho việc xuất khẩu các sản phẩm nông sản sang các nước đang phát triển dưới một số các điều khoản ưu đãi về tín dụng. luật này cho phép kéo dài thời hạn tín dụng (lên tới 30 năm) cũng như giảm lãi suất của các khoản vay tín dụng trợ cấp xuất khẩu. Nước nhận trợ cấp được phép thanh toán bằng đồng tiền của nước mình nếu được Mỹ chấp thuận. Những quỹ này có thể dùng để hỗ trợ phát triển thị trường, nghiên cứu và phát triển nông nghiệp ởcác nước nhận hỗ trợ.
Một quốc gia đang phát triển sẽ được coi là nằm trong danh sách ưu đãi của Luật công chúng 480 nếu quốc gia này bị thiếu hụt nguồn ngoại tệ và gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu trong nước về lương thực thực phẩm thông qua kênh thương mại.
Bộ phận dịch vụ ngoại thương về nông nghiệp (FAS) của USDA sẽ chịu trách nhiệm trong việc phê chuẩn các hiệp ước với các quốc gia nằm trong danh sách ưu đãi. Theo đó, chính phủ các nước này phải cam kết nhập khẩu lâu dài các sản phẩm nông nghiệp của Mỹ.
* Title II & III:
Title II và III không nằm dưới sự kiểm soát của USDA mà do cơ quan phát triển quốc tế (AID) thực hiện. Nội dung của hai title này là về quyền cấp phát, hỗ trợ lương thực.
Title II tập trung vào các hoạt động trợ cấp mang tính nhân văn, bao gồm cả các nhu cầu cấp thiết. Các khoản trợ cấp của title II có thể được chuyển trực tiếp cho chính phủ các quốc gia đang và chậm phát triển thông qua các tổ chức tự nguyện hoặc các tổ chức lương thực quốc tế như Chương Trình Lương Thực Thế Giới Của Liên Hiệp Quốc.
Title III tập trung vào hỗ trợ phát triển kinh tế ở các quốc gia kém phát triển nhấtt.
* Chương trình Section 416(b):
Chương trình này nhằm thực hiện những hoạt động trợ cấp hàng nông sản dư thừa (trong đó có gạo) do CCC sở hữu cho các quốc gia đang phát triển. chương trình cũng cho phép sử dụng lượng nông sản (gạo) dư thừa của CCC vào những mục đích của Title II, luật công chúng 480 và chương trình lương thực vì sự phát triển (FFP).
f) Chương trình Lương thực vì sự phát triển (Food for Progress Program):
Chương trình lương thực vì sự phát triển được tổng thống Mỹ Bush phê chuẩn và được giám sát bởi FAS của USDA. USDA cũng hợp tác với các cơ quan chính phủ khác của Mỹ gồm Millennium Challenge Corporation, C ơ quan ph át tri ển qu ốc t ế (AID), and the State Department. Chương trình này hỗ trợ lương thực cho các tổ chức, các quốc gia nghèo khó. Chính phủ Mỹ cũng rất quan tâm đến việc phát triển chương trình này. Trong năm tài chính 2004, chương trình này đã chiếm tới 5,8% lượng XK gạo của Mỹ, năm tài chính 2005 là 3,5%. Đồng thời chương trình này cũng nhằm mục tiêu giúp các nước đang phát triển thực hiện cải cách nông nghiệp thông qua một loạt các hoạt động. Các dự án FFP tập trung vào hỗ trợ phát triển khu vực nông nghiệp tư nhân như cải tiến kỹ thuật nông nghiệp, hệ thông thị trường, giáo dục, đào tạo nông dân, mở rộng năng suất chế biến, phát triển và đưa ra các nông sản mới và/ hoặc phát triển hoạt động kinh doanh liên quan đến nông nghiệp. Một số các hoạt động nh ư vậy là:
Giáo dục nông dân và cộng đồng trong các hoạt động động phát triển hợp tác nhằm nâng cao đời sống, hệ thống lương thực cùng với việc giới thiệu các cây trồng, lương thực giúp tăng cường chất dinh dưỡng cho người dân.
Phát triển các hoạt động kinh doanh nhằm hỗ trợ nâng cao thu nhập, sản lượng cho nông dân như luân canh cây trồng, cải tạo đất, hệ thống tưới tiêu, hỗ trợ xây dựng nhà kho, vận chuyển nông sản để tránh thất thoát mùa màng.
Xây dựng hoặc phục hồi hệ thống thị trường gồm có an ninh kho hàng, kiểm kê, hệ thống giao thông đường thuỷ, đường bộ.
Củng cố hệ thống tài chính (bằng cách cho vay hoặc trợ cấp) để khuyến khích các quốc gia này sử dụng các công nghệ, phương pháp nông nghiệp mới, tạo cơ hội kinh doanh lâu dài trong cộng đồng.
Cải tiến các công nghệ nông nghiệp thân thiện với môi trường như các phương pháp bảo tồn nguồn nước, luân canh cây trồng, giữ đất, các biện pháp thu hoạch hiệu quả.
Hỗ trợ các quốc gia này hình thành năng lực thực hiện các hoạt động thương mại đối với mặt hàng nông sản và nâng cao tiêu chuẩn SPS trên cơ sở khoa học cho thị trường nông sản.
Các quốc gia được hưởng chương trình này: Các nước đang phát triển mang những nhân tố về kinh tế và thương mại gồm:
Thu nhập trên đầu người dưới $2000/ năm (theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới)
Hơn 20% dân số bị thiếu ăn
Thực hiện những phong trào tích cực hướng tới tự do, gồm có các quyền về chính trị, tự do công dân
Nhập siêu lương thực.
USDA cũng thực hiện chương trình FFP đối với các nước trong thời kỳ quá độ, cả về mặt chính trị lẫn kinh tế, như các nước:
Cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ khu vực tư nhân
Đang phục hồi sau xung đột
USDA chắc chắn áp dụng chương trình này với các quốc gia sau: Afghanistan, Armenia, Bangladesh, Bolivia, Burundi, Cộng hoà Nam Phi, Cộng hoà Congo, Djibouti, Ethiopia, Cộng hoà Gambia, Guinea-Bissau, Honduras, Kenya, Liberia, Madagascar, Malawi, Mali, Mongolia, Mozambique, Nicaragua, Niger, Philippines, Senegal, Sierra Leone, Sri Lanka, Tanzania, Yemen, Zambia
g) Chương trình phát triển thị trường nước ngoài (Foreign Market Developmant Program):
Chương trình phát triền này cũng do FAS của USDA đảm trách. Chương trình này nhằm mục tiêu xóa bỏ các rào cản thương mại và tập trung vào việc phát triển, duy trì, và mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông sản của Mỹ. FAS kí thỏa thuận với các tổ chức phi lợi nhuận về thương mại nông nghiệp. Nếu thỏa thuận được phê chuẩn, các khoản trợ cấp về tài chính sẽ được cấp cho các tổ chức này với những điều khoản rất ưu đãi. Trong những năm gần đây, chương trình này đã hỗ trợ khoảng 34 triệu đô la Mỹ cho các tổ chức trên.
- Chương trình này có lợi như thế nào đối với nền nông nghiệp Mỹ?
Chương trình này đem lại lợi ích cho nông dân, người chế biến, và nhà xuất khẩu Mỹ thông qua hỗ trợ các tổ chức của họ trong việc phát triển thị trường mới ở nước ngoài và tăng thị phần ở các thị trường hiện tại. Việc phát triển thị trường nước ngoài chỉ tập trung vào nông sản cùng loại của Mỹ hơn là các nông sản có nhãn hiệu riêng và hướng tới sự phát triển dài hạn.
Các quỹ của CCC tài trợ một phần cho các tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Các tổ chức nông nghiệp và thương mại đại diện cho cả một ngành hoặc có phạm vi hoạt động trên cả nước sẽ được ưu tiên hơn. Những thành viên đăng ký được hưởng các khoản tài trợ này phải cho thấy được khả năng hoạt động hiệu quả dựa trên kế hoạch chiến lược dài hạn rõ ràng.
Các quy định FMD (7 CFR 1484) xác định các yêu cầu của chương trình bao gồm phân chia chi phí, lên kế hoạch chiến lược, thủ tục hoàn lại, các ghi chép và yêu cầu về báo cáo và các đánh giá.
Phần 2: Tác động của chính sách trợ cấp gạo của Mỹ
2.1. Tác động nội địa:
2.1.1 Bù đắp chi phí sản xuất trong nước:
Trợ cấp khiến nông dân thay đổi hoạt động sản xuất theo tình hình trợ cấp chứ không theo các tín hiệu và nhu cầu của thị trường.
Khi các khoản trợ cấp lên mặt hàng gạo tăng lên, việc này sẽ khuyến khích những nông dân trước kia không sản xuất gạo chuyển sang gieo trồng, sản xuất mặt hàng nông sản này, đồng thời khuyến khích những nông dân đang sản xuất gạo sản xuất nhiều hơn trước. Điều này sẽ dẫn tới một sản lượng gạo nhiều hơn nhu cầu của thị trường.
Trợ cấp giúp bù đắp chi phí sản xuất cho nông dân sản xuất gạo như sau:
Mỹ là một quốc gia sản xuất gạo đứng thứ 10 trên thế giới và xuất khẩu đứng thứ 3 trên thế giới. Tuy nhiên, đánh giá đó là dựa vào mức sản lượng sản xuất và xuất khẩu trong điều kiện trợ cấp vô cùng cao của Mỹ. Do đó, để đánh giá tính hiệu quả của ngành sản xuất gạo của Mỹ, ta cần xét đến vai trò quan trọng của trợ cấp đối với sản xuất gạo. Nếu không được trợ cấp, bức tranh về ngành sản xuất gạo của Mỹ hoàn toàn khác. Vì được trợ cấp, Mỹ dù cho chi phí sản xuất gạo có cao gấp 2 lần Việt Nam, nhưng vẫn là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới sau Việt Nam. (Một nửa sản lượng gạo của Mĩ là để xuất khẩu). Tuy nhiên, nếu dỡ bỏ cả một hệ thống trợ cấp quy mô lớn khỏi ngành gạo, Mỹ không thể cạnh tranh được với Thái Lan, Việt Nam và một số quốc gia đang phát triển khác trong ngành này bởi doanh thu nếu chỉ tính trên giá thị trường sẽ không đủ để bù đắp chi phí sản xuất gạo của Mỹ. Chỉ làm một phép so sánh giữa chi phí sản xuất gạo trung bình của nông dân Mỹ với giá gạo thế giới cũng đủ cho thấy có bao nhiêu nông dân Mỹ có khả năng bù đắp chi phí sản xuất. Vào năm 2000, giá gạo trung bình trên thế giới là $5.61/cwt, và chỉ xấp xỉ 78% số nông dân Mĩ có thể bù đắp được chi phí hoạt động. Chỉ khoảng 43% số nông dân có thể bù đắp được cả chi phí hoạt động và chi phí về sở hữu tài sản. Tuy nhiên, thực tế là gần như tất cả nông dân Mĩ đều được nhận trợ cấp từ chính phủ vào năm 2000. Do đó, tổng doanh thu cuối cùng là $8.21/c wt. Với những khoản trợ cấp, gần như tất cả (97%) nông dân Mỹ có thể chi trả được chi phí hoạt động và 84% nông dân có thể chi trả cả chi phí hoạt động và chi phí sở hữu.
Ta xét khả năng bù đắp chi phí sản xuất của trợ cấp đối với mặt hàng gạo một cách tổng quát hơn trong giai đoạn 2000 – 2004.
Bảng: Doanh thu và chi phí trung bình trên một đơn vị sản xuất của mặt hàng gạo trong giai đoạn 2000 - 2004
Doanh thu/đơn vị
từ giá thị truờng ($/đơn vị)
5.95
từ trợ cấp ($/đơn vị)
6.53
Tổng ($/đơn vị)
12.48
Chi phí sản xuất/đơn vị
Chi phí hoạt động ($/đơn vị)
4.25
Tổng chi phí ($/đơn vị)
8.56
Tỉ lệ bù đắp chi phí của
Doanh thu theo giá thị trường (%)
70%
Tổng doanh thu (có trợ cấp) (%)
146%
Từ bảng trên ta thấy:
+ Doanh thu từ giá thị trường giai đoạn 2000 - 2004 chỉ bù đắp được chi phí hoạt động (doanh thu từ giá thị trường = 140% chi phí hoạt động), nhưng không bù đắp được tổng chi phí sản xuất (doanh thu từ giá thị trường = 70% chi phí sản xuất)
+ Khi có trợ cấp (trợ cấp chi ếm 52% tổng doanh thu), tổng doanh thu lúc này còn vượt quá tổng chi phí sản xuất, đem lại cho nông dân mức lợi nhuận cao. (tổng doanh thu = 146% chi phí sản xuất)
2.1.2 Góp phần vào thu nhập của nông dân Mỹ
a) Tăng thu nhập trung bình cho nông dân:
Trợ cấp gạo của chính phủ Mỹ góp một phần đáng kể vào việc nâng cao thu nhập trung bình cho nông dân. Điều này thể hiện ở một vài con số cụ thể như sau.
+ Trong nhiều năm, phần thu nhập của nông dân có nguồn gốc từ trợ cấp còn lớn hơn phần thu nhập có được từ bán gạo. Số liệu của USDA cho biết trong những năm 1999 – 2002, khoản tiền trợ cấp cho nông dân bằng 145% thu nhập của họ có được từ bán gạo trên thị trường thế giới.
+ Năm 2003, nông dân sản xuất gạo nhận $1.3 tỉ tiền trợ cấp, tăng $200 triệu so với năm 2002.
+ Trung bình từ năm 2000 – 2004, trợ cấp gạo chiếm 52% tổng doanh thu
+ Trung bình giai đoạn 1995 – 2005, một nông dân sản xuất gạo nhận được $166,000 từ chính phủ.
b) Tạo sự bất bình đẳng trong chính tầng lớp nông dân:
Mặc dù gạo là loại nông sản được trợ cấp nhiều nhất trong số những nông sản được ưu tiên ở Mĩ, khoản trợ cấp này chủ yếu rơi vào tay những nhà sản xuất lớn. Một số ví dụ tiêu biểu như Jackie Loewer, chủ tịch hội những nhà sản xuất gạo của Mỹ dự tính rằng trung bình trợ cấp của chính phủ đóng góp 20% – 30% doanh thu của ông ta, thậm chí lên đến trên 50% khi điều kiện thị trường khó khăn; hay trong giai đoạn 1995 – 2005, dù tiền trợ cấp trung bình cho nông dân sản xuất gạo là $166,000 nhưng riêng những nhà sản xuất giàu có nhất (chiếm 1% tổng số nông dân Mỹ) đã nhận hơn ¼ tổng số tiền trợ cấp, trong khi những nông dân nghèo (chiếm đến 80% tổng số nông dân Mỹ) chỉ được nhận 15% tổng số tiền trợ cấp. Điều này nghĩa là những công ty như Riceland Food Inc., đối tượng nhận trợ cấp gạo nhiều nhất, đã được hưởng tổng số tiền l ên đ ến hơn $513 triệu, trong khi những gia đình nông dân nhỏ chỉ nhận được chưa đến $32,000 trong suốt 10 năm.
Khác xa với việc tạo nên một mạng lưới an toàn cho những nhà sản xuất nhỏ, việc trợ cấp gạo mang tính tập trung, phân biệt này chỉ góp phần làm giàu cho những tập đoàn trang trại lớn. Năm 1987, cả những trang trại nhỏ (diện tích dưới 100 mẫu) và những trang trại lớn (diện tích trên 1000 mẫu) đóng góp 8% sản lượng gạo ở Mỹ. Đến năm 1997, số lượng những trang trại nhỏ đã giảm đi trên 50% và đóng góp chưa được 3% sản lượng gạo cả nước, trong khi số lượng những trang trại lớn đã tăng hơn 220% và đóng góp 20% tổng sản lượng gạo.
Điều này cho thấy mặc dù mục tiêu ban đầu của những chương trình trợ cấp gạo là hỗ trợ đời sống và sản xuất cho nông dân, đặc biệt những nông dân nghèo, nhưng cuối cùng nó lại tạo ra sự bất bình đẳng lớn trong chính tầng lớp nông dân này. Người giàu càng giàu hơn, người nghèo cứ nghèo mãi.
2.1.3 Gánh nặng cho người nộp thuế.
Hơn 70 năm qua, việc trợ cấp kinh doanh cho ngành nông nghiệp đã tiêu tốn của những người nộp thuế ở Mỹ hàng tỷ đôla mỗi năm. Những chính sách này ra đời như một giải pháp khẩn cấp tạm thời trong thời Đại suy thoái, với tư cách là một nguồn chi của ngân sách nhà nước, dành nhiều đặc quyền đặc lợi để hỗ trợ cho những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phần lớn khoản trợ cấp này rơi vào tay những chủ trại lớn. Trong những năm 1995 đến 2005, gạo là một trong những mặt hàng được trợ cấp lớn nhất với khoản chi trả hàng năm lên tới hơn 166 000$ mỗi chủ trại.
Chương trình trợ cấp gạo đã tiêu tốn của những người nộp thuế ở Mỹ trung bình hơn 1 tỷ USD mỗi năm tính từ năm 1998, và đóng vai trò là một nửa thu nhập của những nông dân trồng lúa. Trong một số năm, khoản trợ cấp này có khuynh hướng gia tăng, chẳng hạn: trong năm 2003, người nông dân trồng lúa đã được trợ cấp hơn 1,3 tỷ đô, tăng 200 triệu đô so với năm 2002. Một minh chứng hùng hồn của sự bóp méo thị trường này là các khoản trợ cấp béo bở khuyến khích cả những người vốn không trồng lúa cũng lao vào lĩnh vực này – khuynh hướng này dẫn đến ngày càng xuất hiện nhiều gạo hơn trên thị trường. Sự sản xuất tràn lan này làm giảm giá gạo, và nó duy trì cái vòng luẩn quẩn: Chi trả của chính phủ cho những người trồng lúa tăng, kéo theo tăng sản lượng lúa gạo, nhưng đồng thời cũng dẫn đến tăng tiêu tốn của những người nộp thuế.
Trên thực tế, ngành sản xuất gạo không cần trợ giá thì vẫn có thể phát triển. Năm 2000, trước khi nhận được trợ cấp, 78% các nông trang đã tự trang trải được chi phí của việc sản xuất gạo. Điều này có nghĩa rằng hầu hết các trang trại trồng lúa không phụ thuộc vào các khoản trợ cấp, mà chúng chỉ được dùng để thêm vào khoản lợi nhuận béo bở của họ.
Việc trợ cấp cho các bang được thể hiện trong bảng sau:
Bang
Trợ cấp(1995-2005)
(tỷ USD)
% trên tổng số
Arkansas
4.49
42.8%
California
2.04
19.4%
Louisiana
1.54
14.7%
Texas
1.26
12.0%
Mississippi
0.772
7.4%
Chỉ có 14 bang nhận được trợ cấp cho việc sản xuất gạo, trong đó có 5 bang nhận được hơn 95% tổng số tiền trợ cấp. Chỉ riêng bang Arkansas từ năm 1995 đến 2005 đã được trợ cấp 4,49 tỷ USD
Trợ cấp gạo chỉ tập trung vào tay những nhà sản xuất lớn. 1% trong tổng số những đối tượng nhận trợ cấp – những điền chủ giàu có lại nhận được hơn 1/4 tổng trợ cấp, trong khi 80% nông dân khác chỉ nhận được 15% số tiền trợ cấp. Điều này có nghĩa rằng những công ty lớn như Riceland Foods Inc, công ty nhận được trợ cấp về gạo nhiều nhất, được hưởng lợi với số tiền là hơn 513 triệu USD, trong khi đó những người nông dân nhỏ trong 10 năm qua chỉ được nhận không đến 32 000 USD.
Chẳng những những người nộp thuế đang phải tiêu tốn bỏ ra những đồng mồ hôi nước mắt của mình, mà điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ đang góp phần làm cho những điền chủ giàu có ngày càng giàu hơn trong khi những người nông dân nghèo buộc phải bán và mất đi ruộng đất của mình.
2.1.4 Gánh nặng cho ngân sách.
Người dân Mỹ phải trả giá cho các chương trình trợ cấp lúa gạo qua ba lần: khi là người đóng thuế, khi là người tiêu dùng, và khi là nhà sản xuất.
Chi phí của các chính sách đối với lúa gạo rõ ràng nhất là được nhận thấy trong ngân sách của liên bang. Tùy theo giá gạo thị trường mà chính phủ liên bang có thể chi từ $473 triệu đến $1.774 triệu mỗi năm đối với các khoản trợ cấp như trợ cấp trực tiếp, trợ cấp không theo chu kỳ , trợ cấp các khoản vay nợ…đối với ngành gạo trong các năm tài chính từ 1998-2005, mức trung bình hơn 1tỷ đôla một chút mỗi năm. Nếu không có cái cách, các khoản trợ cấp này được dự tính tăng đến 700 triệu đôla trong năm tài chính 2015- tổng số kinh phí lên tới 7 tỉ đôla trong 1 thập kỷ tới (xem trên biểu đồ 1).Đó sẽ là 7 tỉ đôla mà sẽ không được dùng cho sự giảm bớt thâm hụt, sự giảm nhẹ gánh nặng thuế hay bảo vệ quốc phòng của quốc gia.
2.1.5 Phân bổ nguồn lực kinh tế không hiệu quả.
Chi phí lớn nhất và dễ dàng nhận ra nhất trong chính sách trợ cấp XK gạo của Mỹ là gánh nặng đối với ngân sách chính phủ. Theo sự lên xuống của giá gạo trên thị trường, chính phủ Mỹ sử dụng khoảng 473 triệu USD đến 774 triệu USD một năm cho việc trợ cấp trực tiếp, trợ cấp trái chu kì và các khoản cho vay khác đối với ngành sản xuất gạo giữa những năm tài chính 1998 và 2005, trung bình sấp xỉ 1 tỷ USD một năm.
Chính sách trợ cấp XK gạo của Mỹ đã tạo ra một trở ngại đối với chính nền kinh tế Mỹ bởi việc phân bổ nguồn lực kinh tế bất hợp lý. Trợ cấp nôi địa và các rào cản thương mại đã làm chệch hướng các nguồn lực kinh tế. Đất đai, vốn, các đầu vào của sản xuất và lao động được tập trung để duy trì một mức sản xuất gạo lớn hơn rất nhiều so với nhu cầu của thị trường nếu như các chương trình trợ cấp cho gạo không tồn tại. Các chương trình trợ cấp này trực tiếp và gián tiếp làm tăng giá đất đai, năng lượng, nước sạch cũng như các đầu vào khác của sản xuất, làm cho các đầu vào của sản xuất đắt hơn và thiếu hụt đối với các ngành khác trong nền kinh tế. Đặc biệt ở các ngành mà lợi thế cạnh tranh của Mỹ là hơn hẳn các quốc gia khác. Do đó có thể thấy, ngành sản xuất gạo được bảo hộ của Mỹ không chỉ gây ra các tác động tiêu cự đối với các nước đang phát triển, với vòng đàm phán Đôha mà còn gây ra những cản trợ và bất lợi cho chính nước này.
Với việc trợ cấp ở mức cao đối với ngành sản xuất gạo, rõ ràng có thể thấy mặt hàng gạo không phải là mặt hàng có lợi thế cạnh tranh so với các ngành khác trong nền kinh tế Mỹ. Hàng năm chính phủ Mỹ phải chịu một gánh nặng ngân sách quá lớn trong khi đó nông dân thì không thay đổi phương thức sản xuất cũng như ngành hang vì đã có trợ cấp chính phủ.
Các yếu tố đầu vào của sản xuất vì thế không được tận dụng tối đa mà trở nên không hiệu quả do các ngành kinh tế khác thì đang cần các yếu tốt đầu vào mà những ngành không hiệu quả lại không được phân bố lại.
Tóm lại, chính sách trợ cấp đối với sản xuất gạo ở Mỹ không chỉ gây ra những tác động tiêu cực đối với tiến trình tự do hóa thương mại trên toàn thế giới mà còn làm cho chính Mỹ gặp khó khăn.
2.1.6 Bất lợi cho người tiêu dùng.
P
PW
PW + s
Từ đồ thị trên có thể thấy người tiêu dùng Mỹ sẽ phải tiêu dùng mức giá cao hơn rất nhiều so với giá thế giới. Nếu tiêu dùng các sản phẩm của các nhà sản xuất nội địa, họ phái chịu mức giá (PW + s), cón tiêu dùng các sản phẩm nhập khẩu thì mức giá cũng cao tương đương do các rào cản thương mại và thuế nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các nhà sản xuất trong nước thậm chí không muốn tiêu thụ trong nước vì xuất khẩu gạo sẽ có lợi hơn nhiều. Người tiêu dùng Mỹ vì thế sẽ phải tiêu dùng với mức giá cao là hậu quả trực tiếp của các chính sách trợ cấp gạo của chính phủ Mỹ.
Không chỉ dừng lại ở ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu dùng của các hộ dân, khi gạo là nguyên liệu đầu vào của các quá trình sản xuất khác, các mặt hàng được chế biến từ gạo cũng sẽ tăng giá và người tiêu dùng Mỹ phải chịu một mức giá cao hơn giá thế giới rất nhiều. một trong những thành phần phải chịu hậu quả nặng nề nhất trong xã hội chính là những gia đình có thu nhập thấp, bởi tiêu dùng cho lương thực, thực phẩm chiếm một tỉ lệ lớn trong thu nhập của họ. theo một nghiên cứu mới nhất của OECD, giá lương thực thực phẩm trong nước ở mức cao do chính sách trợ cấp nông nghiệp của chính phủ Mỹ nói chung đã chuyển khoảng 16,2 triệu USD từ người tiêu dùng Mỹ sang túi của các nhà sản xuất nông nghiệp nội địa. tính bình quân, một hộ gia đình phải chi trả khoảng 146 USD mỗi năm cho thuế lương thực và khoản thuế này được tận thu mỗi khi họ bước chân vào cửa hàng thực phẩm hay ăn tối ở nhà hàng.
Tác động đối với thế giới:
2.2.1 Chính sách trợ cấp gạo của Mỹ làm giảm giá gạo một cách bất công trên thị trường thế giới, thu hẹp thị trường xuất khẩu của các quốc gia khác và gây khó khăn cho nông dân ở các nước đang phát triển:
Bằng việc trợ cấp khổng lồ cho mặt hàng gạo, Mỹ đã làm tăng lượng cung về gạo trên toàn cầu và do đó tạo ra sức ép đẩy giá gạo đi xuống. Trong một nghiên cứu ở Viện Cato năm 2005, chính sách trợ cấp gạo của Mỹ đã làm giảm giá gạo trên thế giới khoảng 4-6%. Sự sụt giảm giá gạo này, đến lượt nó lại làm duy trì tình trạng nghèo đói vĩnh viễn của hàng triệu nông dân trồng lúa ở các nước đang phát triển, làm tổn hại nghiêm trọng đến việc xuất khẩu gạo của các nước như Uruguay và Thái Lan.
Trong báo cáo về tình trạng bán phá giá lương thực công bố ngày 11/4/2005, Tổ chức cứu trợ phát triển Oxfam đã chỉ trích việc người nông dân trồng lúa ở Mỹ được bỏ túi hàng tỷ USD mỗi năm từ chính sách trợ cấp giá gạo của Chính phủ Mỹ, từ đó bán phá giá sản phẩm của họ tại thị trường các nước đang phát triển.
a) Đối với các nước nhập khẩu gạo:
Khoản tiền trợ giá cho nông dân trồng lúa ở Mỹ, lên đến 1,3 tỷ USD trong năm 2003, đã ảnh hưởng tiêu cực đến nông dân tại các nước đang phát triển. Một tấn gạo sản xuất ở Mỹ có chi phí trung bình là 415 USD, nhưng lại đang được bán tại các nước như Haiti, Ghana và Honduras chỉ với giá 274 USD. Giá xuất khẩu chỉ bằng 2/3 giá sản xuất đã đưa Mỹ trở thành nước đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo, sau Thái Lan và Việt Nam, bán phá giá khoảng 3,8 triệu tấn gạo mỗi năm trên thị trường thế giới.
Nhiều nước nghèo đã phải hạ thấp hàng rào thuế quan bảo vệ người nông dân trồng lúa của nước họ, xuất phát từ sức ép của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các hiệp định thương mại song phương với Mỹ. Haiti nước nghèo nhất tại khu vực Tây bán cầu, nơi phân nửa trẻ em còn suy dinh dưỡng, đã được IMF "khích lệ" giảm thuế nhập khẩu gạo từ 35% xuống còn 3% hồi năm 1995.
Việc giảm thuế dẫn đến việc luồng gạo nhập khẩu đổ vào nước này tăng gần gấp 3 lần, mà 95% trong số này là gạo có nguồn gốc từ Mỹ, khiến thị phần của 50.000 nông dân trồng lúa ở Haiti giảm đột ngột. Hiện nay, theo ước tính của Oxfam, có tới 75% lượng gạo mà người dân Haiti tiêu thụ là gạo nhập khẩu từ Mỹ.
Trên thực tế, thóc gạo của Mỹ sẽ không thể cạnh tranh nổi nếu không có trợ cấp ồ ạt của nhà nước. Các nước nghèo buộc phải cạnh tranh với Mỹ, tệ hại hơn, họ còn không có cơ hội tự bảo vệ trước tình trạng bán phá giá. Nếu các nước giàu ở vào thế thượng phong tại WTO thì các nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Nicaragua và Ai Cập nằm trong số 13 nước đang phát triển buộc phải cắt thuế đánh vào mặt hàng gạo và sẽ trở nên dễ tổn thương trước hàng nhập khẩu rẻ tiền. Trong lúc đó, ngành sản xuất thóc gạo Mỹ lại được lợi nhờ tiếp cận nhiều hơn thị trường của các nước nghèo. Bằng chứng là lợi nhuận của Riceland Foods, Arkansas, Mỹ - nhà máy xay xát lớn nhất thế giới - đã tăng 123 triệu USD từ năm 2002 đến 2003, phần lớn là nhờ tăng được 50% xuất khẩu, đa phần là sang Haiti.
Gạo là một minh chứng hùng hồn về sự phương hại khi một mặt hàng được trợ cấp nặng nề bán phá giá vào một quốc gia đang phát triển. Trợ cấp đã tạo nên một sự khác biệt lớn. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu gạo ở Honduras năm 1991 khiến gạo nhập khẩu từ Mỹ đổ xô vào nước này và giá gạo trong nước giảm đột ngột, việc sản xuất gạo bị tổn hại nghiêm trọng. Hơn một thập kỷ qua, số lượng các nhà sản xuất gạo đã giảm từ 25.000 xuống còn ít hơn 2.000, lao động trong ngành giảm mạnh từ 150.000 xuống còn không đến 11.200, và quy mô sản xuất gạo thu nhỏ 86%. Hiện nay, Honduras phải dùng những đồng ngoại tệ hiếm hoi của mình để mua gạo, khoảng hơn 20 triệu USD mỗi năm, so với năm 1989 số tiền này là chưa đến 1 triệu USD.
Năm 2004 Mỹ đã chi hơn 1,3 tỷ USD trợ cấp cho 1 vụ mùa mà giá trị ước tính của nó chỉ khoảng 1,8 tỷ USD. Việc trợ cấp gạo của Mỹ sẽ đào hố chôn cho nông dân các nước đang phát triển trong cuộc cạnh tranh với nước Mỹ giàu có mà họ nắm chắc phần thua.
Mexico là một trong những nước bị thiệt hại nhiều nhất bởi chính sách trợ giá nông sản của Mỹ. Từ một nước sản xuất đủ gạo cho nhu cầu trong nước cách đây 17 năm, hiện nay 70% số gạo tiêu thụ trong nước là gạo nhập khẩu, chủ yếu là từ Mỹ, vì gạo trong nước không thể cạnh tranh với giá gạo nhập ngoại do được trợ giá.
b) Đối với các nước xuất khẩu gạo
Uruguay là một nước nhỏ với 3 triệu người ở Nam Mỹ, là nước xuât khẩu gạo lớn thứ 7 thế giới. Gạo chiếm 10% tỉ trọng hàng xuất khẩu của Uruaguay. Trợ cấp gạo của Mỹ có ảnh hưởng xấu tới Uruguay , và tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn khi Brazil, nước thường mua gạo của Uruguay với số lượng lớn có thể sản xuất nhiều gạo hơn. Đã có nhiều năm, 90% gạo của Uruguay được xuất sang Brazil nhưng do chính sách về xản xuất gạo của Brazil, hiện nay nước này đã có thể tự túc gạo đủ cho nhu cầu trong nước mà không cần nhập khẩu gạo nữa. Bởi thế, Uruguay đang tìm cách để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang các quốc gia khác nữa.
Ấn Độ cung cấp 70% tổng khối lượng gạo nhập khẩu vào nước này trong năm 2005. Những nước cung cấp khác có thể kể đến là Mỹ, Thái Lan, và Pakistan. Theo thống kê của hải quan Ấn Độ, xuất khẩu gạo của Ấn Độ sang Arập Xêut năm 2005 đã giảm 19% so với năm 2004, trong khi xuất khẩu gạo Mỹ sang thị trường này lại tăng lên. Xuất khẩu gạo Mỹ sang vương quốc này năm 2005 đã tăng 12% so với năm trước nhờ giá gạo Mỹ giảm.
2.2.2 Chính sách trợ cấp gạo nói riêng và trợ cấp nông sản nói chung của Mỹ làm chậm vòng đàm phán Doha:
Vấn đề trợ cấp nông sản là một trong những rào cản chính ngăn cản sự thành công của vòng đàm phán Doha và chính sách trợ cấp gạo đã gây khó khăn cho Mỹ trong việc đàm phán hiệu quả để yêu cầu mở cửa hơn nữa thị trường ở các nước. Mặc dù các chính sách khác của Mỹ cũng như của các chính phủ khác đều phải chịu chung trách nhiệm trước sự bế tắc của vòng đàm phán này, nhưng chính sách trợ cấp mặt hàng gạo đóng vai trò là một phần quan trọng gây nên vấn đề nêu trên.
Vòng đàm phán Doha đã bắt đầu từ năm 2001, với tham vọng giúp hàng triệu người thoát khỏi nghèo đói, thông qua việc hạ thấp hàng rào thương mại ở các nước công nghiệp. Tuy nhiên, đàm phán đổ vỡ sau đó 2 năm tại Cancun do những bất đồng giữa các nước giàu và nước nghèo xung quanh vấn đề trợ cấp nông nghiệp.
Gần đây nhất là cuộc đàm phán ở Potsdam (Đức) giữa đại diện nhóm 4 đối tác buôn bán chính trong Tổ chức thương mại thế giới (WTO) gồm Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Brazil và Ấn Độ (G4) nhằm khai thông vòng đàm phán Doha cũng đã đã thất bại do bất đồng về trợ cấp nông nghiệp.
Mỹ chỉ đồng ý giảm mức trợ giá nông sản xuống mức 17 tỷ USD, trong khi Brazil đòi phải giảm xuống dưới mức 15 tỷ USD.
Tổ chức Thương Mại thế giới đã có nỗ lực mới để làm cầu nối tiến tới thỏa thuận về tự do hóa thương mại các mặt hàng nông sản và công nghiệp giữa những nước giàu và nghèo. Trưởng đoàn đàm phán nông nghiệp, ông Crawford Falconer, đã đề nghị Mỹ cắt giảm viện trợ cho nông nghiệp xuống còn từ 13 – 16 tỷ đô la. Trong một bản tuyên bố kèm theo ông cho rằng đã đến lúc thực hiện việc cắt giảm: “ Thành thật mà nói, chúng ta đã hết cách và hậu quả là sự thất bại sẽ xảy ra đang đến quá gần đến nỗi mà hầu hết chúng ta đều có thể cảm nhận được”.
Tại cùng thời điểm này, các nhà đàm phán phi nông nghiệp đang đề nghị 27 quốc gia đang phát triển cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng công nghiệp xuống tối đa còn 23%. Bên cạnh đó, những quốc gia phát triển sẽ nâng mức thuế quan lên tối đa 8 hoặc 9%. Úc không chấp nhận khoảng cách quá lớn về thuế quan giữa nhóm nước phát triển và đang phát triển như vậy và do đó các quốc gia phát triển nên được phép tăng tới 10% rào cản thuế quan. Nhưng nhìn chung, Bộ trưởng Bộ Thương Mại Úc, ông Warren Truss lại quan tâm đến tính “hữu ích” và “xây dựng” để làm nền tảng cho các cuộc thương thuyết khác. Các nỗ lực của Mỹ, EU, Nhật Bản, Australia, Brazil và Ấn Độ tại Geneva (Thụy Sỹ) nhằm cứu vãn vòng đàm phán Doha khỏi sụp đổ đã thất bại hôm qua, sau 2 ngày thương thảo, do các nước không thống nhất được với nhau trong vấn đề trợ cấp.
Các thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho rằng, có thể phải mất hơn 5 năm nữa mới nối lại các vòng đàm phán tiếp theo. Ông Pascal Lamy - Tổng giám đốc WTO - cho biết chưa thể đưa ra một thời hạn mới cho vòng đàm phán tiếp theo.
Phía EU đã lớn tiếng chỉ trích Mỹ vì những yêu cầu cứng rắn khiến vòng đàm phán đi vào ngõ cụt. Theo đó, Mỹ đã không muốn chấp thuận một sự linh hoạt trong vấn đề trợ cấp nông nghiệp, thậm chí còn đưa ra các yêu cầu gay gắt hơn trong vấn đề nhạy cảm này.
Washington đã yêu cầu Brussels giảm hơn nữa thuế nhập khẩu nông sản. Mỹ cũng chỉ trích Ấn Độ và Brazil vì đã không linh hoạt trong việc cắt giảm các hàng rào thương mại đối với hàng công nghiệp nhập khẩu.
Trong khi đó, Brazil và Ấn Độ lại đòi hỏi EU và Mỹ phải giảm thuế nhập khẩu nông sản và mở cửa thị trường cho hàng chế biến. EU cho biết đã sẵn sàng giảm 51-54% thuế, nhưng vẫn không chịu đưa vào danh mục giảm thuế những "sản phẩm nhạy cảm".
Các bộ trưởng thương mại WTO cảnh báo rằng, việc trì hoãn vòng đàm phán Doha sẽ khiến cho xung đột thương mại trên thế giới tăng lên.
WTO đau đầu với vấn đề trợ cấp
Các chuyên gia kinh tế của WTO vừa đưa ra báo cáo nghiên cứu về cách thức cũng như tác động của trợ cấp đối với một số lĩnh vực khác nhau. Theo đó, trong khi một số trợ cấp có thể mang lại lợi ích cho xã hội và hạn chế tác động của những nhân tố bên ngoài, nhiều trợ cấp lại có thể gây thiệt hại lớn đến sự phát triển chung.
Báo cáo cho biết, một phần quan trọng của vòng đàm phán Doha là nhằm kêu gọi các nước cắt giảm những hình thức trợ cấp có thể làm méo mó hoạt động thương mại lành mạnh, khuyến khích họ sử dụng hình thức hỗ trợ khác có lợi cho phát triển và bảo vệ môi trường chung.
Rất nhiều thành viên WTO duy trì các chương trình trợ cấp sâu rộng ở nhiều cấp độ từ trung ương cho tới địa phương với vô vàn lý do. Báo cáo nhấn mạnh, do trợ cấp có thể làm méo mó các hoạt động thương mại nên chính phủ các nước thành viên của WTO phải thông báo cho tổ chức này tất cả các hình thức trợ cấp của mình. Tuy nhiên trên thực tế, chỉ một số ít thành viên chấp hành, do vậy có thể nói thông tin cũng như sự minh bạch liên quan đến việc sử dụng cũng như ảnh hưởng của trợ cấp nhiều khi không được đầy đủ.
Các tác giả của báo cáo đã xem xét đến lý do khiến các nước phải sử dụng hình thức trợ cấp thương mại. Kết quả cho thấy, chính phủ ở một số nước ngày càng mở rộng các hoạt động hỗ trợ nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, giúp đỡ các ngành công nghiệp còn kém sức cạnh tranh hoặc bảo vệ môi trường, phân phối lại thu nhập và giúp đỡ người nghèo.
Báo cáo cũng ước tính rằng, trong khi cả thế giới chi khoảng 300 tỷ USD cho hoạt động trợ cấp thì chỉ tính riêng 21 quốc gia phát triển đã chi vào khoảng 250 tỷ USD. Nhìn chung, tỷ lệ trợ cấp trung bình theo GDP ở các nước đang phát triển thấp hơn so với ở các nước phát triển.
Trợ cấp nông nghiệp ở các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD - tính cả trợ cấp trong nước và cho xuất khẩu - đang có xu thế giảm. Trong khi đó, trợ cấp công nghiệp lại đang có xu hướng tăng lên và ở hầu khắp các ngành công nghiệp từ khai thác mỏ, than, thép, đóng tàu đến sản xuất ôtô... Không có các dữ liệu để so sánh về phạm vi của trợ cấp trong lĩnh vực dịch vụ, song báo cáo cho rằng có bằng chứng cho thấy các biện pháp hỗ trợ được tập trung chủ yếu trong các ngành như giao thông, du lịch, ngân hàng, viễn thông.
Trong nhiều năm qua, các nguyên tắc về trợ cấp của GATT/WTO ngày càng trở nên rõ ràng và cụ thể hơn. Tuy nhiên, các ý kiến khác nhau cho rằng, cần xem xét những nguyên tắc này đã đủ chặt chẽ để hạn chế các hoạt động trợ cấp thương mại bất hợp pháp hay chưa.
Phần 3: Sự cần thiết phải thay đổi chính sách
trợ cấp gạo của Mỹ
Vấn đề trợ cấp nông sản của Mĩ đã gây ra nhiều bất lợi và khó khăn cho nông dân các nước nghèo, đẩy họ vào tình cảnh điêu đứng, Nhưng liệu những nước nghèo có cách gì để phản ứng lại trước những trợ cấp vô lý này của Mỹ không? Liệu việc Mỹ bị kiện ra Tổ chức thương mại thế giới có thể là 1 khả năng nhỡn tiền hay không? Hay có cách nào hiệu quả hơn để ngăn chặn bước chân mạnh mẽ đầy thao túng của người khổng lồ này hay không?
Hầu hết các quốc gia đều cho rằng so với việc kiện tụng, thoả thận thương mại là con đường nhanh hơn để tiến tới được sự đồng thuận chung, nhờ đó đạt được những kết quả có lợi cho cả hai bên, đồng thời tránh được những đòn trả đũa mạnh mẽ từ đối thủ., đặc biệt khi đối thủ này lại không phải ai khác mà chính là “ông chùm giàu có nhất thế giới”. Theo như ông Walter Bastian , phó bộ trưởng thương mại Mỹ, thì “ Các chính phủ ngại thách đấu với Đế quốc”. Họ ngaị phải đi ra toà án tranh luận với Mỹ, bởi tiềm lực quá mạnh của quốc gia này trên truờng quốc tế cũgn như vai trò quan trọng của Mỹ ở Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Nhưng ông Gawain Kriple, tư vấn chính sách cấp cao của Tổ chức cứu trợ quốc tế Oxfam cho rằng thất bại của vòng đàm phán Doha chắc chắn sẽ khiến nhiều quốc gia đang phát triển chú ý nhiều hơn đến vấn đề này và họ có thể tiến hành nhiều hơn các vụ tranh chấp thương mại. Không chỉ thế, họ còn được cổ vũ sau khi Brazil giành chiến thắng trong cuộc kiện Mỹ trợ giá cho ngành sản xuất bông của nước mình. Thắng lợi này của Braxin, tiếp theo chiến thắng Liên minh châu Âu trong vụ kiện đường (có sự tham gia của Thái Lan và Ôxtrâylia), sẽ mở đường cho các nước khác "dũng cảm" theo kiện Mỹ khi có tranh chấp thương mại. “Họ chưa từng làm chuyện này”. Ông Kriple nói: “Nhưng Brazil đã cho thấy họ có thể chiến thắng” Nhưng trước khi đó họ phải tìm ra những bằng cớ về những thiệt hại mà trợ giá nông sản của mỹ gây ảnh hưởng xấu tới tình hình nông nghiêp của mình, và những chính sách đó của Mỹ có đi ngược lại những quy định của WTO hay không. Nhưng để làm được việc này quả thật không phải là một việc dễ dàng gì. Đã có nhiều nước đã đang và có ý định kiện Mỹ, nhưng từ trước đến nay tất cả các vụ kiện đó vẫn chỉ nằm trên giấy mực.
Năm 2005, Uruguay đã có kế hoạch đệ trình đơn kiện trợ cấp xuất khẩu gạo của Mỹ ra WTO, Uruguay là một nước nhỏ với 3 triệu ngưòi ở Nam Mỹ, là nước xuât khẩu gạo lớn thứ 7 thế giới. Gạo chiếm 10% tỉ trọng hàng xuất khẩu của Uruaguay. Trọ cấp gạo của Mỹ có ảnh hưởng xấu tới Uruguay, làm giảm giá gạo trên thị trường thế giới, làm cho các nông dân Uruguay khó có thể cạnh tranh. Chi phí sản xuất gạo ở Mỹ cao gấp 2 lần so với chi phí ở các nước đang phát triển như Thái Lan, Việt Nam (những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới). Giữa tháng 3-2004 và tháng 2-2005, Uruguay đã xuất khẩu 855812 tấn gạo đến 26 nước, nhưng phần lớn chỉ tập trung ở một số thị trường: 56% gạo xuất khẩu vào Brazil, 20% vào Iran, 12% vào Peru. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn khi Brazil, nước thường mua gạo của Uruguay với số lượng lớn có thể sản xuất nhiều gạo hơn. Đã có nhiều năm, 90% gạo của Uruguay được xuất sang Brazil nhưng do chính sách về xản xuất gạo của Brazil, hiện nay nước này đã có thể tự túc gạo đủ cho nhu càu trong nước mà không cần nhập khẩu gạo nữa. Bởi thế, Uruguay đang tìm cách để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang các quốc gia khác nữa, nhưng muốn tìm kiếm được các thì trường khác cũng không phải là việc dễ dàng gì, nhất là khi việc trợ cấp xuất khẩu gạo của Mỹ đang gây quá nhiều khó khăn cho việc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Giá cả của gạo xuất khẩu giảm, thị trường bị thu hẹp đáng kể, là những hậu quả trước mắt mà trợ cấp gạo của Mỹ gây ra với Uruguay- nước cạnh tranh với Mỹ về xuất khẩu gạo tại thị trường Mỹ La tinh.
Nhưng sau khi phó bộ trưởng thương mại Mỹ, Walter Bastian đã thuyết phục được các nhà quan chức Uruguay, chính phủ nước này đã đồng ý hoãn đâm đơn kiện Mỹ về chính sách trợ cấp gạo .
Đầu năm 2007, những nguời nông dân trồng lúa gạo ở Mêxico đã thuê một công ty luât sư ở Washington tư vấn pháp luật để có thể thuyết phục chính phủ nước mình đệ đơn kiện lên WTO về việc Mỹ trả những khoản trợ cấp quá mức cho nông dân của mình.
Mexico là một trong những nước bị thiệt hại nhiều nhất bởi chính sách trợ giá nông sản của Mỹ. Từ một nước sản xuất đủ gạo cho nhu cầu trong nước cách đây 17 năm, hiện nay 70% số gạo tiêu thụ trong nước là gạo nhập khẩu, chủ yếu là từ Mỹ, vì gạo trong nước không thể cạnh tranh với giá gạo nhập ngoại do được trợ giá. Các nhà nông Mexico chỉ còn cách chờ mong chiến thắng từ vụ kiện này để giành lại thị trường không chỉ trong nước mà mong muốn có thêm thị trường xuất khẩu, đặc biệt là ở thị trường ở châu Mỹ.
Vào năm 2005, tình thế đã đảo ngược khi những nhà trồng lúa gạo của Mỹ đã giành chiến thắng trong vụ kiện chống lại Mexico tại WTO. Một vài quan sát viên trong ngành này tin rằng sự phản kháng này đơn thuần chỉ chứng tỏ rằng Mexico đang muốn trả đũa lại Mỹ mà thôi. Tuy nhiên, những người khác lại trông thấy một xu thế ngày càng lớn mạnh về các thách thức tại WTO đặt ra cho vấn đề trợ cấp nông sản Mỹ. Trước đây, Brazil đã thắng vụ kiện chống lại hành động trợ cấp bông của Mỹ và đang xem xét kiện Mỹ một vụ tương tự đối với mặt hàng đậu nành. Canada cũng bắt đầu kiện Mỹ về trợ cấp ngũ cốc.Vì vậy khả năng Mêxico kiện Mỹ là hoàn toàn có thể và kết quả cũng có thể sẽ rất khả quan đối với đất nước này.
Cũng trong đầu năm 2007, Chính phủ 14 nước xuất khẩu gạo trên thế giới sẽ cùng đứng đơn kiện Chính phủ Mỹ tại WTO vì Mỹ vẫn áp dụng chính sách trợ giá nông sản quá lớn. Theo Chủ tịch Liên đoàn quốc gia các nhà sản xuất gạo Mêhicô, Pedro Diaz, các nhà sản xuất gạo của Áchentina, Côlômbia, Pêru, Côxta Rica, Panama, Ônđurát, Urugoay, Braxin, Paragoay, Guyana, Xênêgan, Trung Quốc và Ấn Độ đang cùng với chính phủ nước họ chuẩn bị các bằng chứng để tiến hành vụ kiện. Theo một số chứng cứ của họ, hiện nay, các nhà sản xuất gạo của Mỹ còn nhận được nhiều tiền hơn từ các hoạt động trợ cấp của chính phủ hơn cả so với thu nhập từ việc bán gạo trên thị trường quốc tế. Theo số liệu thống kê từ bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, các nhà sản xuất gạo Mỹ nhận được tiền từ trợ cấp nhiểu hơn việc xuất khẩu gạo là 145% trong các năm 2000, 2001 và 2002.
Và có vẻ như cuối cùng, người khổng lồ này cũng đang có những dấu hiệu nhượng bộ nhất định về vấn đề trợ cấp nông sản, để có thể phần nào xua tan được nguy cơ bị kiện ra trước WTO, điều này được thể hiện trong Đạo luật Nông nghiệp của Hoa Kỳ năm 2007 (US Farm Bill 2007)
Đạo luật Nông nghiệp 2002 của Mỹ sẽ hết hạn vào ngày 30/9/2007 được nhìn nhận là một trong những đạo luật hào phóng nhất trong lịch sử mà chính phủ liên bang và Quốc hội Mỹ dành cho các nhà nông Mỹ. Đề xuất của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ ( USDA) được đưa ra giữa lúc ngành nông nghiệp Mỹ đang có những thay đổi mạnh và đó cũng là lúc các bạn hàng châu Âu của Mỹ đang dọa sẽ áp dụng các biện pháp trả đũa, trừ phi Mỹ cắt giảm bớt các khoản trợ cấp dành cho nông nghiệp.
Việc giảm trợ cấp sẽ có thể mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ trong các khía cạnh quan trọng sau:
Thứ nhất, những cải cách về nông nghiệp nói chung và trong ngành sản xuất gạo nói riêng sẽ mang lại thức ăn với giá thành rẻ hơn cho hơn 10 triệu hộ gia đình Mỹ, đặc biệt là những gia đình có thu nhập thấp mà sư dụng phần lớn thu nhập của mình cho việc mua thức ăn.
Thứ hai, giảm giá thành sản phẩm đối với những người sản xuất và bán các thành phẩm được làm từ nguyên liệu của ngành nông nghiệp. Vì giá cả đầu vào trong nước giảm đáng kể, do đó tất nhiên họ có thể giảm giá thành với các sản phẩm mà mình bán ra, nhờ đó sẽ mang lại một nguồn thu nhập đáng kể cho các hộ sản xuất kinh doanh , đồng thời, tăng nguồn thu ngân sách từ thuế cho chính phủ.
Thứ ba, cải thiện các mối quan hệ của Hoa Kỳ với các nước khác, nhờ đó mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hoá của nước này. Rất nhiều nước đã lên tiếng và đã có những động thái thể hiện một số hành động trả đũa việc Mỹ trợ cấp nông sản bằng cách đánh thuế mạnh hơn vào các sản phẩm Mỹ xuất khẩu vào nước này, do đó làm thu hẹp thị trường xuất khẩu các sản phẩm của Mỹ sang các nước khác. Điều này cũng gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới các nhà xuất khẩu Mỹ.
Thứ tư, cắt giảm trợ cấp nông nghiệp sẽ giúp cải thiện môi trường, đặc biệt là môi trường đất.
Thứ năm, giảm trợ cấp có thể tiết kiệm cho những người phải nộp thuế ở Mỹ khoảng 10 triệu $ trong thập kỷ tới. Nhiều khoản trợ cấp hiện nay của Mỹ chủ yếu đi vào túi những ngưòi chủ nông trai lớn- một bộ phận nhỏ trong dân số Mỹ mà thôi.
Thứ sáu, việc giảm trợ cấp sẽ giúp cải thiện tình hình khốn khó của các nông dân ở những nước nghèo trên thế giới, giảm đói nghèo, tạo ra một bầu không khí thân mật hơn trong quan hệ giữa Mỹ và các nước khác.
Đứng trên những quan điểm đó, chúng tôi thiết nghĩ việc Mỹ giảm hay tiến tới xoá bỏ đi những trợ cấp phi lý cho ngưòi nông dân ở nước này nói chung và người sản xuất gạo nói riêng sẽ mang lại cho Hoa Kỳ và người dân ở cường quốc này cái lợi nhiều hơn cái thiệt. Bởi hầu hết số tiền trợ cấp này không được chia đều cho tất cả những người nông dân, mà đi vào túi của các chủ trang trại lớn, những người đã sẵn có tiềm lực kinh tế khá vững chắc. Vả lại , họ cũng chỉ chiềm một lượng nhỏ trong dân số Mỹ. Thậm chí chính sách trợ cấp này còn chảy vào hầu bao của những nông dân đã chết.
KẾT LUẬN
Hiện nay, hầu như không còn ai hoài nghi với thực tế rằng tự do hoá thương mại đóng vai trò trọng yếu trong việc thúc đẩy hoà bình và thịnh vượng chung trên thế giới.Tuy vậy, tự do hoá thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO hiện đang tiến những bước rất chật vật. Một trong những trở ngại chính đó là sự bế tắc về các thoả thuận đa phương trong lĩnh vực nông nghiệp tại vòng đàm phán Doha, do chính sách bảo hộ và can thiệp của các nước phát triển. Đứng đầu là Mỹ với khoản trợ cấp hàng năm khổng lồ cho nông nghiệp,mà đặc biệt là mặt hàng gạo, làm méo mó và biến dạng thương mại quốc tế, tạo ra một sân chơi không bình đẳng.Trong khi ra sức kêu gọi các nước mở cửa hơn nữa thị trường thì Mỹ vẫn duy trì chính sách trợ cấp nặng nề, gây ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống và nghề nghiệp của nông dân trồng lúa ở các nước nghèo.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận, chúng tôi đã gửi đến các bạn một cái nhìn tổng quan về chính sách trợ cấp gạo của Mỹ, những tác động, ảnh hưởng của nó và đưa ra một số đánh giá, nhận định trên các góc độ khác nhau. Tuy nhiên do sự hạn chế về tư liệu và kiến thức thực tế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của cô giáo và các bạn để giúp hoàn chỉnh đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế ngoại thương – NXB Lao Động Xã Hội – Hà Nội 2006.
Slide bài giảng của cô giáo bộ môn.
“Ripe for Reform Six Good Reasons to Reduce U.S.Farm Subsidies and Trade Barriers” by Daniel Griswold, Stephen Slivinski, and Christopher Preble.
CRS Report for Congress – Order Code RS22187
“U.S. Agricultural Policy Response to WTO Cotton Decision” by Randy Schnepf, specialist in Agricultural Policy
CRS Report for Congress – Order Code RS33853
“ U.S. – Canada WTO Corn Trade Dispute” by Randy Schnepf, specialist in Agricultural Policy
“Conflicts between U.S. Farm Policies and WTO Obligations” by Daniel A. Sumner
CRS Report for Congress – Order Code RS33697
“Potential Challenges to U.S. Farm Subsidies in the WTO” by Randy Schnepf and Jasper Womach, Specialists in Agricultural Policy
“Grain Drain – The Hidden Cost of U.S. Rice Subsidies” by Deniel Griswold.
“ U.S. Farm Policy and WTO Compliance” by Daniel A. Sumner
Website Luật Việt:
“U.S. Farm Policy and the World Trade Organization: How do they match up?” by Chad E. Hart and Bruce A. Babcock
“Export Subsidies and WTO Trade Negotiations on Agricutural: Issues and Suggestions for New Rules” by Harry de Gorter, Merlinda Ingco, Lilian Ruiz
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Phần 1: Sơ lược về chính sách trợ cấp gạo của Hoa Kỳ 3
1.1 Tình hình xuất khẩu gạo của Mĩ 3
1.2 Chính sách xuất khẩu gạo của Mỹ 3
1.2.1. Thanh toán trực tiếp (Direct payment) 4
1.2.2. Trợ cấp không theo chu kỳ (Counter – cyclical Payments) 8
1.2.3. Các khoản hỗ trợ cho vay nông nghiệp (Marketing Loan Assistance) 10
1.2.4. Trợ cấp xuất khẩu 14
Phần 2: Tác động của chính sách trợ cấp xuất khẩu gạo của Mỹ 22
2.1. Tác động nội địa 22
2.1.1 Bù đắp chi phí sản xuất trong nước 22
2.1.2 Góp phần vào thu nhập của nông dân Mỹ 23
2.1.3 Gánh nặng cho người nộp thuế 24
2.1.4 Gánh nặng cho ngân sách 26
2.1.5 Phân bổ nguồn lực kinh tế không hiệu quả 26
2.1.6 Bất lợi cho người tiêu dùng 27
Tác động đối với thế giới 28
2.2.1 Chính sách trợ cấp gạo của Mỹ làm giảm giá gạo một cách bất công trên thị trường thế giới, thu hẹp thị trường xuất khẩu của các quốc gia khác và gây khó khăn cho nông dân ở các nước đang phát triển 28
2.2.2 Chính sách trợ cấp gạo nói riêng và trợ cấp nông sản nói chung của Mỹ làm chậm vòng đàm phán Doha 28
Phần 3: Sự cần thiết phải thay đổi chính sách trợ cấp xuất khẩu gạo của Mỹ 34
Kết luận 38
Tài liệu tham khảo 39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA96.docx