Tài liệu Đề tài Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Lời mở đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng nước ta cần phải "xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và đồng thời thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu sản xuất trong nước". Với tinh thần đó, nước ta đã cam kết thực hiện AFTA, gia nhập APEC và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi đủ điều kiện.
Để thực hiện đúng định hướng trên cần phải quan tâm tới đầu tư trong nước hay cần chú trọng vào sự phát triển của các chủ thể kinh tế của đất nước, cụ thể là các doanh nghiệp. Là một nước đang phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả lớn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay. Song các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn như: ...
86 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng nước ta cần phải "xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và đồng thời thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu sản xuất trong nước". Với tinh thần đó, nước ta đã cam kết thực hiện AFTA, gia nhập APEC và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi đủ điều kiện.
Để thực hiện đúng định hướng trên cần phải quan tâm tới đầu tư trong nước hay cần chú trọng vào sự phát triển của các chủ thể kinh tế của đất nước, cụ thể là các doanh nghiệp. Là một nước đang phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả lớn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay. Song các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn như: năng lực quản lý kinh doanh kém, vốn đầu tư hạn chế, công nghệ lạc hậu, bị động trong quan hệ thị trường... Do đó, Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội đang quan tâm đến những hoạt động hỗ trợ phát triển, đặc biệt là đang tạo ra khung khổ pháp lý, đổi mới hệ thống chính sách, xây dựng cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức hỗ trợ cộng đồng... đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù vậy, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ở trong môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, làm hạn chế sự phát triển, đặc biệt là các chính sách cho những doanh nghiệp này còn thiếu và chưa đồng bộ.
Để góp phần hình thành luận cứ khoa học cho việc tạo môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi nhằm thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, được sự giúp đỡ của cô giáo TS. Lê Thị Anh Vân và chuyên viên Bùi Văn Hiền - Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư em đã nghiên cứu đề tài "Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam". Đây là một đề tài mới mẻ ở nước ta, nó rất phong phú, phức tạp và hiện đang có nhiều người nghiên cứu, em muốn nghiên cứu vấn đề này trên góc độ đánh giá sự tác động của chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, trên cơ sở đó hình thành luận chứng khoa học, tìm ra những giải pháp khắc phục khó khăn cho các doanh nghiệp, đồng thời giúp Nhà nước hoàn thiện hơn về chính sách này. Nội dung chính của đề tài là luận chứng về tiêu chí, đặc điểm, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam; phân tích thực trạng các chính sách hỗ trợ và tìm những điểm "tắc nghẽn" của hệ thống chính sách; kiến nghị một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc đối với sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, nên khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi người. Xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Tổng quan về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
I. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Tiêu chí phân loại
Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa lớn để xác định đối tượng được hỗ trợ. Nếu phạm vi hỗ trợ đối tượng quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể. Còn nếu phạm vị quá nhỏ sẽ không có ý nghĩa và ít tác dụng trong nền kinh tế. Vì vậy chúng ta cần chú trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, không có một tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế của mỗi nước là khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, vùng lãnh thổ.
Có hai tiêu chí phổ biến để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Nhóm tiêu chí định tính: dựa trên những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp...Nhóm chỉ tiêu này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được dùng để phân loại trong thực tế.
Nhóm tiêu chí định lượng: Có thể dùng các tiêu chí như : số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận.
1.1. Các yếu tố tác động tới việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa hay nhỏ thì mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như :
- Trình độ phát triển kinh tế của một nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng. Như vậy, chỉ số về số lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp sẽ nhỏ hơn các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và một triệu USD tiền vốn được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn các doanh nghiệp có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn.
- Tích chất ngành nghề. Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may), có ngành sử dụng nhiều vốn nhưng ít lao động (như hoá chất, điện). Trên thực tế ở nhiều nước, để so sánh đối chứng trong phân loại dựa trên tính chất này, người ta thường phân chia thành 2 -3 nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau hay có thể dùng hệ số ngành (Ib).
- Vùng lãnh thổ: Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau, nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó, cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau.
- Tính lịch sử: Một số doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc trong tương lai có thể coi là nhỏ hoặc vừa. Như vậy, trong việc xác định quy mô doanh nghiệp, cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được dùng khi xác định quy mô trong các thời kỳ khác nhau.
Như vậy, để xác định quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước, trước hết cần xác định quy mô trung bình chung (Sa), sau đó, xác định hệ số Ia, Ib, Id. Cần lưu ý thêm là giữa các yếu tố như vốn lao động có sự thay thế lẫn nhau.
Có thể xác định quy mô doanh nghiệp thuộc một ngành và trên một địa bàn cụ thể F (Sba) theo công thức:
F(Sba) =
Ib.Ia
xSa
Id
Vấn đề hiện nay cần xác định: Sa và các hệ số tương ứng như thế nào?
Ngoài ra, mục đích phân loại cũng có tác động tới việc phân loại. Vì việc phân loại để định mức cấp phát hay để hỗ trợ là hoàn toàn khác nhau.
1.2. Tiêu chí và cách phân loại ở nước ta hiện nay.
Câu hỏi đầu tiên đặt ra để xác định tiêu chí đó là “cách tiếp cận”. ở Việt Nam, trước đây, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được dùng để phân loại DNNN với mục đích xác định mức lương cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lúc này, tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp TW-ĐF.
Theo văn bản pháp lý mới nhất hiện hành (áp dụng từ 1993 đến nay) thì việc phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam theo 5 hạng (hạng đặc biệt, hạng I, II, III, IV, V) dựa trên hai nhóm yếu tố là: độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh và gồm 8 tiêu chí: vốn sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, lợi nhuận thực hiện, doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn. ( Thông tư liên bộ số 21/LĐTT ngày 17-6-1993 của Bộ lao động - thương binh và xã hội và Bọ Tài chính vè xếp hạng doanh nghiệp.
)
Nhược điểm lớn của cách phân loại này là nhiều tiêu chí, đối tượng phân loại giới hạn. Còn mục tiêu chủ yếu nhằm sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước, làm căn cứ xếp lương chứ không phục vụ định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và hỗ trợ cho các doanh nghiệp này phát triển.
Trong khi, Nhà nước chưa ban hành tiêu chí chung xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển của mình, một số tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã tự đưa ra tiêu chí phục vụ cho công tác của mình. Ví dụ như:
ở thành phố Hồ Chí Minh, những doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ đồng, lao động trên 100 người và doanh thu hàng năm trên 10 tỷ thì được coi là các doanh nghiệp vừa, còn dưới mức trên là các doanh nghiệp nhỏ.
Ngân hàng Công thương Việt Nam coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có:
+ Giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng.
+ Lao động < 500 người.
Theo dự án VIE/US/95/004. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam do UNIDO tài trợ coi:
Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có:
+ Lao động dưới 30 người.
+ Vốn đăng ký dưới 1 triệu USD.
Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có:
+ Lao động từ 31-200 người.
+ Vốn đăng ký dưới 4 triệu USD.
Liên Bộ lao động và Bộ Tài chính coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có :
+ Lao động thường xuyên dưới 100 người.
+ Doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng.
+ Vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng.
Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc chương trình Việt Nam - EU hỗ trợ các doanh nghiệp có số lao động từ 10 - 500 người, vốn điều lệ từ 50 ngàn đến 300 ngàn USD.( Việt nam Economic issue 47, september 1997
).
Quỹ phát triển nông thôn (thuộc Ngân hàng Nông nghiệp). Coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có:
- Giá trị tài sản không vượt quá 2 triệu USD.
- Lao động không quá 500 người.
Một phần nguyên nhân của các tiêu chí rất khác nhau trên là do Nhà nước chưa chính thức ban hành một tiêu chí chung để áp dụng trong tất cả các ngành nhằm xác định đối tượng thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vấn đề thứ hai đặt ra cho việc xác định tiêu chí là đánh giá mức độ quan trọng của các tiêu chí đó.
Kết quả điều tra được tiến hành ở các tỉnh phía Bắc là khá thống nhất trong lĩnh vực sản xuất cũng như thương mại, dịch vụ. Đó là: vốn sản xuất được coi là quan trọng nhất (chiếm 55,2% số đối tượng được hỏi), doanh thu đứng vị trí thứ 2 và số lao động thường xuyên xếp thứ 3.(xem thêm bảng)
Bảng 1: Mức độ quan trọng của các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo kết quả điều tra.
Tiêu chí
Tỷ lệ % theo mức độ quan trọng giảm dần.
1
2
3
Vốn sản xuất
55.2
34.5
4.6
Doanh thu
33.3
29.9
29.9
Lao động thường xuyên
4.6
29.9
10.3
Nguồn: Báo cáo điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở 5 tỉnh vùng ĐB Sông Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 10 -1996.
Vấn đề thứ 3 là xác định trị số của các tiêu chí, bao gồm các yếu tố:
- Theo số liệu thống kê, quy mô trung bình của các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hiện nay trong nền kinh tế quốc dân Việt Nam như sau:
+ Vốn bình quân một doanh nghiệp đăng ký kinh doanh là 2,2 tỷ đồng (trong sản xuất là 2,97, trong thương mại là 1,2 tỷ).
+ Lao động trung bình là 210 người.
(trong công nghiệp là 280 người, và thương mại là 150 người) ( Niên giám thống kê 1995, NXB Thống kê, Hà Nội 1996.
)
Như vậy, quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể cao hơn mức trung bình một ít. Mức hợp lý nhất để xây dựng doanh nghiệp vừa và nhỏ chung cho tất cả nền kinh tế ở Việt Nam là:
Trong công nghiệp: Vốn sản xuất < 5 tỷ, lao động <300 người.
Trong thương mại, dịch vụ: Vốn sản xuất < 2 tỷ, lao động < 100 người.
- Theo kiểm chứng cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên các tiêu chí định tính như: mức độ phức tạp của quản lý, vị thế của chúng trên thị trường, trình độ công nghệ... Kết quả của một số công trình nghiên cứu cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp có mức vốn và lao động như trên hoặc thấp hơn đều có công nghệ lạc hậu, mức độ phức tạp của quản lý thấp, vị thế hạn chế trên thị trường. Như vậy trị số phân loại trên là khá phù hợp.
- Tiêu chí tạm thời xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Ngày 20/6/1996 tại thông báo số 681/CP-KTN Thủ tướng Chính phủ đã tạm thời quy định thống nhất tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ và số lao động thường xuyên dưới 200 người.
Quy định cũng nêu rõ, tuỳ điều kiện quá trình kinh tế-xã hội mà áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên.
Tiêu chí này chỉ là quy ước hành chính để xác định cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xét về định hướng lâu dài, quy định trên là phù hợp. Tuy nhiên trong giai đoạn trước mắt, cần tiếp tục nghiên cứu khả thi chi tiết hơn các tiêu chí. Chẳng hạn, chúng ta có thể tách tiêu chí áp dụng riêng cho lĩnh vực thương mại , lĩnh vực xây dựng công nghiệp... như phần trên đã trình bày.
- Theo tham khảo phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước trong khu vực và trong thời kỳ có trình độ phát triển tương ứng với Việt Nam hiện nay (chẳng hạn thời kỳ những năm 70 của Đài Loan, Hàn Quốc).
Trên cơ sở những luận giải đó, có thể đi đến ước lượng tiêu chí để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ như bảng sau:
Bảng 2: Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Tiêu chí
Công nghiệp
Thương mại , dịch vụ
DNV&N
DN nhỏ
DNV&N
DN nhỏ
Vốn sản xuất (tỷ đồng)
<5
< 1
< 2
< 1
Lao động thường xuyên
< 300
<50
<200
< 30
2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới.
Như trên đã nêu, việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các tiêu chí phụ thuộc vào nhiều yếu tố: phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện và mục đích của mỗi nước. Nhìn chung, cách phân loại ở mỗi nước có nhiều điểm khác nhau. Tuy vậy, vẫn có một số điểm giống nhau. Chẳng hạn, việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp này phát triển để thực hiện các mục đích như:
- Huy động mọi tiềm năng vào sản xuất.
- Đáp ứng nhu cầu, đa dạng phong phú của xã hội.
- Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi nước.
- Tăng sự năng động, hiệu quả của nền kinh tế, giảm tối đa mức rủi ro trong kinh doanh, giảm bớt độc quyền nhờ tăng số lượng doanh nghiệp, thiết lập quan hệ kinh doanh giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn.
Chúng ta có thể tham khảo cách phân loại của một số nước trong khu vực và trên thế giới như sau:
Đài Loan: Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu từ năm 1967, được phân làm hai nhóm ngành: công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận tải và các dịch vụ khác. Năm 1977, họ lại thêm nhóm ngành thứ 3 là ngành khai khoáng. Trong công nghiệp chế biến và khai khoáng người ta dùng chỉ tiêu vốn góp và lao động. Trong Thương mại và dịch vụ khác dùng chỉ tiêu doanh thu và lao động.
Trong thời gian 30 năm qua, tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan đã được điều chỉnh 6 lần. Sự thay đổi của khái niệm theo hướng tăng dần trị số các tiêu chí (trong sản xuất, số vốn góp từ 5 triệu lên đến 40 triệu đô la Đài Loan) và phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát nhiêù lĩnh vực hơn.
Hiện nay, ở Đài Loan, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có:
- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan (khoảng 1,4 triệu USD) số lao động thường xuyên dưới 300 người.
- Trong khai khoáng: Có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan lao động thường xuyên dưới 500 người.
Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác: Có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan, lao động dưới 50 người.
Hàn Quốc: Theo sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về doanh nghiệp vừa và nhỏ việc phân loại quy mô doanh nghiệp được thực hiện theo hai nhóm ngành:
- Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng: Doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600.000 USD và số lao động thường xuyên từ 20 - 300 người là doanh nghiệp vừa, số lao động thường xuyên dưới 20 người là doanh nghiệp nhỏ.
- Trong thương mại: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/năm, số lao động dưới 20 người.
2.2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Như đã nghiên cứu ở mục 1.2, mặc dù việc xác định các tiêu chí được thực hiện rất có hệ thống nhưng có nhiều chỗ vận còn mang tính ước lệ và còn phải đưa ra nhiều trường hợp ngoại lệ. Có rất nhiều điểm khác nhau về các đối tượng, các chủ thể kinh doanh được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thí dụ, có ý kiến cho rằng hộ sản xuất nông nghiệp cũng cần được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ vì nó thoả mãn các tiêu chí đặt ra.
Khung pháp luật kinh doanh ở nước ta hiện được coi là vừa thiếu vừa không rõ ràng. Đây chỉ là một thực tế khách quan, chưa thể khắc phục ngay được. Theo pháp luật hiện hành thì nhiều chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn chưa được coi là một doanh nghiệp. Có nghĩa là thuật ngữ doanh nghiệp được dùng để chỉ các chủ thể có đăng ký kinh doanh, tức là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Khi các văn bản quy phạm pháp luật dùng thuật ngữ doanh nghiệp là để chi doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, tức là có đăng ký với cơ quan nhà nước theo quy định.
Như vậy, có thể nói, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất có tư cách pháp nhân, có quy mô doanh nghiệp (tính theo các tiêu thức khác nhau) trong giới hạn nhất định đối với từng giai đoạn cụ thể.
Theo định nghĩa này thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam không phân biệt các thành phần kinh tế. Các thành phân kinh tế bao gồm:
- Các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước.
- Công ty cổ phần, công ty TNHH, các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và đăng ký hoạt động theo Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hợp tác xã có quy mô vừa và nhỏ được thành lập và hoạt động và đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ tư nhân và nhóm sản xuất kinh doanh dưới vốn pháp định đăng ký theo Nghị định 66 - HĐBT.
Hiện nay trong khu vực DNNN có các tổng công ty 90-91. Các tổng công ty này có các công ty đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và cũng có thể có quy mô thuộc loại vừa và nhỏ. Vậy có thể coi các công ty thành viên loại này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay không? Xung quanh vấn đề này hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo đa số thì đều cho rằng các công ty đơn vị thành viên này không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ mặc dù phù hợp với quy định của Chính phủ.
Hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng và có lao động dưới 300 người; trong thương mại dịch vụ là những doanh nghiệp có số vốn sản xuất dưới 3 tỷ và số lao động dưới 200 người. Trong đó doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ và lao động dưới 50 người (trong công nghiệp) và dưới 30 người trong thương mại, dịch vụ) là doanh nghiệp nhỏ.
Có thể tóm tắt cách phân loại cũng như khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam như sau:
Bảng 3: Bảng tóm tắt cách phân loại và khả khái niệm nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Tiêu chí
Các yếu tố tác động đến phân loại
* Định tính:
+ Trình độ phát triển kinh tế.
- Không có vị thế độc quyền
+ Giai đoạn phát triển (tính lịch sử)
- Chuyên môn hoá thấp
+ Tính chất ngành nghề
- Độ phức tạp của quản lý thấp
+ Vùng lãnh thổ
* Định lượng
+ Mục đích phân loại
- Vốn sản xuất
+ Vùng lãnh thổ
- Lao động
+ Mục đích phân loại
- Doanh thu
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Lĩnh vực
Tiêu chí phân loại
Sản xuất công nghiệp
+ Vốn: dưới 5 tỷ đồng (doanh nghiệp nhỏ dưới 1 tỷ).
+ Lao động: dưới 300 người ( doanh nghiệp nhỏ dưới 50 người)
Thương mại, dịch vụ
+ Vốn: dưới 3 tỷ đồng (doanh nghiệp nhỏ dưới 1 tỷ đồng).
+Lao động: dưới 200 người (doanh nghiệp nhỏ dưới 30 người)
Theo cách xác định trên, ở Việt Nam có 88,2% số các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mọi hình thức, theo tổng điều tra các cơ sở kinh tế năm 1995.
Khái niệm nêu trên mới chỉ là những ý kiến bước đầu, nó sẽ hoàn chỉnh hơn cùng với sự phát triển của nền kinh tế.
3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các nghiên cứu gần đây thường nhấn mạnh tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Trong thực tế, không ít ngành công nghiệp lớn được hỗ trợ đắc lực bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những sự đóng góp đó thể hiện qua những vai trò sau:
3.1. Đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
Giá trị sản lượng công nghiệp do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra năm 1993 là 5.315 tỷ đồng, chiếm 26% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1993 đạt 29.000 tỷ bằng 78% tổng mức bán lẻ của thị trường xã hội.
Theo thống kê, giá trị hàng hoá luân chuyển năm 1993, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã vận chuyển hàng hoá với khối lượng 32,2 triệu tấn chiếm 64% tổng khối lượng hàng hoá lưu chuyển của các địa phương.
Kết quả điều tra cho thấy, 51,7% số ý kiến cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tăng trưởng kinh tế.
3.2. Tạo việc làm cho người lao động.
Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dần số trên 2% hàng năm, năm cả nước có thêm 1 triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu việc làm. Đó là chưa kể số người thất nghiệp và bán thất nghiệp do cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế trong nền kinh tế vừa qua cho thấy, toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1,6( Niêm giám thống kê năm 1995 - NXB Thống kê, Hà Nội 1996
) triệu lao động. Trong khi đó, chỉ riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại năm 1995 đã thu hút 3,5 triệu lao động, các công ty và doanh nghiệp tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 740 ngàn đồng chỉ bằng 3% so với các doanh nghiệp lớn. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tạo việc làm và thu hút nhiều lao động với chi phí thấp.
Tuy vậy, số lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm 12% đến 15% lực lượng lao động, so với các nước trong khu vực chỉ tiêu này là 50 - 60%. Như vậy tỷ lệ thu hút lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn quá thấp, tiềm năng của các doanh nghiệp này chưa được phát huy đầy đủ.
3.3. Thu hút vốn.
Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như với từng doanh nghiệp. Nhờ có vốn mới có thể kết hợp được với các yếu tố khác như lao động, đất đai, công nghệ và quản lý. Thực tế cho thấy, để đầu tư một chỗ làm việc ở Việt Nam trung bình phải mất 5-10 triệu đồng tiền vốn. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề... cũng như trong việc mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, một nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi vốn trong dân còn tiềm ẩn nhưng không huy động được. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư chưa thật thuận lợi và không ổn định. Trong tình hình đó, chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ là người trực tiếp tiếp xúc với người cho vay, gây được niềm tin nên có thể huy động được vốn. Mặt khác chính chủ của các nguồn vốn tiềm ẩn đó cũng chính là chủ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.4. Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn.
Do số doanh nghiệp tăng lên rất lớn, nên làm tăng tính cạnh tranh giảm bớt rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng làm tăng hiệu quả của các doanh nghiệp lớn: làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn giúp tiêu thụ hàng hoá cung cấp các đầu vào, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được.
Một điều quan trọng là, vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó phần lớn là khu vực tư nhân, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Do vậy việc tăng các cơ sở này càng làm tăng hiệu quả hơn cho nền kinh tế trong tương lai gần. Tuy nhiên, cần lưu ý nếu những doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế khó tăng lên được.
3.5. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Điều này có ý nghĩa lớn đối với khu vực nông thôn. Nó giúp phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu nông thôn. Hơn nữa, sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp này cũng làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp và củng cố lại.
- Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành nghề da dạng, phong phú (cả ngành nghề hiện đại lẫn truyền thống) theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
- Cơ cấu lãnh thổ: Các doanh nghiệp phân bổ đều hơn về lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong vấn đề hoạch định chính sách.
4. Đặc điểm của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách đối với các doanh nghiệp này. Tình trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay có nguyên nhân sâu xa từ lịch sử cũng như mô hình kinh tế cũ tác động. Dưới đây là một số đặc điểm cần tính đến trong việc hoạch định chính sách:
4.1. Về số lượng và cơ cấu theo ngành của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo tiêu chí về vốn nêu ở phần trên (doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có tổng số vốn dưới 5 tỷ đồng) thì có 20916 trên tổng số 23708 doanh nghiệp được điều tra trong cuộc Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp tiến hành năm 1995, là loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 88,2% tổng số doanh nghiệp. Trong đó đối với khu vực doanh nghiệp trong nước thì tỷ lệ này là 89,5% và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 33,6%. Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là doanh nghiệp có nguồn vốn trong nước. Xu hướng này nhìn chung cũng không có thay đổi gì lớn trong các năm 1996 trở lại đây.
Theo tiêu chí về tổng vốn kinh doanh thì số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các loại hình và thành phần kinh tế như sau:
Bảng 4: Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các loại hình doanh nghiệp.
Loại hình doanh nghiệp
Tỷ lệ (%)
1. Khu vực doanh nghiệp nhà nước
65.9
2. Khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương
74.6
3. Khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương
47.8
4. Khu vực kinh tế tập thể
97.4
5. Khu vực doanh nghiệp tư nhân
99.4
6. Khu vực công ty cổ phần
42.3
7. Khu vực công ty TNHH
94.6
8. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
33.6
9. Tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong toàn bộ số lượng doanh nghiệp
88.2
Nguồn: Tính toán theo kết quả Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 1995. NXB thống kê, Hà nội 1996.
Trên đây là phân loại theo tổng vốn. Nếu lấy quy mô lao động dưới 200 người để xác định thì 96% tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài) đều thuộc loại vừa và nhỏ.
Như vậy có thể nói một cách tổng quát là khoảng 80-90% doanh nghiệp ở Việt Nam thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ xét theo cả hai tiêu chí. Tỷ lệ này trong các ngành và cá thành phần kinh tế không giống nhau. Mặc dù số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số doanh nghiệp, nhưng theo tính toán dựa theo số liệu của cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp thì toàn bộ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước chỉ chiếm 20% tổng số vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh chỉ chiếm 52% tổng vốn kinh doanh của cả khu vực này.
4.2. Vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay gặp phải khó khăn thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, tình trạng thiếu vốn không phải mọi doanh nghiệp đều giống nhau và đều được phản ánh chính xác. Nhiều doanh nghiệp phản ánh là thiếu vốn nhưng khi được yêu cầu trình bày sử dụng vốn cho mục đích cụ thể nào thì doanh nghiệp không thể giải đáp được.
Việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay được đánh giá là chủ yếu được thực hiện qua thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của nhân thân, bạn bè và vay của những người chuyên cho vay lấy lãi. Hầu như các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có thể nêu ra một số nguyên nhân sau:
- Hệ thống ngân hàng kể cả hệ thống tài chính trung gian, kém phát triển không tiếp cận được với cầu tín dụng.
- Bản thân doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng đáp ứng được đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án, thủ tục thế chấp.
4.3. Về phân bố doanh nghiệp vừa và nhỏ theo vùng lãnh thổ.
Trong những năm đổi mới, hàng loạt doanh nghiệp mới ra đời, nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại thông qua sáp nhập, giải thể hoặc đóng cửa. Tình hình này tác động rất lớn đến tình trạng phân bổ các doanh nghiệp trong cả nước trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Các vùng đô thị, gần thị trường tiêu thụ và các trung tâm công nghiệp là những nơi thuận tiện cho việc ra đời các doanh nghiệp mới.
ở các vùng nông thôn nơi các làng nghề bị mai một trong những năm qua, nay được chính sách đổi mới tác động nên nhiều doanh nghiệp với các loại hình khác nhau ra đời góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động thừa ở địa phương.
- Nhờ vào chính sách mở cửa đối với đầu tư nước ngoài nên có nhiều doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này chủ yếu tập trung ở nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật tốt hơn và lực lượng lao động có trình độ cao hơn. (Xem bảng sau).
Bảng 5: Phân bố doanh nghiệp theo vùng:
Đơn vị: số doanh nghiệp.
Vùng
Số DNNN địa phương
Số DN ngoài quốc doanh ( Chỉ kể 3 loại hình doanh nghiệp là hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, và Công ty
)
Số DN có vốn nước ngoài
Ước tính số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong từng khu vực
Khu vực DNNN địa phương
Khu vực ngoài quốc doanh
Khu vực có vốn nước ngoài
Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tổng
%
1. Vùng núi và trung du
653
909
17
487
885
6
1378
7.0
2.Đồng bằng Sông Hồng
996
2928
202
743
2771
68
3582
18.1
3. Khu bốn cũ
522
690
7
389
671
2
1062
5.4
4. Duyên hải miền trung
452
1685
45
337
1648
15
2000
10.1
5. Tây Nguyên
175
501
13
130
490
4
624
3.2
6. Đông Nam Bộ
684
5803
380
510
5549
128
6187
31.3
7. Đồng bằng Sông Cửu Long
451
4627
28
336
4579
9
4924
24.9
Tổng
19757
100
Nguồn: tính toán dựa theo kết quả Tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 1995. NXB Thống kê 1996.
4.4. Về công nghệ thiết bị của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trình độ công nghệ, thiết bị máy móc của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ không nằm ngoài tình trạng chung về công nghệ, trang thiết bị máy móc của khu vực doanh nghiệp nhà nước, thậm chí chúng còn lạc hậu hơn. Mặt khác, tỷ lệ đổi mới trong thiết bị này cũng rất thấp, ngay cả trong những năm tăng trưởng cao.
Nói tóm lại, trang thiết bị và công nghệ rất lạc hậu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho giá thành cao, chất lượng và năng suất thấp, hạn chế tới khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là đối với thị trường hàng hoá nhập khẩu.
4.5. Về thị trường và khả năng cạnh tranh.
Việt Nam là một thị trường lớn, mức độ yêu cầu về chất lượng và dịch vụ chưa cao, nhất là ở nông thôn nơi cư trú khoảng 80% dân số cả nước. Đó là thị trường tiềm năng rất lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, hiện tại thị trường Việt Nam đang bị ảnh hưởng rất lớn của hàng hoá nhập lậu. Nạn nhập lậu hàng hoá nhất là hàng hoá tiêu dùng, tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đó là thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khác với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ nhìn chung không thể đủ lực để hạ giá hàng nhằm cạnh tranh lại với hàng nhập lậu trong thời gian ngắn để giành lại thị trường. Mặt khác, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta còn rất yếu do nhiều nguyên nhân do cả công nghệ, thiết bị lạc hậu, lẫn do sự hạn chế về trình độ quản lý và kinh doanh trên thị trường.
4.6. Về lao động và đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ. ( Trong mục này không có dầy đủ số liệu đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực ngoài quốc doanh, nên số liệu dùng sau đây sẽ không ảnh hưởng tới kết quả phân tích.
)
Lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là kinh doanh phổ thông, ít được đào tạo thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy: chỉ có 5,13% ( Kinh tế quốc doanh thời mở cửa 1991 - 1995. NXB Thống kê, Hà Nội
) lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó chủ yếu tập trung vào các Công ty TNHH, Công ty cổ phần (hơn 80%).
Phần lớn các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh các doanh nghiệp mới được thành lập trong những năm gần đây chưa được đào tạo. Trong số các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì 42,7% là những người đã từng là cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Trên 60 % số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tuổi trên 40. Khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn và chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trình độ từ cao đẳng trở lên.
Có thể nói, con số nêu trên là rất thấp so với các nước trong khu vực, nên tình hình quản lý nói chung là hạn chế, thiếu kiến thức quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm là điều không thể tránh khỏi.
II. Tổng quan về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
1. Lý luận chung về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong phần này ta xem xét chính sách theo góc độ là một công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm mục tiêu ổn định phát triển kinh tế hay là một công cụ quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Vậy, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một trong những chính sách kinh tế - xã hội (chính sách công).
Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Xét theo nghĩa rộng, chính sách kinh tế xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết các vấn đề chính sách, nhằm mục tiêu phát triển lâu dài của đất nước.
1.1. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tổng thể các quan điểm tư tưởng mục tiêu và giải pháp của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế lâu dài của đất nước ( Trường đại học KTQD - Khoa Khoa học quản lý - Giáo trình chính sách kinh tế xã hội, H.2000
).
Các quan điểm tư tưởng phát triển đất nước ta hiện nay là:
- Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Tiến hành đa dạng hoá, đa phương hoá cá mối quan hệ đối ngoại.
- Lấy giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ làm quốc sách hàng đầu.
- Gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
- Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với chính sách công bằng xã hội.
Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng cũng như chính sách kinh tế xã hội nói chung đều có mục tiêu tổng quát là: từ nay đến khoảng năm 2020 là căn bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh ( Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cuả Đảng CSVN - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996
). Đây là khái niệm khá cơ bản về chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các giải pháp cụ thể của chính sách này sẽ được nghiên cứu ở phần sau.
1.2. Nội dung của chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xét về lâu dài, chính sách có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các chính sách tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm:
- Các chính sách vĩ mô (tài chính tiền tệ, đầu tư, công nghiệp, thương mại, việc làm thu nhập) tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Các chính sách đặc thù hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ như:
+ Tín dụng.
+ Hỗ trợ kỹ thuật công nghệ thiết bị.
+ Đào tạo nguồn nhân lực.
+ Chính sách thị trường lao động, thị trường sản phẩm.
+ Liên kết với các công ty lớn.
+ Phát triển có sở hạ tầng.
+ Hỗ trợ xuất khẩu.
+ Chính sách về bảo vệ môi trường.
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này “chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ” chủ yếu tập trung vào chính sách thuế, vốn, đào tạo, công nghệ. Các chính sách này sẽ được đánh giá xem xét kỹ hơn ở chương sau:
2. Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam.
2.1. Một số vấn đề chung về cơ chế và mô hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi nói đến chính sách thì không thể nói tới cơ chế và mô hình hỗ trợ vì chính sách là một trong những công cụ hỗ trợ rất đắc lực về dài hạn.
Nói đến cơ chế và mô hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến mục đích, nội dung, phương pháp và công cụ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ này. ở nhiều nước, cơ chế và mô hình có một số điểm giống nhau, nhưng có nhiều điểm rất khác nhau do điều kiện, mục tiêu, trình độ phát triển của các nước là khác nhau.
Những điểm chung đó là:
* Mục tiêu hỗ trợ: chủ yếu là nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát huy được vai trò, tiềm năng vốn có của chúng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội mà nếu chỉ riêng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì không thể giải quyết nổi.
* Nội dung hỗ trợ: bao gồm những vấn đề hết sức thiết thực đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi như:
- Có quan điểm, chiến lược, chính sách cởi mở để khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển.
- Hỗ trợ tạo lập môi trường kinh doanh: Thông tin, cơ sở hạ tầng, thị trường, môi trường xã hội an toàn.
- Hỗ trợ cac yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, lao động quản lý.
- Hỗ trợ các yếu tố đầu ra liên quan đến tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
* Phương pháp hỗ trợ: có thể bằng phương pháp hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua môi trường.
- Phương pháp hỗ trợ trực tiếp: Đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy phép, cấp vốn trực tiếp, cung cấp mặt bằng sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin, cơ sở hạ tầng...
- Phương pháp gián tiếp: Chủ yếu là hỗ trợ gián tiếp thông qua cơ chế chính sách tác động vào môi trường kinh doanh để điều chỉnh hoạt động doanh nghiệp: ổn định chính trị xã hội, tạo lập thị trường, khuyến khích thành lập các hội nghề nghiệp, các trung tâm hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực, miễn giảm thuế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập được vay vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp tác liên doanh với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước...
* Công cụ hỗ trợ: thông qua các công cụ quản lý nhà nước như chiến lược, pháp luật, kế hoạch quy hoạch, chính sách, bộ máy...
Hiện nay, cơ chế và mô hình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nhiều nước theo các hướng chính sau:
- Hỗ trợ theo cơ chế kinh doanh (có vay có trả) hơn là cho không, vì việc bao cấp cho không thường gây ra tâm lý trông chờ, ỷ lại và đặc biệt là dùng các nguồn vốn đó kém hiệu quả. Chẳng hạn, áp dụng cho vay vốn lãi suất thấp hoặc trợ cấp lãi suất thay cho việc cấp vốn không lãi suất, hoặc cấp vốn không hoàn lại.
- Hỗ trợ gián tiếp nhiều hơn trực tiếp: Nhằm tạo lập cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng xử theo cơ chế thị trường.
- Hỗ trợ công khai và rõ ràng, tránh độc đoán, sách nhiễu, hối lộ.
- Phân quyền công khai cho địa phương nhiều hơn là tập trung vào nhà nước trung ương, tăng cường các tổ chức phi chính phủ (hội nghề nghiệp, các công ty tư vấn tư nhân) v.v...
- Bao quát tất cả nền kinh tế hơn là chính sách theo thành phần, nhóm doanh nghiệp. Chỉ nên có một số chính sách riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Đề cao vai trò của cộng đồng và chính sách đào tạo nguồn nhân lực.
2.2. Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam.
ở Việt Nam, cơ chế và mô hình được đổi mới cùng với việc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. So với trước đây, nhiều vấn đề về cơ chế hỗ trợ đã thay đổi căn bản. Dưới đây là một số khác biệt giữa cơ chế hỗ trợ trong mô hình kinh tế cũ và cơ chế hiện nay.
Bảng 6: Sự khác biệt giữa cơ chế hỗ trợ trong mô hình kinh tế cũ và cơ chế hiện nay.
Cơ chế hỗ trợ hiện nay
Cơ chế bảo hộ trước đây
Mục tiêu
Khai thác mọi tiềm năng của các thành phân kinh tế để phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Phát triển khu vực DNNN quy mô vừa và lớn
Đối tượng
Các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế
Các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã
Nội dung
Hỗ trợ một số khâu quan trọng mà doanh nghiệp cần
Hỗ trợ mọi mặt từ đầu vào đến đầu ra
Phương pháp
Kết hợp cả phương pháp trực tiếp và gián tiếp nhưng gián tiếp là chủ yếu thông qua môi trường
Cung cáp các đầu vào một cách trực tiếp, giúp tiêu thụ các sản phẩm đầu ra
Công cụ
Chiến lược, chính sách và bộ máy điều hành
Chủ yếu bằng kế hoạch phân bổ vật tư
Tuy nhiên, do mới chuyển sang kinh tế thị trường, nên cơ chế và mô hình hỗ trợ một mặt chịu ảnh hưởng lớn của tư duy theo cơ chế cũ, mặt khác, chưa thật phù hợp với điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.
Quy trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các bước: trên cơ sở quan điểm, đường lối (trong một số trường hợp cả chiến lược phát triển) của Đảng, Nhà nước thể chế hoá thành luật và các văn bản dưới luật (tạo khung pháp lý, chính quyền các cấp triển khai thực hiện.
Điểm khác biệt lớn trong cơ chế và mô hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là có sự phân biệt giữa hai nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ: doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài khu vực quốc doanh.
* Quan điểm chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Từ đại hội VI của Đảng (1986) đến nay, với việc xoá bỏ cơ chế cũ, hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước heo định hướng XHCN đã thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển mạnh, nhất là khu vực kinh tế tư nhân. Nhờ đó, đối tượng quản lý của Nhà nước đã thay đổi căn bản. Hay việc hỗ trợ các doanh nghiệp không chỉ các doanh nghiệp nhà nước mà còn cả các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, trong chính sách kinh tế đã chú ý tới hiệu quả kinh tế, không quá chú trọng tới quy mô doanh nghiệp lớn như trước đây và việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là chiến lược kinh tế lâu dài trong sự đan xen với doanh nghiệp lớn. Nghị quyết 16 (1988) của Bộ Chính trị nêu rõ: “Nhà nước và xã hội ủng hộ và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả và hợp pháp”. Điều quan trọng nhất trong quan điểm hỗ trợ ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới là “cởi trói” cho các doanh nghiệp để cho các doanh nghiệp được phép kinh doanh. Hiện nay, quan điểm hỗ trợ chủ yếu là làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển ngày càng tiên tiến, hiện đại và kinh doanh có hiệu quả. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá VII) chủ trương: “Phát triển các loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, tỷ suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh”. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoáVII).
Tuy vậy, trong quan điểm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ và việc thực hiện các quan điểm này trên thực tế còn một số hạn chế:
- Trong các quy định chính thức, quan điểm hỗ trợ khẳng định việc bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quyết định đó ở các địa phương vẫn còn sự phân biệt đối xử thiếu bình đẳng.
- Chưa xác định rõ đối tượng cần hỗ trợ trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn.
- Mặc dù đã chú ý đến hỗ trợ theo ngành nghề và địa phương, nhưng vẫn còn thiếu những giải pháp cụ thể.
- Chưa có quan điểm rõ nét về hỗ trợ theo quy mô: giúp các doanh nghiệp yếu vươn lên.
* Khung pháp lý: Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng, trong thời gian qua, Nhà nước dã tiến hành tạo lập khung pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp hoạt động. Mới đầu là một số Nghị định của Chính phủ nhằm khuyến khích các khu vực ngoài quốc doanh (chủ yêú là quy mô nhỏ) như các Nghị định 27, 28, 29/HĐBT về kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã và kinh tế gia đình; Nghị định 66/HĐBT về hộ kinh doanh dưới vốn pháp lý. Nhà nước đã ban hành các luật liên quan tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ như Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp nhà nước, các luật thuế...Tuy còn thiếu nhiều luật đặc biệt là các luật bảo vệ lợi ích và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động.
Tuy nhiên, khung pháp lý đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế:
- Hệ thống pháp luật đang trong quá trình đổi mới nên chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng để tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Trong các luật đã ban hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Ví dụ: Pháp nhân trong Luật Công ty được quy định chưa rõ. Luật Doanh nghiệp tư nhân quy định thủ tục thành lập quá rườm rà, phải qua nhiều khâu.
- Chưa có cơ sở pháp lý quy định khuôn khổ tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ do đó có nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quản lý và thực hiện chính sách hỗ trợ.
- Luật và các văn bản dưới luật còn mang nặng tính hành chính hơn là tạo ra một hành lang rộng để khuyến khích các doanh nghiệp phát huy hết khả năng sáng tạo trong kinh doanh.
- Quy trình soạn thảo luật chưa hợp lý: Chủ yếu do các cơ quan chức năng của Chính phủ soạn thảo chưa quan tâm đúng mức tới việc trưng cầu ý kiến của các doanh nghiệp. Việc soạn thảo các văn bản pháp lý chưa thực sự gắn với thực tế của doanh nghiệp và chưa kiểm nghiệm đầy đủ trước khi đưa ra thi hành. Do đó có nhiều luật vừa ban hành thì đã phải sửa đổi.
- Còn thiếu những điều khoản thiết yếu về khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số các văn bản pháp lý nói trên, chỉ mới có một số điều khoản khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong luật khuyến khích đầu tư trong nước và một số luật thuế.
- Mức độ khuyến khích còn rất hạn chế (chẳng hạn mức độ miễn thuế trong Luật Khuyến khích đầu tư trong nước chỉ có 1 - 2 năm đối với các doanh nghiệp mới thành lập, trong khi ở nhiều nước có thể tới 5 - 7 năm); đối tượng được miễn giảm thuế còn rất hạn chế (chỉ có các doanh nghiệp mới thành lập ở vùng xa, các doanh nghiệp chế biến nông sản...).
- Hiện có nhiều luật cùng điều chỉnh một nhóm đối tượng giống nhau. Nhiều văn bản luật không còn phù hợp nhưng chưa được rà soát sửa đổi kịp thời, nhất là Luật Thuế, Luật Đất đai, nhiều văn bản trái pháp luật (nhất là văn bản của các địa phương). Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm còn thiếu nghiêm minh đã dẫn tới tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, rối loạn. Kết quả điều tra cho thấy: 52,9% những người được hỏi ý kiến cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chấp hành pháp luật không nghiêm.
3. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sở dĩ Nhà nước cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ là xuất phát từ vai trò của các doanh nghiệp này cũng như những lợi ích của chính sách hỗ trợ đem lại là rất lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như cho chính Nhà nước và xã hội.
3.1. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Lý do chính để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước hết là do vai trò to lớn của chúng trong nền kinh tế. Đó là:
- Thu hút nhiều lao động, tăng cơ hội tìm việc làm với chi phí thấp.
- Tăng thu nhập dân cư, góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo.
- Thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào sản xuất kinh doanh.
- Gieo mầm cho các tài năng kinh doanh.
- Làm cho nền kinh tế hiệu quả và năng động.
Các doanh nghiệp này quá yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khố liệt với những hạn chế: năng lực quản lý yếu, công nghệ lạc hậu, vốn ít... Do đó, để các doanh nghiệp này phát huy được vai trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa có nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp không thể tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào tạo nhân lực... Ngoài ra còn nhiều ưu điểm khác nếu được sự hỗ trợ của nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng vững vươn lên, Nhà nước cần có chính sách và các giải pháp hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp này.
3.2. Lợi ích của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với Nhà nước và xã hội.
Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các doanh nghiệp mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các mặt:
- Trước hết, sự hỗ trợ các doanh nghiệp là cách thức để nuôi dưỡng các nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Hỗ trợ doanh nghiệp là một cách thức đầu tư gián tiếp của nhà nước. Thay vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập mới các doanh nghiệp nhà nước (như mô hình kinh tế hiện vật trước đây) bằng việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp đã thành lập từ trước, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh).
- Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn vì nó vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước.
- Bằng việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cũng có thể giải quyết được những vấn đề xã hội như thất nghiệp (bất kỳ đất nước nào cũng phải đương đầu), tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước (thay vì thành lập mới các DNNN, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho rất nhiều doanh nghiệp đã có sẵn).
- Ngoài ra, Nhà nước có thể thông qua chính sách hỗ trợ để định hướng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tóm lại, việc Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như chính Nhà nước.
Chương II
Thực trạng chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
I. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam theo nhiều nguồn khác nhau:
- Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, tồn tại và phát triển từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
- Các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ (các doanh nghiệp nhà nước Trung ương và địa phương).
- Mới thành lập trong thời kỳ đổi mới cơ chế: do sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, thành lập theo các luật ban hành từ 1990,...
Quá trình phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ diễn ra theo nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau. Thời kỳ khôi phục kinh tế trước 1960, Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhưng số doanh nghiệp lúc bấy giờ còn rất ít, chủ yếu là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp.
Từ đầu năm 1960 đến 1986, hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hộ kinh tế cá thể. Trong đó có các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã được khuyến khích phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước (1975), riêng trong công nghiệp, cả nước có 1.913 xí nghiệp và công tư hợp doanh (miền Bắc có 1.279, niềm Nam có 634 xí nghiệp) với 520 ngàn cán bộ, công nhân, trong số đó phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau hơn 10 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến 1985, số xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh trong công nghiệp lên tới 3.220 xí nghiệp, số hợp tác xã và tổ hợp tiểu thủ công nghiệp lên tới 29.971 cơ sở, khu vực tư nhân, cá thể chỉ còn 1.951 cơ sở.
Từ 1986 đến nay, với chính sách đổi mới kinh tế, các thành phần kinh tế chính thức được thừa nhận và được hoạt động lâu dài. Tiếp đó, một loạt văn kiện ra đời: Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị (1988), Nghị định 27, 28, 29/HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định; và các luật: Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước... đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự được quan tâm và khuyến khích phát triển.
Thời gian qua, mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã giảm mạnh, nhưng tính chung trong toàn nền kinh tế, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng. Tính riêng trong công nghiệp, số doanh nghiệp nhà nước giảm liên tục từ 3.141 (1986) xuống 2.002 (1994). Số lượng hợp tác xã giảm mạnh, từ 37.649 cơ sở (1986) xuống còn 13.086 (1990) và 1.199 cơ sở (1995) . Trong khi đó, khu vực tư nhân trong công nghiệp (cả hình thức doanh nghiệp và công ty) tăng rất nhanh: từ 567 doanh nghiệp (1986) trên 959 doanh nghiệp (1991) và 6.311 doanh nghiệp (1995). (Xem bảng)
Bảng 7: Số lượng các doanh nghiệp công nghiệp
Năm
Doanh nghiệp quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Trung ương
HTX
Tư nhân
Hộ cá thể
1990
2.762
589
13.086
770
376.900
1991
2.599
546
8.829
959
446.771
1992
2.268
537
5.723
1.114
368.000
1993
2.030
522
5.287
3.322
452.866
1994
2.002
528
1.648
4.909
493.046
Nguồn: Niên giám thống kê 1995. NXB Thống kê, Hà Nội 1996 tr 196, 389.
Cùng theo xu hướng dịch chuyển như trên, từ năm 1995 trở lại đây, số doanh nghiệp nhà nước cũng giảm liên tục từ 1.973 doanh nghiệp xuống còn 1.786 doanh nghiệp (1999). Số lượng doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh tăng từ 612.977 doanh nghiệp (1995) lên tới 615.453 doanh nghiệp (1999). Còn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh hơn từ 239 doanh nghiệp (1995) lên đến 959 doanh nghiệp (1999). (Xem số liệu)
Bảng số 8: Số cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo khu vực và thành phần kinh tế
Năm
Tổng số
Chia ra
Khu vực DNNN
Ngoài quốc doanh
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1995
615.389
1.973
612.977
439
1996
626.129
1.879
623.710
540
1997
617.805
1.843
615.296
666
1998
592.948
1.821
590.240
881
1999
618.198
1.768
615.453
959
Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991 - 2000. Tổng cục thống kê, Hà Nội 2/2001 tr 140.
Trong toàn bộ nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp phân theo hình thức tổ chức sản xuất thuộc các thành phần kinh tế. (Xem bảng sau)
Bảng 9: Số doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế đến 1 - 7 -1995
Loại hình doanh nghiệp
Trong toàn bộ nền kinh tế
Chia ra
CN, XD
Thương nghiệp, KS
Ngành khác
Tổng số doanh nghiệp
23.411
11.299
10.277
1.905
Doanh nghiệp nhà nước
5.962
3.291
1.849
822
Doanh nghiệp tập thể
1.810
1.199
282
329
Doanh nghiệp tư nhân
10.818
4.568
5.918
332
Công ty cổ phần
138
51
30
57
Công ty TNHH
4.015
1.697
2.063
260
Doanh nghiệp vốn nước ngoài
668
428
135
105
Kinh tế cá thể
1.882.798
707.053
940.994
243.751
Nguồn: Niên giám thống kê, 1995, NXB Thống kê, Hà Nội 1995, tr 389.
Số liệu thống kê 1995 cho thấy, trong tất cả nền kinh tế quốc dân, bình quân một doanh nghiệp có 434 triệu đồng vốn, 87 lao động. Đối với kinh tế cá thể, lao động bình quân một cơ sở là 1,7 người. Nếu xét theo ngành nghề, hình thức tổ chức, sở hữu thì tình hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện như sau: (Xem thêm bảng sau)
Bảng 10: Một số chỉ tiêu của doanh nghiệp nhà nước theo quy mô vừa và nhỏ năm 1995.
Phân theo nguồn vốn
Số doanh nghiệp
Bình quân một doanh nghiệp
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Vốn (tỷ đồng)
Lao động (người)
Tổng số
6.544
100
6,9
278
<1 tỷ
3.266
49,9
0,4
96
1-5tỷ
2.281
34,9
2,3
239
Tổng số
2.271
100
9,6
327
<1 tỷ
1.055
46,4
0,4
101
1-5tỷ
845
37,2
2,3
247
Tổng số
1.774
100
5,3
149
<1 tỷ
844
47,6
0,4
59
1-5tỷ
582
32,8
2,4
150
Nguồn: Tổng cục thống kê.
- Doanh nghiệp nhà nước: vốn bình quân một doanh nghiệp là 6,9 tỷ đồng, lao động bình quân một doanh nghiệp là 279 người. Số liệu thống kê cho thấy hơn 84,8% doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, riêng quy mô nhỏ là 49,9%.
- Khu vực kinh tế tư nhân: Các chỉ số nói trên thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước. Số liệu thống kê bảng sau của Tổng cục thống kê cho thấy: Quy mô trung bình của một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh (công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) là 31,3 lao động, 1.116,5 triệu đồng vốn kinh doanh. Trong đó, số lao động bình quân một doanh nghiệp cao nhất là hợp tác xã (102 người), thấp nhất là doanh nghiệp tư nhân (gần 112 người). Vốn kinh doanh thực tế bình quân một doanh nghiệp: cao nhất là công ty cổ phần (32,2 tỷ đồng) và thấp nhất là doanh nghiệp tư nhân (211 triệu đồng).
Bảng 11: Lao động, vốn trung bình một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh 1994
Tính chung
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp tư nhân
Hợp tác xã
Số lao động (người)
31,3
33
56
10,6
102
Vốn thực tế (triệu đồng)
1.165,5
1.498,1
32.177
211,1
757,2
Nguồn: Tổng cục thống kê.
2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.1. Về sản lượng.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, sản lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 60 - 99% trong giá trị tổng sản lượng trong tất cả các lĩnh vực và thành phần kinh tế.
Trong công nghiệp, tỷ trọng sản lượng của các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ chiếm khoảng 60% tổng sản lượng công nghiệp.
Đối với khu vực ngoài quốc doanh, con số này khoảng 99%.
2.2. Tốc độ phát triển sản xuất.
Tốc độ phát triển sản xuất thể hiện bằng tốc độ phát triển giá trị tổng sản lượng. Riêng trong công nghiệp, tốc độ phát triển sản xuất mỗi năm từ 1995 đến 2000 tăng 13,5%. (Xem bảng).
Bảng 12: Chỉ số phát triển giá trị sản xuất công nghiệp phân theo khu vực và thành phần kinh tế.
Năm
Tính chung
Chia ra
Khu vực DNNN
Ngoài quốc doanh
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1995
114,5
114,9
116,9
108,8
1996
141,1
111,6
111,5
121,7
1997
113,8
110,8
109,5
123,2
1998
112,5
107,7
107,5
124,4
1999
111,6
105,4
110,9
121,6
2000
115,7
112,1
118,3
118,6
1996-2000
113,5
109,5
111,5
121,8
Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991 - 2000. Tổng cục thống kê, Hà Nội 2/2001 tr 152.
Tuy sản lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, nhưng giá trị tổng sản lượng của chúng lại tăng 9,5% mỗi năm. Còn các khu vực khác thì tăng mạnh hơn, đặc biệt là khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nhìn chung, sự phát triển của các khu vực kinh tế vẫn chủ yếu theo chiều rộng (tăng giá trị chủ yếu là tăng số doanh nghiệp). Sự đầu tư phát triển theo chiều sâu còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê, mức độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế không cao: 59% số doanh nghiệp không tăng quy mô vốn sản xuất, chỉ có 6,2% số doanh nghiệp tăng quy mô vốn gấp đôi. Mức độ phát triển theo chiều sâu của khu vực ngoài quốc doanh (chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) lại càng thấp hơn. Gần 70% doanh nghiệp tư nhân và 61% số hợp tác xã không tăng quy mô vốn. (Xem bảng sau)
Bảng 13: Mức độ tăng quy mô vốn theo loại doanh nghiệp những năm 1995 - 1996.
Đơn vị: %
Tổng số
Mức độ phát triển so với trước
Như cũ
Mở rộng dưới 1,5 lần
Mở rộng dưới 1,5-2 lần
Mở rộng > 2 lần
Toàn bộ nền KT
100
59
27,7
8,7
4,6
Công nghiệp
100
51,6
30,0
12,2
6,2
Ngoài quốc doanh
Công ty TNHH
100
44,79
35,31
12,38
7,51
Công ty cổ phần
100
22,45
24,49
33,67
19,39
Doanh nghiệp tư nhân
100
69,95
22,39
5,49
2,17
Hợp tác xã
100
61,09
26,51
7,96
4,44
Nguồn: Kinh tế ngoài quốc doanh thời mở cửa 1991 - 1995. NXB Thống kê. Hà Nội, 1996.
2.3. Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế so với với các doanh nghiệp quy mô lớn. Nó được thể hiện trong tất cả các ngành kể cả công nghiệp hay thương mại và trong tất cả các thành phần kinh tế từ khu vực nhà nước đến khu vực tư nhân. Tuy nhiên, đó chỉ là hiệu quả kinh tế đơn thuần dựa trên một số tiêu thức truyền thống. Ngoài ra, nếu tính hiệu quả kinh tế - xã hội trong tổng thể thì hiệu quả kinh doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn hơn nhiều. Điều đó thể hiện qua những vấn đề dưới đây:
- Thu hút một nguồn lực vốn nhàn rỗi rất lớn trong dân (không sinh lãi hoặc sinh lãi thấp) vào hoạt động sinh lãi cao hơn.
- Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp chủ yếu bằng vốn của dân mà lẽ ra Nhà nước phải tốn rất nhiều vốn đầu tư để giải quyết việc làm.
Để đánh giá kết quả hiệu quả sản xuất kinh doanh ta có thể xem xét các chỉ tiêu đạt được trong năm 1998 và so sánh với năm 1997 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa vào số liệu trong bảng sau:
* Các chỉ tiêu đạt được năm 1998.
Bảng 14: Các chỉ tiêu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1997, 1998
Đơn vị: %
Tỷ lệ DN
1997
1998
1. Tăng sản xuất
Trong đó > 15%
81
70
48
32
2. Tăng doanh thu
Trong đó tăng đáng kể
75
60
63
39
3. Tăng xuất khẩu
Trong đó tăng đáng kể
70
56
31
19
4. Tăng lợi nhuận
Trong đó tăng đáng kể
65
27
17
28
5. Tăng mức nộp thuế
Trong đó tăng đáng kể
77
58
55
32
Nguồn: Theo phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI.
* Các chỉ tiêu đạt được năm 1998
- Sản xuất: 48% doanh nghiệp có tăng trưởng (trong đó 32% tăng thêm 15%)
- Doanh thu: 63% doanh nghiệp tăng doanh thu (trong đó 39% tăng đáng kể).
- Xuất khẩu: 31% doanh nghiệp tăng xuất khẩu (trong đó 19% tăng đáng kể).
- Lợi nhuận: 47% doanh nghiệp tăng xuất khẩu (trong đó 28% tăng đáng kể).
* So sánh các chỉ tiêu đạt được trong năm 1998 với năm 1997:
So với các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong năm 1997, các chỉ tiêu của năm 1998 đều thấp hơn. thậm chí nhiều chỉ tiêu giảm đáng kể. Điều này cho thấy rằng trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đang trong tình trạng khó khăn. Thêm vào đó, do sự khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1998 làm mất giá đồng nội tệ hay tăng tỷ giá ngoại tệ (USD/VNĐ). Có thể nói, đây là hiện trạng chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
- Tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế do số lượng doanh nghiệp và số lượng chủng loại sản phẩm tăng lên rất lớn.
- Làm cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn hoạt động hiệu quả hơn.
- Tăng mức độ an toàn, giảm bớt rủi ro trong nền kinh tế thị trường đầy biến động do tăng lượng hàng hoá cũng như số công ty có thể thay thế.
- Đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng với giá thành rẻ hơn và thuận tiện hơn...
- Đa dạng hoá và tăng thu nhập dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo.
2.4. Tình hình thiết bị công nghệ.
Thiết bị, công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất lạc hậu. Chỉ trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu tới 20 - 50 lần so với các nước trong khu vực.
Bảng 15: Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh so với cùng loại trên thế giới (%)
Loại doanh nghiệp
Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị
Hiện đại
Trung bình
Lạc hậu
1. Quốc doanh
11,4
53,1
35,5
2. Ngoài quốc doanh
0,7
27
60,3
- Công ty cổ phần, TNHH
19,4
54,8
25,8
- Doanh nghiệp tư nhân
19,7
30,3
50
- Hợp tác xã
16,7
33,3
50
- Tổ hợp, cá thể
3,6
22,8
73,6
Chung
10
38
52
Nguồn: Phát triển kinh tế, số 6 - 1997, tr 16.
Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp (chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong doanh nghiệp công nghiệp lớn). Tỷ lệ đổi mới trang bị rất thấp, nếu lấy Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm công nghệ cao nhất cả nước làm ví dụ thì tỷ lệ này cũng chỉ là khoảng 10%/một năm tính theo vốn đầu tư. Như vậy phải mất 10 năm mới khấu hao hết máy móc thiết bị. Nhiều sản phẩm công nghệ hiện nay như các sản phẩm điện tử, viễn thông, hoá thực phẩm có chu kỳ sống rất ngắn. Tỷ lệ công nghệ lạc hậu quá cao. Trong đó 66,3% công nghệ của khu vực ngoài quốc doanh thuộc loại lạc hậu và rất lạc hậu. Nên với tốc độ đổi mới máy móc thiết bị như trên thì nước ta không thể tránh được sự tụt hậu kinh tế so với khu vực và trên thế giới. Do đó mà năng suất thấp, chi phí cao, rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Có thể nói, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đứng trước một thức thức lớn khi nước ta đã cam kết thực hiện AFTA, gia nhập APEC, và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi đủ điều kiện.
2.5. Trình độ lao động và quản lý.
Nhìn chung trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ lao động ít được đào tạo cơ bản qua các trường chính thống mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là nhóm lao động trong cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy: 74,8% lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa học hết phổ thông trung học, chỉ có 5,3% lao động trong khu ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó tập trung chủ yếu vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%). Ngoài ra lao động ít được đào tạo nghề và nâng cao tay nghề, do đó mà ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, năng suất lao động thấp.
Về chủ doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh phần lớn mới làm quen với cơ chế thị trường nên còn nhiều bỡ ngỡ. Trong khu vực ngoài quốc doanh, phần lớn các doanh nghiệp mới thành lập nên chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo cũng như chưa có kinh nghiệm. Trong số các chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh 42,7% là những người đã từng là cán bộ, công nhân viên nay đứng ra lập doanh nghiệp. Trên 48,2% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp, chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trình độ cao đẳng trở lên.
3. Môi trường kinh doanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Môi trường kinh doanh là yếu tố quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Khái niệm môi trường kinh doanh rất rộng lớn và có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo cách phân loại khá phổ biến hiện nay, môi trường kinh doanh bao gồm: Môi trường kinh tế (trong đó, yếu tố quan trọng nhất là thị trường); Môi trường thể chế, pháp lý; Môi trường chính trị - xã hội; Môi trường khoa học công nghệ; Môi trường văn hoá - xã hội; Môi trường tự nhiên.
Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển thuận lợi, môi trường kinh doanh cần phải ổn định, an toàn. Các yếu tố của môi trường kinh doanh phải đồng bộ.
ở Việt Nam, việc chuyển sang cơ chế thị trường và những cố gắng của Nhà nước trong việc cải cách nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội bước đầu đã tạo môi trường thuận loại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Điều đó thể hiện như sau: Đảm bảo ổn định chính trị, kiềm chế lạm phát, xử lý lãi suất theo quan hệ thị trường, ban hành một số luật, cải cách hệ thống thuế, khuyến khích xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy vậy, môi trường kinh doanh chung còn gặp nhiều khó khăn. Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hoạt động hiệu quả, cần phải giải quyết nhiều vấn đề tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Đây chỉ là một yếu tố quan trọng và cấp bách hiện nay trong môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta:
Môi trường luật pháp: Thời gian qua Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động. Tính đến cuối năm 1996 nước ta đã có 55 luật, 64 pháp lệnh, 251 Nghị định. Trong đó có các luật quan trọng mới được ban hành như: Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã... Đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 12-6-1999 thay thế cho Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân trước đây.
Tuy vậy, hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng khác. Đồng thời qua việc thực thi luật pháp và các chính sách, trên thực tế đã bộc lộ nhiều nhược điểm như:
- Môi trường pháp lý đối với các loại hình doanh nghiệp chưa bình đẳng, kể cả khi hình thành doanh nghiệp cũng như quốc tế hoạt động kinh doanh. Việc hoạch định chính sách chủ yếu vẫn theo loại hình sở hữu, chưa chú trọng ngành nghề, quy mô doanh nghiệp. Thiếu bình đẳng giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Môi trương pháp lý thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi trong các quy định pháp lý đối với các doanh nghiệp, gây tác dụng xấu đến môi trường đầu tư do mức độ rủi ro cao.
- Nhiều quy định pháp lý hiện nay còn rắc rối, rườm rà, việc tuyên truyền lại hạn chế khiến cho các doanh nghiệp có tâm lý ngại không muốn thực hiện các quy định đó.
- Các văn bản pháp quy thường ban hành không kịp thời, thiếu đồng bộ, nhiều quy định pháp lý không còn phù hợp chưa được rà soát kịp thời vừa gây khó khăn, bó buộc hoạt động của các doanh nghiệp, vừa tạo ra những kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng, làm mất hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là những thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn, xuất nhập khẩu, thuê đất.
- Việc thi hành pháp luật và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dẫn đến tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, gây rối loạn trong hoạt động kinh doanh.
- Chưa có luật khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ như ở các nước khác. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc, có Luật Cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ (1966), luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ (1978). Nhiều nước khác đều có luật riêng để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Môi trường thị trường: Thị trường là một trong những khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến 2 nguyên nhân: Từ phía doanh nghiệp vừa và nhỏ (chưa thích nghi kịp với thị trường, sản xuất xấu, kém, giá thành cao... nên chưa thâm nhập được thị trường) và từ phía Nhà nước (tạo lập môi trường thị trường).
Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ, còn các thị trường khác chưa hoặc còn manh nha. Ví dụ: Thị trường vốn còn kém hiệu quả, đặc biệt là vốn dài hạn. Tuy nhiên, vào tháng 7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã ra đời và đi vào hoạt động một cách chập chững và nó không phải là thị trường vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, thị trường còn bị độc quyền và đặc quyền nặng nề, làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn... đang khó khăn lớn, về cơ bản vẫn là cơ chế "xin cho" bất lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là ở nông thôn, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa vươn ra được thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Thị trường đầu ra bị chèn ép do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn thị trường tiêu dùng bị hàng hoá nước ngoài chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn về thị trường.
Về thị trường nước ngoài: Do hạn chế về công nghệ, chất lượng sản phẩm thấp, thiếu thị trường và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuất khẩu. Nhiều ngành nghề như thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, chạm khảm... bị đình đốn khi mất thị trường Liên Xô và Đông Âu, hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc quy định mức vốn tối thiểu đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta chủ yếu làm gia công cho các tổ chức trung gian trong và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn.
Như vậy, khó khăn về thị trường do cả 2 phía: Một mặt, do năng lực, trình độ hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chất lượng hàng hoá thấp, trình độ quản lý kém; mặt khác, do môi trường thị trường chưa tốt: sức mua thấp, giá đầu vào cao, thiếu thông tin, bị hàng ngoại chèn ép.
4. Những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Do đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ công nghệ thấp, năng lực quản lý hạn chế nên các doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới đây là một trong số những khó khăn trở ngại đó.
* Về tài chính: Thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính lớn nhất đối với doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng đó vừa mang tính chủ quan (từ phía doanh nghiệp) vừa do các yếu tố khách quan (từ phía môi trường kinh doanh) và có thể là:
- Phần lớn các doanh nghiệp huy động vốn phi chính thức, lãi suất cao, không ổn định.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng (về tài sản thế chấp và phương án kinh doanh).
- Khó xác định giá trị tài sản thế chấp, chuyển nhượng đất (vật thế chấp chủ yếu) còn phức tạp.
- Ngân hàng chưa sẵn sàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vì mức rủi ro cao.
- Chưa có thị trường vốn (đặc biệt là vốn dài hạn) cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hiệu quả sử dụng vốn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp.
- Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như tổ chức bảo lãnh tín dụng.
Thực tế cho thấy, phần vốn huy động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ nguồn phi chính thức chiếm tỷ lệ cao, mức độ rủi ro lớn.
* Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp (chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp lớn). Nguyên nhân là do thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển công nghệ, thiếu thông tin về công nghệ...
* Trình độ lao động và quản lý hạn chế.
* Thiếu thông tin, kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất, sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại đang là những khó khăn trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp.
* Thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước: Đây là một trong những khó khăn bao trùm, vì thiếu sự hỗ trợ cần thiết các doanh nghiệp này sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, nhất là hỗ trợ lập nghiệp, chuyển giao công nghệ, bảo lãnh tín dụng. Hơn nữa, nhiều vấn đề tự thân các doanh nghiệp không thể giải quyết được như cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh nói chung.
* Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng như các hiệp hội nghề nghiệp.
Trên là những khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, để tìm ra nguyên nhân của vấn đề cần đánh giá mức độ khó khăn của các yếu tố khác nhau đối hoạt động của doanh nghiệp. Có nghĩa là cần xem xét những yếu nào ảnh hưởng lớn nhất tới doanh nghiệp. Trên cơ sở đó mà có những giải pháp phù hợp cho việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ta xem xét cách đánh giá sau:
Tiêu chí đánh giá theo thang điểm 1 - 5 (1. Không ảnh hưởng; 5. ảnh hưởng rất nhiều). Điểm bình quân của tất cả các yếu tố được xếp từ cao đến thấp như sau:
* Những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp (điểm từ 3-5)
- Thị trường xuất khẩu hạn chế: 3,5
- Luật lệ thiếu rõ ràng hay thay đổi: 3,4
- Thuế cao: 3,14
- Thiếu thông tin: 3,09
- Nhu cầu trong nước chưa cao: 3,09
- Vay vốn khó khăn: 3,04
Cùng với cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp thực sự vấp phải là thiếu thị trường xuất khẩu (các doanh nghiệp đánh giá mức độ không thuận lợi là 3,5/5). Trong năm 1998 vừa qua, mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong sửa đổi luật pháp, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhưng vấn đề luật lệ thiếu rõ ràng, hay thay đổi dẫn đến không đồng bộ được các doanh nghiệp đánh giá ảnh hưởng không thuận lợi đứng thứ hai. (Điểm 3,4/5)
* Những yếu tố có ảnh hưởng không thuận lợi tương đối lớn, trên mức trung bình (2,5 điểm trở lên).
- Buôn lậu, hàng giả: 2,84
- Chi phí vận tải, điện, thông tin liên lạc: 2,8
- Công nghệ, thiết bị lạc hậu: 2,79
- Năng lực đội ngũ quản lý: 2,68.
* Những nhân tố ảnh hưởng thấp hơn (2,5 điểm trở xuống).
- Lao động chưa đủ tay nghề: 2,46
- Thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh: 2,42.
- Thiếu vật tư, nguyên vật liệu: 2,42
- Lao động dư thừa, chưa sắp xếp được: 1,84
Những yếu tố bên ngoài tác động gây khó khăn được doanh nghiệp đánh giá cao, còn những yếu tố phát sinh từ nội lực doanh nghiệp đều được đánh giá thấp hơn. Đây là vấn đề đòi hỏi Chính phủ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam(VCCI) cùng với các hiệp hội cần có các giải pháp thích hợp hỗ trợ, đồng thời doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ nguyên nhân thực tế, đúng đắn để giải quyết những khó khăn của chính mình.
II. Thực trạng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
ở Việt Nam các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong hệ thống chính sách chung của toàn bộ nền kinh tế, chưa có chính sách riêng đối với các doanh nghiệp này.
Như trên đã nói, các chính sách tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm: Các chính sách kinh tế vĩ mô (tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và các chính sách đặc thù hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chủ trương phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá VIII). Đây là định hướng chiến lược đúng đắn trong điều kiện nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và thích ứng với quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể là:
- Hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đảm bảo và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý theo chiều sâu.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhằm huy động mọi nguồn vốn, tạo nhiều việc làm, góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt tạo ra mối liên kết công nghiệp trong chức năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn và khả năng thích nghi nhanh với những thay đổi của thị trường trong và ngoài nước.
Theo định hướng trên, có thể khái quát về định hướng cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau:
Những chính sách sẽ nghiên cứu này mặc dù có tác động tới toàn bộ nền kinh tế, nhưng góc độ xem xét ở đây chỉ mang tính đặc thù nhằm hỗ trợ phát triển phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay.
1. Chính sách thuế.
1.1. Thuế và các chính sách thuế đang áp dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô rất quan trọng, sắc bén và có hiệu lực Nhà nước đối với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, từ khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường đến nay, Nhà nước đã có nhiều sửa đổi, bổ sung hệ thống thuế tạo nguồn thu cho ngân sách, bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp tăng năng suất, nâng cao hiệu quả kinh tế, bảo đảm cạnh tranh đúng luật của các chủ thể kinh doanh.
Hệ thống thuế chung hiện nay bao gồm: Thuế doanh thu (nay được thay bằng thuế giá trị gia tăng - VAT), thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế môn bài (đăng ký kinh doanh), thuế sử dụng đất...
Hệ thống thuế mới đã có tác dụng lớn đối với việc phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cũng có ưu đãi đối với các doanh nghiệp này. Điều đó được thể hiện:
Thuế giá trị gia tăng (được Nhà nước ban hành và đưa vào áp dụng cho nước ta vào đầu năm 1999, thay thế cho thuế doanh thu khá rườm rà, không chặt chẽ trước đây).
- Miễn thuế đối với hộ sản xuất nhỏ, nghề phụ, kinh tế phụ gia đình, hàng xuất khẩu.
- Giảm thuế cho các cơ sở kinh tế ở miền núi, hải đảo, khai thác thuỷ sản ở vùng xa bờ, các cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, chạy thử dây chuyền công nghệ mới, sản xuất mặt hàng cần thay thế hàng nhập khẩu.
- Giảm thuế 1 - 2 năm cho các cơ sở sản xuất bắt đầu khởi sự (từ năm 1993).
Thuế lợi tức:
- Miễn thuế đối với kinh tế phụ gia đình.
- Miễn thuế cho các cơ sở sản xuất bắt đầu kinh doanh từ năm 1993, những doanh nghiệp di chuyển từ miền xuôi lên miền núi, hải đảo, các cơ sở hoạt động nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học kỹ thuật, sản xuất thử...
- Giảm thuế cho các cơ sở sản xuất trong vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hạ tầng cơ sở yếu kém.
- Giảm thuế cho các cơ sở thuộc ngành cần khuyến khích đầu tư.
- Các cơ sở kinh doanh được hoãn nộp thuế sang năm sau nếu sản xuất bị lỗ do nguyên nhân khách quan.
Thuế tiêu thụ đặc biệt:
- Miễn thuế đối với hàng xuất khẩu.
- Giảm thuế đối với các cơ sở mới thành lập đang mở rộng sản xuất, áp dụng khoa học tiên tiến mà nếu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt thì bị lỗ.
Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn được khuyến khích và hỗ trợ về thuế trong các luật khác, như Luật Khuyến khích đầu tư trong nước: Miễn thuế 1-2 năm đối với các doanh nghiệp mới thành lập ở các vùng núi và hải đảo, giảm thuế từ 1-2 năm cho các doanh nghiệp trong các ngành như chế biến nông sản. Nghị định 66/HĐBT tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ (dưới mức vốn pháp định) đăng ký kinh doanh và giảm nhẹ mức thuế cho các doanh nghiệp này.
Tuy vậy, hệ thống thuế và chính sách thuế còn nhiều hạn chế làm giảm tác dụng của thuế như:
- Các quy định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý: nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên, nuôi dưỡng các nguồn thu. Gần đây, tuy thuế suất có giảm những vẫn còn cao và còn nhiều khoản thu ngoài thuế, nhất là các địa phương.
- Hệ thống thuế suất quá cao, phức tạp, chẳng hạn thuế doanh thu trước đây có rất nhiều mức. Hơn nữa, thuế không ổn định, hay thay đổi, nhất là thuế xuất khẩu. Điều đó vừa gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và thực hiện chính sách thuế của Nhà nước, nó vừa làm hạn chế quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, dẫn tới giảm sức cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế, gây trở ngại cho quốc tế hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế.
- Các quy định về thuế còn rườm rà. Về thuế lợi tức, có 19 loại văn bản liên quan (từ luật tới các văn bản hướng dân thực hiện); về thuế môn bài, có 9 văn bản; thuế xuất nhập khẩu có 24 văn bản... Đó là chưa kể các văn bản hướng dẫn ở địa phương.
- Chưa bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, việc thực hiện các loại thuế chưa thống nhất. Theo Nghị định 29/HĐBT ngày 9-3-1988, các hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc kinh tế gia đình không phải nộp thuế kinh doanh. Quy định này không hợp lý vì vừa gây ra bất bình đẳng giữa kinh tế cá thể với kinh tế gia đình và là kẽ hở cho nhiều người lợi dụng núp dưới danh nghĩa "kinh tế gia đình" để trốn thuế.
- Thuế còn trùng lặp và thuế suất cao đã khích thích các doanh nghiệp trốn thuế, lậu thuế.
- Cơ chế thu thuế chưa khoa học, không chặt chẽ, chưa có sự độc lập giữa người định thuế, người thu thuế và người kiểm tra thuế. Trên thực tế vẫn áp dụng chế độ thuế khoán thu đối với một số lượng rất lớn các doanh nghiệp nhỏ và kinh tế cá thể. Điều đó vừa thiếu chính xác trong khâu định thuế, vừa dễ dẫn đến tiêu cực và thất thoát lớn. Sự bất cập của một số cán bộ thuế đã gây ra tệ ăn hối lộ, tham nhũng lớn.
- Sự phân định nghĩa vụ thuế theo hình thức tổ chức sản xuất (công ty, doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở sản xuất đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT...) với mức thuế suất rất khác nhau, vừa khó quản lý vừa tạo kẽ hở cho nhiều cơ sở trốn thuế (chỉ đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT để hưởng mức thuế thấp).
Hiện nay, rất cần đơn giản hệ thống thuế ở Việt Nam vì nó quá phức tạp và thiếu minh bạch. Có thể so sánh thuế của nước ta so với các nước trong khu vực như bảng sau:
Bảng 16: So sánh thuế suất của Việt Nam với các nước ASEAN khác.
Nước
Thuế thu nhập cá nhân
(% trong thu nhập ròng cá nhân)
Thuế thu nhập công ty
(% lợi nhuận ròng)
Xingapore
2 - 28
26
Malaysia
2 - 30
30
Indonesia
10 - 15 - 30
10 - 15 - 30
Philippin
1 - 35
35
Thái Lan
5 - 37
30
Việt Nam
0-50 đối với người nước ngoài
0-60 đối với người Việt Nam
15 - 20 - 25 - 32
Mặc dù các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã được hỗ trợ về thuế từ Nhà nước, tuy nhiên hiệu quả vẫn thấp. Theo số liệu phân tích hoạt động năm 1995 - 1997 của 5.429 doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tới 60% doanh nghiệp chưa hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn ngân hàng giảm dần qua các năm. Tại TP. Hồ Chí Minh năm 1995, tỷ suất lợi nhuận trên vốn là 19% thì năm 1995 chỉ còn 7,29%, (xem thêm bảng).
Bảng 17: Bảng tỷ suất lợi nhuận trên vốn ngân hàng của các doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
1995
19
1996
18
1997
15
1998
7,93
1999
9,29
Nguồn: kết quả điều tra tại TP. Hồ Chí Minh 1999
1.2. Xu hướng cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam.
Xu hướng này là chung cho toàn bộ đối tượng trong nền kinh tế trong đó sẽ tác động tích cực tới sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Có nhiều loại thuế và Nhà nước quản lý thuế theo nhiều nội dung (đối tượng của thuế, người nộp thuế, giá tính thuế, đơn vị tính thuế, xử phạt, khen thưởng, miễn giảm thuế...). Vì vậy, không có chuẩn mực cụ thể nào đối với cải cách hệ thống thuế nói chung. Dưới đây chỉ đưa ra một số vấn đề mang tính lý luận soi sáng con đường cải cách hệ thống thuế hiện nay ở nước ta. Có thể nói thuế là con dao hai lưỡi:
- Nếu thu thuế nhiều về ngân sách nhà nước ị doanh nghiệp khó tái đầu tư ị sản xuất kém phát triển ị không có doanh thu để nộp thuế ị ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước ở chu kỳ sau.
- Nếu thu ít thuế ị ngân sách nhà nước bị thất thu, trước mắt ảnh hưởng lớn tới kế hoạch chỉ tiêu công cộng nhưng lại khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ị sản xuất phát triển ở nhiều doanh nghiệp ị mở rộng diện thu trong chu kỳ tới.
Như vậy, thuế không những là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước mà còn là một trong những công cụ kinh tế quan trọng và có hiệu lực để Nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần đổi mới chính sách thuế như thế nào để vừa bồi dưỡng nguồn thu lâu dài, vừa tính nhu cầu chỉ tiêu cấp thiết của Chính phủ. Xu hướng chung là tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm thuế gián thu (ở Việt Nam hiện nay thuế trực thu chỉ chiếm dưới 20%).
Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ cần đổi mới chính sách thuế theo hướng( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1996, tr 102
):
- Đơn giản, ổn định, công bằng.
- Khuyến khích làm ăn hợp pháp.
- Bảo đảm tỷ lệ động viên hợp lý vào ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn vào đầu tư phát triển.
- Thực hiện chính sách ưu đãi hơn nữa về thuế đối với đầu tư phát triển và đối với những vùng đặc biệt khó khăn.
- Chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình Việt Nam gia nhập AFTA và WTO.
* Theo ý kiến của một số chuyên gia tài chính, muốn huy động vốn từ thuế của Việt Nam từ 19 - 20% GDP là được.
2. Chính sách tín dụng.
Thực chất của chính sách này là việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay do hạn hẹp về vốn tự có, không tiếp cận được với vốn ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải huy động vốn phi chính thức, lãi suất cao, nhiều rủi ro. Đây chính là tình trạng chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh: đầu tư trang bị công nghệ mới, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, mở rộng quy mô doanh nghiệp... Do vậy, thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn. Các biện pháp đó là:
- Mở rộng đối tượng cho vay. Trước đây chỉ cho vay trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Từ năm 1988, Ngân hàng nhà nước đã ban hành thể lệ tín dụng đối với kinh tế tư nhân, cá thể, nên các cơ sở kinh tế này mới chính thức được vay ngân hàng. Đến nay, ngân hàng đã cho tất cả các thành phần kinh tế vay vốn.
- Cải cách hệ thống ngân hàng, mở rộng và phát triển hệ thống thu hút và cung ứng vốn của các ngân hàng thương mại.
- áp dụng các hình thức tín dụng của các tổ chức tài chính: công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng...
- Cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, cổ phiếu.
- Xúc tiến hình thành thị trường vốn trung, dài hạn, thị trường chứng khoán.
Nhờ vậy, hệ thống cung ứng vốn, điều kiện huy động vốn đã có nhiều cải thiện đáng kể. Đến nay, ở Việt Nam có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh với 90 chi nhánh, 132 phòng đại diện, có 9 ngân hàng liên doanh, 50 ngân hàng cổ phần, 10 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 30 đại diện ngân hàng nước ngoài, 300 quỹ tín dụng ở 36 tỉnh thành. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau cả trong nước và ngoài nước.
Kết quả là, tỷ trọng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số tín dụng ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Năm 1990, tỷ trọng tín dụng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số vốn cho vay của ngân hàng chỉ chiếm 5%, năm 1991 chiếm 7%, năm 1992 là 15%, thì đến năm 1994 lên tới 36% và năm 1995 là 50%.
Đứng trước mục tiêu của chính sách này là cần thiết phải hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đưa những doanh nghiệp thoát ra khỏi những khó khăn vướng mắc hiện nay, nhằm tạo đà cho sự phát triển kinh tế đất nước và một số giải pháp hỗ trợ mà Nhà nước ta đã đưa ra để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua là:
- Cho vay với lãi suất thấp đối với sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp miền núi (Luật khuyến khích đầu tư trong nước).
- Hỗ trợ tín dụng đối với các khu vực nghèo, gặp khó khăn.
- Thành lập các quỹ cho vay theo các chương trình hỗ trợ.
- Thành lập một số hình thức hỗ trợ như quỹ bảo lãnh tín dụng ở một số địa phương.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Nhiều nơi chỉ có khoảng 60% số doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với tín dụng ngân hàng (có nơi chỉ 30-35%), vốn vay ngân hàng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn. Phần vốn còn lại được trang trải bằng vốn tự có và các hình thức huy động vốn phi chính thức như vay bạn bè, nhân thân, mua bán chịu... Nguồn vốn này có ưu điểm là đáp ứng linh hoạt, kịp thời cho hoạt động kinh doanh, thủ tục đơn giản nhưng khối lượng vốn vay được còn quá ít, lai không ổn định và dễ gây đổ vỡ.
Tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam khó vay vốn như hiện nay có nhiều nguyên nhân: một mặt do phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặt khác là do từ phía Nhà nước.
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: Chủ yếu là do năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém, khả năng hoàn trả và bảo toàn vốn thấp, nên các ngân hàng và các tổ chức tài chính không muốn cho vay. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ít quan hệ với ngân hàng nên khó tiếp cận với vốn ngân hàng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật làm mất uy tín chung.
Nguyên nhân từ phía môi trường: Đây là nguyên nhân rất quan trọng, bao gồm:
- Kinh tế vĩ mô chưa ổn định: tỷ lệ lạm phát cao nên lượng tiền gửi và cho vay trung - dài hạn chiếm tỷ trọng thấp, tỷ lệ tiết kiệm thấp (khoảng 15% GDP) là những cản trở lớn đối với việc huy động vốn.
- Quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn yếu: chính sách kinh tế vĩ mô thiếu nhất quán và nhiều chính sách chưa sát thực tế. Còn nhiều trở ngại trong chính sách tài chính, tiền tệ: Nhà nước định trần mức lãi suất một cách cứng nhắc làm hạn chế tín dụng dài hạn; các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao dẫn đến lượng vốn cho vay bị hạn chế; thiếu chính sách cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng... Do vậy mà dẫn đến lãi suất cho vay cao.
- Hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém; nguồn vốn cho vay của ngân hàng còn nhiều hạn chế và không ổn định do nguồn huy động chủ yếu là khoản tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn 3- 6 tháng của nhân dân và các doanh nghiệp (chiếm 75% tổng doanh số của các ngân hàng), do đó chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu đầu tư vốn trung và dài hạn; mạng lưới của các tổ chức ngân hàng còn yếu kém, số cơ sở kinh doanh ngân hàng tính bình quân trên đầu người thấp.
- Chưa có thị trường vốn trung và dài hạn: hiện nay các định chế tài chính quan trọng để huy động vốn trung và dài hạn như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, các công ty tài chính... còn yếu kém hoặc chưa có.
Để khắc phục được tình trạng hạn hẹp về vốn tự có, không tiếp cận được với vốn ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn phải huy động vốn từ nguồn phi chính thức, lãi suất cao... Nhà nước cần có quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một tỷ lệ vốn vay tương ứng với sự đóng góp của nó trong GDP; đánh giá tài sản thế chấp theo giá thị trường. Để giảm bớt rủi ro, một mặt sớm hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng, đây là việc làm bức xúc thiết thực đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành trên cơ sở đóng góp của các tổ chức nhà nước, các tổ chức quốc tế, các công ty tài chính, chiết khấu từ người vay (lệ phí bảo hành). Để giảm chi phí và rủi ro cho ngân hàng thương mại, có thể cho vay thông qua nhóm làng nghề, cụm công nghiệp; đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho doanh nghiệp lớn, cần có sự bảo lãnh của các doanh nghiệp lớn. Hình thành quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm hỗ trợ của ngân sách, các tổ chức quốc tế, đóng góp của các doanh nghiệp lớn... Có chính sách lãi suất ưu đãi nhưng phải kết hợp với việc thẩm định dự án đầu tư (vì cho vay lãi suất thấp để có thêm lợi nhuận tái đầu tư chứ không phải đầu tư vào những dự án kém hiệu quả). Điểm cần lưu ý trong kinh tế thị trường, bên cạnh vốn tiền tệ, mỗi doanh nghiệp cần tạo dựng cho mình nguồn vốn trí tuệ (công nhân có tay nghề cao, chủ doanh nghiệp có kỹ năng quản lý, điều hành), đây là loại vốn vô hình và có sức mạnh vô biên.
Để đánh giá sự tác động của chính sách tín dụng đối với sự huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ta có thể dưạ trên số liệu đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu JICA, 1999)
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, thì vốn kinh doanh chủ yếu huy động từ nguồn phi chính thức. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này có thể huy động từ nguồn chính thức thông qua chính sách tín dụng của Nhà nước ngày càng hợp lý và kế hoạch. Theo số liệu của Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thì hệ thống tài chính chính thức chỉ đáp ứng được 25,6% nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mặc dù cơ cấu tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc có xu hướng ngày càng tăng với 10,3% (năm 1990) tăng lên 50% (năm 1995) được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 18: Tín dụng ngân hàng theo thành phần kinh tế.
Đơn vị: %
Năm
Đối tượng
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Khu vực quốc doanh
Ngoài quốc doanh
89,7
10,3
90
10
81,8
18,2
66,9
33,1
62,9
37,1
50
50
Cộng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Báo của kết quả nghiên cứu VNCKTTW & UNIDO, 1997
Riêng năm 1998 ngành ngân hàng dành tới 35% tổng dư nợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, song tỷ lệ này càng khiêm tốn và chủ yếu là tín dụng ngắn hạn. (Xem bảng)
Bảng 19: Nguồn vốn vay theo loại hình doanh nghiệp tính đến 1/1998
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Các NH quốc doanh
Các NH quốc doanh
Chung cho các NH
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
* Tổng vốn vay
48.041
100
14.159
100
62.200
100
- DNNN
26.382
54,9
4.597
32,5
30.979
49,8
- Liên doanh
206
0,4
48
8,3
254
0,4
- CTCP, TNHH
7043
14,7
3.196
22,6
10.239
16,5
- HTX
323
0,7
3770
26,6
10.239
16,5
- Cá nhân và nhóm kinh doanh
14.086
29,3
2558
18,1
16.644
26,8
* Tổng vốn vay trung và dài hạn
17.965
100
3.478
100
21.443
100
- DNNN
12.697
70,7
1.489
42,8
14.186
66,2
- Liên doanh
56
0,3
1
0,0
57
0,3
- CTCP, TNHH
649
3,6
522
15,0
1.171
5,5
- HTX
184
1,0
1.210
34,8
1.394
6,6
- Cá nhân và nhóm kinh doanh
4.379
24,4
256
7,4
4.635
21,6
Nguồn: Theo khảo sát của nhóm JICA, 1999.
Qua số liệu bảng trên cho ta thấy tỷ lệ doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn trung và dài hạn của các ngân hàng quốc doanh là rất nhỏ, còn để vay được ngân hàng ngoài quốc doanh lại nhỏ hơn. Như vậy, có thể các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn trung và dài hạn.
Để xem xét rõ sự tác động của chính sách này ta có thể xem thêm bảng sau:
Bảng 20: Tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại
1996
1997
1998
Cân đối khoản vay (tỷ đồng)
%
Cân đối khoản vay (tỷ đồng)
%
Cân đối khoản vay (tỷ đồng)
%
Tổng vốn cho vay
50.751
100
62.200
100
72.595
100
- NHQD
38.320
75,5
48.041
77,2
59.085
81,4
- NHNQD
12.431
24,5
14.159
22,8
13.510
18,6
Trung hạn & dài hạn
16.321
100
21.443
100
29.639
100
- NHQD
13.405
82,1
17.965
83,8
25.858
87,2
- NHNQD
2.916
17,9
3.478
16,2
3.781
12,8
Ngắn hạn
34.430
100
40.757
100
42.956
100
- NHQD
24.915
72,4
30.076
73,8
32.227
77,4
- NHNQD
9.515
27,6
10.681
26,2
9.729
22,6
Nguồn: Theo nhóm khảo sát nghiên cứu JICA, 1999
Ta thấy, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp, tuy về tỷ trọng của ngân hàng ngoài quốc doanh có xu hướng giảm trong tổng nguồn vốn vay, nhưng khoản cân đối cho vay giữa ngân hàng quốc doanh lại tăng lên. Như vậy, quy mô của nguồn vốn chính thức ngày càng được mở rộng.
Để xét thêm mức độ tác động của chính sách tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ta có thể dựa trên kết quả điều tra tại vùng đồng bằng sông Hồng.
Kết quả điều tra cho thấy, ý kiến đánh giá về lãi suất tiền vay, điều kiện và thủ tục vay vốn, mức độ an toàn vốn như sau:
Về lãi suất tiền vay: 68,9% số ý kiến cho rằng lãi suất cao, 26,4% số ý kiến cho là bình thường 23% số ý kiến coi lãi suất là thấp, 2,3 không có ý kiến.
Về điều kiện, thủ tục vay: 71,3% số ý kiến cho là phức tạp, 2,3% cho là đơn giản; 25,3% cho là bình thường, 11% không trả lời.
Về mức độ an toàn vốn: 46% số ý kiến cho là không an toàn, 33,3% cho là bình thường. 14% cho là an toàn và 6,7% không trả lời ( Kết quả điều tra về tác động của chính sách đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các tỉnh phía Bắc.
).
Như vậy, kết quả điều tra cho thấy, lãi suất được đánh giá là cao, điều kiện và thủ tục vay vốn phức tạp, mức độ an toàn vốn thấp.
3. Chính sách khuyến khích đầu tư.
Nhằm tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, Quốc hội đã ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài (1988) và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1995) tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy hoạt động đầu tư. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đã quy định rõ:
- Các lĩnh vực, vùng thuộc diện ưu tiên cho các nhà đầu tư.
- Điều kiện để được hưởng các ưu đãi như có dự án mới hoặc mở rộng đầu tư sản xuất ở các vùng sâu, vùng xa, hoặc thuộc các ngành nghề cần ưu tiên.
- Những đối tượng xã hội có thể được hưởng ưu đãi thông qua các chương trình của Nhà nước; giải quyết việc làm, hoà nhập cộng đồng, xoá đói giảm nghèo.
Những đổi mới trong chính sách đầu tư bước đầu đã có tác động tích cực tới sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tỷ lệ đầu tư tăng từ 18,7% GDP năm 1990 lên 27,1% GDP năm 1995. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước tăng từ 7,6% năm 1990 lên 17,1% năm 1995. (xem bảng dưới)
Bảng 21: Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế nước ta (%GDP)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Tiết kiệm
7,4
13,2
16,3
17,4
16,9
17,1
Đầu tư
11,7
15,1
17
24,9
25,5
27,1
Nguồn: Ngân hàng thế giới, tháng 10 - 1996
Tuy vậy, so với các nước trong khu vực tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Việt Nam còn thấp, do đó rất khó khăn để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong một thời gian dài nếu không cải thiện được tỷ lệ tiết kiệm nội địa.
Những nội dung của Luật khuyến khích đầu tư trong nước chưa được triển khai thực hiện đầy đủ và kịp thời. Điều đó chưa được triển khai thực hiện đầy đủ và kịp thời. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện và các hướng dẫn đó chưa đồng bộ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT114.docx