Tài liệu Đề tài Chiến lược kinh doanh gốm sứ tại thị trường Nga: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT
BỘ MÔN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Đề tài:
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
GỐM SỨ TẠI THỊ TRƯỜNG NGA
Môn: Kinh doanh quốc tế
Lớp: K07402A
Nhóm SV thực hiện: Nhóm 6
1. Nguyễn Thị Hà Phương K074020217
2. Nguyễn Đoàn Phước Duy K074020164
3. Nguyễn Tri Hiếu K074020178
4. Trần Hiếu Hưng K074020179
5. Nguyễn Văn Qui Nhơn K074020213
6. Đặng Thị Kiều My K074020207
7. Nguyễn Hữu Tài K074020233
A. MỞ ĐẦU
I. Giới thiệu thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm.
- Doanh nghiệp: Công ty Trách nhiệm hữu hạn xuất khẩu Gốm sứ Mỹ nghệ THOBI.
- Thời gian thành lập: 11/2007.
- Số vốn điều lệ: 5 tỷ VND.
- Lĩnh vực hoạt động: Xuất khẩu hàng hóa.
- Mặt hàng chính: Gốm sứ mỹ nghệ.
- Thị trường đã có: Indonessia, Malaysia, Thái Lan, Canada.
- Thị trường dự tính thâm nhập và mở rộng: Nga.
Công ty TNHH xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ THOBI được thành lập cách đây 2 năm,
với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ VND. Công ty hoạt động trong...
18 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chiến lược kinh doanh gốm sứ tại thị trường Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT
BỘ MÔN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Đề tài:
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
GỐM SỨ TẠI THỊ TRƯỜNG NGA
Môn: Kinh doanh quốc tế
Lớp: K07402A
Nhóm SV thực hiện: Nhóm 6
1. Nguyễn Thị Hà Phương K074020217
2. Nguyễn Đoàn Phước Duy K074020164
3. Nguyễn Tri Hiếu K074020178
4. Trần Hiếu Hưng K074020179
5. Nguyễn Văn Qui Nhơn K074020213
6. Đặng Thị Kiều My K074020207
7. Nguyễn Hữu Tài K074020233
A. MỞ ĐẦU
I. Giới thiệu thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm.
- Doanh nghiệp: Công ty Trách nhiệm hữu hạn xuất khẩu Gốm sứ Mỹ nghệ THOBI.
- Thời gian thành lập: 11/2007.
- Số vốn điều lệ: 5 tỷ VND.
- Lĩnh vực hoạt động: Xuất khẩu hàng hóa.
- Mặt hàng chính: Gốm sứ mỹ nghệ.
- Thị trường đã có: Indonessia, Malaysia, Thái Lan, Canada.
- Thị trường dự tính thâm nhập và mở rộng: Nga.
Công ty TNHH xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ THOBI được thành lập cách đây 2 năm,
với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ VND. Công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hàng
hóa, mặt hàng chính yếu là gốm sứ mỹ nghệ. Công ty chúng tôi là một công ty chuyên
thu mua mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ trên khắp cả nước như gốm Bát Tràng, Minh Long,
Chu Đậu… để xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của khách hàng nước ngoài. Nói cách
khác, công ty chúng tôi là một công ty trung gian, vận chuyển hàng gốm sứ từ các doanh
nghiệp sản xuất trong nước đến tay người tiêu dùng ở nước ngoài. Thị trường đầu tiên
của chúng tôi là thị trường Indonesia và Malaysia, sau một thời gian chúng tôi đã mở
rộng thị trường sang Thái Lan, và gần đây nhất là Canada. Nhờ khảo sát thị trường và
nắm bắt được nhu cầu của thị trường chúng tôi đã thu được những thành công đáng kể.
Với thị trường Indonesia và Malaysia, mặt hàng xuất khấu chủ yếu là mặt hàng gốm sứ
trang trí như lọ hoa, các sản phẩm lưu niệm và trang trí nội thất tại các khu du kịch, reort,
nhà hàng… Với thị trường Thái Lan chúng tôi chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng như thị
trường Indonesia, Malaysia nhưng do nhu cầu thị trường, chúng tôi đã xuất khẩu sang
Thái các mặt hàng gốm trang trí mỹ nghệ cao cấp hơn như: chậu hoa trang trí, đĩa sứ
tráng men, thú gốm. Từ sự thành công trên thị trường Indonesia, Malaysia và Thái Lan,
chúng tôi đã tìm được đối tác và xuất khẩu các mặt hàng cao cấp sang thị trường Canada.
Chính vì thành công đó, chúng tôi đã quyết định tập trung chủ yếu vào các thị trường
cao cấp với các mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ trang trí cao cấp để thâm nhập thị trường. Các
mặt hàng chủ yếu của chúng tôi hiện nay tập trung xuất khẩu là: dĩa sứ tráng men cao
cấp, chậu sứ trang trí tráng men, lọ sứ trang trí tráng men, và các mặt hàng lưu niệm tráng
men (như tượng, các thắng cảnh Việt Nam…), tranh gốm cao cấp…. Đây là những mặt
hàng cao cấp cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn và những người tiêu dùng có khả
năng thu nhập cao và chấp nhận chi trả để có những mặt hàng trang trí. Nhưng sản phẩm
này đều có mục đích chính là trang trí cho không gian do đó có những đặc tính bền và
khó phai màu trước mưa nắng và thời gian. Đây là mặt hàng gốm sứ nên rất dễ vỡ nếu bị
va chạm mạnh; nhưng chúng tôi đã cố đặt tại các doanh nghiệp sản xuất các đặc tính để
tăng thêm độ bền và bóng cho sản phẩm.
Hiện nay, chúng tôi mở rộng thị trường và tìm kiếm cơ hội trên một thị trường mới và
đầy tiềm năng của Việt Nam là thị trường Liên bang Nga. Nga là một đất nước không xa
lạ với Việt Nam, nhưng thị trường Nga lại là một thị trường mới với hầu hết tất cả các
mặt hàng xuất khẩu của Nga và là thị trường với tiềm năng rất lớn. Đặc biệt, đối với mặt
hàng gốm sứ mỹ nghệ, thị trường Nga có tiềm năng rất lớn. Bởi vì thị trường Nga đang
dần phát triển sau một thời gian dài trì trệ. Do đó, thị trường mở cửa, thu hút nhiều nhà
đầu tư cũng như thu hút du lịch, kéo theo dịch vụ khách sạn phát triển. Khách sạn cao cấp
chính là các đối tác chính mà chúng tôi nhắm đến. Đồng thời, đời sống của nhân dân Nga
đang phát triển, xu hướng hưởng thụ và sẵn sàng chi trả cho các mặt hàng trang trí. Đây
cũng là điều kiện thuận lợi để mặt hàng gốm cao cấp của chúng tôi thâm nhập thị trường.
II. Giới thiệu khái quát về thị trường Liên Bang Nga.
1. Khái quát về Liên Bang Nga và thị trường Nga.
Nga là đất nước có diện tích lớn nhất thế giới với lãnh thổ nằm ở hai châu lục Á - Âu.
Tuy phần diện tích ở Châu Á chiếm đa số nhưng có địa hình phức tạp và khắc nghiệt hơn
rất nhiều so với phần lãnh thổ Châu Âu. Chính vì thế, phần lớn dân số cũng như các hoạt
động kinh tế chính đều nằm ở Châu Âu.
Nga có đường bờ biển dài trên 37.000 km dọc theo Bắc Băng Dương và Thái Bình
Dương, Nga có trữ lượng khoáng sản và năng lượng lớn nhất thế giới, và được coi là một
siêu cường năng lượng. Nước này có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới và các hồ của Nga
chứa xấp xỉ một phần tư lượng nước ngọt không đóng băng của thế giới.
Nga có dân số đông thứ chín thế giới với 142 triệu người với hơn 160 sắc tộc khác
nhau cùng sinh sống. Theo hiến pháp, được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý ngày
12 tháng 12 năm 1993 sau cuộckhủng hoảng hiến pháp Nga 1993, Nga là một liên bang
và theo chính thể là một nền cộng hòa Liên Bang, theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc
gia và Thủ Tướng là lãnh đạo chính phủ. Liên bang Nga được cơ cấu theo nền tảng một
chế độ dân chủ đại diện. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp thuộc lưỡng
viện Quốc hội Liên bang.
Là một trong thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Nga đóng
một vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nga là một thành
viên của G8 các nước công nghiệp, Hội đồng Châu Âu, OSCE và APEC. Ở thời điểm
năm 2009, nước này có quan hệ ngoại giao với 173 quốc gia và có 142 đại sứ quán.
Sau cuộc khủng hoảng thời hậu Xô Viết, kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát
triển nhanh, GDP tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn 1999 - 2004 trên
cơ sở của giá dầu mỏ cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là cực kỳ không đều: khu vực thủ đô Moskva
cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.
Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm 2000
- 2001 để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các
nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thời kỳ chuyển đổi.
Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ,
các mặt hàng này chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu. Trong những năm gần đây, nền
kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là
lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn
mạnh dần lên của thị trường nội địa.
Năm 2004, GDP của Nga đạt 1.200 tỷ € (1.500 tỷ USD), làm cho Nga trở thành nền
kinh tế lớn thứ 11 trên thế giới và thứ 5 ở châu Âu. Nếu mức tăng trưởng hiện tại là ổn
định, dự kiến Nga sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ hai ở châu Âu sau Đức (1.900 tỷ € hay
2.300 tỷ USD) và là thứ 8 trên thế giới trong vài năm tới.
Euromonitor International cho biết năm 2008 Nga là thị trường tiêu dùng lớn thứ 11
thế giới và chỉ đến năm 2020 có thể vượt lên xếp vị trí thứ 5. Theo các số liệu thống kê
của Euromonitor, trong hai năm 2007 và 2008 chi tiêu của người tiêu dùng Nga tăng
10,9%; trung bình thu nhập sau thuế trên đầu người tăng 80% từ năm 2003 đến năm 2008
và đạt 6.522 đô la Mỹ vào năm 2008; mức lương chưa khấu trừ hàng tháng tăng 30% từ
giữa quý II năm 2007 đến quý II năm 2008. Tạp chí TIME cũng dự báo tăng trưởng kinh
tế của Nga trong 5 năm tới ở mức 15%. Dự báo thu nhập của người tiêu dùng Nga năm
2009 có thể tăng gấp 3,6 lần sẽ khiến Nga trở thành thị trường lớn có giá cả hấp dẫn nhất
trên thế giới". Nhưng với người dân Nga, sau nhiều năm luôn tự tin vào cách tiêu tiền của
mình, thì đến cuối năm 2008 viễn cảnh tiêu dùng tại thị trường này đang dần có xu hướng
giảm dần.
Tầng lớp trung lưu: tiết kiệm và tiêu dùng thông minh.
Tình hình thu nhập nói chung tăng là yếu tố khiến tầng lớp trung lưu tại Nga mở rộng
hơn và 47,4% hộ gia đình thuộc tầng lớp này đã có mức thu nhập sau thuế từ 10.000$ đến
25.000$ năm 2008.
Những hộ gia đình này hoàn toàn có khả năng duy trì mức chi tiêu cao và thẻ tín dụng
là phương thức thanh toán được ưa dùng nhất. Hiện tại, tầng lớp trung lưu ở Nga bắt đầu
nhận ra rằng: cuộc sống xa hoa với những kỳ nghỉ nước ngoài và đồ gỗ đắt tiền mua từ
IKEA trong 8 năm qua đang dần tan biến. Viện Lewada của Nga vừa làm một cuộc
nghiên cứu và kết luận rằng: 1/6 hộ gia đình trên cả nước đang phải xoay xở với số tiền ít
ỏi, 1/3 hộ gia đình tin rằng họ sẽ phải "thắt lưng buộc bụng" trong những năm tới.
2. Quan hệ kinh tế Việt – Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã (tháng 12/1991), quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi giữa
Việt Nam và Liên bang Nga tiếp tục được coi trọng và phát triển. Quan hệ hai nước dần
phục hồi và ngày càng phát triển mạnh mẽ, toàn diện. .
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế ở LB Nga, quan hệ
kinh tế, thương mại giữa hai nước không ngừng phát triển. Đặc biệt từ năm 1994, kim
ngạch buôn bán hai chiều Việt Nam-Liên bang Nga đạt khoảng 500 triệu USD, năm 2002
đạt 700 triệu USD, năm 2003 đạt 651,3 triệu USD và năm 2004 xấp xỉ 700 triệu USD.
Năm 2008, kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và Liên bang Nga đạt 1,641 tỷ
USD.
Liên bang Nga đã trở thành đối tác chiến lược và là thị trường truyền thống của Việt
Nam. Những mặt hàng mà Nga xuất khẩu sang Việt Nam đều là những mặt hàng thiết
yếu cho nhu cầu sản xuất của Việt Nam như sản phẩm dầu mỏ, sắt thép, phân bón, giấy…
Việt Nam xuất khẩu sang Nga chủ yếu là sản phẩm nhiệt đới mà Nga không có. Chính
vì vậy, trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Nga và Việt Nam không chứa đựng nội
hàm cạnh tranh mà còn bổ sung cho nhau.
Hoạt động xúc tiến thương mại cần tập trung và hướng vào những loại hàng hóa này
với qui mô và mức độ khác nhau. Ngoài ra, ta cũng có nhiều cơ hội để đưa vào thị trường
này mặt hàng đồ gốm, thiết bị vệ sinh, đồ nhựa gia dụng, thuốc đông nam dược… mà
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao.
3. Văn hóa kinh doanh của người Nga.
3.1. Văn hóa Nga – những khái niệm và giá trị cơ bản
- Chủ nghĩa tập thể (Collectivism): Qua quá trình lịch sử hào hùng, Nga vẫn duy trì
tinh thần cộng đồng mạnh mẽ và điều này ngày nay vẫn còn được duy trì trong thực tiễn
kinh doanh. Điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở Nga đã tạo cho người Nga có tinh thần hợp
tác, phối hợp để tồn tại hơn là cạnh tranh lẫn nhau. Tính cộng tác, tính tập thể này là một
đặc tính làm nên sự khác biệt giữa người Nga với nhiều người phương Tây khác.
- Chủ nghĩa quân bình (Egalitarianism): Một khái niệm quan trọng liên quan đến môi
trường làng xã đó là “chủ nghĩ quân bình” – đây là một triết lý xã hội ủng hộ việc xóa bỏ
sự bất bình đẳng và khuyến khích phân phối đều lợi nhuận. Đặc tính này trong hoạt động
kinh doanh được thể hiện thông qua chiến lược kinh doanh bình đẳng, thỏa hiệp và đôi
bên cùng có lợi. Người Nga rất ý thức và tin vào sự ngang bằng, mỗi thương vụ thường
xuất phát từ quan điểm hai bên cùng có lợi và cùng chia sẻ lợi ích ngang nhau.
- Dusha: từ nổi tiếng và thiêng liêng trong tiếng Nga là “dusha” nghĩa là “tâm hồn” là
từ trung tâm trong hành vi hàng ngày của người Nga và khi xây dựng mối quan hệ kinh
doanh thành công với người Nga, bạn sẽ nhận thấy tình cảm chung tốt đẹp sẽ được hình
thành.
3.2. Thực tiễn làm việc ở Nga:
Về giờ giấc làm việc, đối với người Nga, bản thân họ chậm vài phút không quan trọng
nhưng người Nga luôn mong muốn đối tác của mình đúng giờ.
Về cách thức làm việc, fax và email là phương tiện giao tiếp tốt nhất được ưa chuộng,
vì văn thư bưu điện có thể thất lạc. Theo tập quán, trước khi đến Nga, bạn cần thông báo
với công ty phía Nga về những đề xuất và mục tiên kinh doanh dự kiến của bạn. Trong
mọi giao dịch công việc, giấy bút, văn bản là phần tối quan trọng, nhìn chung, người Nga
thường ít tin vào những văn bản không có chữ ký.
Cấu trúc và hệ thống cấp bậc trong các công ty Nga: Theo cấu trúc cấp bậc trong thực
tiễn kinh doanh ở Nga, cấp trên có quyền quyết định đối với cấp dưới. Tuy nhiên, do văn
hóa chủ nghĩa tập thể, người Nga thường khuyến khích tinh thần làm việc dân chủ và linh
hoạt. Việc thể hiện tôn trọng cấp trên và ý thức rõ cấp bậc rất quan trọng trong việc xây
dựng và duy trì quan hệ kinh doanh ở Nga.
Quan hệ công việc ở Nga: Quan hệ cá nhân và quan hệ thân mật là phần trung tâm
trong hoạt động kinh doanh ở Nga. Sự tiếp xúc tại các buổi gặp mặt trao đổi công việc
như đơn giản là xiết chặt tay hay thậm chí cái ôm là biểu hiện tích cực. Trong trường hợp
có bất đồng, nên tránh cách xử lý bằng đường chính thống, cần lưu ý, người Nga rất
“hướng về con người” và sẽ hưởng ứng với cách tiếp cận cá nhân.
Thực hiện kinh doanh tại Nga Thực tiễn kinh doanh ở Nga: Danh thiếp rất quan trọng.
Nếu có thể, bạn nên in danh thiếp một mặt bằng tiếng Nga và một mặt bằng tiếng Anh.
Khi diễn thuyết bạn cần trình bày rõ ràng đi thẳng vào vấn đề và logic. Mặc dù nhiều vấn
đề mang tính nguyên tắc được thảo luận trong môi trường thân thiện tại những địa điểm
không chính thức nhưng thương lượng, quyết định cuối cùng được thực hiện tại văn
phòng. Một lưu ý khác, khi bắt đầu buổi gặp mặt, người đứng đầu công ty thường mở đầu
cuộc thảo luận và giới thiệu các thành viên theo thứ tự cấp bậc từ trên xuống dưới.
Một số phép xã giao ở Nga: Nên bắt tay chặt khi chào gặp mặt và tạm biệt người Nga
đồng thời nhìn thẳng vào mắt đối tác. Nên chia sẻ vài câu chuyện thân mật trước khi đi
vào công việc, thường là nói về gia đình và các vấn đề cá nhân. Nên chuẩn bị một món
quà để thể hiện sự phát triển của công ty bạn và tầm quan trọng của thương vụ sắp tới,
thường là vật phẩm mang đặc trưng của vùng/đất nước bạn hoặc vật phẩm có logo của
công ty bạn
Đừng ngại thể hiện một số cảm xúc, tình cảm. Người Nga có câu ngạn ngữ “ đừng vội
trả lời” mà “hãy vội lắng nghe” Đừng tán dương hay khen thưởng cá nhân nào công khai
trước đông người vì điều này có thể làm người khác nghi ngờ hoặc tạo ra sự đố kỵ. Bạn
cần lưu ý là ở Nga, chủ nghĩa tập thể chi phối các cá nhân.
4. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam tại Nga.
Thị trường Liên bang Nga với 142 triệu dân, GDP bình quân đầu người 9.075 USD,
mức tăng trưởng kinh tế năm 2007 là 8,1%. Hàng năm có 43% tổng nhu cầu đồ gỗ nội
thất, thủ công mỹ nghệ của Liên bang Nga phải nhập khẩu do tốc độ đô thị hoá cao. Đây
chính là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất khẩu đồ thủ công mỹ
nghệ (TCMN) của ViệtNam.
Xu hướng tiêu dùng của người Nga là không tiếc tiền cho việc làm đẹp nhà cửa và
chuộng sản phẩm chất lượng cao, kiểu dáng đẹp phù hợp với không gian và phong cách
Nga. Những người có tuổi đời từ 36-40 thích đồ gỗ theo phong cách hiện đại và những
người có độ tuổi từ 45-62 thì lại thích phong cách cổ điển.
Phần lớn người Nga làm việc trong các thành phố, tầng lớp trung lưu ngày một nhiều
và đa số có nhà ở ngoại ô. Đây là đối tượng mua sắm đồ thủ công mỹ nghệ nhiều nhất.
Doanh nghiệp sản xuất hàng có phong cách cổ điển và chất lượng cao sẽ có ưu thế khi
thâm nhập vào thị trường này. Yêu cầu chung của thị trường cũng không quá khắt khe
như Nhật Bản hay một số nước Âu-Mỹ bao gồm yêu cầu cơ bản như tuân thủ pháp luật
có liên quan, nhãn hiệu, những yêu tố ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, sức khoẻ
người tiêu dùng, an toàn đều phải tôn trọng; yêu cầu chất lượng đều phải dựa theo tiêu
chuẩn của Liên bang Nga và tham khảo tiêu chuẩn của các nước Tây Âu. Chi phí thấp
cũng như thủ tục để thành lập cơ sở kinh doanh tại Nga cũng không quá phức tạp, phù
hợp với quy mô và điều kiện kinh doanh của các Doanh nghiệp Việt Nam. Người tiêu
dùng và đặc biệt là đối tác Nga cũng dễ tính hơn so với các thị trường khác như Mỹ, Pháp
và một số nước châu Âu, châu Mỹ. Với 200 USD là có thể đăng ký bản quyền đưa sản
phẩm vào thị trường. Ngân hàng Việt-Nga liên doanh với Ngân hàng Đầu tư-Phát triển
VN – đang là một trong những kênh thanh toán có hiệu quả cho DN.
Nga là thị trường đang mở cửa, điều kiện thông thoáng, nhưng cũng không ít rủi ro và
tính cạnh tranh cao. Do đó, khi vào thị trường này buộc mọi đối tác phải chấp nhận cuộc
cạnh tranh khá gay gắt cả về hàng hóa cũng như đầu tư. Cụ thể: cơ chế thanh toán của thị
trường Nga còn thiếu sự linh hoạt, thiên về trả chậm khi hàng hóa từ các nước khác nhập
khẩu vào đây. Những bất cập và trở ngại trong khâu thủ tục hành chính, giấy tờ, trong đó
có cả thủ tục hải quan, cửa khẩu nhiều lúc gây tâm lý e ngại cho các DN Việt Nam quan
hệ với thị trường Nga. Các DN Việt Nam và Nga vẫn chưa vượt qua rào cản về tâm lý
(rủi ro về hợp tác, an ninh, khoảng cách về địa lý, cơ chế thanh toán...) để hợp tác với
nhau và chưa có sự chuyển biến rõ nét từ nhận thức đến hành động trong chiến lược hợp
tác Việt-Nga.
III. Phân tích SWOT:
Xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
EU… giảm mạnh do bị tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong khi đó xuất
khẩu của Việt Nam sang Liên bang Nga, một nền kinh tế đang dần hồi phục, một thị
trường mở và cũng là thị trường truyền thống của Việt Nam lại chưa thực sự tương xứng
với tiềm năng. Trong việc xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ cũng vậy, (quý đầu năm 2009) Nga
hiện đang thứ 21 trong các nước nhập khẩu mặt hàng này từ Việt Nam (Đức đứng đầu,
Mỹ đứng thứ hai, sau đó là Anh,…), với một đất nước có diện tích lớn nhất thế giới, dân
số đông, thị trường đầy tiềm năng, kim ngạch xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ của Việt Nam
sang Nga thật sự chưa tương xứng với tiềm năng thương mại giữa hai nước.
Nhận thấy cơ hội phát triển của mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ tại thị trường Nga, doanh
nghiệp chúng tôi dự định sẽ mở rộng việc xuất khẩu mặt hàng này. Để làm được điều đó,
việc nắm bắt rõ thông tin thị trường và năng lực nội bộ là yếu tố quan trọng quyết định
việc thành bại của doanh nghiệp.
Sau đây là sự phân tích của chúng tôi về các yếu tố khách quan và chủ quan tạo ra cơ
hội và thách thức trong việc thâm nhập thị trường Nga rộng lớn.
1.STRENGTHS:
Là một doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và nhiều kinh nghiệm trong việc xuất khẩu
gốm sứ mỹ nghệ qua các thị trường Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Canada, chúng tôi
đã gặt hái những thành công nhất định và tạo được lòng tin của khách hàng về chất lượng
thẩm mỹ cũng như độ bền mặt hàng này của Việt Nam. Chỉ trong bốn năm hoạt động kể
từ tháng 11/2005, chúng tôi được biết đến như là một trong những doanh nghiệp xuất
khẩu gốm sứ uy tín Việt Nam tại Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Canada. Hiện có
nhiều quốc gia cũng muốn tìm chúng tôi làm đối tác trong mặt hàng gốm sứ như Pháp,
Italy,… nhưng chúng tôi quyết định chọn thị trường Nga để mở rộng và phát triển.
Những thương hiệu gốm sứ Việt Nam đã và đang dần trở nên nổi tiếng và uy tín trên
thị trường quốc tế như: gốm Bát Tràng, gốm Minh Long, gốm Chu Đậu… chính là
những nguồn thu mua và đặt hàng chính của chúng tôi, hiện nay, chúng tôi vẫn đang tiếp
tục mở rộng nguồn thu sản phẩm sang các doanh nghiệp khác.
Là doanh nghiệp trẻ trong lĩnh vực gốm sứ nhưng đã thành công trong lĩnh vực xuất
khẩu gốm sứ. Thành công này là do việc lựa chọn hình thức thu mua và xuất khẩu thay vì
tự sản xuất và xuất khẩu đã trở thành một lợi thế của doanh nghiệp chúng tôi. Thường tự
sản xuất thì cũng xuất khẩu sản phẩm của chính doanh nghiệp mình nên thiếu sự phong
phú, trong khi chúng tôi thu mua từ nhiều nhà sản xuất nổi tiếng khác nhau nên có thể
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hơn nữa, việc thu mua sản phẩm từ nhiều
nguồn khác nhau cũng giúp chúng tôi tiết kiệm được chi phí do không phải lo về cơ sở
sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào, cũng như cắt giảm được chi phí nhân công. Đồng thời,
từ việc thu mua từ nhiều nguồn khác nhau chúng tôi cũng đã mở rộng được các đối tượng
khách hàng khác nhau.
Để đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường. Chúng tôi luôn tiến hành điều tra,
nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, do đó có những cơ
sở để chúng tôi thu mua những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Một lợi
thế của chúng tôi nữa là, do là doanh nghiệp xuất khẩu theo thị hiếu của khách hàng nên
thường chúng tôi đặt hàng tại các doanh nghiệp sản xuất với một số lượng nhất định, do
đó thường không có hàng tồn từ đó cắt giảm được chi phí kho bãi.
2. WEAKNESSES:
Tuy nhiên, việc thu mua rồi xuất khẩu cũng có một điểm yếu đó là chúng tôi không
thể chủ động về giá mà phải phụ thuộc vào sự thay đổi giá của nhà sản xuất. Cũng như bị
động về mặt hàng cần xuất khẩu vì chúng tôi phải đặt hàng hoặc thu mua từ các nhà sản
xuất khác nhau, nên đôi khi cần phải có thời gian để tìm được nguồn cung cấp phù hợp.
Đôi khi chúng tôi còn gặp khó khăn vì khó tìm ra được nhà cung cấp có thể đáp ứng được
chính xác nhu cầu của khách hàng.
Kinh doanh trên thị trường quốc tế thường có những rủi ro xảy ra, và khó khăn
thường xảy ra nhất là thiếu thông tin về thị trường cũng như các khả năng xảy ra tranh
chấp thương mại. Thực trạng tại Việt Nam cho hiện nay các doanh nghiệp trong cùng
một ngành nghề chưa có sự liên kết với nhau để hỗ trợ lẫn nhau trên thị trường quốc tế.
Đồng thời Việt Nam hiện nay chỉ có Hiệp hội Gốm sứ Xây dựng Việt Nam nhằm hỗ trợ
các doanh nghiệp trong sản xuất gốm sứ xây dựng, chứ hiện nay chưa có một tổ chức nào
chính thức để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất cũng như xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ cao
cấp. Đây là một khó khăn lớn của doanh nghiệp vì không có sự hỗ trợ nào về thông tin thị
trường, mà chúng tôi phải tự tìm hiểu thông tin về thị trường, tự nghiên cứu những rào
cản, những chính sách của nước chủ nhà đối với mặt hàng gốm sứ. Chúng tôi cũng không
có được sự hỗ trợ nào nếu như trường hợp tranh chấp thương mại xảy ra.
Một rào cản đối với chúng tôi nữa là sự khác biệt văn hóa giữa hai quốc gia cũng ảnh
hưởng tương đối đến việc xuất khẩu mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ sang thị trường Nga. Tuy
có nhiều kinh nghiệm xuất khẩu gốm sứ ở một số nước Châu Á và Châu Mỹ, nhưng sự
hiểu biết về thị trường Châu Âu, đặc biệt là Nga của chúng tôi là chưa nhiều.
3. OPPORTUNITIES:
Thị trường Liên bang Nga với 142 triệu dân, GDP bình quân đầu người 9.075 USD,
mức tăng trưởng kinh tế năm 2007 là 8,1%. Hàng năm có 43% tổng nhu cầu đồ gỗ nội
thất, thủ công mỹ nghệ của Liên bang Nga phải nhập khẩu do tốc độ đô thị hoá cao. Đây
chính là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ và thủ công
mỹ nghệ của ViệtNam.
Điều cơ bản là hai nước Việt-Nga từ xưa đến nay có truyền thống tốt. Thứ hai người
tiêu dùng và đặc biệt là đối tác Nga cũng dễ tính hơn so với các thị trường khác như Mỹ,
Pháp và một số nước châu Âu, châu Mỹ. Để mở một văn phòng đại diện tại thị trường
Mỹ phải tốn cả triệu USD. Còn ở Nga, mọi thủ tục đơn giản, 200 USD là có thể đăng ký
bản quyền đưa sản phẩm vào thị trường. Trước đến nay doanh nghiệp còn băn khoăn về
vấn đề thanh toán, nay ta đã có Ngân hàng Việt-Nga liên doanh với Ngân hàng Đầu tư -
Phát triển VIệt Nam – đang là một trong những kênh thanh toán có hiệu quả cho doanh
nghiệp.
Hiện nay, nếu doanh nghiệp có nhu cầu mở văn phòng đại diện tại LB Nga hoặc tìm
kiếm đối tác, lãnh đạo Trung tâm Thương mại Mêkông Emeral (tổng diện tích 37.000m2
nằm trên đường vành đai lớn nhất Mátxcơva) sẵn sàng hỗ trợ với giá ưu đãi (bằng ¼ so
với các trung tâm thương mại khác).
Dự báo đến năm 2020 Nga là một trong 5 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Do
đó thị trường Nga có những tiềm năng chưa được khai thác và hứa hẹn sẽ thành công nếu
có con đường đúng đắn thâm nhập và kinh doanh.
Nhiều bạn hàng Nga, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam tại Nga và Đại sứ quán Việt
Nam tại LB Nga và bà con Việt kiều tại LB Nga sẽ là cầu nối quan trọng giúp doanh
nghiệp đưa sản phẩm vào thị trường Nga.
Xu hướng tiêu dùng của người Nga là không tiếc tiền cho việc làm đẹp nhà cửa và
chuộng những sản phẩm cao cấp, kiểu dáng đẹp phù hợp với không gian và phong cách
Nga. Phần lớn người Nga làm viêch trong các thành phố, tầng lớp trung lưu ngày càng
nhiều và đa số có nhà ở ngoại ô. Yêu cầu chung của thị trường cũng không quá khắt khe
như Nhật Bản hay một số nước Âu – Mỹ. Những yêu cầu cơ bản như tuân thủ pháp luật
có liên quan, nhãn hiệu, nhứng yếu tố ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, sức khỏe
người tiêu dùng, an toàn đều phải tôn trọng; yêu cầu chất lượng đều phải dựa theo tiêu
chuẩn của Liên bang Nga và tham khảo tiêu chuẩn của các nước Tây Âu.
Liên bang Nga đã trở thành đối tác chiến lược và là thị trường truyền thống của Việt
Nam. Năm 2008, kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam và Liên bang Nga đạt
1,641 tỷ USD (đây đã là con số kỷ lục từ trước đến nay). có nhiều cơ hội để đưa vào thị
trường này mặt hàng đồ gốm, thiết bị vệ sinh, đồ nhựa gia dụng, thuốc đông nam dược…
mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao. Tại cuộc gặp cấp cao tại Matxcơva tháng 10 năm
2008, Nguyên thủ quốc gia hai nước đã đưa ra mục tiêu tăng trưởng kim ngạch trao đổi
hàng hóa giữa hai nước lên 3 tỷ USD vào năm 2010 và 10 tỷ USD vào năm 2020. “Triển
lãm hàng xuất Việt Nam tại Matxcova 2009” là một trong các chương trình xúc tiến
thương mại phục vụ cho mục tiêu trên.
4. THREATS:
Việt Nam không phải là nước nổi tiếng nhất về mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ, việc cạnh
tranh từ các đối thủ Trung Quốc và Nhật Bản là một đe dọa lớn của doanh nghiệp. Hơn
thế nữa thị trường Nga đầy tiềm năng lại tương đối dễ tính nên nhiều doanh nghiệp từ các
nước Trung Quốc, Nhật Bản cũng muốn thâm nhập và chinh phục thị trường này.
Đây là thị trường mới chứa nhiều nguy cơ và biến động, lần đầu tiên mở rộng kinh
doanh vào thị trường này chắc chắn không tránh khỏi những trở ngại ban đầu.
Không những cạnh tranh từ các đối thủ ngoài nước mà sự cạnh tranh của các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu trong nước cũng là một đe dọa đối với doanh nghiệp chúng
tôi.
Tóm lại, qua phân tích SWOT trên, chúng tôi thấy rằng mỗi cơ hội đều ẩn chứa
những thử thách nhất định, nhưng điều quan trọng là việc tận dụng những thuận lợi,
khắc phục những khó khăn để đến được với thị trường Nga đầy hứa hẹn.
B. SƠ BỘ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
I. CHIẾN LƯỢC SẢN PHẨM.
Để tiến vào thị trường Nga với sản phẩm gốm sứ, một loại hàng Việt chưa thật sự phổ
biến ở xứ sở của những hàng Bạch Dương, chúng tôi cần xem xét, tìm hiểu đặc trưng của
văn hóa Nga, họ muốn gì và cần gì?
Tâm lý tiêu dùng của người Nga là không tiếc tiền cho những sản phẩm đẹp và chất
lượng, đặt biệt là trong lĩnh vực hàng hóa trang trí nội thất. Họ xem cái đẹp là sự kết hợp
giữa cổ điển và hiện đại, đặc biệt cái truyền thống rất được xem trọng. Trong những năm
gần đây, Nga đặc biệt đề cao lối nghệ thuật dân gian, đây là một trong những yếu tố thúc
đẩy chúng tôi xuất mặt hàng gốm sứ sang Nga, vì đây là sản phẩm vừa mang tính truyền
thống, đồng thời mang hơi thở của thời đại với những sáng tạo không ngừng trong kiểu
dáng và họa tiết thiết kế. Có thể nói, nghệ thuật gốm của Việt Nam đáp ứng được nhu cầu
thẩm mỹ trên của người Nga, sự tận dụng bố cục, màu sắc, nhịp điệu của nông thôn,
thành thị, của nông nghiệp và cả công nghiệp trong những họa tiết và bức vẽ trang trí trên
những sản phẩm mang hơi hướng nghệ thuật thể hiện cái đẹp của quá khứ và của thời đại.
Xét về xu hướng thưởng thức cái đẹp là có điểm tương đồng giữa Nga và Việt nhưng
trên nhưng trên thực tế có những điểm khác biệt về điều kiện địa lý làm nảy sinh những
cái đẹp riêng mà chỉ Nga mới có, vì vậy chúng tôi phải hiểu được điều này nhằm tạo ra
những sản phẩm có thể mang được những thế mạnh của Việt Nam về độ sáng tạo và chất
lượng cũng như mang cái đẹp Nga thổi vào những tác phẩm gốm sứ.
Chúng tôi tự tin nói rằng những tuyệt tác gốm sứ của Việt Nam có thể đáp ứng được
kỳ vọng về cảm quan nghệ thuật của người Nga, để họ thấy rằng có một sản phẩm gốm
của Việt Nam trang trí trong là thể hiện được họ không những hòa nhập với thế giới mà
còn biết được nước Nga đẹp như thế nào.
Chính vì phục vụ cho mục đích trang trí nội thất nên các chủng loại sản phẩm để xuất
sang thị trường Nga bao gồm: bình, lọ hoa, tranh gốm, tượng – thú gốm. Các sản phẩm
trên phải có thiết kế, màu sắc sao cho có thể phù hợp với các phong cách kiến trúc khác
nhau, đặc biệt là kiểu kiến trúc Tây phương vốn thông dụng ở Nga.
Xuất phát từ thị hiếu cùng yêu cầu khá cao về sản phẩm như đã đề cập ở trên, chúng
tôi quyết định chọn chiến lược sản phảm chuẩn hóa khi thâm nhập thị trường Nga. Một
khi có những yêu cầu từ phía khách hàng hay chính quyền sở tại, chúng tôi sẽ có những
bước điều chỉnh trong chiến lược sản phẩm để đáp ứng những đòi hỏi trên.
II. CHIẾN LƯỢC GIÁ.
Thị trường Nga là một thị trường đầy tiềm năng nhưng lại là thị trường mới nên thông
tin của chúng tôi về khách hàng chưa được chính xác, cũng như khách hàng cũng chưa có
thông tin gì về doanh nghiêp chúng tối và sản phẩm chúng tôi cung cấp trên thị trường
Nga. Do đó, chính sách giá đối với chúng tôi rất quan trọng để có thể tiến vào thị trường
Nga và định vị thương hiệu của mình trên thị trường Nga.
Tuy là thị trường mới, nhưng mặt hàng chúng tôi cung cấp trên thị trường Nga là
những sản phẩm mỹ nghệ cao cấp, do đó chúng tôi áp dụng chính sách giá thống nhất.
Với chính sách giá này, giá chúng tôi cung cấp tại thị trường Nga cũng giống như giá
chúng tôi đã cung cấp tại các thị trường trước đây: Canada, Malaysia… Tuy nhiên đây
cũng chỉ là chiến lược ban đầu của chúng tôi, vì chưa có thông tin chính xác cũng như
chưa nắm bắt được thị trường nên chúng tôi đưa ra chinh sách giá này, nhưng sau khi đã
thâm nhập được thị trường Nga, chúng tôi sẽ thiết lập lại chinh sách giá cho phù hợp với
thị trường này.
Để tiến vào thị trường Nga mới mẻ và có những đối thủ cạnh tranh mạnh đến từ
Trung Quốc và Nhật Bản, chúng tôi đã lựa chọn chinh sách giá thâm nhập. Vì là một
doanh nghiệp mới bước vào thị trường Âu Châu, việc đưa ra mức giá phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng của người Nga là một việc quan trọng để đưa sản phẩm đến gần với khách
hàng. Với mức giá phù hợp, chúng tôi hi vọng sẽ làm cho người tiêu dùng Nga quan tâm
đến sản phẩm chúng tôi nhiều hơn. Một khi khách hàng đã quen thuộc với sản phẩm, nhu
cầu của khách hàng với sản phẩm của chúng tôi tăng cao thì viêc mở rộng và giữ vững thị
phần sẽ thuận lợi hơn.
Mặc dù là sản phẩm cao cấp, nhưng ở thị trường Nga, các thương hiệu gốm sứ đến từ
Trung Quốc là mối đe dọa lớn với chúng tôi. Các doanh nghiệp Trung Quốc vào thị
trường Nga cũng đã có một thị phần nhất định và đã đi vào tâm trí tiêu dùng của người
Nga. Để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp Trung Quốc, chúng tôi phải định
một chính sách giá sao cho phù hợp: có nghĩa là làm sao phải đúng với mức giá của mặt
hàng cao cấp, vừa phải có một mức giá cạnh tranh với các đối thủ Trung Quốc.
III. CHIẾN LƯỢC XÚC TIẾN.
Về phương diện xúc tiến, vì doanh nghiệp mới vừa xâm nhập thị trường, không đủ
khả năng thực hiện việc quảng bá một cách rầm rộ và rộng khắp, chiến lược quảng cáo
thích nghi là phù hợp nhất đối với chúng tôi.
Nga là một thị trường còn khá xa lạ đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và
doanh nghiệp hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng. Chính vì thế, bước đầu xâm nhập vào thị
trường này, chiến lược xúc tiến của chúng tôi được xây dựng trên việc hợp tác chặt chẽ
với các nhà cung cấp những mặt hàng có liên quan như đồ gỗ, đồ trang trí nội thất.
Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng bằng gỗ đã có danh tiếng
nhất định trên thị trường Nga, được số đông biết đến. Mục tiêu cao nhất trong thời gian
đầu là tạo cho người tiêu dùng nhận biết được sự hiện diện của mặt hàng gốm Việt. Do
đó, kết hợp việc xúc tiến với doanh nghiệp kinh doanh đồ gỗ sẽ tận dụng được danh tiếng
về hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, tranh thủ một lượng khách hàng vốn đã có lòng
tin với những sản phẩm “Made in Viet Nam”
Cụ thể, việc kết hợp kinh doanh có thể thực hiện thông qua một số biện pháp sau:
- Đưa đồ gốm của Doanh nghiệp trưng bày cùng với các sản phẩm trang trí
nội thất khác.
- Kết hợp với doanh nghiệp khác, dùng đồ gốm làm sản phẩm khuyến mãi,
bước đầu tạo danh tiếng cho mặt hàng này.
- Tham gia vào các hội chợ triển lãm chuyên về hàng thủ công mỹ nghệ.
Về việc quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, hai hình thức được lựa chọn là
thông qua báo chí và internet. Đây là những phương tiện truyền thông thông dụng, có thể
quảng cáo với mức chi phí chấp nhận được. Khuyến mãi trong thời gian đầu là rất cần
thiết.
Ngoài ra, một lượng khách hàng mục tiêu đáng kể chính là các nhà hàng, khách sạn,
khu du lịch, văn phòng. Chính vì thế, marketing trực tiếp cần được quan tâm. Hơn nữa,
thời gian đầu vì bị hạn chế về vốn cũng như chưa thông hiểu hết được thị trường nên
marketing sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận thị trường. Một khi có được có
được các đơn đặt hàng đến từ các khách hàng trên đồng thời với sự tăng cường hiểu biết
về thị trường, chúng tôi sẽ tiếp tục thự hiện các bước hoạch định xúc tiến mới tùy thuộc
vào tình hình kinh doanh.
III. CHIẾN LƯỢC PHÂN PHỐI.
Để đưa sảm phẩm của công ty chúng tôi đến với người tiêu dùng Nga, chúng tôi sẽ sử
dụng kênh phân phối như sau:
Trước tiên chúng tôi thu mua và đặt hàng sản phẩm từ các doanh nghiệp sản xuất gốm
sứ trong cả nước. Các đối tác chính của chúng tôi là: Doạnh nghiệp Gốm sứ Minh Long
Bình Dương, các doanh nghiệp trong Hiệp Hội Gốm sứ Bát Tràng: Hợp tác xã Minh
Tâm, xưởng gốm Tuấn Long, cơ sở sản xuất Hiệp Nhung, gốm Chu Đậu Hải Dương…
Chúng tôi thu mua các sản phẩm phổ biến của các doanh nghiệp này, đồng thời cũng đặt
hàng tại các doanh nghiệp này những sản phẩm mà khách hàng yêu cầu.
Doanh
nghiệp Minh
Long
Hiệp Hội
Gốm Bát
Tràng
Gốm
Chu Đậu
Doanh
nghiệp
THOBI
Nhà Nhập
khẩu
Khách hàng
trực tiếp
Khách hàng
mua lẻ
Từ xưởng gốm của các Doanh nghiệp, chúng tôi vận chuyển đến cảng và xuất hàng
sang thị trường Nga. Tại thị trường Nga, để sản phẩm đến được tay người tiêu dùng,
chúng tôi thông qua hai kênh chính sau:
- Nhà nhập khẩu, nhà phân phối: Đối tác của chúng tôi bao gồm cả những doanh
nghiệp người Nga lẫn kiều bào đang sinh sống tạo đất nước Nga. Đây là một kênh phân
phối quan trọng của doanh nghiệp chúng tôi. Các nhà nhập khẩu sẽ nhập hàng của chúng
tôi từ cảng và đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng (khách hàng mua lẻ).
- Khách hàng trực tiếp: đối tượng khách hàng này của chúng tôi chủ yếu là các khách
sạn cao cấp, các nhà hàng sang trọng và một số nhỏ là tầng lớp trung lưu ở Nga.
Ngoài ra, chúng tôi còn hướng đến việc phân phối thông qua thương mại điện tử. Mặc
dù thói quen mua sắm qua mạng của người Nga vẫn chưa trở nên thông dụng như ở các
quốc gia Tây phương khác nhưng đây cũng là một kênh phân phối khá hiệu quả khi bán
lẻ với chi phí không quá cao.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Mặc dù có những khó khăn nhất định về tài chính và thủ tục khi tiến hành đăng kí
nhãn hiệu tại nước ngoài, tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đăng kí
nhãn hiệu từ khá sớm và đã có những thành công đáng kể trên thị trường quốc tế. Do đó,
chúng tôi tin với các chiến lược sau đây, chúng tôi cũng sẽ thành công như các doanh
nghiệp đi trước.
Theo vị trí địa lí, chúng tôi chọn Moscow, bởi đây là thủ đô đồng thời là thành phố có
sức mua lớn nhất của Nga. Đây cũng là nơi mà dân chúng có trình độ học vấn và gu
thưởng thức nghệ thuật cao nhất. Chúng tôi quan tâm đến hai yếu tố thu nhập và nghề
nghiệp, nơi đầu tiên chúng tôi thâm nhập vào thị trường Nga là Moscow vì nơi đây có thu
nhập cao, tập trung giới trung lưu và thượng lưu – đây là một thuận lợi đối với các mặt
hàng sản phảm trang trí cao cấp.
Moscow là một thành phố lớn và năng đông, tiếp thu phong cách mới và xu hướng
mới cởi mở và nhanh chóng. Văn hóa Nga là văn hóa pha trộn giữa phong cách truyền
thống và du nhập, điều đó giúp cho sản phẩm chúng tôi thâm nhập thị trường này thành
công.
Qua nghiên cứu của chúng tôi về gu thẩm mĩ của người Nga nói chung, và Moscow
nói riêng cho thấy rằng họ không tiếc tiền cho những sản phẩm trang trí thiên về nghệ
thuật. Chính vì vậy mà bước đầu tiên của chúng tôi là mở một showroom với phong cách
chuyên nghiệp tại Moscow.
Khi xâm nhập thị trường, tất nhiên chúng tôi sẽ phải đối mặt với các đối thủ cạnh mà
một trong số đó là các doanh nghiệp Trung Quốc. Chúng tôi quyết định đưa ra chiến lược
phát triển thương hiệu một cách dần dần, từ từ tạo ra sự tin tưởng của khách hàng, đặc
biệt qua chất lượng của sản phẩm. Chúng tôi cần 12 tháng để cho người dân Moscow biết
đến sản phẩm của mình, và 18 tháng để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Chiến lược
ấy được thể hiện qua việc chúng tôi chưa vội nhận đơn đặt hàng hoặc xuất khẩu ào ạt qua
thị trường Nga mà chỉ là mở một showroom với phong cách chuyên nghiệp để quảng bá
hình ảnh của mình trước.
Việc nghiên cứu thông tin từ thị trường là rất cần thiết. Nghiên cứu của chúng tôi dựa
vào các tài liệu thứ cấp có sẵn và thiết lập trang web để thu thập mẫu điều tra về đối thủ
cạnh tranh và sản phẩm. Trang web cũng là một kênh thông tin quảng bá hình ảnh của
doanh nghiệp chúng tôi, bởi hiện nay tốc độ của công nghệ thông tin trong việc quảng bá
hình ảnh rất nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng được điều này cũng tạo nên thế mạnh
trong việc đưa những sản phẩm gốm sứ nghệ thuật truyền thống đi vào tiềm thức của
những con người hiện đại và năng động như cư dân Moscow. Việc nghiên cứu thông tin
sẽ đưa lại những kết quả giúp chúng tôi xác định được thị phần của mình cũng như của
đối thủ cạnh tranh, đồng thời biết được tại sao người tiêu dùng Nga lại sử dụng sản phẩm
của các đối thủ cạnh tranh, từ đây có những đánh giá chính xác về vị trí của đối thủ cạnh
tranh.
Qua nghiên cứu về sở thích của người tiêu dùng, gốm sứ là sản phẩm được sử dụng
nhiều nhất bởi giới trung lưu – thượng lưu (đặc biệt là giới văn phòng), điều đó chứng tỏ
thu nhập ảnh hưởng rõ rệt đến sức mua mặt hàng của chúng tôi. Do đó, chúng tôi đã chọn
cho mình hướng đi riêng phù hợp với thị hiếu và khả năng tiêu dùng của người dân Nga,
chúng tôi thiên về các sản phẩm gốm sứ trang trí cao cấp. Chúng tôi đánh mạnh vào giá
cả, mẫu mã và độ bền để tạo sự khác biệt đối với gốm sứ Trung Quốc được biết đến với
giá cả phải chăng và lượng hàng cung ứng lớn. Qua chiến lược này, chúng tôi muốn tạo
nên nhận thức của người dân Mátxcơva về một loại mặt hàng gốm sứ với những đặc điểm
riêng, tạo nên trong tiềm thức của người Moscow rằng: có một sản phẩm của chùng tôi
trang trí hay làm quà là một quyết định sáng suốt và không phí phạm.
C. KẾT LUẬN
Sau những nghiên cứu cùng với những thông tin chúng tôi thu thập được, chúng tôi đã
nhận thấy một điều rằng Nga thực sự là một thị trường có tiềm năng rất lớn để chúng tôi
xây dựng hình ảnh thương hiệu gốm Việt tại Nga.
Với những tìm hiểu trong thời gian qua, chúng tôi thấy rằng người tiêu dùng Nga
tương đối dễ tính. Với những sản phẩm mới, người Nga rất có hứng thú khám phá và có
mối quan tâm đặc biệt. Hơn nữa, với mặt hàng nghệ thuật cao cấp, người Nga có xu
hướng thoải mái tiêu dùng. Do đó, người tiêu dùng Nga là một điều kiện thuận lợi với
chúng tôi.
Thị trường Nga dễ tính, với ít hàng rào kĩ thuật và những qui định không quá khắt khe
nên chúng tôi có thể tiến vào thị trường dễ dàng. Bên cạnh đó, hiện nay với sự cam kết
giữa hai chính phủ Việt Nam – Nga, sự hỗ trợ từ hai chính phủ cũng là một điều kiện
thuận lợi với chúng tôi.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi đã đưa ra một chiến lược thâm nhập thị trường
Nga tương đối khả quan. Chúng tôi tin rằng với chiến lược đã định ra, bước đầu chúng tôi
sẽ thành công tại thị trường Nga. Tuy nhiên, do là thị trường mới, cũng như việc thiếu hụt
thông tin cụ thể và chính xác về thị trường cũng như người tiêu dùng, chúng tôi sẽ phải
cần một thời gian lâu dài để có thể làm cho người tiêu dùng Nga biết đến sản phẩm của
chúng. Và chắc chắn chúng tôi cũng sẽ phải cần một thời gian lâu hơn nữa để người tiêu
dùng Nga tin tưởng vào sản phẩm của chúng tôi. Với mốc thời gian chúng tôi đã đưa ra ở
trên là 12 tháng để người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình và 18 tháng để sản
phamar chúng tôi đến tay người tiêu dùng là những mốc thời gian chúng tôi chỉ ước tính
dựa trên những gì chúng tôi có được về thị trường Nga. Nhưng theo kinh nghiệm đã có
từ những thị trường trước đây, chúng tôi hi vọng khoảng thời gian chúng tôi đã đưa ra là
hợp lí và có thể thành công. Tuy nhiên, để có thể tạo được một niềm tin nơi khách hàng
và làm cho khách hàng quen với phong cách làm việc cũng như phong cách sản phẩm của
chúng tôi thì chắc chắn chúng tôi phải cần một thời gian lâu dài hơn và kiên trì hơn. Cũng
kiên nhẫn hơn để chúng tôi có thể xây dựng được một hệ thống kênh phân phối ổn định
và một đầu vào đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng Nga.
Tóm lại, với chiến lược kinh doanh đưa mặt hàng gốm sứ Việt Nam tiến vào thị
trường Nga, chúng tôi cần một thời gian lâu dài và ổn định cũng như cần có một sự kiên
trì để có thể xây dựng thành công thương hiệu gốm sứ Việt tại một thị trường rộng lớn và
đầy tiềm năng như nước Nga.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề Tài- Chiến lược kinh doanh gốm sứ tại thị trường Nga.pdf