Tài liệu Đề tài Chất lượng sản phẩm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới: Phần I .
chất lượng sản phẩm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới .
1. Các khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Trên thế giới, khái niệm về chất lượng sản phẩm đã từ lâu luân gây ra những tranh cãi phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các khái niệm về chất lượng nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng được nêu ra dưới các góc độ khác nhau của mỗi cách tiếp cận, mỗi cách nhìn nhận riêng biệt.
Theo quan điểm triết học, chất lượng là tính xác định bản chất nào đó của sự vật, hiện tượng, tính chất mà nó khẳng định nó chính là cái đó chứ không phải là cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó tạo ra một sự khác biệt với một khách thể khác. Chất lượng của khách thể không quy về những tính chất riêng biệt của nó mà gắn chặt với khách thể như một khối thống nhất bao chùm toàn bộ khách thể. Theo quan điểm này thì chất lượng đã mang trong nó một ý nghĩa hết sức trừu tượng, nó không phù hợp với thực tế đang đòi hỏi
Một khái niệm về chất lượng ...
38 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Chất lượng sản phẩm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I .
chất lượng sản phẩm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới .
1. Các khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Trên thế giới, khái niệm về chất lượng sản phẩm đã từ lâu luân gây ra những tranh cãi phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các khái niệm về chất lượng nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng được nêu ra dưới các góc độ khác nhau của mỗi cách tiếp cận, mỗi cách nhìn nhận riêng biệt.
Theo quan điểm triết học, chất lượng là tính xác định bản chất nào đó của sự vật, hiện tượng, tính chất mà nó khẳng định nó chính là cái đó chứ không phải là cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó tạo ra một sự khác biệt với một khách thể khác. Chất lượng của khách thể không quy về những tính chất riêng biệt của nó mà gắn chặt với khách thể như một khối thống nhất bao chùm toàn bộ khách thể. Theo quan điểm này thì chất lượng đã mang trong nó một ý nghĩa hết sức trừu tượng, nó không phù hợp với thực tế đang đòi hỏi
Một khái niệm về chất lượng vừa mang tính đơn giản vừa dễ hiểu và có tính chất quảng bá rộng dãi đối với tất cả mọi người, đặc biêt là với người tiêu dùng, với các tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ cũng như với các phương pháp quản trị chất lượng trong các tổ chức các doanh nghiệp;
Một quan điểm khác về chất lượng cũng mang một tính chất trừu tượng. Chất lượng theo quan điểm này được định nghĩanhư là một sự đạt một mức độ hoàn hảo mang tính chất tuyệt đối. Chất lượng là một cái gì đó mà làm cho mọi người mỗi khi nghe thấy đều nghĩ ngay một sự hoàn mỹ tốt nhất cao nhất. Như vậy theo nghĩa này thì chất lượng Vẫn chưa thoát khỏi sự trừu tượng của nó. Đây là một khái niệm còn mang nặng tính chất chủ quan, cục bộ và quan trọng hơn, khái niệm này về chất lượng vẫn chưa cho phép ta có thể định lượng được chất lượng. Vì vậy, nó chỉ mang một ý nghĩa nghiên cứu lý thuyết mà không có khả năng áp dụng trong kinh doanh.
Một quan điểm thứ 3 về chất lượng theo định nghĩa của W. A. Shemart. Là một nhà quản lý người mỹ, là người khởi xướng và đạo diễn cho quan điểm này đối với vấn đề về chất lượng và quản lý chất lượng. Shemart cho rằng:”chất lượng sản phẩm trong sản xuất kinh doanh công nghiệp là một tập hợp những đặc tính của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng của nó “.
So với những khái niệm trước đó về chất lượng thì ở khái niệm này. Shemart đã coi chất lượng như là một vấn đề cụ thể và có thể định lượng được. Theo quan điểm này thì chất lượng sản phẩm sẽ là một yếu tố nào đó tồn tại trông các đặc tính của sản phẩm và vì tồn tại trong các đặc tính của sản phẩm cho nên chất lượng sản phẩm cao cũng đồng nghĩa với việc phải xác lập cho các sản phẩm những đặc tính tốt hơn phản ánh một giá trị cao hơn cho sản phẩm và như vậy chi phí sản xuất sản phẩm cũng cao hơn làm cho giá bán của sản phẩm ở một chừng mực nào đó khó được người tiêu dùng và xã hội chấp nhận. Do vậy, quan điểm về chất lượng này Của Shewart ở một mặt nào đó có một ý nghĩa nhất định nhưng nhìn chung đây là một quan điểm đã tách dời chất lượng với người tiêu dùng và các nhu cầu của họ. Nó không thể thoả mãn được các điều kiện về kinh doanh và cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay.
Quan điểm thứ 4 về chất lượng xuất phát từ phía người sản xuất. Theo họ quan điểm này, chất lượng sản phẩm là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật đã được đặt ra từ trước trong khâu thiết kế sản phẩm. Theo quan điểm này, chất lượng gắn liền với vấn đề công nghệ và đề cao vai trò của công nghệ trong việc tạo ra sản phẩm với chất lượng cao
. Quan điểm này cho rằng “chất lượng là một trình độ cao nhất mà một sản phẩm có được khi sản xuất”.
Do xuất phát từ phía người sản xuất nên khái niệm về chất lượng theo quan điểm này còn có nhiều bất cập mang tính chất bản chất và khái niệm này luôn đặt ra cho các nhà sản xuất những câu hỏi không dễ gì giải đáp được. Thứ nhất, do đề cao yếu tố công nghệ trong vấn đề sản xuất mà quyên đi rằng vấn đề sản phẩm có đạt được chất lượng cao hay không chính là do người tiêu dùng nhận xét chứ không phải do các nhà sản xuất nhận xét dựa trên một số cơ sở không đầy đủ và thiếu tính thuyết phục, đó là công nghệ sản xuất của họ, Thư hai, câu hỏi đặt ra cho các nhà sản xuất là họ lấy gì để đảm bảo rằng quá trình sản xuất được thực hiện trên công nghệ của họ không gặp một chở ngại hay rắc rối nào trong xuốt quá trình sản xuất và một điều nữa, liệu công nghệ của họ có còn thích hợp với nhu cầu về các loại sản phẩm cả sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế trên thị trường hay không.
Như vậy, theo khái niệm về chất lượng này các nhà sản xuất không tính đến những tác động luôn luôn thay đổi và thay đổi một cách liên tục của môi trường kinh doanh và hệ quả tất yếu của nó, trong khi họ đang say xưa với những sản phẩm chất lượng cao của họ thì cũng là lúc nhu cầu của người tiêu dùng đã chuyển sang một hướng khác, một cấp độ cao hơn.
Để khắc phục những hạn chế tồn tại và những khuyết tật trung khái niệm trên buộc các nhà quản lý, các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải đưa ra một khái niệm bao quát hơn, hoàn chỉnh hơn về chất lượng sản phẩm. khái niệm này một mặt phải đảm bảo được tính khách quan mặt khác phải phản ánh được vấn đề hiệu quả của sản xuất kinh doanh mà chất lượng của sản phẩm chất lượng cao sẽ mang lại cho doanh nghiệp, cho tổ chức. Cụ thể hơn, khái niệm về chất lượng sản phẩm này phải thực sự xuất phát từ hướng người tiêu dùng. Theo quan điểm nay thì:“ chất lượng là sự phù hợp một cách tốt nhất với các yêu cầu và mục đích của người tiêu dùng “, với khái niệm trên về chất lượng thì bước đầu tiên của quá trình sản xuất kinh doanh phải là việc nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng về các loại sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp định cung cấp trên thị trường. Các nhu cầu của thị trường và người tiêu dùng luôn luôn thay đổi đòi hỏi các tổ chức, các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh phải liên tục đổi mới cải tiến chất lượng, đáp ứng kịp thời những thay đổi của nhu cầu cũng như của các hoàn cảnh các điều kiện sản xuất kinh doanh. Đây là những đòi hỏi rất cơ bản mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế thị trường và nó đã trở thành nguyên tắc chủ yếu nhất trong sản xuất kinh doanh hiện đại ngày nay. Mặc dù vậy, quan điểm trên đây về chất lượng sản phẩm vẫn còn những nhược điểm của nó. Đó là sự thiếu chủ động trong các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phụ thuộc quá nhiều và phức tạp của doanh nghiệp vào khách hàng, người tiêu dùng có thể sẽ làm cho vấn đề quản lý trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Tuy vậy, nó là một đòi hỏi tất yếu mang tính chất thời đại và lịch sử.
Ngoài các khái niệm đã nêu ở trên, còn một số khái niệm khác về chất lượng sản phẩm cũng được đưa ra nhằm bổ xung cho các khái niệm đã được nêu ra trước đó. Cụ thể theo các chuyên gia về chất lượng thì chất lượng là:
Sự phù họp các yêu cầu.
Chất lượng là sự phù hợp với công dụng.
Chất lượng là sự thích hợp khi sử dụng.
Chất lượng là sự phù hợp với mục đích.
Chất lượng là sự phù hợp các tiêu chuẩn(Bao gồm các tiêu chuẩn thiết kế và các tiêu chuẩn pháp định. )
Chất lượng là sự thoả mãn người tiêu dùng.
+ Theo tiêu chuẩn ISO – 8402 /1994. Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã xác định hoặc cần đến.
+ Theo định nghĩa của ISO 9000/2000. Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng được các yêu cầu.
+ Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế. Chất lượng là tổng thể các chi tiêu, những đặc trưng sản phẩm thể hiện sự thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với công dụng mà người tiêu dùng mong muốn với chi phí thấp nhất và thời gian nhanh nhất.
Như vậy, chất lượng sản phẩm dù được hiểu theo nhiều cách khác nhau dựa trên những cách tiếp cận khác nhau đều có một điểm chung nhất. Đó là sự phù hợp với yêu cầu. Yêu cầu này bao gồm cả các yêu câu của khách hàng mong muốn thoả mãn những nhu cầu của mình và cả các yêu cầu mang tính kỹ thuật, kinh tế và các tính chất pháp lý khác. Với nhiều các khái niệm dựa trên các quan điểm khác nhau như trên, dovậy trong quá trình quản trị chất lượng cần phải xem chất lượng sản phẩm trong một thể thống nhất. Các khái niệm trên mặc dù có phần khác nhau nhưng không loại trừ mà bổ xung cho nhau. Cần phải hiểu khái niệm về chất lượng một cách có hệ thống mới đảm bảo hiểu được một cách đầy đủ nhất và hoàn thiện nhất về chất lượng. Có như vậy, việc tạo ra các quyết định trong quá trình quản lý nói chung và quá trình quản trị chất lượng noí riêng mới đảm bảo đạt được hiêụ quả cho cả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay tổ chức.
2. Mối quan hệ giữa Chất lượng sản phẩm với các yếu tố khác của sản xuất kinh doanh.
a. . Chất lượng sản phẩm với hiệu quả -sản xuất kinh doanh. - Năng xuất và chất lượng
Hiệu quả kinh doanh luôn luôn là vấn đề được các Doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. để đạt được hiệu quả kinh doanh, các DN luôn dành mọi chỉ tiêu, mọi nguần lực vào một nỗ lực chung đem lại tính hiệu quả cao trong các hoạt động về quản lý hay các hoạt động về tác nghiệp có liên quan mật thiết đến các hoạt động sản xuất và kinh doanh, quá trình sản xuất các giá trị đặc biệt là giá trị gia tăng. Khi xem xét các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngoài các chỉ tiêu thông thường như tỷ xuất lợi nhuận, trên vốn, lợi nhuận trước thuế lãi thuần v. . v. . Doanh nghiệp còn chú ý đến mặt hiện vật của vấn đề hiệu quả, đó chính là năng xuất lao động. Năng xuất lao động ở đây được gọi chung cho nhiều loại năng xuất khác nhau. Đó có thể là năng xuất lao động và hiệu quả lao động. Năng xuất lao động được tính theo công thức sau:
WLĐ = Q/L
Q: Sản lượng sản phẩm sản xuất
L: Số lao động
Hoặc cũng có thể tính năng xuất lao động dựa trên các yếu tố về nguồn lực khác. Đó có thể là năng xuất trên một đồng vốn:
WK = Q/K (K: tổng vốn)
Năng xuất trên vốn lưu động: W = Q/VLĐ
Năng xuất trên vốn cố định: W = Q/VCĐ
Trên đây là cách tính các chỉ tiêu năng xuất mang tính chất truyền thống. Ngày nay năng xuất, với vai trò là một yếu tố đầu tiên và cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định tới các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc tính toán và xem xét năng xuất dưới góc độ truyền thống tỏ ra không phù hợp nữa. Vấn đề năng xuất – Hiệu quả sản xuất kinh doanh, theo quan điểm của triết lý kinh doanh hiện đại luôn được gắn liền với khái niệm chất lượng sản phẩm . Chính vì vậy, thuật ngữ năng xuất -chất lượng ngày nay không còn là một khái niệm mới mẻ trong sản xuất kinh doanh cũng như trong nghiên cứu, lý luận về sản xuất kinh doanh hiện đại. Mối quan hệ giữa năng xuất và chất lượng được thể hiện thông qua công thức sau
Y = I . G + I (1-G) . R
Trong đó.
Y: Năng suất
I: Số lượng sản phẩm đầu vao theo kế hoạch
G: Tỷ lệ % các chi tiết đạt chất lượng
R: Tỷ lệ % số lượng sản phẩm làm lại
Như vậy mối quan hệ giữa năng suất và chất lượng là mối quan hệ chặt chẽ trong đó chất lượng là yếu tố quyết định tới năng xuất. Thực vậy, theo công thức trên, khi ta tăng chất lượng sản phẩm thì năng suất cũng tăng theo nhưng điều ngược lại thì chưa chắc đã đúng.
Ngoài ra khi xem xét vấn đề năng suất – chất lượng, người ta còn sử dụng tới tỷ số năng suất – chất lượng. Nó là một chỉ số bao gồm năng xuất và chỉ số chất lượng. Chỉ số chất lượng năng xuất tăng nếu chi phí qua công giảm hoặc chi phí làm lại giảm hoặc cả hai chi phí này cùng giảm. Chi phí này đánh giá sự gia tăng và cho biết sự phụ thuộc của năng xuất, chi phí và chất lượng qua đó cho thấy tầm quan trọng của chất lượng đối với sản xuất kinh doanh
Tỷ số chất lượng – năng xuất được tính bằng công thức sau:
Các chi tiết đạt chất lượng
PQR = * 100%
( SLĐầu vào* CP Chế tạo+SPSai sót * CPLàm lại )
ý nghĩa của tỷ số này chính là ở chỗ: khi năng xuất chất lượng tăng lên thì tỷ số này tăng lên và ngược lại. Đây chính là chỉ số cho phép các nhà quản lý, Đặc biệt là các nhà quản lý chất lượng có thể lượng hoá được những ảnh hưởng của năng xuất – chất lượng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó có những biện pháp phù hợp khắc phục những khuyết tật phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh có xuất xứ từ vấn đề chất lượng – năng suất tới hiệu quả chung của toàn bộ hoạt động.
b. . Chất lượng với vấn đề về vốn – công nghệ.
Năng xuất lao động (Bao gồm cả các yếu tố năng suất thành phần) luôn luôn bao hàm cả vấn đề chất lượng sản phẩm. điều này đã được nhìn nhận và chứng minh khi ta nhìn vào mối quan hệ giữa hai yếu tố đó. Mối quan hệ giưã năng xuất và chất lượng. Trong quản trị kinh doanh, để các quyết định, đặc biệt là các quyết định liên quan tới vấn đề chất lượng sản phẩm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Chất lượng sản phẩm còn phải được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Các yếu tố này có thể là các yếu tố căn bản mang tính chất là các nguần lực đầu vào mà cũng có thể là các yếu tố phụ, mặc dù vậy nó vẫn có ảnh hưởng nhất định tới toàn bộ quá trình. Vấn đề về vốn và công nghệ với vai trò quyết định của mình không những có một ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ quá trình hoạt động sản suất kinh doanh mà nó còn có những tác động lớn tới vấn đề về chất lượng sản phẩm. Thực vậy theo quan điểm hướng vào khách hàng về vấn đề về chất lượng sản phẩm thì chất lượng chính là sự phù hợp với yêu cầu, các đòi hỏi cà cao hơn là các chu cầu của khách hàng. Trong khi đó, nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi buộc các nhà sản xuất phải phải hướng việc sản xuất của mình theo những thay đổi này. Nhu cầu của người tiêu dùng lại chịu ảnh hưởng không ít của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Hơn nữa, công nghệ sản xuất chính là yếu tố trực tiếp nhất tạo ra sản phẩm và do đó cả chất lượng sản phẩm. Khả năng về vốn và công nghệ là một trong các yếu tố quyết định tới chất lượng sản phẩm. Bất kỳ một nỗ lực định hướng nào của các cấp quản trị hay của toàn bộ doanh nghiệp sẽ không thể thực hiện được nếu như khả năng về vốn, khả năng về công nghệ bị hạn chế. Người ta có thể hô hào cải tiến đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng đó sẽ vẫn chỉ là khẩu hiệu nếu như không chú ý tới việc tạo các nguần vốn cần thiết cho các hoạt động và vấn đề về công nghệ không được chú ý một cách đúng mức, nếu như không muốn nói là yếu tố quyết định hàng đầu.
c. . Chất lượng sản phẩm với vấn đề về nhân lực – lao động.
Là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong các yếu tố đầu vào của sản xuất, yếu tố về lao động đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình đối với không chỉ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp các tổ chức mà còn đối với từng lĩnh vực hoạt động từng khâu tác nghiệp trong suốt hệ thống các quá trính sản xuất kinh doanh, trong đó vấn đề chất lượng các sản phẩm loại hàng dịch vụ đầu ra.
Là một yếu tố trong các yếu tố đầu vào cơ bản nhất của sản xuất và cung ứng dịch vụ yếu tố lao động khác với các yếu tố đầu vào khác là bị hạn chế về số lượng và khả năng khai thác. yếu tố con người (mà biểu hiện cụ thể của nólà yếu tố lao động cả lao động tác nghiệp và các dạng lao động trong quản lý khác) là một sự vô tận mà việc khai thác hiệu quả các yếu tố này sẽ mang lại một lợi ích rất lớn. Chính vì những khả năng cũng như có lợi chứa đựng trong yếu tố con người –lao động đang là một hướng tập chung chú ý khai thác trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế hiện nay là một nền kinh tế trí thức, đó là một quan niệm hết sức đúng đắn trong bối cảnh hiện nay và vấn đề về trí thức lại không thể và không bao giờ tách ra khỏi yếu tố con người – yếu tố lao động.
Chất lượng sản phẩm là một đặc tính cố hữu của sản phẩm và không bao giờ tách rời với sản phẩm hay các đầu ra của hoạt động cung ứng dịch vụ. Là một đặc tính của sản, phẩm chất lượng cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố lao động, bao gồm cả lao động quản lý và các lao động khác trong suốt quá trình sản xuất và bảo quản sản phẩm. Không thể hy vọng sản phẩm của doanh nghiệp sẽ đạt chất lượng cao nếu như đội ngũ lao động với trình độ không đảm bảo một mức độ theo yêu cầu. Ngược lại trình độ quản lý tốt với đội ngũ công nhân lành nghề kết hợp với một số yếu tố khác sẽ tạo ra một khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp và tổ chức.
d. Chất lượng với các vấn đề khác.
Chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào vấn đề vốn, công nghệ
hay vấn đềlao động- quản lý. Khi xem xét chất lượng một cách tổng thể không thể không tính đến các ảnh hưởng của các vấn đề khác. Ngoài các yếu tố cơ bản (Vốn – công nghệ – lao động). Chất lượng sản phẩm còn bị ảnh hưởng – trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các yếu tố khác như trình độ quản lý, chất lượng các yếu tố đầu vào mà cụ thể là các loại nguyên liệu, nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Ngoài ra độ ổn định trong việc cung cấp các yếu tố trên cũng có một vai trò quan trọng quyết định tới chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm mà cụ thể là các đặc tính về chất lượng sản phẩm chịu sự tác động và chi phối của nhiều những nhân tố chủ quan và khách quan. Việc đinh dạng và định lượng được các nhân tố ảnh hưởng này có một vai trò hết sức quan trọng trong các công tác quản lý đặc biệt là quản lý hướng vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành trong tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đối với mỗi nhân tố vấn đề ở đây không phải là việc đơn giản xem xét các ảnh hưởng riêng rẽ của chúng mà cần phải xem xét, đo lường và đánh giá được tổng tác động trong một hệ thống nhất và các quyết định cần phải được xây dựng trên cơ sở những kết luận này.
2. Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
2. 1 Xu hướng hợp tác kinh tế .
Trong một thời kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới sau chiên tranh có một su hướng phát triển có thể dễ dàng nhận ra ngay đó là xu hướng hợp tác quốc tế đối với các nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực hay trên phạm vi toàn thế giới. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là sự hình thành và phát triển của những tổ chức thương mại, tổ chức kinh tế mang tính chất quốc tế. Ngoài ra các hiệp định song phương hay đa phương giữa các chính phủ các nước đóng vai trò quan trọng kịch thích và góp phần đẩy mạnh xu hướng hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế – nhân tố cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá. Những ví dụ cơ bản nhất cho xu hướng này có thể thấy ngay ở các tổ chức, các hiệp hội kinh tế hay thương mại như uỷ ban Châu Âu EEC – tiền thân của EU, hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ASEAN với khu mậu dịch tự do AFTA. hiệp ước chung về thuế quan và thương mại GATT tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngoài ra còn có một số các tổ chức và các diễn đàn hợp tác kinh tế khác như WP, IMF, OPEC, APEC, NAFTA…. Mặc dù các tổ chức hay các hiệp ước kinh tế này được lập ra với các mục đích có thể không hoàn toàn giống nhau nhưng chúng cùng có một điểm chung đó là dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và mục đích chính là để thúc đẩy và phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân bằng cách triệt để khai thác các lợi thế so sánh và tranh thủ các nguần lực từ bên ngoài hay đẩy mạnh thu hút và khai thác các nguồn lực nội sinh.
Có thể nói nguyên nhân cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá nói chung và xu hướng hội nhập hợp tác nói riêng đó là sự phát triển với trình độ ngày càng cao của phân công lao động xã hội. “ Là quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu, là tiến trình lịch sử. Nó đang và sẽ cuốn hút hầu hết các nước trên thế giới vào guồng máy của nó “.
2. 2 Giới thiệu chung về AFTA
* Các nguyên tắc và đòi hỏi khi tham gia vào AFTA.
Trong bối cảnh đa dạng và phức tạp của thế giới sau chiến tranh đặc biệt la sau chiến tranh lạnh, xuất hiện nhiều những tổ chức hợp tác, liên minh và liên kết kinh tế khu vực và thế giới thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ các nền kinh tế khác nhau, trong số những tổ chức, những liên minh về kinh tế được ra đời trong xu hướng chung của thời đại ấy phải kể đến Tổ chức thương mại thế giới WTO – ra đời trên cơ sở hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương APEC khu vực mậu dịch tự do bắc mỹ NAFTA tổ chức hợp tác A-ÂU ASEM Và hiệp ước các quốc gia Đông Nam A : AEAN với AFTA – khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á. Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tài chính mang tính chất Quốc tế khác như:Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB ….
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á là một dạng thức liên kết thương mại của ASEAN – Hiệp hội các Quốc Gia Đông Nam á, ý tưởng thanhf lập và thực hiện AFTA được Thái Lan đề xuất tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore tháng 1 năm 1992. Nhằm tiến tới thúc đẩy sự thực hiện AFTA tại hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) năm 1992. Các thành viên trong hiệp hội đã thống thất ký hiệp định thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT.
Đối với ASEAN, có thể nói , nhu cầu liên kết kinh tế thương mại đã được manh nha từ khá sớm. Năm 1977, một chương trình nhằm thúc đẩy mậu dịch gữa các thành viên đã được đưa vào thoả thuận với ưu đãi thương mạI, khác với TPA, quan hệ thương mại ASEAN theo CEPT được thực hiện trong môi trường mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần được loại bỏ hoàn toàn. Việc thành lập AFTA và thực thi hiệp định CEPT đương nhiên cũng chịu một số ảnh hưởng do bối cảnh lịch sử tạo ra. Trước hết đó là do trên thế giới , xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu rộng tác động mạnh mẽ tới mọi quốc gia, mọi nền kinh tế, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là tới lĩnh vực thương mại – kinh tế, dịch vụ và đầu tư. Sự ra đời của nhiều tổ chức liên kết và liên minh kinh tế với những thoả thuận thương mại khu vực hay song phương như EU ở Tây Âu, NAFTA của khu vực Bắc Mỹ là một thách thức không nhỏ đối với tăng trưởng của ASEAN. Trong khu vực, xu thế hoà bình và hữu nghị đang là xu hướng chung cùng cới xu hướng chung của thời đại, đó là xu hướng hoà bình, đối thoại và hợp tác. Cùng với những nguyên nhân tồn tại đó là các đòi hỏi và các yêu cầu của các nền kinh tế trong khu vực, sự tác động mạnh của tình hình thế giới, sáng kiến thành lập AFTA có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng nó vừa là một giải pháp tình thế vừa là một bước đi chiến lược nhằm tạo ra một khối thống nhất về thương mại mạnh hơn rộng hơn trong môi trường thế giới mới.
Với việc thành lập AFTA, mục đích chính của các nước thành viên là nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, trao đổi buôn bán trong khu vực, tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Từ đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá và bổ xung nguần lực giữa nền kinh tế của các nước thành viên, nâng cao khả năng thích ứng một cách chủ động với những thay đổi về điều kiện chung của tình hình thế giới nói chung và tình hình thương mại nói riêng, thúc đẩy sự phát triển của ASEAN và các nước thành viên. Để đạt được điều đó, các nước thành viên ASEAN cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chủ yếu mang tính nguyên tắc và kỹ thuật. Đó là việc cắt giảm các loại thuế nhập khẩu, loại bỏ hàng rào phi thuế quan và hài hoà các thủ tục hải quan trong nội bộ khối.
Để xây dựng thành công AFTA cũng như thực thi hiệp định CEPT . Các thành viên tham gia AFTA phải thực hiện một số quy định mang tính chất nguyên tắc như sau:
Cam kết cắt giảm các loại thuế nhập khẩu cho hàng hoá nội bộ ASEAN đạt mức thuế xuất từ 0 à 5% sau 15nămTheo điều khoản trên của nguyên tắc khi tham gia AFTA , từ tháng 1-1993 đến tháng 2-2008. hiệp định CEPT được áp dụng cho tất cả các loại hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu có thuế xuất bằng hoặc dưới 20%.
Tháng 9 – 1995. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 5 đã quyết định đẩy nhanh tiến độ thực hiện và xây dựng AFTA, đạt thuế xuất xuống mức 0 à 5% sau 10 năm từ tháng 1-1993 đến tháng 1-2003 và quết tâm đưa thuế xuất dự kiến đến năm 2015 là 0%.
Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc trên các chủng thuế của 6 nước thành viên của ASEAN đã được cắt giảm liên tục và đang hướng tới mức thuế xuất 0à5% vào năm 2002. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 đã quyết định rút ngắn 0thời hạn thực hiện CEPT đối với 6 nước là thành viên cũ của ASEAN xuống còn 9 năm. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, hội nghị cũng đi tới quyết định gia tăng thời hạn đối với các thành viên mới cụ thể là sau 10 năm kể từ khi gia nhập AFTA. Như vậy cho đến nay thời hạn để hình thành AFTA đối với các nước Singapore, Thai Lan, Philipine, Indonesia, Malaysia, và Brunei là vào năm 2002, của Việt Nam là 2006 của Lào và là 2008 Campuchia là 2010 khi đó thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN giảm còn khoảng 0à5%. Đồng thời các nước thành viên cũng thoả thuận và loại bỏ các hạn chế về định lượng, các hàng dào phi thuế quan vốn là nhân tố cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực và thế giới.
Như vậy với sự ra đời của AFTA. Các rào cản trở về thuế quan và phi thuế quan của các nước trong khu vực sẽ tiến tới hoàn toàn bị xoá bỏ tạo thuận lợi cho việc tự do buôn bán và thống nhất hàng hoá thị trường khu vực. Đây có thể nói là một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh
Trong nội bộ ASEAN. Trong một thị trường thống nhất ấy, các Doanh nghiệp mà trong đó có cả các Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội để khẳng định mình thông qua một thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo và đây cũng là một cơ hội mà không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam mà cả nền kinh tế nước ta có được một sự tăng trưởng cao và ổn định. Tuy nhiên, để đạt được điều đó chúng ta cần phải thực hiện một số các biện pháp nhằm đáp ứng được các yêu cầu và đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường quốc tế đạt đến một trình độ tương đối cao như thị trường AFTA tiến tới một thi trường rộng lớn hơn trong WTO, APEC … Đối với các Doanh nghiệp Việt Nam và đối với cả nền kinh tế nước ta. Các đòi hỏi chủ yếu và duy nhất khi ra nhập AFTA có thể là:
Xây dựng một hệ thống pháp luật tạo một hành lang pháp lý vững chắc vừa đảm bảo thúc đẩy tự do thương mại, và kinh tế vừa là những căn cứ vững chắc trong việc kiểm soát các hoạt động kinh tế nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng.
Khẩn trương tiến hành việc cắt giảm các loại thuế xuất nhập khẩu tiến tới huỷ bỏ hoàn toàn các cản thương mại trong hệ thống về thuế. Việc thực hiện yêu cầu này chính là bước khởi động đầu tiên trong tiến trình qua nhập AFTA của nước ta và cũng là của xu hướng hội nhập kinh tế – xu hướng chủ đạo trong phát triển và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện đại.
Trên đây là hai đòi hỏi và yêu cầu đối cới sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước trong quá trình tham gia vào AFTA và quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Đối với các Doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh của Việt Nam, việc ra nhập AFTA có thể là một cơ hội lớn cho sự phát triển, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị phần sản phẩm ra ngoài biên giới quốc gia, đẩy mạnh tiêu thụ hành hoá, ra tăng doanh thu và lợi nhuận Doanh nghiệp cũng còn phải thực hiện một số yêu cầu và đáp ứng các đòi hỏi cụ thể là:
Tìm hiểu kỹ pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, tìm tòi và nghiên cứu các nhu cầu của thị trường, đặc biệt là thị trường cuối năm trong các nước thành viên của ASEAN – AFTA. Việc này có một ý nghĩa rất quan trọng bởi vì tự do thương mại Tự do thương mại sẽ không có ý nghĩa gì nếu như Doanh nghiệp không hiểu biết gì về luật pháp quốc tế, đặc biệt là các bộ luật về thương mại hay các tập quán thương mại. Chúng ta (các Doanh nghiệp Việt Nam) cũng có thể tham gia một thị trường chung và thống nhất trong khu vực nếu như ta không biết khách hàng của chúng ta là ai ? ở đâu ? và họ cần những sản phẩm gì ?
Bằng mọi biện pháp và lổ lực nâng cao chất lượng sản phẩm và dịnh vụ hạ giá thành sản phẩm từ đó giảm giá bán sản phẩm. đây là nguyên tắc đầu tiên trong cạnh tranhcó hiệu quả, là một khối thị trường chung của các nền kinh tế các doanh nghiệp với các trình độ khác nhau đăc biệt với nước ta là một nước đang phát triển trình độ về khoa học kỹ thuật công nghệ còn hạn chế khả năng về vốn và quản lý chưa cao do vậy các vấn đề cạnh tranh từ phía thị trường là rất lớn nếu không có khả năng cạnh tranh thì cơ hội tham gia thị trường tự do sẽ biến thành một nguy cơ vì không những trên thị trường thế giới, ta còn bị cạnh tranh mạnh ngay cả trên thị trường trong nước - thị trường truyền thống.
Thực hiện tốt các biện pháp maketing nhằm khuếch trương sản phẩm và thu hút sự chú ý của khách hàng người tiêu dùng trên thị trường mới.
Ngoài các yêu cầu trên, chúng ta còn cần đến phải đáp ứng các yêu cầu khác về trình độ quản lý, cả ở tầm vĩ mô của nhà nước và tầm vi mô ở các Doanh nghiệp. Bởi hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò quan trọng của trình độ quản lý cả quản lý nhà nước lẫn quản lý tại nghiệp trong các doanh nghiệp .
* Yêu cầu về chất lượng sản phẩm.
Ra nhập thị trường AFTA, các sản phẩm do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất (hay có xuất xứ từ Việt Nam) sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với một thị trường rộng lớn hơn với các nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp người tiêu dùng, khách hàng với một khả năng thanh toán lớn hơn. Ngoài ra, việc tiếp cận với một thị trừơng mới cũng đem lại cho Doanh nghiệp Viêt Nam các cơ hội mới về thị phần tiêu thụ đó là các cơ hội cho một sự phát triển bền vững và lâu dài. Tuy nhiên, để sản phẩm của Việt Nam thực sự là một vũ khí, một phương tiện đi đến thành công cho các Doanh nghiệp thì cần phải trang bị cho chúng một sức mạnh, sức mạnh đó chính là khả năng cạnh tranh được ẩn chứa bằng một chất lượng cao, thoả mãn người tiêu dùng và khách hàng.
Chất lượng sản phẩm - Đó chính là yêu cầu của thị trường chung đối với các loại sản phẩm của Việt Nam. Trước các sức ép về cạnh tranh từ nhiều phía, với các đặc tính chất lượng nổi bật của các đối thủ cạnh tranh như chất lượng cao, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, giá cả rẻ chất lượng dịch vụ và bảo hành tốt thực sự là một nguy cơ đối với các loại sản phẩm của các Doanh nghiệp Việt Nam. Cần phải tạo ra các ưu thế ít nhất là ngang bằng đôi với các đối thủ cạnh tranh nếu như muốn cạnh tranh với họ trên cả thị trường khu vực và thị trường trong nước. Đó là một đòi hỏi một yêu cầu bức xúc và không thể không đáp ứng.
4. Vai trò của chất lượng sản phẩm đối với khả năng cạnh tranh và xu thế hội nhập vào AFTA.
Vai trò của chất lượng sản phẩm đối với khả năng cạnh tranh.
Một đặc trưng cơ bản dễ nhận biết nhất và cũng là một ưu điểm lớn nhất của cơ chế thị trường đó chính là tính cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh hoàn hảo.
Về cạnh tranh, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh thể hiện các quan điểm khác nhau và các mức độ khác nhau của tính chất quyết liệt trong cạnh tranh. Theo từ điển giải thích về kinh tế thị trường xuất bản lần thứ 2 tại Nga năm 1993 đã định nghĩa:” cạnh tranh là sự ganh đua, thi đua trên thị trường giữa các doanh nghiệp có cùng một mục đích là đảm bảo những khả năng tốt nhất về tiêu thụ sản phẩm của mình nhằm thoả mãn những yêu cầu đa dạng của người mua. Trên thị trường thế giới luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất hàng hoá để tham gia thành công vào thị trường nước ngoài, cần phải nâng cao đáng kể sức cạnh tranh của hàng hoá được sản xuất trong nước. Khi nhập khẩu nếu vận dụng tốt quy luật cạnh tranh đối với các nhà cung cấp nước ngoài thì sẽ có khả năng thu được những lợi ích đáng kể trong giao dịch mua hàng “.
Theo từ điển thương mại Anh- Pháp Việt do nhà xuất bản khoa học kỹ thuật xuất bản năm 1995 tại Hà Nội thì vấn đề cạnh tranh lại được nói đến một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn:” Cạnh tranh là tình trạng giành giật nhau về khách hàng và thị trường ”.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng nói chung cạnh tranh có thể hiểu là sự đấu tranh của hai hay nhiều bên cùng tham gia vào một hoạt động với cùng một mục đích. Mục đích áy có thể là quyền hành, là vị thế có lợi cho mình trên các phương diện. Trong kinh tế thị trường đó là sự dành giật về thị phần, quyền kiểm soát mua hoặc bán các loại sản phẩm. Là một phạm trù phức tạp cạnh tranh có liên quan đến nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu xẩy ra đặc biệt là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trường hiện đại đang len lỏi vào tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời sống sản xuất xã hội. Với đất nước ta, đặc biệt là từ sau chính sách đổi mới và mở cửa hợp tác của đại hội VI (1986). Kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là sự cạnh tranh đang ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc Công Nghiệp Hoá và Hiện Đại Hoá đất nước đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường và một cơ chế thị trường mang tính chất quốc tế cao luôn mở ra các cơ hội và đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức lớn lao cho các doanh nghiệp. Để chiến thắng trong cạnh tranh, để tồn tại và phát triển các Doanh nghiệp phải luôn tạo ra cho mình một khả năng cạnh tranh đối với mỗi sản phẩm hàng hoá. khả năng cạnh tranh hay sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ bao gồm các yếu tố: Mức chất lượng, giá cả, điều kiện cung cấp, hình thức thanh toán, phương thức vận chuyển và giao nhận môi trường canh tranh, vị thế so sánh vv. . Trong đó hai yếu tố mức chất lượng và giá cả là những yếu tố quan trọng hàng đầu. Hai yếu tố này luôn gắn liền với các thuộc tính vốn có của bản thân mỗi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Để nâng cao khả năng cạnh tranh đối với mỗi loại sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể sử dụng một loạt các biện pháp tác động đồng thời vào các yếu tố trên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hai yếu tố mức chất lượng và giá cả vẫn được ưu tiên hàng đầu và coi như là một nền tảng quyết định tới toàn bộ quá trình.
Ngày nay, trước tác động của sự phát triển của khoa học kỹ thuật sự thay đổi nhanh trong nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Cạnh tranh về giá trên thị trường đang có xu hướng chuyển dần sang cạnh tranh phi giá đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng. Vai trò quyết định của chất lượng còn được thể hiện ở tác động to lớn của nó tới khả năng sinh lời và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những số liệu thống kê cho thấy rằng những công ty có vị thế cao hơn về chất lượng có thể thiết lập một mức giá bán cao hơn đến 8% so với các sản phẩm cùng loại của các công ty khác mà họ vẫn bán chạy hàng hơn. Ngoài ra, mức thu hồi vốn đầu tư giữa hai loại công ty này cùng có một mức chênh lệch khá lớn đó là 20% và30%. như vậy, vấn đề chất lượng ngày nay không chỉ còn là một vấn đề kỹ thuật thuần tuý nữa mà đã chở thành một vấn đề mang tính chiến lược hàng đầu trong sản xuất – kinh doanh của các DN, tổ chức. Nó là yếu tố quyết định và cơ bản làm nên sức cạnh tranh của các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà DN hay tổ chức đang tham gia cung ứng, trên thị trường.
4.2 Vai trò của chất lượng sản phẩm trong tiến trình gia nhập AFTA.
Khi nền kinh tế nước ta thực sự tham gia vào AFTA cùng với các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp Việt Nam và cả nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng trước một thách thức lớn lao đó chính là vấn đề chất lượng sản phẩm và vấn đề cạnh tranh, sức cạnh tranh của các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ do ta sản xuất và cung cấp. So với các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam cũng như cả nền kinh tế nước ta còn bị hạn chế bởi trình độ phát triển, trình độ công nghệ, khoa học kỹ thuật và khả năng về vốn cũng như trình độ quản lý vv…Và do vậy chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp nước ta cũng như khả năng cạnh tranh còn yếu so với các đối thủ trong khu vực. Trong một thị trường chung rộng lớn được quốc tế hoá cao. Vấn đề chất lượng sản phẩm ngày càng trở nên vô cùng quan trọng bởi tính chất cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh quốc tế đang có nhiều thay đổi và các thay đổi này lại đang hướng theo chiều hướng cạnh tranh bằng chất lượng. Theo hướng ấy, để có thể tồn tại và phát triển không những trên thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Các Doanh nghiệp Việt Nam cần phải hướng các nỗ lực của mình vào các vấn đề cải tiến và nâng cao chất lượng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. không chỉ khách hàng trong nước mà còn có cả khách hàng trong khu vực và quốc tế.
Phần II .
Thực trạng về chất lượng của
các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng
1.1. Thực trạng chung
Khi đánh giá những thực trạng chung về chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp Việt Nam một cách khách quan có thể thấy. Các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu cả về thế và lực. Hơn 90% các doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với số lương vốn dưới 5 tỷ đồng. Trong khi đó, cơ sơ hạ tầng, máy móc thiết bị cũng như các dây truyền công nghệ còn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Hơn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và cơ cấu lại. Do vậy năng lực sản xuất còn thấp khả năng cạnh tranh, chât lượng của các sản phẩm sản xuất ra còn kém do chi phí sản xuất lớn, nguyên vật liệu phải nhập từ nước ngoài, công xuất sử dụng máy móc thấp, kỹ năng và trình độ quản lý, tay nghề công nhân còn thấp. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới do đó gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm tiếp cận thị trường cũng như các thông tin cần thiết liên quan tới quá trình hội nhập. Trong khi đó, các DN Việt Nam hiện nay, cho đến nay, vẫn chưa xây dựng được nội dung hoạt động và chiến lược kinh doanh của DN trước sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh và của các đối tác và của các doanh nghiệp trong khu vực.
Với thực trạng trên của toàn bộ hệ thống sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của các loại hàng hoá và dịch vụ. Những ảnh hưởng đó trước tiên bắt nguần từ vấn đề công nghệ sản xuất. Với dây truyền công nghệ sản xuất lạc hậu, các loai sản phẩm của ta thường có một chất lượng cả về nội dung lẫn hình thức rất yếu so với các sản phẩm cùng loại được sản xuất từ các doanh nghiệp trong khu vực. Một ví dụ điển hình về mặt đó là các sản phẩm cơ khi hoá của Viêt Nam. Được trang bị công nghệ sản xuất của Liên Xô từ những năm 60 –70 của thế kỷ 20, các sản phẩn cơ khí của ta thường tỏ ra kém ưu thế hơn so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Kích thước cồng kềnh hình thức không đẹp, hiệu xuất thấp hao phí nhiên liệu lớn đó là các đặc điểm chính của các sản phẩm này.
Ngoài sản phẩm cơ khí, còn một số rất lớn các loại sản phẩm của ta được sản xuất ra với chất lượng chưa đạt yêu cầu trong hôị nhập kinh tế và thậm chí chưa đạt yêu cầu tiêu chuẩn cho phép.
Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang mở ra một cơ hội lớn về thị trường cho các Doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, khi khả năng hội nhập sắp thực sự mở ra cho các hàng hoá, sản phẩm và dịch vụ của ta thì các sản phẩm này phần lớn lại chưa đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn mang tính chất pháp lý mà các thị trường ở các nước phát triển đòi hỏi. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, may mặc là một ngành có nhiều lợi thế về cạnh tranh do tận dụng được các ưu thế về nguồn lao động rồi dào . Có thể nói đây là một ngành mũi nhọn của nền kinh tế trong xuất khẩu sau Dầu Mỏ, đem lại một nguần ngoại tệ rất lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, mặc dù là một hướng xuất khẩu mạnh của ta trong thời kỳ Công nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Đất Nước nhưng chính các sản phẩm May Mặc của ta nhiều khi lại chưa đạt được đến một tiêu chuẩn cho phép thâm nhập vào các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật và chưa kể tới sức cạnh tranh ngày một lớn của các sản phẩm may mặc của Trung Quốc.
Ngoài thực trạng về các loại sản phẩm kể trên, có thể nói các vấn đề về quản lý (Bao gồm cả quản lý về chất lượng) cũng đóng một vai trò ảnh hưởng lớn tới các thực trạng trên.
Do mới chuyển tư một cơ chế quản lý tập chung quan liêu sang một nền kinh tế thị trường đầy năng động nên vấn đề về quản lý trong các doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ và tồn tại nhiều bất cập trong quản lý. Những bất cập đó có thể thấy do ở cơ cấu tổ chức cồng kềnh, kém hiệu quả. Bản thân đã là một cơ chế quản lý mang tính chất kế hoạch hoá nhưng trong các quyết định quan trọng lại thường thiếu tính kế hoạch hoặc không thể hiện một định hướng kế hoạch rõ ràng đặc biệt là các kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược. Hiện tượng “giật gấu vá vai” là hiện tượng thường thấy trong kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Có thể thấy rõ, việc thiếu tác chiến lược dài hạn, thiếu các kề hoạch kinh doanh trong quản lý sản xuất kinh doanh ảnh hưởng rất lớn đế sức cạnh tranh trong các loại sản phẩm và chất lượng của chúng.
Vốn và lao động – trong sản xuất kinh doanh là một phần rất quan trọng có thể nói đây là hai nhân tố đầu tiên khi bước vào quá trình sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ phải có. Mặc dầu vậy , như đã nói ở trên đây lại là một vấn đề nan giải cho các doanh nghiệp nước ta. Lượng vốn không đủ lớn, cơ cấu vốn bất hợp lý đã có ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm làm ra do không kịp để đổi mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Phần nhiều trong lực lượng lao động rồi dào ở nước ta là lao động phổ thông chưa qua đào tạo luật đào tạo không cơ bản cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm sản xuất ra.
1. 2. Một vài đánh giá và các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhưng các doanh nghiệp việt nam trong nỗ lực nhằm nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, cải tiến đổi mới hệ thống quản lý nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ưu thế trong cạnh tranh đã thu được một số thành tựu đáng kể.
Về chất lượng sản phẩm. Sau khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào xu hướng phát triển chung của thế giới. Chất lượng sản phẩm của ta có nhiều tiến bộ đáng kể các sản phẩm của Việt Nam từ chỗ được sản xuất theo các kế hoạch của nhà nước, xa rời các nguyên tắc thị trường và thị hiếu cũng như các nhu cầu của người tiêu dùng dẫn đến chất lượng biến dáng cũng như tính năng và công dụng chậm được đổi mới và cải tiến. Giờ đây khi phát triển trong kinh tế thị trường dưới tác động của các chính sách đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, các sản phẩm này đã có những tiến bộ ro rệt chất lượng sản phẩm được nâng cao, đổi mới một cách toàn diện và hiệu quả hơn dần đáp ứng được các nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và hướng dần ra xuất khẩu. Việc áp dụng việc quản lý chất lượng ở tầm vĩ mô bằng các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn hiệu quả cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam lên một tầm cao mới, bước đầu cho phép các sản phẩm này có khả năng cạnh tranh vơi các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Theo đà phát triển hiện tại , các sản phẩm của việt nam rất có thể sẽ chiếm lĩnh được một thị trường quốc tế rộng lớn không những trong khu vực mà còn trên cả các thị trường quốc tế khác như thị trường Mỹ, Thị trường EU, thị trường Nhật. v. v. . Điều này được thể hiện rõ nét trong mức tăng của kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sang các thị trường trên hàng năm.
Về vấn đề vốn và công nghệ cũng như các lĩnh vực và quản lý, lao động và đào tạo lao động. Nền kinh tế thị trường mở theo xu hướng hội nhập quốc tế và tạo điều kiện cho các đồng vốn đầu tư nước ngoài chạy vào . Theo đó là sự phát triển của vấn đề khoa học- kỹ thuật và công nghệ đã làm thay đổi toàn bộ thị trường vốn, thị trường công nghệ và sau đó là thị trường sản phẩm. Đây là những thay đổi mang tính chất tích cực cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng trong việc sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm với chất lượng cao hơn. Nó cho phép quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thực sự sẽ là những cơ hội phát triển mới cho không chỉ các sản phẩm của Việt Nam mà cho cả các Doanh nghiệp và toàn bộ hệ thống sản xuất của nền kinh tế quốc dân
2. Thách thức đối với chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa của AFTA.
2. 1. Đòi hỏi của việc ra nhập AFTA đối với các sản phẩm của Việt Nam.
Do đòi hỏi của các hiệp ước cũng như các nguyên tắc khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và AFTA nói riêng. Nền kinh tế Việt Nam và do đó cả thị trường Việt Nam là một nền kinh tế mở và một thị trường mở rộng dãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các nhà sản xuất cùng với các loại sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của họ. Với việc gia nhập AFTA, các doanh nghiệp việt nam cùng với các sản phẩm, dịch vụ mà họ cung ứng sẽ phải chịu một sức ép lớn hơn trong cạnh tranh từ phía các nhà cung ứng và sản xuất trong khu vực cũng như từ phía sản phẩm của họ. Với ưu thế vượt chội về vốn, công nghệ, khả năng thanh toán và về các đảm bảo dịch vụ sau bán, các sản phẩm của các nhà cung cấp đến từ các nước trong khu vực sẽ tràn vào thị trường nước ta khi chúng ta thực sự hoà nhập vào một khối thị trường chung, thống nhất. Đó là thị trường AFTA vào năm 2003 và tạo ra một sức ép cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm nội địa cùng loại. Như vậy, đối với các sản phẩm của Việt Nam, đây sẽ là một nguy cơ nếu chúng ta không đổi mới, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩp hàng hoá của mình. nguy cơ này nằm ở việc sẽ phải mất đi một thị phần không nhỏ trên một thị trường rộng lớn ngay khi ta chưa kịp định hướng cho các sản phẩm của mình ra các thị trường nằm ở bên ngoài biên giới quốc gia. Nếu chỉ xét về mặt này mở cửa kinh tế và hội nhập là một điều bất lợi đối với các sản phẩm hàng hoá của ta. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, một nền kinh tế khép kín một cách tiêu cực là không thể tồn tại và phát triển, đặc biệt là trong tiến trình toàn cầu hoá, xu thế hội nhập và quốc tế hoá như hiện nay. Hội nhập và mở cửa là một tất yếu và chỉ có đáp ứng được tính tất yếu này thì mới có thể phát triển kinh tế và tạo ra những nguần lực quan trọng cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Cạnh tranh là một một đặc tính cố hữu của cơ chế thị trường, thông qua cạnh tranh các chủ thể kinh tế mới có cơ hội tìm ra cho mình một hướng phát triển, cơ chế thị trường không còn ý nghĩa gì nếu thiếu đi tính cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh trên một phạm vi rộng lớn. Cung vậy, các sản phẩm của Việt Nam hay các Doanh nghiệp Việt Nam và cao hơn nữa là đòi hỏi cho cả nền kinh tế Việt Nam sẽ không thể phát triển nếu như không tự đặt mình vào trong một môi trường đầy tính chất cạnh tranh như môi trường mà xu thế hội nhập và hợp tác đặt ra. Ngoài ra, còn một khía cạnh khác quan trọng khác luôn thôi thúc việc ra nhập AFTA của các sản phẩm của Việt Nam đó là tính chiến lược trong hoạch định và phát triển nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Phát triển sản xuất kinh doanh có định hướng lâu dài ở tầm vi mô trong các doanh nghiệp. Thực vậy, do tác động của nhiều yếu tố khác nhau thuộc môi trường sản xuất kinh doanh hiện đại đòi hỏi các Doanh nghiệp phải có một tầm nhìn dài hơn cho các loại sản phẩm của mình đang cung cấp và có thể sẽ cung cấp trong tương lai việc định hướng này xẽ giúp cho các doanh nghiệp lường trước được những khó khăn và những nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai đồng thời nắm bắt kịp thời các cơ hội của sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, các cơ hội kinh doanh và phát triển lại nằm chủ yếu ở các thị trường trong khu vực và quốc tế trong khi thị trường trong nước đã trở nên bão hoà và tính chất bão hoà này đôi khi chỉ mang tính tính chất cục bộ. Biểu hiện rõ nét của vấn đề này chính là nằm ở tính chất của thị trường các nước trong khu vực với một nhu cầu đa dạng hơn, khả năng thanh toán lớn hơn, trên một bình diện rộng hơn.
2. 2 Thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA
Khi tham gia vào thị trường AFTA. Các doanh nghiệp việt nam có thể có cơ hội để tận dụng các lợi thế so sánh cung như tranh thủ được về vốn và công nghệ từ nước ngoài cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội đó luôn tồn tại các thách thức buộc các Doanh nghiệp Viêt nam phải giải quyết nếu muốn thành công trong quá trình hội nhập. Với thực trạng hiện nay của các doanh nghiệp việt nam, có thể thấy một số khó khăn thách thức chủ yếu sau đây;
- Năng lực cạnh tranh của cácloại sản phẩm hàng hoá còn thấp năng xuất, hiệu quả lao động chưa cao, chất lượng sản phẩm và dịch vụ chưa đạt yêu cầu.
Với một thực trạng đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, so với các doanh nghịêp khác thuộc các nước ASEAN, rõ ràng các doanh nghiệp nước ta còn yếu hơn về mọi mặt. điều này có thể thấy rõ qua các chỉ tiêu sau; Tài sản cố định bình quân cho một lao động của doanh nghiệp nhà nước chỉ có 44 triệu đồng trong khi đó gần một nửa chỉ có khoảng 20 triệu đồng. Với 23. 000 Doanh nghiệp tư nhân khác thì con số này chỉ bằng 16% so với các doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa, với các trang thiết bị máy móc lao động, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu lớn do vậy đẩy chi phí sản xuất tăng cao từ 30—50% so với các đối tác ASEAN. Lợi nhuận doanh nghiệp hiện nay tập chung chủ yếu vào các doanh nghiệp độc quyền nhà nước trong khi đó, nhiều doanh nghiệp khác sản xuất không hiệu quả. Một số doanh nghiệp kinh doanh không có mục đích dẫn đến tình trạng “lãi giả, lỗ thật” trở nên phổ biến, tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau do vậy khả năng cạnh tranh, sự thích ứng một cách linh hoạt đối với những thay đổi từ môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp còn yếu. Chính từ những thách thức trên làm cho chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp việt nam còn chưa đủ mạnh, để tạo ra sức mạnh cạnh tranh tương ứng với các sản phẩm cùng loại khác trong khu vực.
- Khả năng cân đối vốn và sử dụng vốn để đầu tư và tái sản xuất của các doanh nghiệp việt nam còn nhiều những vấn đề bất ổn.
Nếu so với khả năng về vốn của các doanh nghiệp trong khu vực, khả năng về vốn của của các doanh nghiệp việt nam còn thấp, tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp này là phổ biến. điều này có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề đầu tư đổi mới và cải tiến công nghệ và do đó ảnh hưởng đến vấn đề chất lượng sản phẩm. Việc không nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh trên thị trường ngoài các lý do khác trong đó các lý do về vốn chiếm một tỷ lệ khá lớn. Theo các số liêụ, các doanh nghiệp việt nam còn thiếu khoảng 20. 000tỷ đồng tiền vốn chưa kể các nguần vốn đầu tư cho cơ sơ hạ tầng và mặt bằng sản xuất. Riêng nguần vốn lưu động của các doanh nghiệp mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu. đây là một thách thức lớn và không dễ gì giải quyết, việc vay vốn và tình hình vay vốn ở các Doanh nghiệp này lại khác. Mặc dù bị thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhiều Doanh nghiệp lại ngại vay vốn từ ngân hàng hoặc vay vốn từ việc huy động các nguần vốn khác. nguyên nhân dẫn đến tình trạng này không phải là do lãi xuất của ngân hàng quá cao (thực tế thì lãi xuất này rất thấp)cũng là do các doanh nghiệp tỏ ra yếu kém khi giải ngân cũng như gặp nhiều khó khăn khi tìm đầu ra cho sản phẩm. Đây cũng là một khó khăn chung đối với tất cả các doanh nghiệp việt nam trong bước đầu của tiến trình hội nhập kinh tế nói chung và AFTA nói riêng
- Tham gia vào thị trường AFTA chính là việctham gia vào một thị trường giàu tiềm năng nhưng cũng đầy biến động và ẩn chứa nhiều nguy cơ, nhiều rủi ro có thể dẫn đến tình trạng phá sản. Chính lý do trên đòi hỏi các Doanh nghiệp Việt nam phải có sự chuẩn bị đầy đủ cho quá trình hội nhập, tìm ra được những chiến lược, đưa ra được những chính sách thích ứng để việc ra nhập AFTA có thể thu được kết quả mong muốn. Vấn đề này liên quan đến nhiều yếu tố. Trước hết, mức độ phổ cập cũng như khả năng nắm bắt kịp thời các thông tin liên quan đến vấn đề AFTA đối với các Doanh nghiệp còn thiếu và không đồng bộ cũng như chưa có sự thống nhất. Mội dung của các chương trình AFTA còn mang tính khái quát cao mà chưa có những nội dung cụ thể để gắn với mục tiêu và chính sách hội nhập kinh tế của các Doanh nghiệp. Ngoài ra lịch trình cắt giảm thuế theo nội dung của CEPT về tổng thể được chuẩn bị tương đối đầy đủ nhưng các danh mục cắt giảm thuế của từng doanh nghiệp triển khai còn chậm chạp và lúng túng. Nhìn chung các doanh nghiệp Việt nam chưa định ra được chiến lược và chính sách cạnh tranh sản phẩm để đến thời điểm 2006, khi kết thúc chương trình tự do hoá thương mại của Việt Nam trong khuân khổ AFTA. Các Doanh nghiệp Việt Nam có khả năng chủ động trong tự do cạnh tranh để chiếm thị phần tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và khu vực . Ngoài các thách thức đã nêu ở trên, trước khi tham gia vào AFTA các Doanh nghiệp Việt nam phải tính đến và tìm các biện pháp giải quyết tốt. Đó chính là khả năng tiêu thụ chậm của thị trường nội địa hạn chế việc kích thích các Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, cải cách cơ cấu mặt hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hạn chế này cũng xuất phát từ vấn đề chất lượng của sản phẩm của Doanh nghiệp còn nhiều điểm chưa phù hợp so với nhu câu và yêu cầu của khách hàng nội địa, mặt khác do sức mua của thị trường trong nước giảm xút cũng là một nguyên nhân là cho các Doanh nghiệp bị cô đọng vốn ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh Doanh và do đó ảnh hưởng tới vị thế kinh doanh của các Doanh nghiệp trong môi trường kinh Doanh mới.
Trên đây là các thách thức mà các Doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp phải khi tham gia vào hội nhập kinh tế Quốc tế đặc biệt là tham gia vào AFTA. Nnhững thách thức này được đặt ra một mặt đòi hỏi các Doanh nghiệp phải từng bước giải quyết cho phù hợp với các điều kiện kinh doanh mới mặt khác nó cũng là một động lực thúc đẩy các Doanh nghiệp Việt Nam tự tìm ra cho mình một hướng đi mới với cả những chiến lược kinh doanh lẫn chất lượng sản phẩm từ đó hội nhập một cách tốt hơn, thành công hơn vào AFTA.
Phần III .
Một số giải pháp
Từ những thực trạng nêu trên của toàn bộ nền kinh tế, các Doanh nghiệp Việt Nam cũng như vấn đề về chất lượng sản phẩm. Căn cứ vào cơ hội đặt ra và các thách thức đòi hỏi phải giải quyết. Để thực hiện tốt hơn việc ra nhập AFTA và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Các Doanh nghiệp Việt Nam còn cần phải thực hiện một số giải pháp mang tinh chất chiến lược sau:
1. Cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đổi mới và hiệu chỉnh lại các chiến lược kinh doanh của các Doanh nghiệp.
Mục đích chính của giải pháp này là nhằm vào việc nâng cao năng xuất và năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam trong quá trinh tham gia AFTA. Để thực hiện giải pháp này lần lượt tiến hành một cách đồng bộ vừa cải tiến chất lượng vừa tiến hành xây dựng các chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp.
1.1. Cải tiến và nâng cao chất lượng.
Chất lượng là nhân tố bền vững nhất và cơ bản nhất làm nênsức mạnh cạnh tranh của mỗi Doanh nghiệp. Khẳng định vai trò này của chất lượng đối với khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của Doanh nghiệp tức là đã thừa nhận vai trò quyết định của chất lượng sản phẩm đối với việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, mở rộng thị phần và thị trường tiêu thụ nâng cao vị thế của Doanh nghiệp trên cả thị truờng trong nước và quốc tế. để thực hiện cải tiến và đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh nghiệp phải thực hiện một số biện pháp cụ thể kết hợp với các chiến lược dài hạn và các kế hoạch khác.
-Cải tiến phương thức quản lý đặc biệt là hoạt động quản lý tài chính, quản lý các yếu tố đầu vào nhằm làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Các cải tiến này phải theo hướng tính giảm các bộ máy, đơn giản hoá các bộ máy quản lý và các thủ tục về tài chính hay các thủ tục khác để có thể thích ứng nhanh nhạy với các thay đổi của thị trường. Quản lý các yếu tố đầu vào một cách chặt chễ có khoa học là tiền đề để giảm bớt sự lãng phí trong việc phân phối cũng như sử dụng các yếu tố đầu vào này.
- Đầu tư đổi mới trang thiết bị máy móc, dây truyền công nghệ sản xuất gắn với gắn với năng lực ưủan lý và trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên. Việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất là một chiến lược lâu dài của doanh nghiệp, có ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt của đời sống doanh nghiệp sau này chính vì vậy, chiến lược này phải được xem xét một cách kỹ lưỡng và bằng các tính toán một cách khoa học. Đổi mới trang thiết bị máy móc và dây truyền sản xuất công nghệ chính là tiền đề cho việc thực hiện một chất lượng một chất lượng sản phẩm cao.
-Nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp thị để tạo thêm giá trị cho sản phẩm. Thực hiện các biện pháp khuyếch trương sản phẩm như quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đưa ra các thông tin về sản phẩm đến với mọi người giúp mọi người nhận thức một cách rộng dãi, đầy đủ và rõ ràng hơn về sản phẩm.
áp dụng các biện pháp cũng như các hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm hiệu quả nhất. Hiện nay trên thực tế tồn tại nhiều những hệ thống quản lý chất lượng cũng như các tiêu chuẩn về chất lượng vào việc quản lý. Cụ thể, đó có thể là hệ thống TQM, TQC. . VV hay các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng như Tiêu chuẩn ISO –9000. ISO –14000. .
áp dụng hệ thống quản lý chất lượng nào hay các tiêu chuẩn nào phụ thuộc vào tình hình thực tế của các doanh nghiệp cũng như hệ thống dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp. Triển khai áp dụng các dây truyền công nghệ chính là chuẩn bị các yếu tố vật chất góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng không chỉ chú ý đến yếu tố này mà còn phải nhấn mạnh đến các hệ thống quản lý đặc biệt là hệ thống quản lý chất lượng hay các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng khác. Trong quá trình nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, các Doanh nghiệp còn phải chú ý đến các vấn đề cụ thể như phấn đấu đưa chất lượng sản phẩm của mình dần đạt tới các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì thực hiện mã vạch đối với các loại sản phẩm.
- Ngoài ra để sản phẩm thực sự có chỗ đứng trên thị trườngthì vấn đề thực hiện các đảm bảo sau bán là rất quan trọng bản thân các hệ thống quản lý chất lượng cũng như các tiêu chuẩn chất lượng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của mình trước người tiêu dùng trong thời hạn nhất định. Trong thực tế, khi đánh giá về chất lượng sản phẩm bao giờ người ta cũng đánh giá cả chất lượng các dịch vụ đi bán. Đây là su hướng chung và ở một góc độ nào đó thì chất lượng dịch vụ này co ảnh hưởng khá lớn tới chất lượng sản phẩm nói chung và khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp cũng như sức cạnh tranh của chính loại sản phẩm hàng hoá đó
1.2. Xây dựng chiến lược Doanh nghiệp
Bên cạnh chiến lược tổng thể của nhà nước, của các bộ các ngành chủ quản. Thì Doanh nghiệp cũng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh riêng. Nội dung của chiến lược Doanh nghiệp phải hướng vào một số vấn đề cơ bản sau đây ;
+ Phân tích các lợi thế cạnh tranh của Doanh nghiệp trong mối tương quan với các Doanh nghiệp cùng ngành và các đối thủ cạnh tranh.
-Xác định các đặc điểm kinh té chủ chốt như thị trường, thị phần, các điều kiện của thị trường của khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô tối ưu của sản lượng.
-Xác định các nhân tố tác động đến sự phát triển của từng ngành, từng điều kiện cạnh tranh, thay đổi công nghệ, nguyên, nhiên vật liệu, phương hướng kinh doanh, su hướng tiêu thụ của thị trường.
-Phân tích các yếu tố cạnh tranh chủ yếu, đối với các doanh nghiệp, các đối thủ cùng ngành và các đối thủ khác trong mối quan hệ với các nhà cung cấp nguyên vật liệu, vốn đầu tư, quan hệ với khách hàng. Đặc biệt trong phân tích này phải nhấn mạnh các yếu tố chất lượng sản phẩm, bởi đây chính là yếu tố cơ bản đối với khả năng cạnh tranh của các Doanh nghiệp
+Nghiên cứu, dự báo về tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế trong bối cảnh của hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời xác định trước các tác động, xu hướng thương mại chung trên thị trường.
+Từ cơ sở của các phân tích trên, các Doanh nghiệp việt nam cần phải xác định các chiến lược cụ thể của mình đặc biệt là chiến lược tập chung vào nỗ lực cải tiến, nâng cao chất lượng giảm giá thành và chi phí sản xuất. Tạo lợi thế thông qua giá trị gia tăng của sản phẩm, lựa trọn và nghiên cứu thiết kế các sản phẩm mới nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra khi xác định chiến lược kinh doanh dài hạn Doanh nghiệp còn phải tạo ra cho các sản phâmr của mình những đặc trưng riêng về bí quyết và nhãn mác sản phẩm.
2. Từng bước cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh của doanh nghiệp .
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là sự hộ tụ của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm các biện pháp vi mô và vĩ mô nhằm tạo cho Doanh nghiệp biết sử dụng khai thác quy trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá. Các yếu tố này bao gồm biện pháp xúc tiến xuất, đầu tư, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý và tay nghề, các chính sách hỗ chợ sản phẩm … Quan trọng hơn, các Doanh nghiệp phải xác định rằng việc ra nhập AFTA là nhiệm vụ của chính Doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh mở của nền kinh tế.
3. Cần có sự hỗ trợ của Nhà Nước đối với các Doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia AFTA.
Với vai trò là người cầm lái nền kinh tế, ở phạm vi vĩ mô nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc ra nhập AFTA của các sản phẩm của Việt Nam. Vai trò này của nhà nước thể hiện ở việc hướng các hoạt động của mình vào các vấn đề thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam có điều kiện tham gia vào thị trường thế giới và khu vực. Việc đặt ra các tiêu chuẩn chất lượng trong việc quản lý các tiêu chuẩn chất lượng này đòi hỏi các Doanh nghiệp phải thực hiện cho các sản phẩm của mình tuân thủ theo. Đây là bước đầu tiên trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Như vậy, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng vị thế cạnh tranh của các Doanh nghiệp, bảo vệ các Doanh nghiệp này khỏi những nguy cơ tiêu cực của cạnh tranh Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện tiến trình ra nhập AFTA của các Doanh nghiệp Việt Nam.
Các biện pháp cụ thể mà ở góc độ vĩ mô, Nhà nước cần phải thực hiện là:
Tăng cường sự quản lý đối với các tiêu chuẩn chất lượng trong ngành hay lĩnh vực sản phẩm.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học kỹ thuật đầu tư đổi mới về mặt khoa học- công nghệ sản xuất hướng tới việc cung cấp cho các Doanh nghiệp một nền tảng vật chất của việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đẩy mạnh việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương về kinh tế – thương mại – khoa học kỹ thuật nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế được nhanh hơn và mạnh hơn.
Gấp rút thực hiện các nguyên tắc của AFTA, sớm đưa nền kinh tế các Doanh nghiệp vào trạng thái của một thị trường chung trong khu vực.
4. Kết hợp giữa việc tham gia AFTA với các hình thức hợp tác kinh tế khác giữa Doanh nghiệp Việt Nam với các Doanh nghiệp các nước ASEAN.
Có thể nói trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nói chung, tham gia vào AFTA nói riêng, các Doanh nghiệp Việt nam không chỉ nên chú ý tới các vấn đề cạnh tranh với các đối thủ khác trong khu vực, mà phải coi việc hợp tác với họ là một chiến lược. Như ta đã biết so với các đối thủ cạnh tranh, chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp Việt Nam yếu hơn. Điều đó là một hệ quả của một trình độ thấp hơn về vốn, công nghệ, quản lý của ta so với các đối tác ASEAN, vì lý do trên hợp tác nhằm học hỏi và tranh thủ các thế mạnh của họ, tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện vị thế cạnh tranh hơn. Ngoài ra việc hợp tác này cũng tạo ra cho ta một chỗ dựa nào đó làm giảm đi các sức ép cạnh tranh từ bên ngoài vào chính các ưu thế cạnh tranh của các đối tác này. Đó là ý nghĩa chính của việc hợp tác, song song với cạnh tranhvới các Doanh nghiệp, các đối tác ASEAN khác.
kết luận
Tiến trình hội nhập và hợp tác kinh tế đã và đang được khởi động và chở thành một xu hướng chung , xu hướng tất yếu của thời đại. Thời điểm ra nhập khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) đang tới gần buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các sức ép cạnh tranh lớn và từ nhiều phía, nhiều cấp độ. Việc trang bị cho mình một khả năng cạnh tranh là một yêu cầu và đòi hỏi không thể thiếu. Vấn đề cạnh tranh hiện đại đặt ra nhiều những đòi hỏi về các yếu tố của cạnh tranh trong đó chất lượng sản phẩm luôn được coi là một nhân tố bền vững và cơ bản nhất.
Chính vì vậy, việc cải tiến đổi mới chất lượng sản phẩm đối với các Doanh nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa của AFTA là một vấn đề mang ý nghĩa sống còn. Vì vậy, việc làm rõ những thực trạnh, những tồn tại, từ đó đưa ra các giải pháp cả ở tầm vi mô và vĩ mô đối với các chính sách các chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp từ đó đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm có một ý nghĩa quan trọng không chỉ với các Doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và ra nhập AFTA.
Tài liệu tham khảo
1) Các bài giảng môn quản trị chất lượng của thầy Vũ Anh Trọng
2) Các bài giảng môn Thiết kế hệ thống chất lượng của thầy Hoàng Mạnh Tuấn
3) Các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới
4) Tạp chí Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, các số 1, 2, 4, 6/2001; 8, 12/2000
5) Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 1,2/2001
6) Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 8/2000.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA334.doc