Tài liệu Đề tài Cầu lao động và các giải pháp để kích cầu lao động ở Việt Nam trong những năm gần đây: A/ LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào, có hàng triệu người chưa có việc làm, mỗi năm lại có hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động. Đặc biệt, quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi cơ bản trong quan hệ lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn; việc tổ chức sắp xếp lại sản xuất trong các doanh nghiệp dẫn đến hàng chục vạn lao động dôi dư, làm cho sức ép về lao động – việc làm ngày càng trở nên gay gắt, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Từ 2000-2007,cầu lao động của nền kinh tế liên tục tăng tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao, cung chưa đáp ứng được cầu.Vì vấn đề giải quyết việc làm gắn chặt với nhu cầu sử dụng lao động của nền kinh tế nên việc nghiên cứ thực trạng cầu lao động, tìm ra giải pháp kích thích nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trong giai đoạn tới có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trên cơ sở kiến thức đã được học và nghiên cứu thực tế về thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2000-2007, nhận thức đượ...
37 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1049 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cầu lao động và các giải pháp để kích cầu lao động ở Việt Nam trong những năm gần đây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A/ LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào, có hàng triệu người chưa có việc làm, mỗi năm lại có hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động. Đặc biệt, quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi cơ bản trong quan hệ lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn; việc tổ chức sắp xếp lại sản xuất trong các doanh nghiệp dẫn đến hàng chục vạn lao động dôi dư, làm cho sức ép về lao động – việc làm ngày càng trở nên gay gắt, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Từ 2000-2007,cầu lao động của nền kinh tế liên tục tăng tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao, cung chưa đáp ứng được cầu.Vì vấn đề giải quyết việc làm gắn chặt với nhu cầu sử dụng lao động của nền kinh tế nên việc nghiên cứ thực trạng cầu lao động, tìm ra giải pháp kích thích nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trong giai đoạn tới có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trên cơ sở kiến thức đã được học và nghiên cứu thực tế về thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2000-2007, nhận thức được tầm quan trọng của cầu lao động trong vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam và những hạn chế còn tồn tại, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài : “Cầu lao động và các giải pháp để kích cầu lao động ở Việt Nam trong những năm gần đây” để nghiên cứu một mặt nhằm đánh giá tầm quan trọng của đề tài , đồng thởi tìm ra thực trạng cầu lao động, nguyên nhân ,giải pháp và dự báo ngắn hạn cho thị trường lao động Việt Nam trong giai đoạn tới , đồng thời hoàn thiện thêm vốn tri thức nhỏ bé của mình, hỗ trợ cho quá trình học tập cũng như nghiên cứu sau này. Đề án của em gồm 3 phần chính:
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẦU LAO ĐỘNG
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CẦU LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY. (2001-2007)
CHƯƠNG III : DỰ BÁO CẦU LAO ĐỘNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CÂU
LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM.
Trong bài luận này, do trình độ kiến thức còn chưa sâu,chưa đầy đủ và do giới hạn về thời gian nên mặc dù đã rất cố gắng song bài viết của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót.Vì vậy em rất mong được sự chỉ bảo và giúp đỡ của thầy giáo bộ môn để hoàn thiện hơn nữa bài viết này cũng như kiến thức chuyên ngành của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
A/ LỜI NÓI ĐẦU
B/ NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẦU LAO ĐỘNG
KHÁI NIỆM VỀ CẦU LAO ĐỘNG
Khái niệm cầu lao động.
Cơ sở xác định cầu lao động.
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẦU LAO ĐỘNG
KÍCH CẦU LAO ĐỘNG
3.1 KHÁI NIỆM KÍCH CẦU LAO ĐỘNG
3.2 TẠI SAO PHẢI KÍCH CẦU LAO ĐỘNG
3.3 Ý NGHĨA
3.4 CÁC GIẢI PHÀP KÍCH CẦU LAO ĐỘNG
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CẦU LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY. (2000-2006)
GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM THỜI KỲ
ĐỔI MỚI.
THỰC TRẠNG CẦU LAO ĐỘNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Về số lượng
Cầu lao động xét theo khu vực kinh tế
Cầu lao động trong khu vực kinh tế nhà nước
Cầu lao động trong khu vực ngoài quốc doanh
Cầu lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Cầu lao động xét theo cơ cấu ngành
Nhóm ngành nông- lâm- ngư nghiệp
Nhóm ngành công nghiệp- xây dựng
Ngành dịch vụ
Về chất lượng
Về thể lực
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật
Về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CẦU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
a.Đánh giá chung
b.Nguyên nhân
CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CÂU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
DỰ BÁO CẦU LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CẦU VỀ SỐ LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG
C/ KẾT LUẬN
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẦU LAO ĐỘNG
1.Khái niệm về cầu lao động
Khái niệm
Chúng ta đã biết sức lao động do con người tạo ra và cũng là một dịch vụ hay hàng hoá. Người có nhu cầu về hàng hóa này là người sản xuất. Còn người cung cấp hàng hóa này là người lao động.
Xét trên phạm vi nền kinh tế, cầu lao động (hay cầu về sức lao động) được hiểu là nhu cầu thu hút sức lao động của toàn bộ nền kinh tế. Hiểu một cách đơn giản cầu lao động là số lao động đang có việc làm trong nền kinh tế.
Xét trên phạm vi doanh nghiệp , cầu lao động là nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp. Đó là lượng lao động mà người cần sử dụng lao động có thể thuê ở mỗi mức giá có thể chấp nhận được. Cầu lao động trong doanh nghiệp bao gồm hai loại chính , đó là cầu thực tế và cầu dẫn xuất. Thông thường ta thường dùng thuật ngữ cầu thực tế để chỉ cầu lao động của doanh nghiệp. Đó là nhu cầu thực tế về lao động của doanh nghiệp , phụ thuộc qui mô doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật của công nhân, năng suất lao động và nhu cầu lao động của thị trường. Cầu lao động là cầu dẫn xuất hoặc cầu gián tiếp vì xuất phát tư nhu cầu về sản phẩm mới có nhu cầu về lao động để sản xuất ra sản phẩm đó.Cầu lao động khác với lượng cầu về lao động. Cầu lao động mô tả toàn bộ hành vi mà nhà sản xuất có thể mua hàng hoá sức lao động ở mỗi mức giá. Mỗi mức giá lại có một lượng cầu xác định.
Cơ sở xác định cầu lao động
Hãy lấy ví dụ về quyết định thuê mướn lao động của một doanh nghiệp:
Giả sử giá sản phẩm là P = 2 nghìn đồng
Số lao động sẽ thuê
(người)
Số lượng sản phẩm
làm ra
Sản phẩm cận biên của lao động (chiếc) MPE
Giá trị sản phẩm biên của lao động (nghìn đồng)VMPE
1
2
3
4
5
6
15
33
53
70
84
95
15
18
20
17
14
11
30
36
40
34
28
22
Trong đó sản phẩm cận biên của lao động (MPE ) là số sản phẩm tăng thêm khi ta thuê thêm một đơn vị lao động. Và giá trị sản phẩm biên của lao động (VMPE) được tính bằng công thức : VMPE =MPE . P . Điều kiện để doanh nghiệp ra quyết định thuê bao nhiêu lao động và cũng là điều kiện xác định cầu lao động khi và chỉ khi: tiền lương bằng giá trị sản phẩm biên của lao động (W = VPME ) Do đó giả sử mức lương là 28000 đồng thì doanh nghiệp sẽ thuê thêm 5 lao động.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu lao động
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng cầu lao động
Số lượng cầu lao động là số lao động đang có và sắp có việc làm trong nền kinh tế. Bao gồm cầu thực tế và cầu tiềm năng. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng cầu lao động bao gồm:
Cầu sản phẩm
Cầu lao động là cầu dẫn xuất, phát sinh do cầu sản phẩm, do vậy lượng cầu về một loại lao động nào đó được xác định dựa trên 2 cơ sở:
Năng suất lao động để sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ.
Giá cả của các loại hàng hoá dịch vụ đó.
Như vậy để xác định cầu lao động phải dựa trên hiệu suất biên của lao động ( MPE ) và giá cả của hàng hoá - dịch vụ ( P). Quy tắc xác định cầu lao động: tiền lương bằng giá trị sản phẩm biên của lao động (W = MPE . P ).
Cầu lao động tỷ lệ thuận với cầu hàng hoá. Khi nhu cầu của xã hội về một loại hàng hoá -dịch vụ nào đó tăng lên thì nhu cầu về lao động để sản xuất mặt hàng đó sẽ tăng và ngược lại.
Năng suất lao động
Năng suất lao động tác động đến cầu lao động theo 2 chiều. Khi năng suất lao động tăng , cầu lao động có thể tăng để tối đa hoá lợi nhuận nhưng cũng có thể giảm để giữ nguyên kế hoạch sản xuất. Năng suất lao động tăng có thể là do đổi mới thiết bị công nghệ, tổ chức lại quy trình sản xuất
Tình hình phát triển kinh tế
Chúng ta biết rằng : kinh tế càng phát triển thì mỗi nhà sản xuất đều có nhiều cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quy mô sản xuất hơn, do vậy nhu cầu về lao động của nhà sản xuất sẽ tăng và ngược lại.Trong thực tế, kinh tế phát triển kéo theo chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng cao. Khi mà những nhu cầu cơ bản của con người được đáp ứng thì họ lại có những nhu cầu khác cao hơn về vật chất và tinh thần. Khi đó cầu về một số hàng hoá - dịch vụ sẽ tăng và điều này kích thích cung về hàng hoá - dịch vụ đó tăng. Vì cầu lao động là cầu dẫn xuất , nên trong trường hợp này, cầu lao động tất yếu phải tăng để đáp ứng nhu cầu tăng thêm về các hàng hoá và dịch vụ.
Tiền lương
Cầu về sức lao động có liên quan chặt chẽ đến giá cả sức lao động (tiền lương) , khi tiền lương tăng ( hoặc giảm) sẽ làm cho cầu về lao động giảm ( hoặc tăng). Như vậy cầu lao động và tiền lương có quan hệ tỷ lệ nghịch.
Tại sao vậy? Ta đã biết tiền lương là một yếu tố thuộc về chi phí sản xuất nên khi tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định tăng thì tiền lương mà các doanh nghiệp phải trả cho nhân viên của họ cũng phải tăng tương ứng.
Hoặc nếu thị trường khan hiếm lao động thì giá cả sức lao động cũng tăng. Tiền lương tăng làm chi phí sản xuất tăng, điều đó có nghĩa là chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tăng. Lúc này các nhà đầu tư thường đưa ra quyết định là thuê ít nhân công hơn để hạn chế việc tăng chi phí trong quá trình sản xuất. Như vậy, khi giá cả sức lao động tăng thì nhà sản xuất giảm đầu vào về lao động, còn khi giá cả sức lao động giảm thì một đồng lương sẽ thuê được nhiều nhân công hơn trước nên nhà sản xuất sẽ có xu hướng tăng cầu lao động.
Giá cả các nguồn lực khác
Khi giá cả các nguồn lực khác trở nên đắt đỏ, một đồng vốn bỏ ra sẽ mua được ít đầu vào hơn, vì thế các doanh nghiệp thường có xu hướng thuê ít nhân công hơn. Nói cách khác là cầu lao động giảm và ngược lại.
Trong trường hợp vốn và lao động là 2 yếu tố bổ sung hoàn toàn cho nhau thì khi giá của yếu tố đầu vào thay đổi , cầu yếu tố đầu vào khác sẽ thay đổi ngược chiều (tỷ lệ nghịch). Trong trường hợp vốn và lao động là 2 yếu tố thay thế hoàn cho nhau thì khi giá đầu vào này thay đổi, cầu yếu tố khác sẽ thay đổi cùng chiều ( tỷ lệ thuận ).
Ngoài ra còn một số yếu tố khác như : chi phí điều chỉnh lực lượng ,chế độ chính sách của nhà nước, chính sách tạo việc làm. Chính sách của nhà nước về việc làm, đầu tư, thu nhập,tiền lương đều có tác động đến cầu lao động.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cầu lao động
Có 4 nhân tố chủ yếu sau:
Chất lượng sản phẩm ,chất lượng công việc
Trên thị trường, những hàng hoá -dịch vụ có chất lượng tốt ,giá thành rẻ thì lượng cầu về mặt hàng đó tăng do vậy cầu lao động để sản xuất hàng hoá-dịch vụ đó tăng và ngược lại. Tuy nhiên muốn hàng hoá sản xuất ra đảm bảo chất lượng thì đầu vào về lao động của doanh nghiệp cũng phải có chất lượng tốt .Và trong nền kinh tế cạnh tranh, chất lượng hàng hoá dịch vụ không ngừng tăng nên yêu cầu về chất lượng lao động cũng tăng lên nhanh chóng.Chất lượng công việc cũng có quan hệ tỷ lệ thuận với cầu lao động.
Quy mô, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý,quan hệ kinh doanh quốc tế.
Thông thường những doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ bé, trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý chưa cao sẽ có yêu cầu về chất lượng lao động đầu vào thấp hơn các doanh nghiệp quy mô lớn, trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý cao. Đặc biệt những công ty lớn có quan hệ giao dịch quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia thường có yêu cầu cao nhất về chất lượng lao động.
Tình hình phát triển kinh tế và các chính sách của nhà nước.
Tình hình phát triển kinh tế cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn tới số lượng và chất lượng cầu lao động. Ở các nước nghèo, do kinh tế chậm phát triển nên khả năng được áp dụng công nghệ mới là rất ít, công nghệ và dây chuyền sản xuất phần lớn đều lạc hậu so với các nước phát triển nên yêu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động là không cao và có xu hướng tăng chậm.Cho dù nhà sản xuất có đặt ra yêu cầu cao về chất lượng lao động thì một mặt là sẽ có rất ít lao động đáp ứng được yêu cầu do chất lượng cung lao động thấp, mặt khác vốn đầu tư ít và cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu lại là rào cản hạn chế việc vận dụng, phát triển năng lực chuyên môn của những người này. Như vậy tình hình phát triển kinh tế có tác động rất lớn đến chất lượng cầu lao động, kinh tế càng phát triển thì chất lượng cầu lao động càng cao và ngược lại.
Ngoài yếu tố trên, các chính sách của nhà nước cũng có tác động lớn đến chất lượng cầu lao động và chủ yếu là theo hướng tích cực.Chúng ta thấy rằng muốn nâng cao chất lượng cầu lao động thì phải nâng cao chất lượng cung lao động. Nếu nhà nước có các chính sách tác động tích cực đến chất lượng cung lao động thì sẽ làm tăng chất lượng cầu lao động và ngược lại.Ví dụ các chính sách về việc làm, chính sách xoá đói giảm nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống, chính sách về cải cách tiền lương cho người lao động , chính sách cải cách giáo dục đại học, đổi mới phương pháp và nội dung giảng dạy, chính sách cho sinh viên nghèo vay vốn ,chính sách ....tất cả đều có tác dụng làm tăng chất lượng cầu lao động .
Chất lượng cung lao động
Cung lao động trên thị trường là tổng số lao động mà thị trường có thể cung cấp. Chất lượng cung lao động chính là khả năng thực tế của người lao động về mặt thể lực, trí lực và đạo đức khi tham gia vào các quá trình lao động. Chất lượng cung lao động thường được đánh giá qua 3 tiêu chí : sức khoẻ, trình độ chuyên môn -kỹ thuật và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Khi chất lượng cung lao động tăng thì chất lượng cầu lao động cũng tăng lên và ngược lại.Thật vậy, Chất lượng lao động thấp sẽ có tác động xấu tới khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.Ở các nước chậm phát triển, lực lượng lao động rất dồi dào song đại bộ phận người lao động lại có thể lực yếu, năng lực về chuyên môn kỹ thuật kém ..., điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định thuê nhân công của các nhà đầu tư. Các hãng đầu tư nước ngoài sẽ bỏ qua thị trường này vì chất lượng cung lao động không đáp ứng đủ yêu cầu của họ. Còn các hãng đầu tư trong nước buộc phải đặt ra yêu cầu thầp hơn mức mong muốn và phải thuê lao động trong nước với số lượng và chất lượng thấp, như vậy vô hình chung là chất lượng cầu lao động không những không thể tăng mà đã giảm theo chất lượng cung lao động. Ở các nước phát triển, người lao động không những có thể lực tốt , năng lực chuyên môn cao mà còn có nhiều cơ hội được học tập,giáo dục và tiếp cận với những công nghệ hiện đại tiên tiến nhất .Do đó chất lượng cung lao động cao tất yếu đẩy chất lượng cầu lao động tăng theo. Hơn nữa, trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các hãng lớn luôn có xu hướng đặt ra các yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng lao động đầu vào. Chính điều này lại có tác động trở lại chất lượng cung lao động theo hướng tích cực. Chất lượng cung làm tăng chất lượng cầu và chất lượng cầu lại có xu hướng kích thích đẩy chất lượng cung tăng lên.
3.Kích cầu lao động
Khái niệm
Kích cầu lao động là quá trình tác động nhằm kích thích nhu cầu về lao động của nhà sản xuất theo chiều hướng tích cực với những mục tiêu kinh tế -xã hội nhất định.
Lý do
Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng có nguồn lao động rất dồi dào đến mức dư thừa. Tình trạng dư thừa lao động xuất phát từ nhiều nguyên nhân song nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do cung tăng nhanh hơn cầu,cung chưa đáp ứng cầu về chất lượng.Vì vậy tìm ra các giải pháp kích cầu dể sử dụng một cách tối đa cung lao động có vai trò vô cùng quan trọng nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Các giải pháp chung để kích cầu lao động
-Về phía nhà nước:
+Khai thác, mở rộng và phát triển các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động.
+Đưa ra các chính sách cải cách tiền công, tiền lương hợp lý.
+Kiểm soát yếu tố giá cả, tiền lương và phân phối thu nhập.
+Gắn giáo dục đào tạo với việc làm.
+Thu hút vốn đầu tư từ mọi nguồn, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
+Đẩy mạnh các chương trình quốc gia về việc làm.
-Về phía doanh nghiệp:
+Mở rộng quy mô sản xuất.
+ Mở các lớp đào tạo trong doanh nghiệp (ngoài doanh nghiệp) để nâng cao trình độ kỹ thuật cho nhân viên.
+Trả lương hợp lý và có các khuyến khích.
+Tăng năng suất lao động, xác định đúng đắn cầu hàng hoá dịch vụ của thị trường đối với mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất, từ đó mở rộng chiến lược quảng bá sản phẩm và phát triển thương hiệu.
+Tuyển mộ, tuyển chọn lao động giỏi từ thị trường lao động.
* * *
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CẦU LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
1.Đôi nét về nguồn lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Việt Nam là quốc gia có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao so với dân số, mức tăng lao động cao, trung bình mỗi năm có khoảng 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động bổ sung thêm cho lực lượng lao động. Đây là nguồn lực có tiềm năng cao, cần được quan tâm, bồi dưỡng và đào tạo cả về thể chất và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, để có thể tạo ra một lực lượng lao động đủ mạnh phục vụ cho thị trường lao động trong tương lai.
Về số lượng lao động : theo điều tra Lao động-Việc làm 01/07/2005, lực lượng lao động cả nước là 44.385 nghìn người (trong đó nữ chiếm 48,7%), bình quân hàng năm tăng 844 nghìn người với tốc độ tương đương 1,7%/năm (giai đoạn 1996-2005); Năm 2005, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chiếm 94,2%, trên độ tuổi lao động chiếm 5,8%; nhóm lực lượng lao động trẻ (15-34) là 20.165,6 nghìn người chiếm 45,44%, nhóm lực lượng lao động trung niên (35-54) là 20.582,1 nghìn người chiếm 46,38% và nhóm lực lượng lao động cao tuổi (trên 55) là 3.637,3 nghìn người chiếm 8,18%. Nhìn chung lực lượng lao động liên tục tăng và tăng nhanh trong thời gian qua đã và sẽ tạo ra sức ép rất lớn về việc làm cho nền kinh tế.
Về chất lượng lao động, nhờ có các chính sách hỗ trợ đào tạo, dạy nghề trong các năm qua, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo nghề đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động cả nước tiếp tục được nâng cao, năm 2005, tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động là 4,04%, tốt nghiệp PTCS là 32,6%, tốt nghiệp PTTH là 21,2%, đây là một trong những điều kiện quan trọng giúp người lao động tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiếp thu các kỹ năng lao động mới. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động được nâng lên, năm 1996, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 12,3%, năm 2005 là 24,79%, với tốc độ tăng bình quân là 1,85%/năm; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề nói chung là 19%.
Về phân bố lao động, với đặc thù là quốc gia có vị trí địa lý phức tạp, địa hình bị chia cắt, hiểm trở, dân số phân bố không đều giữa miền núi và đồng bằng, thành thị và nông thôn đã dẫn đến hệ quả phân bố lao động kể cả số lượng và chất lượng không đồng đều giữa các khu vực (trong đó nông thôn chiếm 75,1%), giữa các vùng, tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng (22,41%), Đồng bằng sông Cửu Long (21,44%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (3,18%);
Như vậy , nguồn lao động dồi dào đã tao ra một lượng cung lao động rất lớn cho nền kinh tế, điều này đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp phải có một chiến lược về cầu lao động nhằm sử dụng tối đa nguồn lực con người, đồng thời giảm sức ép về việc làm cho nền kinh tế. Vậy thực trạng cầu lao động ở nước ta hiện nay như thế nào, liệu nó đã đáp ứng đủ nhu cầu về việc làm của người lao động hay chưa, chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần 2.
2.Thực trạng cầu lao động trong thời kỳ 2000-2007
Nhìn chung, cầu lao động của nền kinh tế có xu hướng tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuỳ theo từng khu vực kinh tế, từng ngành nghề , từng địa bàn mà nhu cầu sử dụng lao động có khác nhau. Nếu xét theo khu vực kinh tế thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực thu hút nhiều lao động hơn hai khu vực còn lại ( khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài). Xét theo cơ cấu ngành, ngành nông nghiệp vẫn là ngành có tỷ lệ lao động lớn nhất, tiếp theo là ngành dịch vụ và cuối cùng là công nghiệp- xây dựng. Các thành phố lớn như thành phố Hồ CHí Minh, Hà Nội, Hải Phòng ...là nơi có cầu lao động lớn. Địa bàn thu hút nhiều lao động tập trung chủ yếu ở khu vực phía Nam, vùng có tỷ lệ lao động làm công ăn lương lớn nhất là Đông Nam Bộ (44%), Duyên hải Nam Trung bộ (27,9%), Đồng bằng sông Cửu Long (26,7%) và thấp nhất là Tây Bắc (9,2%). Thành phố HCM dẫn đầu cả nước về nhu cầu tuyển dụng với 50%, Hà Nội đứng thứ nhì với 32%.
2.1 Cầu lao động về số lượng.
Từ năm 2000 đến năm 2007, cầu lao động liên tục tăng. Trong 5 năm, từ 2001-2006, cả nước tạo việc làm cho trên 7,5 triệu lao động, tăng 25% so với giai đoạn 1996-2000. Cụ thể, năm 2002 toàn quốc đã tạo thêm chỗ làm mới cho 1,42 triệu lao động ,tăng 1,4% so với năm 2001. Ngoài ra, trong năm đã xuất khẩu được trên 46 nghìn lao động, vượt 15,3% kế hoạch. Riêng Quỹ Quốc gia Hỗ trợ việc làm đã giải quyết việc làm cho khoảng 32 vạn lao động, đạt 106,6% kế hoạch. . Năm 2003, toàn quốc đã giải quyết việc làm cho khoảng 1,52 triệu người, đạt 101,5% kế hoạch đề ra, đưa được 7,6 vạn người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Năm 2004, bên cạnh hình thức hội chợ việc làm, các địa phương đã triển khai mạnh một số hình thức khác giúp người lao động tìm được việc làm như tư vấn việc làm, cung cấp rộng rãi thông tin về thị trường lao động, đẩy mạnh cho vay từ Quỹ quốc gia Hỗ trợ việc làm... Nhờ đó, toàn quốc đã giải quyết việc làm cho khoảng 1,555 triệu người, đạt 100,3% kế hoạch đề ra, đưa được 6,74 vạn người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Năm 2005, số lượt người được tạo thêm việc làm khoảng 1,6 triệu, năm 2006 là trên 1,5 triệu và sáu tháng đầu năm 2007 là 78 vạn lượt (= 50% kế hoạch cả năm 2007) .Trong số lao động được giải quyết việc làm, số lao động xuất khẩu sang nước ngoài cũng liên tục tăng. Tính cho đến tháng 12/2005 Việt Nam đã đưa trên 400.000 lao động sang nước ngoài làm việc.Theo đánh giá của các chuyên gia lao động thì quý II/2007, nhu cầu lao động tăng 142% so với quý I/2007, trong khi cung lao động chỉ tăng có 30%.Như vậy trong những năm tới đây, cầu lao động sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn cung nhưng số lao động không tìm được việc làm vẫn nhiều do có khoảng cách lớn về chất lượng giữa cung và cầu.
2.1.1 Cầu lao động xét theo khu vực kinh tế
Sau khi các luật về đăng ký kinh doanh được ban hành và sửa đổi như: Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Ðầu tư trực tiếp của nước ngoài, Luật Hợp tác xã và đặc biệt là Luật Doanh nghiệp đã đi vào cuộc sống, hoạt động của các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế đã có nhiều thay đổi, môi trường thông thoáng hơn, sản xuất kinh doanh sôi động hơn, vai trò của doanh nghiệp được ghi nhận và có nhiều tiến bộ, nhất là trong khu vực kinh tế ngoai quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.Cùng với quá trình phát triển đó, nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế cũng không nhừng tăng về quy mô. Thực trạng đó thể hiện như sau:
Trong giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nhà nước, khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tương ứng là 10,2%, 88,2% và 1,6%, đặc biệt có sự chuyển dịch lao động từ khu vực Nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Sự chuyển dịch lao động như vậy là phù hợp với quá trình nước ta chuyển sang kinh tế thị trường.Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện đang thu hút tuyệt đại bộ phận lao động. Trong giai đoạn này, lao động khu vực ngoài quốc doanh lớn gấp 9 lần lao động khu vực kinh tế nhà nước và gấp trên 80 lần khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ thu hút đa số lao động nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn thu hút ngày càng nhiều lao động làm công nghiệp, xây dựng và dịch vụ...
Bảng cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị :%
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Sơ bộ 2006
Tổng cộng
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Kinh tế Nhà nước
9,3
9,3
9,5
9,9
9,9
9,5
9,2
Kinh tế ngoài Nhà nước
90,1
89,7
89,4
88,8
88,6
88,9
89,2
Khu vực có vốn đầu tư N2
0,6
0,9
1,1
1,3
1,5
1,6
1,6
Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế (*)
Nguon :tong cuc thong ke Đơn vị :nghìn người
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Sơ bộ 2006
Tổng số
37609,6
38562,7
39507,7
40573,8
41586,3
42526,9
43347,2
Phân theo thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước
3501,0
3603,6
3750,5
4035,4
4108,2
4038,8
4007,8
Kinh tế ngoài Nhà nước
33881,8
34597,0
35317,6
36018,5
36847,2
37814,7
38639,0
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
226,8
362,1
439,6
519,9
630,9
673,4
700,4
Khu vực kinh tế nhà nước
Từ năm 2000 trở về trước, Khu vực kinh tế Nhà nước chiếm đại bộ phận trong các ngành quan trọng, giành vị trí có lợi nhất trong kinh doanh và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, chưa thể hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quốc dân. Các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho khu vực kinh tế Nhà nước, thực chất là "tái bao cấp", làm cho khả năng vươn lên của khu vực này bị hạn chế, tính năng động kém.Từ năm 2000-2007, số lượng các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm dần do tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá chuyển qua khu vực ngoài quốc doanh.Trong giai đoạn này, công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Đa số các doanh nghiệp sau khi đã thực hiện cổ phần hoá có hoạt động tốt hơn, lợi nhuận sau thuế tăng cao. Đầu năm 2003 doanh nghiệp nhà nước có 5364 DN, trong vòng 2 năm giảm 395 doanh nghiệp, giải quyết thêm việc làm cho 249,5 nghìn người. Năm 2000, tỷ lệ lao động ở khu vực này là 9,3%, năm 2003 tăng lên 9,9%. Từ năm 2005 số lao động trong khu vực nhà nước có xu hướng giảm và đến năm 2006 tỷ lệ lao động trong khu vực này giảm xuống còn 9,2%, do nhiều doanh nghiệp nhà nước chuyển sang cổ phần hoá, tư nhân hoá hoặc giải thể...Trong giai đoạn này, số lao động được giải quyết việc làm trung bình mỗi năm tăng hơn 100 nghìn người (15% / năm), nếu so sánh với các khu vực khác thì tỷ lệ này là thấp nhất .Nguyên nhân chính là sức hút của khu vực này chưa cao ,cầu lao động thầp, số lượng doanh nghiệp có xu hướng giảm.
Những vấn đề tồn tại: Trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập, doanh nghiệp nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hoạt động của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, công nợ chưa thanh toán được... cộng thêm các cơ chế, quy chế quản lý của doanh nghiệp nhà nước cũng ngày càng trở nên bất cập với thực tiễn. Kết quả xếp loại 5.199 doanh nghiệp có báo cáo tài chính năm 2004 theo loại hình doanh nghiệp thì số doanh nghiệp nhà nước được xếp loại khá trở lên (từ AAA đến BBB) lần lượt chiếm 17,1%; 18% qua 2 năm 2003, 2004 (số liệu tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 44,1%; 45,4%. Của công ty TNHH và công ty cổ phần là 31,2%;27,6%). Số lượng doanh nghiệp Nhà nước xếp loại trung bình trở xuống (từ BB đến C) chiếm 55,9% vào năm 2003 và 54,6% năm 2004. Thực tế này làm cho cầu lao động khu vực này có xu hướng giảm dần, khó cạnh tranh với hai khu vự còn lại về khả năng thu hút lao động giỏi.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Từ ngày Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo ra hàng chục vạn việc làm mới, vượt xa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vốn là 2 khu vực có tiềm lực kinh tế mạnh hơn.Lợi ích thực tế mà sự phát triển của khu vực này đặc biệt là kinh tế tư nhân mang lại cho nền kinh tế (tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tận dụng được các nguồn nội lực, đóng góp ngân sách…) là to lớn .Theo đánh giá chung, việc tăng trưởng cao ở khu vực ngoài quốc doanh, ngoài các nguyên nhân về hiệu quả sản xuất kinh doanh và số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng thêm còn do các doanh nghiệp nhà nước đang tiếp tục chuyển đổi sang mô hình cổ phần và tư nhân hoá. Đầu năm 2003, số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 55236 DN, tăng bình quân 25,6%/năm (2 năm tăng 20232 doanh nghiệp), giải quyết việc làm cho 1,7 triệu người, chiếm 36,6%, tăng bình quân 28%/năm (2 năm tăng gần 666 nghìn người).Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh .Năm 2000 , số lao động có việc làm trong khu vực này là 3,388 triệu người, năm 2004 tăng lên 3,684 triệu và năm 2006 là 3,864 triệu, lớn gấp 9 lần lao động khu vực nhà nước. Có thể nói đây là khu vực thu hút nhiều lao động nhất trong nền kinh tế.
c. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu hình thành và hoạt động từ năm 1997 kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực, cho đến nay nó vẫn được coi là khu vực kinh tế mới.Trong những năm gần đây,các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng tăng nhanh, đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng, vào việc nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý của nền kinh tế. Năm 2000, số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1525 DN, đến dầu năm 2003là 2308 DN, tăng bình quân 22,7%/năm (2 năm tăng 783 doanh nghiệp), trong đó khu vực 100% vốn nước ngoài tăng bình quân 35%/năm (2 năm tăng 707 doanh nghiệp), trong đó khu vực 100% vốn nước ngoài tăng bình quân 37%/năm (2 năm tăng 250 nghìn người).Năm 2000, khu vực này giải quyết việc làm cho 226,8 nghìn người, năm 2003 là 519,9 nghìn người và đến năm 2005 là 673,4 nghìn người. Trung bình mỗi năm tăng 62,8% . Theo thống kê, năm 2007 có khoảng 3.700 DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại VN giải quyết việc làm cho trên 1,4 triệu LĐ. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, khối doanh nghiệp FDI đã thu hút thêm được 111 nghìn lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực này là 1.185 nghìn lao động, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước.Nhìn chung tuy tỷ lệ lao động khu vực này thầp nhất trong 3 khu vực, chỉ bằng 1/8 khu vực nhà nước, bằng 1/80 khu vực ngoài quốc doanh nhưng đây lại là khu vực có tỷ lệ gia tăng lao động lớn nhất, năng suất lao động cao nhất và tạo ra giá trị sản xuất lớn nhất cho nền kinh tế. Trong giai đoạn tới đây cũng là khu vực có nhu cầu lao động lớn nhất.
Nhận xét chung:Về mặt số lượng, doanh nghiệp tăng chủ yếu ở khu vực ngoài quốc doanh, tiếp đó là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp nhà nước giảm do tổ chức sắp xếp lại và cổ phần hoá chuyển qua khu vực ngoài quốc doanh. Cầu lao động ở cả ba khu vực đều tăng về số lượng,
trong đó tăng nhanh nhất là khu vực ngoài quốc đoanh. Tuy nhiên xét về tỷ lệ thì cầu lao động khu vực nhà nước co xu hướng giảm dần.
Số doanh nghiệp đang hoạt động
31/12/2000
31/12/2001
31/12/2002
Tổng số
42288
51680
62908
A. Chia theo khu vực kinh tế
1. Khu vực DN nhà nước
5759
5355
5364
2. Khu vực DN ngoài quốc doanh
35004
44314
55236
3. Khu vực có vốn ÐT nước ngoài
1525
2011
2308
2.1.2 Cầu lao động xét theo cơ cấu ngành.
Trong giai đoạn 2000-2006, cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng công nghiêph hoá, hiện đại hoá: tăng tỷ trọng ngành công nghiệp_ xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Cùng quá trình đó, cơ cấu lao động có việc làm cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động trong khu vực nông-lâm-ngư nghiệp. Năm 1996, tỷ lệ lao động có việc làm trong khu vực nông-lâm-ngư nghiệp, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ là 69,8%, 10,55% .Đến 01/07/2004, trong số 42329,1 nghìn lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, có khoảng 24508,5 nghìn lao động (chiếm 57,9%) làm việc trong khu vực nông nghiệp, 7365,1 nghìn lao động (chiếm 17,4%) trong công nghiệp - xây dựng và 10458,5 nghìn người (chiếm 24,7%) trong khu vực dịch vụ. So với 01/07/2003 tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực I giảm 1,7% và tăng tương ứng ở khu vực II là 1% và khu vực III là 0,7%. Năm 2005 tỷ lệ này là 56,8%, 17,9% và 25,3%.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005 và mục tiêu đến năm 2010
Đơn vị: %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Mục tiêu
2005
2010
Cơ cấu kinh tế
100
100
100
100
100
100
100
100
Nông nghiệp
24,53
23,25
23,03
22,54
21,76
20,7
20-21
16-17
Công nghiệp – Xây dựng
36,73
38,12
38,49
39,47
40,09
40,8
39-40
42-43
Dịch vụ
38,74
38,63
38,48
37,99
38,15
38,5
41
42
Cơ cấu lao động
100
100
100
100
100
100
100
100
Nông nghiệp
68,2
67,2
66,1
59,6
57,9
56,8
56-57
49-51
Công nghiệp – xây dựng
12,1
12,5
12,9
16,4
17,4
17,9
20-21
23-24
Dịch vụ
19,7
20,3
21,0
24,0
24,7
25,3
23-24
26-27
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Nhóm ngành nông –lâm –ngư nghiệp.
Tuy tỷ trọng đóng góp vào GDP là thấp nhất trong các nhóm ngành ( 22% / năm) nhưng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp lại chiếm tỷ lệ lớn nhất (60,28% ). Năm 2002,thu hút thêm vào các ngành nông, lâm, ngư nghiệp 87 vạn người đến năm 2004 là 33 vạn người.Như vậy số lượng lao động tăng chậm hơn, tỷ lệ lao động trong ngành biến đổi với tỷ lệ nhỏ và đang có xu hướng giảm dần. Trong thời gian qua năng suất lao động tăng làm tăng giá trị sản lượng của ngành , tuy nhiên do tinh chất thời vụ, ở khu vực nông thôn có tới 20% quỹ thời gian lao động chưa được sử dụng, số thất thoát thời gian lao động tương đương với 9 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Do vậy khu vực nông nghiệp - nông thôn trong nhiều năm qua trở thành nơi “chứa” lao động dư thừa, tuyệt đại đa số lao động mới đều tập trung ở đây. Từ thực trạng này ta thấy rằng cầu lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần cùng quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Nguyên nhân : xuất phát điểm ,Việt Nam là một nước nông nghiệp (80% lao động làm nghề nông), kinh tế lạc hậu. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển sang kinh tế thị trường, trình độ chuyên môn , năng lực của lao động tăng cùng với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần đã khiến ngày càng nhiều lao động ở ngành nông nghiệp chuyển sang các ngành khác có công việc ổn định và thu nhập cao hơn. Tuy nhiên quá trình này diễn ra tương đối chậm do còn nhiều hạn chế trong vấn đề nhận thức của người dân, thiếu vốn...
Nhóm ngành công nghiệp –xây dựng.
Trong 3 khu vực kinh tế lớn (nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ) thì khu vực công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao hơn 2 khu vực kia và cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế . Tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng trong GDP liên tục tăng . Năm 2001,tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng trong GDP đạt 38,12% và đến năm 2005 đạt 40,8%, vượt chỉ tiêu 39-40%. Trong nhóm ngành này, sử dụng nhiều lao động nhất hiện nay vẫn là ngành công nghiệp chế biến với 2,203 triệu người, chiếm 47,3% tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp. Số lao động của ngành công nghiệp này trong năm 2002 gấp 2,9 lần năm 1995 và gấp gần 1,4 lần năm 2000 (bình quân 2 năm tăng 17,4%/năm). Tiếp đến là ngành xây dựng 799 nghìn người, chiếm 17,2%; ngành thương nghiệp 463 nghìn người, chiếm 9,9%, ngành công nghiệp khai thác mỏ 155 nghìn người, chiếm 3,3%,... Tăng nhanh nhất về số lao động là ngành xây dựng, thời điểm 31/12/2002, ngành này có số lao động tăng gấp 3,5 lần năm 1995 và gấp 1,5 lần năm 2000. Năm 2002, ngành công nghiệp và xây dựng giải quyết việc làm cho 30 vạn người, đến năm 2004 tăng lên 62 vạn người.
Những năm qua, nhóm ngành công nghiệp – xây dựng đã đạt được những bước tiến nhất định trên phương diện tỷ trọng, trong khi đó cơ cấu lao động chuyển dịch tương đối chậm. Chỗ việc làm mới được tạo ra hàng năm trong nhóm ngành này tăng chậm, từ 535 nghìn chỗ năm 2001 tăng lên 550 nghìn chỗ năm 2002 ( tăng 0,4%) , 625 nghìn chỗ năm 2003 (tăng 3,5%) và đến năm 2005 là 17,9% (tăng 0,5% so với năm 2004).
Ngành dịch vụ.
Ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ là 2 ngành chiếm tỷ trọng cao trong GDP. Kể từ khi Việt Nam hội nhập kinh tế quôc tế, đặc biệt là gia nhập WTO thì số lượng các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ tăng nhanh chóng( chủ yếu là dịch vụ du lịch). Điều này làm cho nhu cầu về lao động trong ngành tăng, đăc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố HCM. Ở Hà Nội, năm 2003, lao động trong ngành dịch vụ là 711857 người, đến năm 2005 tăng lên 779647 người ( tăng 9,5%). Thành phố HCM là khu vực có ngành dịch vụ phát triển nhất cả nước, vì thế thu hút nhiều lao động nhất. Năm 2003, số lao động ngành này là 1419540 người, năm 2005 tăng lên 1553906 người (tăng 9,5%), lớn gấp 2 lần so với Hà Nội. Cả nước, năm 2002 ngành dịch vụ, thương mại giải quyết việc làm cho 25 vạn người, đến năm 2004 tăng lên 65 vạn người.
Nhận xét chung: Nói tóm lại, chuyển dịch cơ cấu ngành về mặt số lượng đã có những bước tiến nhất định, nhưng tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động không nhiều.- một cơ cấu mà cho đến nay đã thấy rõ là không đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2005.
2.2 Cầu lao động về chất lượng
2.2.1 Thực trạng
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn xem con người là yếu tố đặc biệt quan trọng, nên đã không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đề ra ở từng thời kỳ. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, thách thức lớn nhất là về chất lượng lao động. Nhìn chung nhu cầu chất lượng lao động cao trong khi chất lượng cung lao động còn thấp, sức cạnh tranh so với nhiều nước khu vực và thế giới hạn chế, nhất là nhu cầu về lao động chất lượng cao. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài tăng vì vậy khối lượng xiệc làm cũng tăng lên, đặc biệt là trong các ngành sử dụng nhiều lao động với giá trị XK cao như ngành Dệt may, Thủy sản, Thủ công mỹ nghệ, Nông nghiệp... Tỷ trọng lao động được đào tạo nghề, có trình độ chuyên môn tăng do áp lực cạnh tranh tìm kiếm việc làm. Tỷ trọng lao động có chuyên môn tăng rất nhanh do mở cửa và hội nhập thị trường lao động quốc tế. Theo Vietnamworks.com, nhân lực cao cấp hiện nay tại VN chỉ mới đáp ứng khoảng 30% - 40% nhu cầu doanh nghiệp. Trong khi đó, theo thông số nhân lực trực tuyến của mạng việc làm này, chỉ số cầu lao động tăng đều mỗi quý, bình quân hơn 100%. Việc này sẽ tạo thêm sự thiếu hụt nhân lực cao cấp
Về thể lực
Trong giai đoạn 2000 trở về trước, ở Việt Nam yếu tố thể lực của người lao động , đặc biệt là chiều cao, cân nặng không được các doanh nghiệp chú trọng. Chủ yếu các doanh nghiêp chỉ căn cứ vào trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của người lao động để tuyển dụng. Tuy nhiên kể từ khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều vào trong nước thì yếu tố thể lực lại trở thành yếu tố tiên quyết. Trên thế giới, hiện nay người ta thường dùng chỉ số khối lượng cơ thể: cân nặng (kg)/chiều cao (m)2 để xác định tình trạng sức khoẻ của con người. Thông thường một ngươì bình thường, thể lực tốt có chỉ số này ở trong khoảng 18.,5 - 25 .Ở Việt Nam, quá trình tuyển dụng nhân viên của các công ty hiện nay hầu hết đều đính kèm yêu cầu về ngoại hình như một tiêu chuẩn quan trọng bên cạnh chuyên môn, bằng cấp… Và yêu cầu này đã đánh rớt nhiều người ngay từ “cái nhìn đầu tiên”.Về chiều cao, mức thấp nhất được đưa ra thường là 1,55m đối với nữ và 1,67m với nam. Tuy nhiên, theo thống kê của Ủy ban Thể dục Thể thao Việt Nam, chiều cao trung bình của thanh niên nước ta trong độ tuổi 20 hiện nay tương đương 1,54m với nữ và 1,66 với nam Thực tế này cho thấy, mong muốn tuyển được “nhân viên vừa đẹp vừa giỏi” là điều rất khó khăn, như nhận định của nhiều người làm công tác môi giới lao động.Theo đánh giá của các nhà tuyển dụng thì thể lực và tình hình sức khoẻ nói chung của lao động Việt Nam yếu so với nhiều nước về cân nặng, chiều cao và sức bền, chưa đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
b. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật
Từ năm 2000-2003, các doanh nghiệp đã tiếp nhận mới mỗi năm gần 70 vạn lao động, riêng năm 2002 tiếp nhận trên 1 triệu người. Song thực trạng là không ít doanh nghiệp vẫn thiếu lao động có tay nghề cao, lao động có kỹ thuật được đào tạo hệ thống. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm thì lao động là cán bộ khoa học kỹ thuật năm 2000 chiếm 8,1%; năm 2002 còn 6,8% và những lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật cũng có xu hướng giảm tương đối. Như vậy lao động được thu hút vào khu vực doanh nghiệp ngày càng tăng nhanh, nhưng cơ cấu lao động có trình độ kỹ thuật, lao động được đào tạo lại giảm, điều đó cho thấy nhiệm vụ đào tạo nghề cho người lao động không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế nói chung và của khu vực doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt đối với lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý thì lao động không được đào tạo chiếm từ 55 - 75%. Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có tổng cộng 45,3 triệu lao động, trong đó ba phần tư là lao động ở nông thôn. Số lượng lao động liên tục tăng, chất lượng lao động cũng đã được cải thiện đáng kể tuy nhiên sau nhiều năm phát triển, chất lượng lao động Việt Nam vẫn “chưa tương xứng với yêu cầu về nguồn lao động cho thị trường”. Hiện nay mới chỉ có 32% số lao động là đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Báo cáo về tình hình thị trường lao động Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội soạn thảo đã khẳng định: “Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”. Trong khi đó, nhu cầu lao động của các doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cả về số lượng và chất lượng, chủ yếu do nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là số doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, nhu cầu xuất khẩu lao động tăng rất nhanh song chất lượng lao động về chuyên môn đặc biệt là trình độ ngoại ngữ thấp đã kéo theo nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Về cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn, tỷ trọng lao động chưa qua đào tạo lên đến 76%, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 24%, trong đó đặc biệt chú ý là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm có 15%. Các số liệu này chứng tỏ nền kinh tế đang thiếu trầm trọng lao động có tay nghề, mất cân đối trong cơ cấu đào tạo nghề, có tới 85% số học sinh tuyển mới học nghề ngắn hạn, chỉ có 15% học nghề dài hạn. Do vậy, chất lượng lao động qua đào tạo nghề còn thấp. Ngân sách dành cho đào tạo nghề tuy tăng song chiếm tỷ lệ thấp trong tổng chi ngân sách giáo dục (5%). Cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề còn lạc hậu, trừ các cơ sở dạy nghề của các doanh nghiệp lớn, các liên doanh hoặc cơ sở dạy nghề nước ngoài. Đội ngũ giáo viên dạy nghề vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng (cả nước có hơn 7000 giáo viên dạy nghề; tỷ lệ giáo viên/học viên là 1/28). Chưa có hệ thống giáo trình chuẩn nên chất lượng đào tạo nghề còn hạn chế và rất khác nhau trong các cơ sở dạy nghề khác nhau.
Cơ cấu đào tạo có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn chậm, tỷ lệ giữa những người tốt nghiệp cao đẳng, đại học/trung học chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật là 1/1,16/0,95. Theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến, sản xuất sẽ phát triển khi có một cơ cấu đội ngũ nhân lực hợp lý và có cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật tương ứng là 1/4/10. Với cơ cấu trình độ đào tạo như hiện nay, việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và kinh doanh còn rất nhiều khó khăn.
c.Về phẩm chất đạo đức cá nhân phù hợp với công việc
- Phẩm chất đạo đức là một trong những yếu tố hết sức quan trọng của người lao động, nó đánh giá một cá nhân có thái độ làm việc tích cực hay không từ đó đánh giá khả năng công hiến của họ đối với doanh nghiệp. Trong những năm qua , yêu cầu về phẩm chất đạo đức ngày càng khắt khe hơn: có tác phong công nghiệp và trách nhiệm đối với công việc. Linh hoạt, năng động, sáng tạo và có khả năng giải quyết các vướng mắc trong công việc. Đồng thời, người lao động có tinh thần hợp tác, có văn hoá ứng xử tốt trong quá trình làm việc. Thông thường doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn có yêu cầu cao nhất về tính độc lập, tự giác, kỷ luật cao. Trong khi đó, lao động Việt Nam vẫn bị đánh giá thấp về tinh thần hợp tác trong công việc,ý thức kỷ luật chưa cao, văn hoá doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
2.2.2 Nguyên nhân
Việt Nam đi lên từ một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu, đại bộ phận dân cư làm nông nghiệp nên trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, nhiều thói quen cũ, quan điểm lạc hậu vẫn còn tồn tại. Vì thế nhiều người chưa có được tác phong công nghiệp . Nguyên nhân khiến lao động nước ta chưa đáp ứng đủ yêu cầu về trình độ chuyên môn -kỹ thuật là do chất lượng đào tạo nghề ở Việt Nam lạc hậu,không đồng bộ, không bắt kịp yêu cầu công việc trong giai đoạn mở cửa.Như vậy nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng cầu chưa được cải thiện là do chất lượng cung lao động nước ta còn ở mức thấp, dẫn đến thực tế là giữa cung và cầu còn một khoảng cách khá xa.
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CẦU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM VÀ PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHAN TỐ ĐẾN CÀU LAO ĐỘNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đánh giá chung
Về quy mô, tốc độ tăng cầu lao động
Tổng số việc làm trong nền kinh tế và số chỗ làm mới tạo ra hàng năm
Đơn vị : 1000 người
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số việc làm trong nền KT
40.594
39.287
41.179
42.128
43.255
44.355
Số chỗ làm mới được tạo ra
1400
1420
1525
2555
1623
Về tỷ lệ thất nghiệp hàng năm:
Năm
Lực lượng lao động (người)
Số người có việc làm (người)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
2000
2001
2002
2003
2005
36.205.432
37.667.429
39.289.638
39.585.007
44.025.297
33.881.044
35.311.287
36.928.331
37.296.994
42.025.397
6,42
6,28
6,01
5,78
5,31
Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm dần. Hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn cao, khoảng hơn 5,1%( 2005), tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 81,7% (2005). Như vậy số người hiện chưa có công ăn việc làm còn khoảng 3,2 triệu người. Hàng năm có trên 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động và chỉ có trên 35 vạn người ra khỏi độ tuổi lao động, trong khi đó mỗi năm chỉ giải quyết việc làm cho khoảng trên 1 triệu người đã tạo ra áp lực rất lớn về đào tạo nghề và giải quyết việc làm.Lao động là yếu tố nước ta dồi dào đến mức dư thừa, năm 2005 còn đến 5,1% lao động ở thành thị thất nghiệp, trong số này có không ít lao động trẻ khoẻ và không ít những cử nhân vừa qua đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng cũng tham gia đạo quân thất nghiệp. Ở khu vực nông thôn có tới 20% quỹ thời gian lao động chưa được sử dụng, số thất thoát thời gian lao động tương đương với 9 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Do vậy khu vực nông nghiệp - nông thôn trong nhiều năm qua trở thành nơi “chứa” lao động dư thừa, tuyệt đại đa số lao động mới đều tập trung ở đây.
Những vấn đề tồn tại:
-Vấn đề thứ nhất, xét theo hiện trạng thực tế, sức ép về lao động - việc làm rất lớn, hoạt động giải quyết việc làm còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả giải quyết việc làm còn hạn chế do một số nguyên nhân sau:
Một là, đó là tính không nhất quán trong các chương trình và nỗ lực hành động của Chính phủ. Do không lựa chọn rõ mục tiêu ưu tiên, không xác định đúng tương quan giữa mục tiêu dài hạn, toàn bộ và mục tiêu ngắn hạn, tình thế cục bộ nên chính sách đầu tư kích cầu đã triệt tiêu tác dụng của chương trình điều chỉnh cơ cấu (chẳng hạn như các Chương trình đánh bắt xa bờ, Chương trình 1 triệu tấn đường).
Hai là, Thực tế này cho thấy quan điểm phát triển các thành phần, tư duy phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường và cụ thể, chiến lược và chính sách của nhà nước chuyển biến quá chậm so với vận động của đời sống thực tế và so với yêu cầu của phát triển.
Ba là, trong khi tình trạng thiếu việc làm gia tăng áp lực kinh tế - xã hội ngày càng mạnh thì chiến lược và các chương trình đầu tư nhà nước đều chưa thực sự coi chỉ tiêu tạo việc làm là một trong những biến số quan trọng nhất phải tính đến, tình trạng mất cân đối lớn trong đầu tư là đầu tư không tạo ra việc làm. Tồn tại sự tách rời không thể lý giải được giữa chiến lược đầu tư (chiến lược cơ cấu) và chiến lược tạo việc làm. Đầu tư cứ diễn ra theo hướng tập trung cho các dự án sử dụng nhiều vốn chứ không phải nhiều lao động. Còn thất nghiệp và việc làm vẫn tiếp tục gia tăng như là một yếu tố độc lập, tách rời.
Bốn là, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH, thấp xa so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Sự phát triển của giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay chưa bám sát vào cơ cấu lao động. Đây sẽ là thách thức lớn cho Việt Nam trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của KH&CN và xu thế hướng tới nền kinh tế dựa trên tri thức. Với những chuyển động như trong mấy năm qua, chắc chắn rằng trong giai đoạn trung hạn tới, sẽ chưa thể có một chuyển biến và cải thiện đáng kể nào về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực của nước ta. Thậm chí, tình trạng mất cân đối giữa một bên là các mục tiêu đầy tham vọng của chiến lược phát triển ngành với một bên là nguồn nhân lực sẽ gia tăng mạnh hơn và làm gay gắt hơn tình trạng hiện nay.
Một nghịch lý không lý giải được là đầu tư lớn, tăng trưởng cao nhưng cơ cấu lao động lại hầu như không chuyển dịch. Điều này có nguyên nhân sâu xa và căn bản từ quan niệm về Chiến lược phát triển kinh tế quốc gia còn mang nặng tính cục bộ, nghiêng về chính sách ngành thay vì một chiến lược quốc gia tổng thể. Vì thế, trong chiến lược phát triển cơ cấu (chiến lược đầu tư), định hướng sản phẩm được quan tâm hàng đầu trong khi lập trường phát triển dựa trên lợi thế so sánh (lập trường thị trường) chưa trở thành tư duy chiến lược chi phối quá trình hoạch định chính sách và chiến lược. Đồng thời, vấn đề lao động - một biến số chính, một yếu tố then chốt, quyết định tiến trình cơ cấu, trên thực tế lại bị xem nhẹ, thậm chí bỏ qua.
- Vấn đề thứ hai, đổi mới giáo dục và đào tạo và khâu chuẩn bị nguồn nhân lực cho CNH, HĐH được thực hiện rất kém.
Chất lượng giáo dục của tất cả các cấp học còn chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH. Việc cải thiện hệ thống giáo dục được hiểu như là khâu nền tảng của một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đã không được triển khai một cách hiệu quả. Việc cải cách chương trình giáo dục không dựa trên sự hiểu biết về thời đại và các đòi hỏi phát triển của thời đại đặt ra cho con người, không xuất phát từ một tầm nhìn dài hạn nên không có ý tưởng đúng và rõ ràng. Sự chậm trễ của quá trình cải cách thực sự sẽ gây ra những tổn thất rất lớn, được đo bằng sự tụt hậu của đất nước theo đơn vị là từng thế hệ chứ không phải là số chi phí mà nhà nước bỏ ra hiện tại, dù đây đã là con số rất lớn.
CHƯƠNG III:CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CÂU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.DỰ BÁO CẦU LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
Dự báo đến năm 2010 lực lượng lao động sẽ là 49,5 triệu người và năm 2015 là 52,5 triệu người. Trong khi đó dự báo cầu lao động của nền kinh tế quốc dân năm 2007 khoảng 45,76 triệu lao động, đến năm 2010 là 48,443 triệu lao động và năm 2015 là 51,423 triệu lao động. Như vậy từ nay đến năm 2015 có thể thấy cung- cầu lao động vẫn ở tình trạng cung cao hơn cầu, cụ thể mỗi năm chúng ta vẫn dư hơn 1 triệu lao động.
Khả năng thu hút lao động từ Chương trình Quốc gia về việc làm:Mục tiêu của Chương trình quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010: Giải quyết việc làm cho khoảng 7,5 – 8 triệu lao động trên cơ sở duy trì tỉ lệ tăng GDP hàng năm trên 7% để tạo 5,5 – 6 triệu việc làm mới. Bình quân mỗi năm thu hút giải quyết việc làm cho khoảng 1,5 - 1,6 triệu người; giảm tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống 5%, tăng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 85% vào năm 2010. Chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỉ trọng lao động nông, lâm nghiệp xuống 50%, công nghiệp xây dựng 23%, thương mại, dịch vụ 27% vào năm 2010.
Trong giai đoạn tới, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 với con số tuyệt đối là hơn 56 triệu người. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế thì với khoảng 10 triệu ha đất nông nghiệp nếu thâm canh cao cũng chỉ giải quyết được việc làm cho khoảng 18-19 triệu lao động. Có thể thấy từ nay đến năm 2010 các ngành phi nông nghiệp có trách nhiệm giải quyết việc làm cho khoảng 24-25 triệu lao động.
Đối với ngành du lịch, du lịch là một trong những ngành được dự báo có nhu cầu lao động lớn nhất trong những năm tới. Theo báo cáo mới đây của Tổng cục Du lịch, đến năm 2010, VN sẽ đón và phục vụ 5,5 triệu - 6 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 25 triệu - 26 triệu lượt khách du lịch nội địa, cần khoảng 333.400 lao động trực tiếp và đến năm 2015 là 503.200 lao động, tỉ lệ lao động tăng tương ứng giữa hai thời điểm là 8,5% - 10,2%/năm. Theo tính toán của Tổng cục Du lịch, để huy động đội ngũ lao động trực tiếp làm việc ở ngành du lịch, từ nay đến năm 2010, cả nước cần đào tạo bổ sung vào thị trường lao động khoảng 99.300 người, đến năm 2015 là 157.500 người, bình quân mỗi năm đào tạo bổ sung 19.000 người/năm. Về cơ cấu lao động, dự báo trong những năm tới, lĩnh vực khách sạn - nhà hàng cần đông lao động nhất, chiếm 50,5%; kế đến là dịch vụ giải trí, dịch vụ khác chiếm 35,4%; lữ hành, vận chuyển du lịch chiếm 13,7%. Sự tăng trưởng mạnh của ngành du lịch cùng với trình hội nhập kinh tế toàn cầu đang tạo ra những đòi hỏi mới, khắt khe hơn đối với lao động ngành này, đòi hỏi người hành nghề, đặc biệt hành nghề hướng dẫn viên du lịch phải có những yếu tố về năng lực và phẩm chất cần thiết. Đó là đi đôi với trình độ, phải đầu tư, trang bị thật tốt kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng quản lý, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng điều hành, giám sát. Giới trẻ cần nhận dạng thách thức, có sự chuẩn bị kỹ để nắm bắt cơ hội phát triển nghề nghiệp ở ngành công nghiệp không khói này.
Về tốc độ tăng trưởng lao động, dự báo khu vực Hà Nội và phụ cận, TPHCM và phụ cận có mức tăng không đáng kể, trong khi khu vực Nam Trung Bộ tăng mạnh nhất với 23,3% trong giai đoạn 2006 - 2010 và giữ tốc độ tăng cao 16,9% trong giai đoạn 2010 - 2015. Khu vực ĐBSCL cũng có tốc độ tăng trưởng lao động cao, tương ứng 15,6% và 18,9% trong hai giai đoạn.
2.CÁC GIẢI PHÁP KÍCH CẦU VỀ SỐ LƯỢNG VÀ CHẤT LƯỢNG
2.1. Giải pháp kích cầu về số lượng
-Kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh các mặt hàng xuất khẩu:Vì cầu lao động là cầu dẫn xuất, nên khi cầu hàng hoá tăng thì cầu lao động cũng sẽ tăng. Chiếm lĩnh và phát triển được thị trường tiêu dùng trong nước cũng là nhân tố quan trọng để tăng trưởng, ổn định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời góp phần thu hút sức lao động trong nền kinh tế.
-Nâng cao năng lực quản lý và điều hành sản xuất ở tầm vĩ mô. Các nhà doanh nghiệp cần được bồi dưỡng nâng cao kiến thức quản lý kinh doanh trong cơ chế thị trường; Nâng cao năng lực quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Cải cách tiền lương trong doanh nghiệp nhà nước: cải cách tiền lương trong khu vực Nhà nước còn phải tính đến quan hệ "tỷ giá" tiền lương với các thành phần kinh tế khác. Có như vậy chính sách tiền lương mới thực sự phát huy được tác dụng của nó đó là cải cách hành chính và giảm thiểu tham nhũng.
- Giải pháp quy hoạch lĩnh vực đầu tư: Xác định được những ngành mũi nhọn và những lĩnh vực cần phát triển của nền kinh tế.Thực trạng nền kinh tế còn kém phát triển, vốn thiếu, lao động thất nghiệp cao và phần lớn chưa qua đào tạo tay nghề, thì xác định ngành mũi nhọn ngoài các tiêu chí thế mạnh về nguồn tài nguyên như dầu khí, nguồn nông sản, thuỷ sản... còn phải quan tâm đến những ngành thu hút nhiều lao động, suất đầu tư thấp như: Ngành dệt, may, da - giầy, làm hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, thương mại và một số dịch vụ phục vụ du lịch, vận tải...
-Giải pháp tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong những ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân như: sản xuất công nghiệp, vận tải đường sắt, hàng không, đường thuỷ viễn dương... Vì vậy việc sắp xếp lại, chuyển những doanh nghiệp nhà nước không cần giữ 100% vốn sang cổ phần hoá, nhằm tập trung vốn đầu tư cho các doanh nghiệp còn lại, mặt khác tạo môi trường cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cao hơn.Những ngành mà doanh nghiệp nhà nước cần giữ lại là: Sản xuất, phân phối điện, nước, phân bón, thuốc chữa bệnh, vận tải đường sắt, hàng không, vận tải đường thuỷ viễn dương và một số ngành khác có giá trị cao và thu nộp ngân sách lớn như: Ðóng tàu, sản xuất xi măng, thép, dệt, may, rượu bia, thuốc lá, hoạt động xuất, nhập khẩu, viễn thông...
-giải pháp về vốn: ( giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động bằng cách đổi mớiổtang thiết bị công nghệ, quy trình sản xuất. Có thể nói thiếu vốn là một trong những hạn chế lớn nhất của phát triển doanh nghiệp hiện nay. Giải pháp để giải quyết khó khăn về vốn phải là giải pháp mang tính tổng hợp của nhiều giải pháp nhỏ như: Giải pháp về thị trường vốn, chính sách tận dụng nguồn vốn trong nước, chính sách khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong nước, đặc biệt là giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay ưu đãi ODA.Cần điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở hơn, tiếp tục tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn, đó sẽ là biện pháp tốt để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nói chung và khu vực doanh nghiệp nói riêng.
- Thúc đẩy quá trình đa dạng hoá ngành nghề, nhất là phát triển các ngành nghề truyền thống sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nhất là hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
-Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia trên cơ sở mở rộng thị trường, cần chú trọng vào việc tăng tỷ trọng lao động có nghề đi xuất khẩu lao động. Đặc biệt chú ý đến các ngành công nghệ cao, kể cả công nghệ phần mềm mà Việt Nam có ưu thế phát triển.
2.2. Giải pháp về chất lượng (thông qua nâng cao chất lượng cung lao động)
Để nâng cao chất lượng nguồn lao động cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau:
+ Chuyển đổi mạng lưới cơ sở dạy nghề theo luật giáo dục và luật dạy nghề. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch chi tiết mạng lưới cơ sở dạy nghề đến ngành, vùng, tỉnh và thành phố theo quy hoạch tổng thể mạng lưới trường Cao Đẳng nghề, trung cấp nghề, Trung tâm dạy nghề.
+ Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại hình đào tạo, làm cho mỗi người đều được học nghề để có cơ hội tìm việc làm trong cơ chế thị trường. Phát triển loại hình dạy nghề theo hướng hiện đại và cho các loại đối tượng học là bộ đội xuất ngũ , dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Phát triển trường cao đẳng, trung cấp nghề và trung tâm nghề theo hướng xã hội hoá, chủ yếu là ngoài công lập. Đảm bảo để từ năm 2007, mỗi năm tuyển mới dạy nghề cho khoảng 1400 ngàn người, trong đó: cao đẳng, trung cấp nghề cho khoảng 300 ngàn người, sơ học nghề cho 1100 ngàn người.
+ Chuyển đổi hệ thống dạy nghề theo nhu cầu thị trường lao động trong và ngoài nước. Xây dựng cơ chế gắn kết cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề.
+ Đổi mới chương trình và nội dung dạy nghề phù hợp với từng đối tượng. Ban hành quy chế chuẩn trường, chuẩn giáo viên, chuẩn chương trình, giáo trình dạy nghề, danh mục nghề đào tạo và tiêu chuẩn kỹ năng nghề. Hướng dẫn chương trình dạng nghề theo 3 cấp trình độ quy định trong luật dạy nghề. + Đào tạo, bồi dưỡng để đội ngũ giáo viên đủ về số lượng theo luật dạy nghề. Chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc gia; phải thông thạo lý thuyết, tay nghề cao, khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại, phương pháp đào tạo tiên tiến và có trình độ ngoại ngữ.
+LĐTB-XH, GD-ĐT ban hành tiêu chuẩn nghề nghiệp gắn với chương trình đào tạo khung, tiến tới kiểm định chất lượng đào tạo nghề.
+Từ năm 2 008, triển khai đào tạo nghề theo nhu cầu doanh nghiệp, đặc biệt là nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, cả nước có khoảng 300 cơ sở dạy nghề thuộc DN, mỗi năm đào tạo khoảng 85.000 - 90.000 học sinh.
+ Đào tạo theo nhu cầu nhà nước để thực hiện chính sách xã hội: Năm 2007, đã dạy nghề cho khoảng 30.000 lao động nông thôn, 48.000 bộ đội xuất ngũ, 8.000 người tàn tật, 31.870 đối tượng chính sách
+ cần rà soát lại các quy hoạch về cơ sở đào tạo nghề, cơ chế quản lý hỗ trợ cho xuất khẩu lao động. Đồng thời tiến hành phân loại các cơ sở dạy nghề trên cả nước, về khả năng đào tạo, chiến lược đào tạo, cơ quan quản lý, điều tra dự báo nhu cầu sử dụng lao động.
C/ KẾT LUẬN.
Sau khi nghiên cứu thực trạng cầu lao động Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta thấy rằng cầu lao động về số lượng và chất lượng liên tục tăng, đặc biệt là nhu cầu lao động cao cấp và lao động cho xuất khẩu. Nhìn vào số liệu đã nghiên cứu về cầu lao động trong những năm qua cho thấy, chúng ta chưa thực sự khai thác tốt tiềm năng của của thị trường lao động . Bởi vì nhu cầu của thị trường về lao động là rất lớn, nhưng cung lao động chỉ mới đáp ứng được một phần nhỏ. Nguyên nhân chính là chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH, thấp xa so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Sự phát triển của giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay chưa bám sát vào cơ cấu lao động. Đây sẽ là thách thức lớn cho Việt Nam trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của KH&CN và xu thế hướng tới nền kinh tế dựa trên tri thức. Với những chuyển động như trong mấy năm qua, chắc chắn rằng trong giai đoạn trung hạn tới, sẽ chưa thể có một chuyển biến và cải thiện đáng kể nào về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực của nước ta. Thậm chí, tình trạng mất cân đối giữa một bên là các mục tiêu đầy tham vọng của chiến lược phát triển ngành với một bên là nguồn nhân lực sẽ gia tăng mạnh hơn và làm gay gắt hơn tình trạng hiện nay. . Thiết nghĩ đã đến lúc Nhà Nước phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình đối với công tác kích cầu một cách có tổ chức kế hoạch bài bản, để đáp úng một cách tốt hơn nhu cầu và chiến lược giải quyết việc làm trong giai đoạn sắp tới..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 75711.DOC