Tài liệu Đề tài Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo khu vực kinh tế trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005: MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt……………………………………………………………2
Danh mục bảng biểu……………………………………………………………3
Lời mở đầu……………………………………………………………………..4
Phần I: Giới thiệu đề tài nghiên cứu………………........................................... 6
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài……………….……………….6
Xác định vấn đề nghiên cứu……………………………….………….....7
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài……………………………………….….7
Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………….….8
Phương pháp số liệu mảng………………………………………………9
Phần II: Phân tích thực trạng…………………………………………………..14
Tổng quan tình hình hoạt động của các DN từ 2000 đến 2005………...14
Tình hình hoạt động của các DN theo KVKT từ năm 2000 đến năm 2005……………………………………………………………………..16
Hoạt động của DNNN……………………………………………….16
Hoạt động của DNTN………………………………………………. 22
Hoạt động của DN FDI……………………………………………....23
Quan hệ về hoạt động kinh doanh của DN theo KVKT……….………..23
So sánh tỷ suất sử dụng vốn theo ngành của các KVKT…………….24
So sánh lợi nhuận trên lao động theo KVKT………………………...2...
55 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1164 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo khu vực kinh tế trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt……………………………………………………………2
Danh mục bảng biểu……………………………………………………………3
Lời mở đầu……………………………………………………………………..4
Phần I: Giới thiệu đề tài nghiên cứu………………........................................... 6
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài……………….……………….6
Xác định vấn đề nghiên cứu……………………………….………….....7
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài……………………………………….….7
Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………….….8
Phương pháp số liệu mảng………………………………………………9
Phần II: Phân tích thực trạng…………………………………………………..14
Tổng quan tình hình hoạt động của các DN từ 2000 đến 2005………...14
Tình hình hoạt động của các DN theo KVKT từ năm 2000 đến năm 2005……………………………………………………………………..16
Hoạt động của DNNN……………………………………………….16
Hoạt động của DNTN………………………………………………. 22
Hoạt động của DN FDI……………………………………………....23
Quan hệ về hoạt động kinh doanh của DN theo KVKT……….………..23
So sánh tỷ suất sử dụng vốn theo ngành của các KVKT…………….24
So sánh lợi nhuận trên lao động theo KVKT………………………...27
So sánh mức trang bị vốn cho lao động theo KVKT………………...28
Phần III: Mô hình kinh tế lượng………………………………………………..30
Số liệu…………………………………………………………….30
Mô hình biến mảng……………………………………………….32
Phần IV : Kết luận chung và khuyến nghị……………………………………...45
Nhận xét chung…………………………………………………………..45
Khuyến nghị……………………………………………………………...51
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DN : Doanh nghiệp.
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước.
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân.
DN FDI : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
ULOLS : Ước lượng bình phương nhỏ nhất.
KVKT : Khu vực kinh tế.
DANH MỤC BẢNG BIỂU.
Bảng 1: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN theo ngành kinh tế………………24
Bảng 2: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNTN theo ngành kinh tế………………24
Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNTN theo ngành kinh tế………………25
Hình 2.1: Biểu đồ tỷ suất lợi nhuận trên vốn theo năm của các khu vực kinh tế…..........................................................................................................................27
Hình 2.2: Biểu đồ mức trang bị vốn cho 1 lao động theo năm của các khu vực kinh tế…..........................................................................................................................29
Bảng 3.1: Ước lượng mô hình tác động cố định của DNNN……………………..33
Bảng 3.2: Ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên của DNNN……….………...33
Bảng 3.3: Kiểm định Hausman cho khu vực nhà nước…………………………...34
Bảng 3.4: Ước lượng mô hình tác động cố định của DNTN……………………..35
Bảng 3.5: Ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên của DNTN…………………35
Bảng 3.6: Kiểm định Hausman cho khu vực tư nhân…………………………….36
Bảng 3.7: Ước lượng mô hình tác động cố định của DN FDI……………………37
Bảng 3.8: Ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên của DN FDI………………..38
Bảng 3.9: Kiểm định Hausman cho khu vực FDI…………………………….….39
Bảng 3.10: Ước lượng mô hình tác động cố định cho ngành 1…………………..40
Bảng 3.11: Ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên cho ngành 1………………41
Bảng 3.12: Kiểm định Hausman cho mô hình ước lượng của ngành 1…………..42
Bảng 4: bảng tổng kết về sự ảnh hưởng của lao động và vốn đến lợi nhuận của DN trong nền kinh tế………………………………………………………………….43
Đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo khu vực kinh tế trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005.
Lời mở đầu
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân…. là yếu tố quyết định sống còn đối với các doanh nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là vấn đề cấp bách đặt ra đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu của tất cả các nước trên thế giới. Để đạt được điều đó, nước ta phải cố gắng rất nhiều. Nước ta là nước có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, cơ chế quản lý còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Chính vì vậy, để cùng hội nhập và thực hiện tiến trình phát triển kinh tế trên toàn thế giới, nước ta đang có những chính sách mới được đưa ra để phù hợp với điều kiện của đất nước. Tìm ra được những ngành nghề để phát huy sức mạnh và những lợi thế riêng của đất nước, xem xét khu vực kinh tế nào hoạt động có hiệu quả để phát huy và hoàn thiện, khu vực kinh tế nào còn nhiều yếu kém và hạn chế thì cần đổi mới và có chính sách hỗ trợ kịp thời. Đó chính là vấn đề được đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm.
Để thực hiện được mục tiêu đó, yếu tố mà nhà nước có thể nhận định được để đưa ra các chính sách sao cho phù hợp nhất chính là hiệu quả hoạt động giữa các ngành nghề kinh tế và giữa các khu vực kinh tế. Tìm ra các yếu tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp, việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong các khu vực sở hữu khác nhau, trong các ngành kinh tế khác nhau để có những chính sách tác động trực tiếp và gián tiếp luôn là bài toán hóc búa với các doanh nghiệp nói riêng và nhà nước nói chung.
Qua nghiên cứu và được các thầy cô hướng dẫn tận tình, các cô chú và anh chị trong phòng phân tích và dự báo chiến lược của bộ lao động thương binh và xã hội, do vậy em quyết định chọn đề tài : “ Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo khu vực kinh tế”. Do thời gian hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, vì vậy đề tài này không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự đóng góp quý báu của các thầy cô để việc nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
PHẦN I: Giới thiệu đề tài nghiên cứu.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Tình hình thế giới:
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, việc sử dụng vốn là yếu tố hàng đầu góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển các ngành nghề đòi hỏi kĩ thuật cao. Một số nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Anh… lượng vốn đầu tư vào các ngành công nghệ cao chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số vốn. Bên cạnh đó việc thực hiện chính sách xuất khẩu để thu lợi nhuận, đồng thời có thêm lượng vốn để đầu tư là chính sách hàng đầu của các nước phát triển. Các nước phát triển trên thế giới luôn tận dụng được các nguồn lực để nâng cao sức cạnh tranh trong kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tình hình trong nước:
Việt Nam là một trong những nước đang trên đà phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, vì vâỵ nước ta đang đứng trước những khó khăn và thử thách lớn. Nước ta là nước có dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào, giá cả nguồn nhân lực rẻ nhưng không vì thế mà yếu tố này có thể thay thế được cho lượng vốn đầu tư. Bởi vậy, để thực hiện quá trình phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho các đơn vị kinh tế cũng như người dân trong cả nước, chúng ta cần xem xét nguồn vốn bị chi phối bởi những nhân tố nào, đầu tư vốn trong ngành nào mang lại lợi nhuận cao, có khả năng cạnh tranh với các nước và tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Tìm hiểu cách thức sử dụng vốn, lao động và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là vấn đề cấp thiết đối với nước ta hiện nay để có thể đưa ra được các chính sách tác động phù hợp và kịp thời đối với nền kinh tế của đất nước.
Xác định vấn đề nghiên cứu.
Như đã nói ở trên, nhu cầu cần thiết được đặt ra là xem xét yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo ngành kinh tế và sự khác nhau về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế. Trước tiên, ta nghiên cứu vấn đề theo chuỗi thời gian từ năm 2000 đến năm 2005. Đề tài này được đưa ra nhằm đánh giá được ngành nào đạt hiệu quả kinh tế cao, ngành nào chưa cao, nguyên nhân tại sao lại có sự khác biệt đó. Đặc biệt, trong đề tài này, yếu tố quan trọng nhất đó là tìm hiểu hiệu quả của việc sử dụng vốn và lao động trong các doanh nghiệp khác nhau như thế nào trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này nhằm tìm ra yếu tố tác động đến kết các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế. Yếu tố nào tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì nên chú trọng hoàn thiện và phát huy hơn nữa. Còn yếu tố nào tác động tiêu cực thì nên đưa ra biện pháp khắc phục cho phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu vấn đề hiệu quả sử dụng vốn của nước ta hiện nay với mục đích tìm ra được ngành kinh tế phù hợp với thế mạnh phát triển của đất nước. Mục tiêu nghiên cứu vấn đề nhằm đưa ra được mô hình chính xác, và thực hiện trong khoảng thời gian gần đây nhất, từ đó có thể đưa ra được xu thế sử dụng vốn của ngành nào là phù hợp nhất với tình hình phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Trong mô hình xây dựng biến biến phụ thuộc là lợi nhuận, các biến độc lập là vốn, lao động và chi phí trung gian. Việc xây dựng mô hình nhằm mục đích kiểm định và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận theo những chiều hướng nào. Mô hình được thực hiện theo thời gian từ năm 2000 đến năm 2005, các biến giải thích là vốn, lao động và chi phí trung gian sẽ ảnh hưởng ra sao đến lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó có thể xác định được hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiêp.
Đề tài cũng nhằm mục tiêu đánh giá xem hiệu quả sử dụng ở các khu vực kinh tế theo chiều hướng nào để điều chỉnh các chính sách một cách hợp lý nhằm mục tiêu để các doanh nghiệp tìm ra đường đi đúng đắn, nâng cao được khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một khu vực kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế khác nhau.
Ý nghĩa của đề tài.
Đây là một đề tài không hề mới, vấn đề này được nghiên cứu từ rất lâu. Tuy nhiên, hiệu quả sử trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN luôn là đề tài được tranh cãi nhiều. Trong những năm qua, các nhà hoạch định chính sách luôn dựa vào hiệu quả sử dụng vốn, sử dụng lao động như thế nào trong DN để có biện pháp hỗ trợ những ngành còn yếu kém tìm ra hướng đi phù hợp cho các doanh nghiệp, đồng thời có thể đưa ra biện pháp bảo hộ cho hoạt động của một số các doanh nghiệp trong những lĩnh vực như độc quyền như điện, xăng….
Đề tài này đưa ra được yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này để đánh giá hiểuhiệu quả sử dụng vốn trong ngành nào là đạt kết quả cao, khu vực kinh tế nào sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Ngoài ra đề tài nghiên cứu có sử dụng phương pháp số liệu mảng. Đây là phương pháp xử lý dữ liệu còn khá mới, tuy nhiên trong việc phân tích số liệu thì đây là một phần mềm khá hữu dụng và đưa ra các ước lượng mang tính chính xác. Sử dụng phương pháp biến mảng để nghiên cứu vấn đề một cách tổng quan, và tránh được những khuyết tật của mô hình trong khi ước lượng, do vậy sẽ có được những ước lượng chính xác hơn.
1.5. Phương pháp số liệu mảng.
1.5.1. Định nghĩa về phương pháp số liệu mảng.
Trong cùng những đơn vị quan sát trong một mẫu tiêu biểu được khảo sát từ 2 lần trở lên, kết quả quan sát được biểu diễn dưới dạng bảng số liệu theo chiều dọc, thực hiện theo thời gian. NSLY( The National Longitudinal Survey of Youth) đã bắt đầu với các cuộc khảo sát vạch ra ranh giới vào năm 1979 và cùng những cá nhân đó được phỏng vấn nhiều lần từ đó, hàng năm đến tận năm 1994 theo chu kỳ 2 năm 1 lần. Tuy nhiên, đơn vị quan sát dữ liệu mảng không chỉ là những cá nhân, mà còn là hộ gia đình, doanh nghiệp, hoặc các vùng địa lý, có thể tồn tại trong thực thể và giữ tính đồng nhất qua thời gian.
Số liệu mảng bao gồm những mẫu tiêu biểu và độ dài chuỗi theo thời gian. Việc ghép như vậy ở các mô hình hồi quy để phù hợp với mô hình kinh tế, phân tích được nhiều khía cạnh phức tạp hơn so với việc sử dụng dữ liệu đơn. Việc phân tích số liệu mảng có thể thấy sự khác biệt và xu hướng diễn ra theo thời gian của các mục tiêu nghiên cứu. Việc sử dụng số liệu mảng có thể giải quyết các vấn đề về sai lệch mà nguyên nhân là do không quan sát được tính đồng nhất trong số liệu điều tra mẫu, đây là vấn đề chung trong việc điều chỉnh mô hình với dữ liệu được chia cắt theo thời gian.
Lý do thứ 2 mà chúng ta có thể khai thác được từ phương pháp phân tích số liệu mảng đó chính là phân tích để có thể bộc lộ ra những chức năng mà rất khó để phát hiện được trong số liệu mẫu.Chính vì vậy, phương pháp số liệu mảng ngày càng được sử dụng nhiều trong việc sử lý số liệu.
Điều hấp dẫn thứ 3 của phương pháp số liệu mảng là chúng thường có số lượng quan sát rất rộng, và các quan sát kết nối đối tượng ở nhiều thời điểm khác nhau. Nếu có n đơn vị quan sát và cuộc khảo sát được thực hiện trong khoảng thời gian T, thì có khả năng là sẽ có nT quan sát trong chuỗi thời gian T và n đơn vị tương đương. Trong trường hợp của NLSY, có hơn 6000 cá nhân tham gia thí dụ điểm. Cuộc khảo sát được thực hiện 19 lần vào năm 2004, như vậy tổng số quan sát đã lên đến 100000 quan sát. Hơn thế nữa, việc thực hiện và duy trì chúng rất cần chi phí rất cao, nên phương pháp số liệu mảng hướng tới nội dung nghiên cứu toàn diện và hoàn thiện hơn.
1.5.2. Mô hình tổng quát của phương pháp số liệu mảng.
Ta có phương trình như sau:
Yij = β1 + β2*X2ij +… + βk* Xkij + Ui +εij.
Trong đó:
Yij: là biến phụ thuộc của quan sát i trong thời kỳ j.
Xkij: biến ngoại sinh.
Với mỗi cá thể, Ui là ảnh hưởng của yếu tố không quan sát đuợc và không thay đổi theo thời gian, nó đặc trưng cho mỗi cá thể. Nếu Ui tương quan với bất kỳ biến Xj nào thì ước lượng hồi quy từ hồi quy Y theo Xj sẽ bị ảnh hưởng chéo bởi những yếu tố không đồng nhất không quan sát được. Thậm chí, nếu Ui không tương quan với bất kỳ một biến giải thích nào thì sự có mặt của nó cũng là nguyên nhân làm cho các ước lượng OLS không hiệu quả,và sai số tiêu chuẩn không có hiệu lực. Vì vậy, ta phải tìm cách loại trừ ảnh hưởng của các yếu tố không quan sát được.
Có 2 loại mô hình được sử dụng phổ biến là:
Mô hình tác động cố định.
Mô hình tác động ngẫu nhiên.
1.5.2.1. Mô hình tác động cố định.
Mô hình tác động cá thể riêng biệt cho phép mỗi đơn vị theo không gian (mỗi cá thể, mỗi doanh nghiệp, hoặc mỗi quốc gia,...) có số hạng chặn khác nhau mặc dù tất cả các hệ số góc là như nhau, cho nên:
(2)
trong đó có phân bố xác định và độc lập đối với và . Hệ số là biến ngẫu nhiên thể hiện các đặc tính không quan sát được, trong phần này chúng ta giả thiết nó là biến ngoại sinh.
(3)
nghĩa là, số hạng sai số được giả thiết là có kỳ vọng có điều kiện theo giá trị quá khứ, hiện tại và tương lai của các biến giải thích bằng 0.
Trong mô hình (2), khi αi được coi như một biến ngẫu nhiên không quan sát được, nó có khả năng tương quan với các biến quan sát được xit . Mô hình dạng này là mô hình tác động cố định.
Trong mô hình sử dụng số liệu mảng, nếu αi và εij không có tương quan với nhau, khi đó ta có thể coi αi như một biến giải thích thông thường, khi đó αi không thay đổi theo j mà chỉ thay đổi theo i.
Trong việc sử dụng số liệu mảng, khả năng ước lượng mô hình tác động cố định (fixed effects model - FE) là khá chính xác. Trong mô hình tác động cố định, những đặc tính không quan sát được của mỗi cá thể có thể tương quan với các biến giải thích. Những đặc tính không quan sát được có thể dẫn đến khuyết tật của mô hình như bỏ sót biến, về nguyên tắc khuyết tật này của mô hình có thể được khắc phục bằng phương pháp biến công cụ khi sử dụng số liệu chéo, nhưng trong thực hành thì rất khó có thể tìm được một biến công cụ thực sự giá trị. Số liệu mảng với rất ít thời kỳ (giả sử có hai thời kỳ) cho chúng ta cách để xử lý nếu tác động riêng biệt của cá thể không quan sát được và không thay đổi theo thời gian.
1.5.2.2. Mô hình tác động ngẫu nhiên.
Trong trường hợp các biến mà chúng ta quan tâm là hằng số cho mỗi cá thể, hồi quy ảnh hưởng cố định sẽ không phải là công cụ hiệu quả bởi vì nó không bao gồm các biến này. Hồi quy ảnh hưởng ngẫu nhiên đưa ra 2 điều kiện và cung cấp cách giải quyết cho vấn đề này.
Trong mô hình tác động ngẫu nhiên, Ui có tương quan đến εij, do đó ta không thể xét Ui như một biến độc lập do vi phạm giả thiết của OLS, điều này dẫn đến các ước lượng bị chệch và không vững, như vậy việc ước lượng mô hình sẽ có thể không chính xác. Để giải quyết vấn đề này, ta phải gộp 2 yếu tố này vào để trở thành một sai số ngẫu nhiên. Ta có mô hình như sau:
Yij = β1 + β2*X2ij +… + βk* Xkij + Ui +εij.
= β1 + β2*X2ij +… + βk* Xkij + vit
Trong đó,
Vit = Ui +εij.
1.5.3. Kiểm định Hausman.
Để xem xét mô hình nào phù hợp hơn ta sử dụng kiểm định Hausman. Đây là kiểm định nhằm giúp ta lựa chọn nên sử dụng mô hình tác động cố định hay là mô hình tác động ngẫu nhiên. Thực chất kiểm định Hausman để xem xét có tồn tại tự tương quan giữa Ui và εit hay không? Nếu không tồn tại hiện tượng tự tương quan thì khi đó các ULOLS sẽ là UL vững và hiệu quả. Nếu có tồn tại tương quan, ULOLS sẽ chệch và không vững. Do vậy, để có thể phân tích chính xác, tránh được những khuyết tật của mô hình ta sử dụng kiểm định này để lựa chọn mô hình phù hợp hơn. Kiểm định Hausman là kiểm định giả thiết:
H0: Ui và biến độc lập không tương quan.
H1: Ui và biến độc lập có tương quan.
Khi giá trị(Prob>chi2) chi2) >0.05, lúc đó cho ta chấp nhận giả thiết H0, tức là Ui và biến độc lập không tương quan.Khi đó, để tránh những sai lầm của mô hình, có thể dẫn đến những ước lượng không chính xác,ta sẽ sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên.
Phần II: Tình hình thực tế về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo khu vực kinh tế giai đoạn từ 2000 đến năm 2005.
A. Tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2005.
Ngày 11 tháng 5 năm 2000, tổng cục thống kê công bố kết quả điều tra thực trạng doanh nghiệp Việt Nam trong 3 năm từ năm 2002 đến năm 2004. Điểm đáng lo ngại nhất là số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng quy mô nhỏ, phân tán và công nghệ kĩ thuật thủ công lạc hậu.
Năm 2004, bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 72 lao động và 24 tỷ đồng tiền vốn. Năm 2000, số lao động là 84 và vốn sử dụng là 26 tỷ đồng. Như vậy, xu hướng quy mô nhỏ ngày càng phát triển do 3 năm qua, doanh nghiệp mới chủ yếu là tư nhân với quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 46%, từ 10 đến dưới 50 lao động chiếm 35%. Về quy mô vốn, số doanh nghiệp dưới 10 tỷ đồng chiếm 86%, trong đó hơn 1 nửa là dưới 1 tỷ đồng. Những ngành tập trung nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn là công nghiệp, bình quân 154 lao động và 32 tỷ đồng tiền vốn, tiếp đó là vận tải, thong tin liên lạc và xây dựng. Quy mô nhỏ và phân tán là ngành thương nghiệp, bình quân 18 lao động và 6 tỷ đồng tiền vốn. Doanh nghiệp ngành khách sạn nhà hang bình quân là 27 lao động và 9 tỷ đồng tiền vốn.
Do phần lớn doanh nghiệp có mức vốn thấp (dưới 10 tỷ đồng) nên khả năng trang bị máy móc thiết bị, kĩ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức trang bị tài sản cố định cho 1 lao động ngoài quốc doanh là 50 triệu đồng, chỉ bằng 20% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tổng cục thống kê cũng chỉ ra rằng, Doanh nghiệp phát triển còn mang tính tự phát, chưa có định hướng rõ rang. Số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 77,5% số doanh nghiệp được thành lập từ năm 2000 trở lại đây, nhưng biến động tới gần 20% hàng năm. Nhiều tỉnh có hàng nghìn doanh nghiệp nhưng từ 70 đến 80% trong số đó chỉ có từ 1 đến 5 lao động và số vốn không quá 5 tỷ đồnh như Long An, Đồng Tháp, Nam Định… Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài phát triển ổn định và có định hướng rõ ràng hơn, nhưng rất ít doanh nghiệp có quy mô lớn, đặc biệt Việt Nam chưa có 1 tập đoàn kinh tế lớn mạnh nào.
Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam được xem là đáng lo ngại. Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tăng từ 19% năm 2000 lên hơn 23% năm 2003, với mức lỗ hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm, gần bằng 1/4 số vốn hoạt động của các doanh nghiệp này. Trong khi đó, số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, năm cao nhất mới chiếm 73% với mức lãi thấp( 50 đến 89 nghìn tỷ đồng). Theo thống kê, tổng số lãi tính đến năm 2003 là 10.825 tỷ đồng, tổng lãi là 89.054 tỷ đồng. Nhìn từ thực tế ta thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế là chưa thực sự hiệu quả. Cũng có thể nhận định rằng cách thức sử dụng vốn của các doanh nghiệp còn nhiêu bất cập, chưa hiệu quả. Khả năng cạnh tranh của mới khẳng định được ở một số mặt hàng sản phẩm và dịch vụ thông thường. Trong khi đó, quyền lợi của người lao động trong rất nhiều doanh nghiệp đang bị xem nhẹ. Số liệu công bố còn cho thấy, doanh nghiệp chưa đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động chiếm hơn 70% tổng số doanh nghiệp hiện có.
Nhìn tổng quan về các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thật đáng lo ngại, hoạt động chưa hiệu quả, năng lực cạnh tranh còn kém so với thị trường quốc tế. Mục đích hoạt động còn chưa có định hướng rõ ràng, chưa có hướng đi hiệu quả và hợp lý, chính sách sử dụng vốn còn kém, các hoạt động còn phân tán, manh mún.
B. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp theo khu vực kinh tế giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005.
1. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2000 đến năm 2005.
1.1. Những thành tựu mà các doanh nghiệp nhà nước đã đạt được từ năm 2000 đến nay.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, các doanh nghiệp đang thực hiện các chính sách của mình để nâng cao sức cạnh tranh trong nước cũng như trong thị trường quốc tế.
Theo cuộc họp của thủ tướng chính phủ với lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hôm 8-8 năm 2008 đã nêu ra nhiều vấn đề xung quanh tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, đặc biệt việc định giá lại nguồn vốn được nhiều doanh nghiệp đề nghị. Bộ tài chính dẫn nguồn báo cáo của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước (trừ các ngân hàng thương mại nhà nước, tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, các tổng công ty đã cổ phần hóa) cho thấy hoạt động của các đơn vị sản xuất kinh doanh của các đơn vị này đạt kết quả tốt.
Tổng doanh thu năm 2007 của các tập đoàn , tổng công ty tăng 24%, tổng lợi nhuận tăng 23% so với năm 2006. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là 17% ( năm 2006 là 16%), 6 tháng đầu năm 2008, 8 tập đoàn và 96 tổng công ty vẫn đạt doanh thu 59%, lợi nhuận đạt 53% và nộp ngân sách đạt 67% kế hoạch cả năm. Hết năm 2007, vốn chủ sở hữu ở các tập đoàn, tổng công ty đã tăng 18% và tổng tài sản tăng 26% (khoảng 927 ngàn đồng). Những nguồn tăng này chủ yếu được hình thành từ tích lũy lợi nhuận và tiền bán cổ phần từ các công ty con. Theo đó, đầu tư của công ty mẹ và công ty con, công ty liên kết trong năm 2007 cũng đã tăng lên và chiếm 24% vốn của chủ sở hữu. Việc cổ phần hóa cũng thu về cho quỹ hỗ trợ, sắp xếp doanh nghiệp của các tập đoàn, tổng công ty hiện nay là 24 ngàn tỷ đồng.
1.2. Những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước từ năm 2000 đến nay.
1.2.1. Quản lý và sử dụng vốn chưa hiệu quả.
Theo số liệu của kiểm toán nhà nước (KTNN) công bố ngày 17 /8/2005 đã đưa ra bản báo cáo toát lên vấn đề kiểm đâu sai đấy, đặc biệt là có nhiều điểm nóng sai phạm tài chính được phát hiện. Có 3 điểm nóng:
Điểm nóng đầu tiên là hiện tượng khai sai thuế, giấu thuế và nợ đọng thuế khá phổ biến ở các doanh nghiệp nhà nước. Trong số 19 tổng công ty thì có tới gần 300 tỷ đồng tiền thuế được kiến nghị thu thêm. Cá biệt như tổng công ty tà thủy Việt Nam, số thuế thu thêm lên đến 63,9 tỷ đồng thuế VAT; công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị là 33,3 tỷ đồng tiền thuế thu nhập doanh nghiệp. Cũng chính loại doanh nghiệp này đang nợ đọng những khoản tiền thuế khổng lồ là hơn 4300 tỷ đồng và hơn 25% số này không thể thu hồi.
Điểm nóng khác chính là việc sử dụng vốn đầu tư không đúng mục đích. Bộ giao thông vận tải chi sai mục đích là 143,6 tỷ đồng, chương trình kiên cố hóa trường học chi sai mục đích là 167 tỷ đồng, cũng có hơn 1400 tỷ đồng trong số hơn 6000 tỷ đồng thu vượt dự toán được sử dụng nhưng không tuân thủ quy định và không được HĐND tỉnh thống nhất.
Điểm nóng nhất vẫn là đầu tư và xây dựng cơ bản. Theo đánh giá của KTNN, sai phạm trong đấu thầu thực sự nổi cộm và là căn nguyên của những tiêu cực, lãng phí và thất thoát. Số liệu đưa ra đáng để giật mình như dự án đường Chiềng Ngân (Sơn La) có giá trị 238,8 tỷ đồng mà vẫn được chỉ định thầu và giá thầu cao hơn phê duyệt tới 18,8 tỷ đồng. Hiện tượng giàn xếp, xé lẻ để chỉ định thầu, đấu thầu chui khiến cho nhiều công trình bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
1.2.2. Các doanh nghiệp nhà nước chưa hoạt động hết khả năng của mình.
Điều đáng lo ngại là theo kết quả của các báo cáo kiểm toán chuẩn đoán được công bố vào ngày 21 tháng 1 năm 2004. Tất cả các đơn vị này đều đang hoạt động dưới khả năng của mình, bởi một lý do là không có động cơ kích thích họ nỗ lực hơn. Việc kiểm toán chẩn đoán các doanh nghiệp nhà nước là một phần của dự án: Hỗ trợ kĩ thuật thực hiện chương trình kiểm toán phân tích doanh nghiệp nhà nước và được thực hiện bằng nguồn tài trợ không hoàn lại của chính phủ Australia, Đan Mạch, Nhật Bản, ủy thác của ngân hàng thương mại thế giới(WB). Việc kiểm toán được thực hiện bởi các công ty KPMJ- Australia, KPMJ- Thai Lan, Ernst -Young (Australia)…
Bà Lê Anh Tú, cố vấn kĩ thuật của dự án cho biết, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của chủ sở hữu trung bình của các doanh nghiệp của nhà nước được kiểm toán là 7,6%, thấp hơn nhiều so với mức 12% của các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán Trung Quốc và mức 24% của các công ty tương tự ở Ấn Độ. Quan điểm thống nhất của các chuyên gia tư vấn quốc tế là các doanh nghiệp có tiềm năng tạo ra mức tỷ suất lợi nhuận cao hơn nhưng bị cản trở bởi các lý do thể chế khác nhau. Cụ thể là sự thiếu vắng 1 cơ chế khuyến khích công bằng được gắn kết với những mục tiêu hoạt động cụ thể của ngành. Các tổng công ty và doanh nghiệp thành viên được giao những mục tiêu phi lợi nhuận( phúc lợi xã hội), do đó làm giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, các tổng công ty thực hiện rất nhiều vai trò đa dạng khác nhau và không thể hoạt động như một đơn vị kinh doanh vì lợi nhuận do phải làm công việc như một cơ quan hỗ trợ và giám sát hiệu quả của các doanh nghiệp thành viên. Những mục tiêu xác định là khác nhau, do đó doanh nghiệp không thực hiện được hiệu quả.
Bên cạnh đó, trong một số ngành, chính phủ quyết định mức giá bán tối đa, do đó các doanh nghiệp dựa theo đó mà ấn định mức giá bán( gồm giá trần và giá sàn) cho các thành viên, gây ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả hoạt động của các thành viên. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp trực thuộc không được bán vượt ngoài khung của tổng công ty, do vậy các đơn vị thành viên bị mất thị phần vào các đơn vị liên doanh không thuộc quyền kiểm soát của tổng công ty.
1.2.3. Sai lầm trong cách thức quản trị của doanh nghiệp nhà nước.
Điều bất cập rất lớn đối với các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là vấn đề sử dụng lao động. Theo chúng ta đã biết, chế độ dụng nhân và chế độ đãi ngộ là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động quản trị và phát triển nguồn nhân lực, đem lại sự thành công cho doanh nghiệp. Tuy nhiên điều này đã không được coi trọng trong hầu hết các doanh nghiệp nhà nước. Chính vì vậy , các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đã mắc phải một số sai lầm trong quản trị và tuyển dụng lao động.
Nguyên nhân có thể có ở các vấn đề sau:
Doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng thiếu hụt nhân sự có năng lực, yếu kém về năng lực quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp.Trong chính sách dụng nhân, các doanh nghiệp thường mắc sai lầm nghiêm trọng trong khi lặp lại cơ chế sắp xếp, bố trí cán bộ trong cơ quan hành chính sự nghiệp của nhà nước. Cơ chế bổ nhiệm cán bộ quản lý, lãnh đạo tuân theo các tiêu chí cơ bản như: phải là đàng viên, có thâm niên công tác, và thuộc diện cán bộ quy hoạch của tổ chức đảng trong doanh nghiệp đó. Tài năng đôi khi cũng chỉ là điều kiện đủ chứ chưa phải là điều kiện cần.Theo cơ chế bổ nhiệm nêu trên,như vậy một người trẻ, có tài năng, mới vào làm cho doanh nghiệp nhà nước khó mà được trọng dụng và bổ nhiệm vào các vị trí quản lý, lãnh đạo. Bên cạnh đó, chúng ta luôn bắt gặp đâu đó một doanh nghiệp nhà nước như một nhà trẻ hoặc là nơi giải quyết “ chế độ, chính sách”, bởi công nhân viên đa phần được gửi gắm, hoặc chuyển ngành trong các khu vực nhà nước. Hoạt động tuyển dụng trong doanh nghiệp nhà nước đôi khi không tuân thủ theo nguyên tắc “có việc mới tìm người” mà ở trong tình trạng “có người rồi mới tạo ra việc”. Như vây, dù có tuyển nhiều lao động nhưng làm việc còn mang tính chất hành chính, không năng động trong công việc, kéo theo điều này là năng suất lao động trong khu vực kinh tế này không cao.
Một yếu tố khác cũng góp phần quan trọng tạo ra tình trạng yếu kém của đội ngũ nhân sự trong các doanh nghiệp nhà nước đó chính là chế độ đãi ngộ: Cơ chế trả lương và chính sách động viên khen thưởng. Mặc dù doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh doanh thu lợi nhuận và tự trang trải chi phí, nhưng lại bị bắt buộc áp dụng hệ thống thang lương- bảng lương này là cơ chế trả lương không theo năng lực lao động, mà dựa trên bằng cấp, chức danh công việc, và thâm niên công tác. Nếu như tại các doanh nghiệp tư nhân, 1 sinh viên mới ra trường có thể đề nghị mức lương của mình, và doanh nghiệp chủ động đưa ra một mức lương phù hợp mà cả 2 phía có thể chấp nhận được. Nhưng điều này rất hiếm xảy ra ở các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến tình trạng người có năng lực nhưng mới ra trường luôn có mức lương thấp hơn một người bình thường nhưng có thâm niên làm việc là điều rất hay gặp trong các doanh nghiệp nhà nước.
Hệ thống thang lương – bảng lương nhà nước quá phức tạp, dẫn đến tiêu cực, không công bằng trong cách trả lương. Hiện tượng “thưởng trong lương” rất phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước. Đó là biến tướng của việc buộc phải chi sai quỹ tiền lương nhằm đảm bảo thu nhập đủ sống cho công nhân viên của doanh nghiệp (vì lương theo hệ số của thang lương – bảng lương quá thấp). Bất cập này là nguyên nhân chính của tình trạng lãn công, tâm lý “không cần làm nhiều vì lương vẫn thế” trong đại bộ phận của doanh nghiệp.
Chính sách động viên khen thưởng cũng chẳng khác gì lương. Bằng cấp và yếu tố thâm niên vẫn là những đặc điểm cơ bản nhất dùng làm tiêu chí để thực hiện. Vì thế, nó không còn mang tính khích lệ, động viên kịp thời đối với người có cống hiến, có hiệu quả trong giải quyết công viêc. Ví dụ, tại một doanh nghiệp nhà nước, giám đốc quyết định mỗi phòng được cử một cán bộ quản lý và một nhân viên xuất sắc đi du lịch nước ngoài. Sau khi tiến hành lựa chọn, đa phần người được chọn là người có thâm niên công tác hoặc có ảnh hưởng nhất định tại phòng, trong khi đó những nhân viên trẻ có năng lực, có cống hiến thực sự thì lại không được đề cử. Điều này đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong tập thể người lao động.
Chế độ khen thưởng hàng năm lại mang tính hình thức. Việc bình bầu A, B, C và tính chất bình bầu không thực tế. Để không mất lòng mọi người, ai ai cũng xếp loại A, hi hữu mới có trường hợp xếp loại C là dành cho những người mới vào làm việc.
Trên đây là những bất hợp lý trong chế độ đãi ngộ đã không kích thích được sự phấn đấu, cạnh tranh bằng năng lực giữa các nhân viên.
Bên cạnh đó, lượng vốn mà các doanh nghiệp nhà nước sử dụng không hiệu quả, còn lãng phí rất nhiều như các công trình xây dựng cầu vượt, các công trình xây đường, nhà máy… Tiền vốn bỏ ra nhiều mà lợi ích sử dụng không cao, không thiết thực để áp dụng vào thực tế.
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) vừa công bố kết quả điều tra “Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam 2001”. Trong đó, các nhà quản lý cho rằng, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề làm chi phí giao dịch trong kinh doanh cao do trình độ quản trị thấp.
Các DNTN không đạt được hiệu quả kinh tế cao là vì các DNTN thường rất khó xin đăng kí kinh doanh những ngành nghề mà trước đây Nhà nước độc quyền như du lịch lữ hành quốc tế, xuất khẩu lao động, khai khoáng… Chính vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam còn rất hạn chế, hiệu quả không cao, hầu như không có doanh nghiệp tư nhân nào có quy mô lớn.
Từ năm 2000 đến nay, trên Hà Nội có hơn 40.000 DNTN đăng kí thành lập. Tuy phát triển nhanh về số lượng, nhưng chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp này chưa tương xứng. Theo đánh giá của cơ quan chức năng, tuy phát triển nhanh về số lượng, nhưng chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp này chưa tương xứng với thế mạnh của một thành phố được coi là một trong những “đầu tàu” của kinh tế cả nước. Không ít doanh nghiệp sau khi đăng kí thành lập đã không thể hoạt động do chưa chuẩn bị được các yếu tố kinh doanh cần thiết. Ông Lưu Tiến Long, Giám đốc Sở Công nghiệp Hà Nội cho biết, hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân Hà Nội hầu hết còn mang tính tự phát. Tổng vốn đăng kí của hơn 40.000 DNTN ở Hà Nội xấp xỉ 100.000 tỷ đồng. Như vậy, mỗi doanh nghiệp chỉ có số vốn pháp định trung bình khoảng 2,5 tỷ đồng (chỉ có 15 doanh nghiệp có vốn pháp định trên 10 tỷ đồng). Các doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực tạo ra lợi nhuận nhanh, vốn đầu tư thấp như thương mại, dịch vụ. Những lĩnh vực quan trọng như nông nghiệp sạch, công nghiệp chế biến, công nghiệp xây dựng và chế tạo… lại được ít doanh nghiệp đầu tư. Ngoài ra, tình trạng chung hiện nay là các DNTN không thu hút được lực lượng lao động có trình độ cao.
3.Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Khi nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, xuất khẩu là yếu tố quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế. Trong các khu vực kinh tế, doanh nghiệp có vốn đẩu tư nước ngoài (FDI) giữ vị trí hàng đầu trong việc tạo ra giá trị xuất khẩu. Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm tỷ trọng cao trong nhiều mặt hàng công nghiệp như hàng dệt may, giày dép, điện tử, máy móc, thiết bi…. Riêng trong năm 2008, các doanh nghiệp FDI đã xuất khẩu đạt 24,2 tỷ USD, chiếm 44% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu tính cả dầu thô thì đạt 34,5 tỷ USD và chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, trong quý I, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước chỉ tăng 2,4 %, thấp nhất trong nhiều năm qua, trong đó khu vực kinh tế FDI giảm mạnh nhất.
Tuy phải đối mặt với những khó khăn chung của nền kinh tế, doanh nghiệp FDI vẫn là khu vực kinh tế hoạt động mang tính hiệu quả vì cách thức quản lý mang tính chuyên nghiệp và chế độ tuyển dụng nguồn nhân lực mang tính hiệu quả hơn so với các thành phần kinh tế khác.
C. Mối quan hệ về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo khu vực kinh tế giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005.
1. So sánh tỷ suất sử dụng vốn giữa các doanh nghiệp theo ngành của các khu vực kinh tế.
Ta có các bảng sau:
+ Bảng về tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các DNNN theo ngành như sau:
Bảng 1
TSLN1
TSLN2
TSLN3
TSLN4
TSLN5
TSLN6
9.96
4.66
9.29
1.02
6.73
5.22
TSLN7
TSLN8
TSLN9
TSLN10
TSLN11
TSLN12
1.33
2.45
2.28
2.26
2.67
1.64
+ Bảng tỷ suất lợi nhuận trên vốn theo ngành của DNTN theo ngành như sau:
Bảng 2
TSLN1
TSLN2
TSLN3
TSLN4
TSLN5
TSLN6
3.62
1.94
1.14
2.31
16.65
4.88
TSLN7
TSLN8
TSLN9
TSLN10
TSLN11
TSLN12
4.89
1.61
6.07
1.58
2.56
5.89
+ Bảng tỷ suất lợi nhuận trên vốn theo ngành của các doanh nghiệp FDI như sau:
Bảng 3
TSLN1
TSLN2
TSLN3
TSLN4
TSLN5
TSLN6
3.60
213.97
4.46
2.96
4.49
6.41
TSLN7
TSLN8
TSLN9
TSLN10
TSLN11
TSLN12
8.46
6.84
2.43
1.48
7.46
1.01
Trong đó:
Ngành 1: Là ngành trồng trọt, nông nghiệp và săn bắn.
Ngành 2: Là ngành khai mỏ và khai thác than đá.
Ngành 3: Là ngành chế tạo.
Ngành 4: Là ngành sản xuất điện, ga, năng lượng và cung cấp nước nóng.
Ngành 5: Là ngành xây dựng.
Ngành 6: Là ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa phương tiện mô tô, xe thô sơ cho cá nhân và hộ gia đình.
Ngành 7: Là ngành kinh doanh khách sạn và nhà hàng.
Ngành 8: Giao thông, kho và các phương tiện truyền thông.
Ngành 9: Môi giới tài chính.
Ngành10: Hoạt động cho thuê, kinh doanh đất, cho thuê điền trang và tài sản.
Ngành 11: Giáo dục.
Ngành12: Chăm sóc sức khòe và công việc xã hội.
Từ bảng 1, bảng 2 và bảng 3 ta có thể thấy được tỷ suất sử dụng vốn của các doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các ngành theo khu vực kinh tế. Theo các bảng trên ta thấy, đối với ngành 1, các DNNN có tỷ suất sử dụng vốn cao hơn so với DNTN và doanh nghiệp FDI. Cụ thể ta thấy, tỷ suất lợi nhuận trên vốn ngành 1 của DNNN là 9.96, trong khi tỷ lệ này ở khu vực kinh tế tư nhân là 3.66 và khu vực FDI là 3.60. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp chế tạo( ngành3) của DNNN cũng có tỷ suất sử dụng vốn cao hơn so với các DNTN và doanh nghiệp FDI.
Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiêp FDI trong ngành kinh doanh nhà hàng và khách sạn bằng 8.46 lại cao hơn so với khu vực kinh tế nhà nước là 1.33và khu vực kinh tế tư nhân là 4.89. Đây là ngành dịch vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước chưa có khả năng cạnh tranh và có hướng đi phù hợp trong lĩnh vực này so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong bảng ta cũng nhận thấy ngành khai mỏ và khai thác than đá của khu vực này đạt tỷ suất sử dụng vốn cao nhất, cao hơn rất nhiều so với các DNNN và DNTN.
Trong bảng trên ta thấy các DNTN đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn trong ngành 5 đạt 16.65 , trong khi đó các DNNN chỉ đạt 6.73 và các doanh nghiệp FDI đạt 4.49. Như vậy, đây là ngành mà các DNTN có thể phát huy và đầu tư phát triển hơn, nó có khả năng cạnh tranh trên thị trường sản xuất trong lĩnh vực này.
Như vậy, các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế cần phát huy và phân bổ vốn đầu tư vào các ngành mà có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế khác sao cho hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp muốn kinh doanh ở những ngành mà các doanh nghiệp ở những khu vực kinh tế khác đã đạt hiệu quả kinh tế cao thì cần chuẩn bị mọi điều kiện và chịu thách thức lớn để có thể cạnh tranh được trên thị trường sản xuất trong những ngành đó. Cụ thể, nếu DNNN và DNTN muốn hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng và khách sạn thì cần phải có hướng đi cụ thể, tìm hiểu phương pháp thực hiện, cách thức đầu tư vốn có quy mô và hiệu quả thì mới cạnh tranh được với doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực này.
2. So sánh lợi nhuận trên lao động của các doanh nghiệp theo khu vực kinh tế trong giai đoạn từ 2000 đến 2005.
Ta có sơ đồ về tỷ suất lợi nhuận trên vốn theo năm của cả 3 khu vực kinh tế như sau:
Hình 2.1
Nhìn từ đồ thị hình 2.1 ta thấy rằng tỷ suất sử dụng lao động của doanh nghiệp khu vực FDI ngày càng tăng dần theo thời gian. Điều này chứng tỏ một phần là các doanh nghiệp FDI sử dụng lao động hiệu quả hơn so với 2 khu vực còn lại. Và theo thời gian thì hiệu quả đạt được ngày càng cao. Ngoài ra, nhìn từ đồ thị ta thấy rằng vào các năm 2000, 2001, 2005, tỷ suất sử dụng lao động của khu vực kinh tế nhà nước đạt hiệu quả cao hơn so với khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, theo thời gian, tỷ suất này không tăng, và không đồng đều giữa các năm. Chỉ số này đạt cao nhất vào năm 2000, do vậy không có xu hướng thay đổi rõ theo thời gian. Bên cạnh đó, ta cũng thấy đối với các DNTN, tỷ suất sử dụng lao động kém hiệu quả, tuy nhiên cũng có xu hướng tăng theo thời gian nhưng tốc độ tăng rất chậm. Mặt khác, năm 2004 có tỷ suất cao hơn so với năm 2005 một chút. Có nhiều yếu tố tác động đến tỷ suất này, tuy nhiên các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế cần thực hiện biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, để từ đó nâng cao được tỷ suất này lên. Đây là vấn đề rất cần thiết cho các doanh nghiệp, một mặt nâng cao vị thế cạnh tranh của chính doanh nghiệp, mặt khác nâng cao được hiệu quả hoạt động và đây là yếu tố quan trọng để giúp các doanh nghiệp có lượng vốn ít có thể thay thế lượng vốn đầu tư bằng nguồn lao động, giúp cho họ có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp có lượng vốn lớn.
3. So sánh mức trang bị vốn cho lao động ở các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế theo thời gian giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005.
Để có được cái nhìn tổng quan hơn, ta có đồ thị sau:
Hình2.2
Từ hình 2.2 ta thấy rằng, mức trang bị vốn cho doanh nghiệp FDI đạt cao nhất, sau đó đến các DNTN, xếp cuối cùng là các DNNN. Nhìn từ đồ thị ta thấy, lượng vốn trang bị cho một lao động nhìn chung đều có xu hướng tăng dần theo các năm, và tăng nhanh nhất là các doanh nghiệp FDI. Lượng vốn trang bị cho lao động tăng nhanh và đều qua các năm, không có xu hướng chững lại ở bất kì giai đoạn nào. Độ dốc của đường tỷ suất (vốn/lao động) của doanh nghiệp FDI cao hơn so với 2 loại hình doanh nghiệp còn lại. Điều này cho ta thấy xu hướng trang bị vốn cho 1 lao động ở khu vực FDI tăng nhanh hơn ngày càng cao. Bên cạnh đó, DNNN và DNTN có mức trang bị vốn cho lao động tăng rất chậm trong giai đoạn đầu từ năm 2000 đến năm 20002, tuy nhiên từ năm 2000 đến năm 2004, tỷ lệ này tăng mạnh và có xu hướng chững lại vào năm 2005.
PHẦN III: Mô hình kinh tế lượng và kết quả phân tích.
3.1. Số liệu.
Nguồn số liệu sử dụng là bộ số liệu điều tra doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005 do bộ lao động và thương binh xã hội cung cấp.
Qua quá trình xử lý số liệu bằng phần mềm stata và excel. Ta có bảng số liệu sau:
Bảng số liệu của DNNN theo ngành có dạng như sau:
năm
ngành
kvkt
ldong
lnhuan
von
2000
1
1
…
…
…
2001
1
1
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
1
1
…
…
…
2000
2
1
…
…
…
…
…
..
…
…
…
2005
2
1
…
…
…
2000
3
1
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
3
1
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2000
12
1
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
12
1
…
…
…
Bảng số liệu của DNTN có dạng như sau:
năm
ngành
kvkt
ldong
lnhuan
von
2000
1
2
…
…
…
2001
1
2
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
1
2
…
…
…
2000
2
2
…
…
…
…
…
..
…
…
…
2005
2
2
…
…
…
2000
3
2
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
3
2
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2000
12
2
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
12
2
…
…
…
Ta có bảng số liệu của doanh nghiệp FDI có dạng như sau:
năm
ngành
kvkt
ldong
lnhuan
von
2000
1
3
…
…
…
2001
1
3
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
1
3
…
…
…
2000
2
3
…
…
…
…
…
..
…
…
…
2005
2
3
…
…
…
2000
3
3
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
3
3
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2000
12
3
…
…
…
…
…
…
…
…
…
2005
12
3
…
…
…
3.2. Mô hình biến mảng.
3.2.1. Sử dụng phương pháp biến mảng, ta có mô hình như sau.
lnhuanij = β1 +β2 *ldong2ij +β3 *von3ij + Ui +εij .
Trong đó:
Lnhuanij : Lợi nhuận của ngành i trong thời gian j.
Ldong2ij: Lao động của ngành i trong thời gian j.
Von3ij : Lượng vốn sử dụng của ngành i trong thời gian j.
Ui là nhiễu, thể hiện sự khác nhau giữa các ngành.
3.2.2. So sánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo khu vực kinh tế.
a. Sự tác động của vốn và lao động đến lợi nhuận của DNNN.
+ Sử dụng mô hình tác động cố định, ta có bảng ước lượng sau:
Bảng 3.1
Từ bảng ước lượng ta thấy, cả hệ số của lao động và vốn đều tác động dương đến lợi nhuận của các DNNN và các hệ số này đều có ý nghĩa thống kê vì giá trị P-value ứng với các hệ số của vốn và lao động đều nhỏ hơn mức ý nghĩa α=0.05.
Khi lao động tăng lên 1 đơn vị thì lợi nhuận tăng 0.274 đơn vị, và khi vốn tăng 1 đơn vị thì lợi nhuận của DN sẽ tăng 0.37 đơn vị.
+ Sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên ta có (bảng 3.2) như sau:
Từ bảng 3.2, ta thấy lượng lao động và vốn đều có tác động cùng chiều đến lợi nhuận của doanh nghiệp, vì các hệ số ứng với các biến giải thích là lao động và vốn đều mang giá trị dương. Thêm vào đó, các giá trị P-value ứng với 2 hệ số này đều có ý nghĩa thống kê. Khi lao động tăng 1 đơn vị thì lợi nhuận của DN trong khu vực này tăng 0.273. Khi vốn tăng 1 đơn vị thì lợi nhuận của DN trong khu vực này tăng 0.402 đơn vị. Như vậy, trong khu vực này, vốn và lao động đều ảnh hưởng khá lớn đến lợi nhuận của DN.
+ Tuy nhiên, để lựa chọn được mô hình phù hợp hơn, ta sử dụng kiểm định Hausman.Ta có bảng kiểm định (bảng 3.3) như sau:
Bảng 3.3
Kiểm định Hausman sử dụng để kiểm định giả thiết:
H0: Ui và biến độc lập không tương quan.
H1: Ui và biến độc lập có tương quan.
Từ bảng 3.3, ta nhận thấy giá trị prob>chi2=0.6734 >0.05. Giá trị này cho phép ta chấp nhận giả thiết H0, tức là Ui và biến độc lập không tương quan, vì vậy đê tránh vi phạm các giả thiết OLS và tránh được các sai lầm trong mô hình ta nên sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên.
b. Sự tác động của vốn và lao động đến lợi nhuận của DNTN.
+ Trước tiên sử dụng mô hình tác động cố định, ta có bảng ước lượng như sau:
Bảng 3.4
Từ bảng 3.4, ta nhận thấy rằng giá trị P-value ứng với hệ số của lao động có giá trị xấp xỉ bằng 0, nhỏ hơn mức ý nghĩa α=0.05. Hệ số này bằng 0.182 >0, điều này chứng tỏ lao động có ảnh hưởng cùng chiều đến lợi nhuận. Trong mô hình thể hiện, khi tăng lao động lên 1 đơn vị thì sẽ làm lợi nhuận tăng 0.182 đơn vị. Sự ảnh hưởng này không hề nhỏ. Trong bảng ước lượng ta cũng nhận thấy, dù hệ số ứng với biến vốn mang giá trị dương nhưng giá trị này không có ý nghĩa thống kê ( do P-value ứng với biến vốn= 0.264> α=0.05).
+ Ước lượng sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên, ta có bảng ước lượng như sau:
Bảng 3.5
Nhìn từ bảng 3.5, ta cũng nhận thấy hệ số của vốn và lao động đều dương, nhưng chỉ hệ số ứng với biến ldong là có ý nghĩa thống kê vì P-value α=0.05.
+ Để lựa chọn mô hình phù hợp, ta sử dụng kiểm định Hausman.
Bảng 3.6
Đây là kiểm định để ta có thể lựa chọn được mô hình phù hợp hơn. Trong bảng ta thấy rằng Prob>chi2=0.3114 >0.05, giá trị này cho ta chấp nhận giả thiết H0 là các Ui và biến độc lập không tương quan, như vậy ta nên sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên. Sự lựa chọn này sẽ giúp cho việc ước lượng sẽ chính xác hơn.
c. Sự tác động của vốn và lao động đến doanh nghiệp FDI.
+ Sử dụng mô hình tác động cố định, ta có bảng ước lượng như sau:
Bảng 3.7
Từ bảng 3.7, hệ số ước lượng của lao động ảnh hưởng cùng chiều với lợi nhuận của doanh nghiệp và hệ số này có ý nghĩa thống kê vì giá trị P-value < α=0.05. Trong bảng ta thấy rằng, khi lao động tăng 1 đơn vị thì lợi nhuận tăng 1.176601 đơn vị. Ngoài ta, trong bảng ước lượng ta thấy hệ số của vốn <0 nhưng hệ số này không có ý nghĩa nên ta không thể xét được sự ảnh hưởng của vốn đầu tư đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên, ta có bảng ước lượng sau:
Bảng 3.8
Từ bảng 3.8 ta có, lao động có tác động dương đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi lao động tăng 1 đơn vị, thì lợi nhuận của doanh nghiệp tăng 1.721094. Và đây là giá trị có ý nghĩa thống kê vì P-value < α=0.05. Điều này chứng tỏ rằng lợi nhuận của doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng cùng chiều bởi lượng lao động. Trong bảng 3.8 ta cũng thấy rằng vốn có tác động âm đến lợi nhuận, kết quả này có thể tin cậy được vì hệ số của vốn có giá trị P-value < α=0.05.
Tuy nhiên, để xem mô hình nào phù hợp hơn, ta phải sử dụng kiểm định Hausman.Ta có ước lượng (Bảng 3.9) như sau:
Bảng 3.9
Kiểm định Hausman có giả thiết như sau:
H0: Ui và biến độc lập không tương quan.
H1: Ui và biến độc lập có tương quan.
Từ bảng 3.9, ta nhận thấy giá trị Prob>chi2 =0.522 >0.05. Giá trị này cho phép ta chấp nhận giả thiết H0, tức Ui và biến độc lập không tương quan. Khi đó ta sẽ chọn mô hình tác động ngẫu nhiên.
3.2.3. So sánh ảnh hưởng của lao động đến lợi nhuận của doanh nghiệp theo khu vực kinh tế.
Ta có bảng số liệu về hệ số của lao động tác động đến lợi nhuận của các doanh nghiệp theo khu vực kinh tế như sau:
DNNN
DNTN
DN FDI
Hệ số lao động
0.27
0.18
1.72
Từ bảng số liệu này ta nhận thấy, sự ảnh hưởng của lao động tới lợi nhuận của các DN FDI là lớn nhất, sau đó đến các DNNN, và cuối cùng là các DNTN. Điều này chứng tỏ rằng ở khu vực kinh tế FDI đạt hiệu quả sử dụng lao động cao hơn so với 2 khu vực kinh tế còn lại.
3.2.3. So sánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp theo ngành trong toàn nền kinh tế.
+ Trước tiên ta có bảng ước lượng lợi nhuận theo vốn và lao động trong ngành 1 của mô hình cố định như sau:
Bảng 3.10
Theo bảng 3.10, ta thấy rằng lao động tác động dương đến lợi nhuận, hệ số này có ý nghĩa thống kê vì P-value < α=0.05, khi lao động tăng 1 đơn vị thì vốn tăng 0.12449987 đơn vị.Ttuy nhiên trong ngành này, sự tác động của vốn đến lợi nhuận của doanh nghiệp lại không nhận xét được vì hệ số ước lượng ứng với biến vốn lại không có ý nghĩa thống kê.
+ Ước lượng lợi nhuận theo vốn và lao động trong ngành 1 theo mô hình tác động ngẫu nhiên, ta có bảng ước lượng sau:
Bảng 3.11
Từ bảng 3.11 ta nhận thấy rằng lao động ảnh hưởng cùng chiều đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Hệ số này có ý nghĩa thống kê vì P-value < α=0.05, khi lao động tăng 1 đơn vị thì lợi nhuận tăng 0.0857014.Như vậy, trong mô hình này tác động của lao động đến lợi nhuận nhỏ hơn so với mô hình ngẫu nhiên. Tuy nhiên trong ngành này, sự tác động của vốn đến lợi nhuận của doanh nghiệp lại không nhận xét được vì hệ số ước lượng ứng với biến vốn lại không có ý nghĩa thống kê.
Để lựa chọn được mô hình phù hợp, tránh tình trạng ước lượng sai ta sử dụng kiểm định Hausman như sau:
H0: Ui và biến độc lập không tương quan.
H1: Ui và biến độc lập có tương quan.
Ta có bảng sau:
Bảng 3.12
Từ bảng này ta nhận thấy rằng, giá trị (prob>chi2) >0.05. Như vậy ta chấp nhận giả thiết H0, tức là Ui và biến độc lập không tương quan , vì vậy để tránh được những khuyết tật của mô hình ta nên sử dụng mô hình tác động ngẫu nhiên.
+ Quá trình ước lượng đối với 11 ngành còn lại cũng được thực hiện như trên. Cuối cùng, ta có bảng tổng kết về sự ảnh hưởng của lao động và vốn đến lợi nhuận của các DN trong nền kinh tế như sau:
Ngành
Hệ số lao động
Hệ số vốn
Ngành 1
0.086
Không có ý nghĩa
Ngành 2
2.175
Không có ý nghĩa
Ngành 3
0.167
1.731
Ngành 4
0.294
0.095
Ngành 5
1.357
Không có ý nghĩa
Ngành 6
0.231
Không có ý nghĩa
Ngành 7
0.272
Không có ý nghĩa
Ngành 8
0.097
1.284
Ngành 9
0.4
Không có ý nghĩa
Ngành10
0.647
Không có ý nghĩa
Ngành 11
0.586
Không có ý nghĩa
Ngành 12
0.05
0.152
Bảng 4
Từ bảng 4, ta nhận thấy rằng lao động ảnh hưởng nhiều nhất đến lợi nhuận của ngành 2 và ngành 5. Đó là ngành khai mỏ, khai thác than đá và ngành xây dựng. Nhìn từ bảng trên ta thấy các DN đang hoạt động trong lĩnh vực này nên đầu tư nhiều vào lao động. Để đạt được hiệu quả kinh doanh cao thì các DN cần nâng cao không những về số lượng nguồn nhân lực mà quan trọng hơn là chất lượng nguồn nhân lực. Đây cũng là những ngành quan trọng của đất nước.
Trong bảng trên ta cũng nhận thấy rằng, ta không có nhận xét nhiều từ sự ảnh hưởng của vốn tới hoạt động kinh doanh của DN. Thực hiện ước lượng trong 12 ngành nhưng chỉ có 4 ngành là ngành 3,4,8 và ngành 12 thể hiện rằng hệ số của vốn có tác động dương đến lợi nhuận của DN. Ngoài ra, các ngành còn lại, do hệ số ước lượng không có ý nghĩa thống kê nên ta không thể nhận xét được sự tác động của vốn tới lợi nhuận của DN. Điều này cũng có thể được lí giải một phần là do cách thức sử dụng vốn chưa hợp lý gây ra, do vậy hiệu quả của việc sử dụng vốn trong các ngành đó không được thể hiện nhiều. Tuy nhiên, nhìn từ bảng ta thấy rằng với những ngành 3 và ngành 8 là ngành công nghiệp chế tạo và ngành về phương tiện truyền thông, hệ số của vốn ứng với 2 ngành này lần lượt là 1.731 và 1.284. Những giá trị này thể hiện sự tác động khá lớn của vốn đối với lợi nhuận của DN. Như vậy, đối với các DN hoạt động trong những ngành này nên tăng lượng vốn đầu tư trong hoạt động của mình. Đó cũng là xu thế tất yếu vì ngành chế tạo và truyền thông muốn hoạt động hiệu quả phải có sự trang bị vốn lớn, đòi hỏi cần lượng lao động có chuyên môn và đầu tư cơ sở vật chất, kĩ thuật hiện đại. Tuy nhiên, những ngành này không nên quá đầu tư vào lượng lao động vì sự ảnh hưởng của lao động trong 2 ngành này rất ít. Nếu ta đầu tư nhiều vào lao động thì đến một lúc nào đó, những ngành này sẽ bị bão hòa về lượng lao động.
Theo bảng trên ta thấy, kinh doanh trong mỗi lĩnh vực lại có những lợi thế riêng. Muốn đạt hiệu quả kinh tế cao, các DN cần phải có những chính sách đầu tư và sử dụng lao động và vốn phù hợp, có sự kết hợp hài hòa trong cách thức đầu tư. Có những ngành nên tập trung đầu tư vào vốn nhiều hơn lao động như ngành chế tạo và truyền thông. Nhưng cũng có ngành nên sử dụng nhiều lao động hơn như ngành giáo dục.
PHẦN IV: KẾT LUẬN CHUNG VÀ KHUYẾN NGHỊ.
A. Nhận xét chung.
4.1. Nghịch lý sử dụng vốn của những nước nghèo.
Với một quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam, nhu cầu về vốn là rất lớn. Tuy nhiên, cách thu hút vốn và sử dụng nguồn vốn ở Việt Nam chưa hiệu quả. Chúng ta chưa quan tâm đầy đủ đến việc sử dụng vốn đầu tư, kể cả nguồn vốn của ngân sách, nguồn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Việc thất thoát ngân sách đã được chính phủ thừa nhận, Quốc hội bàn thảo và khiến người dân xót xa vì Tiền ngân sách là gì ngoài tiền thuế của dân đóng góp. Nhìn từ kết quả phân tích của phần 3, ta thấy rằng lượng vốn ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và chúng ta cũng biết rằng đầu tư vốn trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006, đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân, do đó, họ có lợi ích thực, thúc đẩy nâng hiệu quả càng cao càng tốt. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trong nước vẫn bị hạn chế do tác động chung của các nguồn lực khác như: cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng và những ưu đãi lớn dành cho DNNN.
Trong kết quả phân tích, ta thấy các doanh nghiệp tư nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thậm chí lượng vốn sử dụng cao hay thấp không có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Đáng ra, các doanh nghiệp tư nhân có thể sử dụng nguồn vốn đạt hiệu quả hơn rất nhiều, nhưng đáng buồn là các doanh nghiệp tư nhân sử dụng vốn không đúng mục đích. Một phần của điều đó là do sự yếu kém của doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhưng không thể phủ nhận rằng yếu tố quan trọng là môi trường kinh doanh còn non trẻ, có quá nhiều nhân tố bất ổn do chính nhà nước tạo ra.
Về vốn bên ngoài chúng ta nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Cam kết FDI từ 10 đến 16 tỷ USD nhưng thực tế tỷ lệ giải ngân thấp hơn đáng kể, chỉ 4,1 tỷ USD năm 2006, xảy ra tình trạng các nhà đầu tư đã vào Việt Nam nhưng chưa mang tiền vào đầu tư.
Tình trạng này xảy ra lâu và dẫn đến hiện tượng các nhà đẩu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, kể cả việc thực hiện các cam kết đó. Thậm chí xảy ra tình trạng rút vốn. Trước đây, Việt Nam đã từng mất 10 năm để khôi phục đà đầu tư vào những năm 1995, 1996. Lúc đó, cam kết đầu tư vào Việt Nam lên đến 8 tỷ USD.
Trên thế giới nước nào cũng muốn thu hut vốn đầu tư cho quá trình phát triển. Chính vì vậy, hiện tượng khát vốn diễn ra ở khắp mọi nơi. Ta thấy rằng lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam vẫn chưa cao, trong khi đó nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn từ chính sách phát triển kinh tế, chính sách xã hội, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập. Điều này đã làm giảm một lượng vốn đầu tư vào nước ta. Làn sóng đầu tư giảm, và muốn lấy lại được đà đầu tư là rất khó khăn.
Tuy các doanh nghiệp FDI có hiệu quả sử dụng vốn khá cao nhưng chưa đạt được kỳ vọng thu hút vốn đầu tư của nước ta. Một phần là do cơ chế, chính sách của nhà nước vẫn còn hạn chế. Về cơ sở hạ tầng, nhiều nhà đầu tư nước ngoài mong đầu tư nhưng Việt Nam chưa tạo cơ hội đầy đủ. Hình thức BOT đã được luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn thực sự để doanh nghiệp nước ngoài tham gia. Cách đây chưa lâu, Phần Lan đã mất từ 5 đến 7 năm để tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng đạt đến kí kết. Họ đã mất 2 năm để đàm phán về giá cung cấp điện nhưng không có kết quả. Chính vì vậy, họ đã rút ra khỏi dự án của Việt Nam.
Quả thực, vấn đề trên không hề hiếm gặp ở Việt Nam, nhưng ta cần phải tránh vấn đề này vì nước ta là một nước nghèo, việc thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam đã khó, vậy mà khi cơ hôi đến, chúng ta lại không biết giữ thì thật là một sai lầm cần phải sửa chữa. Chính những chính sách của nhà nước ta không linh động, thủ tục thuế, hải quan và thủ tục hành chính còn phức tạp, mất chi phí nhiều và thời gian làm thủ tục rất lâu. Điều này cũng làm cho các doanh nghiệp, các cá nhân nước ngoài ngại đầu tư vào Việt Nam.
Thực tế, nguồn vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng của nước ta chủ yếu từ nguồn vốn ODA và nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Do vậy các công trình xây dựng cho cơ sở hạ tầng còn yếu kém, điều này đã làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư của nước ta từ nước ngoài.
Việc huy động vốn cho phát triển, đặc biệt nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp là câu hỏi lớn cần được quan tâm hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Nước ta đang trên đà phát triển, chính vì vậy cần tránh tình trạng : “kiếm tiền ở Việt Nam thì dễ, cho tiền ở Việt Nam thì quá khó”. Đây là câu nói của cựu đại sứ Mỹ của Việt Nam, Pete Peterson, hiện đang làm lành đạo cho một tổ chức phi chính phủ của Mỹ tại Việt Nam. Đại diện các tổ chức phi chính phủ thường xuyên phàn nàn về tình trạng khó khăn trong thực hiện các dự án của Việt Nam.
Chúng ta đã nghèo nhưng chúng ta chưa tận dụng được nguồn vốn mà các tổ chức muốn đầu tư vào nước ta. Đây là một sai lầm và cần thiết phải sửa đổi ngay trong quá tiến trình Việt Nam ra nhập WTO.
4.2. Hiện tượng sử dụng lãng phí vốn ở Việt Nam.
Nền kinh tế của Việt Nam đang phát triển chậm lại, một trong số các nguyên nhân là do bộ máy hành chính làm việc kém hiệu quả, gây lãng phí cả tiền vốn và cơ hội đầu tư. Lạm phát tại Việt Nam đang gia tăng. Đó cũng là một phần của hệ quả lãng phí, bội chi ngân sách ngân sách kéo dài của cả bộ máy hành chính.
Thực tế vấn đề tiết kiệm, sử dụng vốn đầu tư để đạt hiệu quả cao, thi hành chính sách chống lãng phí và thực hiện cải cách hành chính đã được quán triệt từ TƯ đến địa phương nhưng theo báo cáo của KTNN công bố cho hay: Trong 3 năm liên tiếp, cỗ máy hành chính đều ngốn nhiều tiền hơn dự toán.
Có những công trình xây dựng ở nước ta đang rơi vào tình trạng bỏ hoang, vốn đầu tư nhiều nhưng không tái sử dụng đươc. Đặc biệt tình trạng thất thoát vốn còn xảy ra nhiều, như công trình chỉnh trị cửa sông Đà Nông, xã Hòa Hiệp Nam(H.Tuy Hòa, nay là H. Đông Hòa) trị giá 41 tỉ đồng đã bị rút ruột công trình và bỏ hoang nhiều năm nay.
Nói chung, Việt Nam chưa tận dụng được nguồn vốn và chưa có các giải pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam.
4.3. Hiện tượng lãng phí nguồn nhân lực ở nước ta.
Nước ta là nước có lợi thế về nguồn nhân lực. Nguồn lao động dồi dào, giá rẻ và lực lượng lao động rất trẻ so với nhiều nước trong khu vực. Tuy nhiên, chúng ta mới chỉ đạt được các chỉ tiêu về chất lượng, còn chỉ tiêu về chất lượng thì còn nhiều vấn đề cần bàn bạc.
Nước ta không phải là nước có trình độ dân trí kém, mà chất lượng kém ở đây là việc đào tạo ra nguồn lao động chưa phù hợp với thực tế công việc, chưa đáp ứng được việc làm trong các DN. Nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển, lao động thủ công và có tay nghề cao đang là nhu cầu rất lớn trong mỗi DN. Nhưng hiện tại nước ta đang trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Như vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực còn rất nhiều bất cập và là bài toán khó cần giải.
Bên cạnh đó, lượng lao động được đào tạo ở trình độ cao đẳng và đại học mỗi năm tăng rất nhiều nhưng trong số đó sau khi ra trường cũng rất nhiều lao động bị thất nghiệp, không tìm được việc làm. Trong khi nhiều doanh nghiệp cũng có nhu cầu tuyển dụng lại không tuyển được lao động cho công ty mình, rơi vào tình trạng cung thừa, cầu cũng thừa. Mặt khác, các DN hiện tại đòi hỏi quá khắt khe, tuyển dụng sinh viên mới ra trường đòi hỏi từ 2 đến 3 năm kinh nghiệm làm việc thì quả thật khó có thể giúp DN tuyển được nhân viên. Chính vì nhiều yếu tố tác động mà nguồn nhân lực của nước ta đang bị sử dụng một cách lãng phí và không hiệu quả.
4.4. Kết luận chung được đưa ra từ mô hình hồi qui.
Trong kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy, ta thấy rằng yếu tố quan trọng nhất tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp là lao động và vốn được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong 3 khu vực kinh tế, theo kết quả ước lượng ta có khu vực kinh tế FDI là khu vực có lượng lao động sử dụng đạt hiệu quả cao nhất, tiếp đó là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân.
Thực chất, sở dĩ khu vực kinh tế tư nhân đạt hiệu quả sử dụng lao động chưa cao một phần chưa chú trọng vào đào tạo lại lao động, mặt khác chế độ lương và thưởng chưa hợp lí, chưa cao, do vậy không khuyến khích được người lao động phát huy được hết khả năng của mình. Sở dĩ các DN FDI đạt hiệu quả sử dụng lao động cao vì việc đào tạo lại cho lao động của các DN trong khu vực kinh tế này rất được chú trọng. Đào tạo lại tuy mất thời gian cho DN nhưng hiệu quả làm việc của các lao động qua đào tạo cao hơn hẳn so với lao động không qua đào tao.Bên cạnh đó, các DN FDI đưa ra mức lương và thưởng khá cao, đòi hỏi lao động làm việc phát huy hết khả năng của mình. Với mức lương và thưởng cao khuyến khích được các cá nhân có cống hiến cho công ty, đồng thời giữ chân được họ làm cho công ty. Tránh các tình trạng là đã đào tạo cho lao động nhưng làm cho công ty một thời gian, sau khi đã có các kĩ năng làm việc thì chuyển sang công ty khác có mức lương cao hơn.
Sử dụng phương pháp số liệu mảng, ta thấy yếu tố ảnh hưởng quan trọng hàng đầu đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó là lao động. Lao động có tác động cùng chiều đối với lợi nhuận của các doanh nghiệp. Điều quan trọng là có sự khác nhau trong hiệu quả của việc sử dụng lao động và vốn giữa các ngành kinh tế.
Đối với những ngành khai thác và xây dựng, lượng vốn sử dụng ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của DN. Còn đối với ngành công nghiệp chế tạo và truyền thông thì vốn có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của DN. Đây là một xu hướng hợp lý trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước. Vì có sự khác biệt trong hiệu quả sử dụng lao động và vốn theo ngành nên để đạt được hiệu quả kinh tế cao, các DN cần có những định hướng phù hợp trong việc kết hợp cách thức và tỷ lệ thay thế hợp lý trong việc sử dụng lao động và vốn.
B. KHUYẾN NGHỊ.
Để thu hút và sử dụng vốn đầu tư hợp lý, nhà nước cần có chính sách phá bỏ các rào cản thương mại, thực hiện cơ chế mở cửa, đồng thời thực hiện chính sách chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn. Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ hội nhập. Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới, cạnh tranh được với các nước khác trong quá trình toàn cầu hóa thì chúng ta phải thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phù hợp với thời đại. Chính sách kinh tế nhà nước cần thông thoáng, tạo điều kiện để các nước khác chuyển giao công nghệ hiện đại vào nước ta.
Trong quá trình phân tích ta thấy, nhân lực ở nước ta chưa tác động và mang lại nhiều lợi nhuận cho các ngành kinh tế. Quả thật đây cũng chính là một vấn đề đang quan tâm của nhà nước. Do vậy,nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế. Ngoài ra, qua quá trình ước lượng ta cũng thấy rằng lao động ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của DN, do vậy nhà nước nên có chính sách hỗ trợ cần thiết cho nền giáo dục nước nhà, nhằm đạt được những lợi thế về nguồn nhân lực cho đất nước. Tránh tình trạng, một đất nước có tiềm năng lớn nhất là nguồn nhân lực mà chỉ đạt được chỉ tiêu rẻ và nhiều về mặt số lượng, trong khi đó chất lượng thì thụt lùi và còn rất nhiều vấn đề cần phải sửa đổi và hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, về nguồn nhân lực , chúng ta cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cụ thể là nhà nước cần có chính sách đãi ngộ tốt đối với các chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam, thu hút nhân tài, có chính sách thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho những người đi học nước ngoài về nước, cống hiến và xây dựng cho nước nhà, tránh tình trạng lãng phí chất xám và chảy chất xám ra nước ngoài.
Tạo môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta. Đây là 2 vấn đề cần đảng và nhà nước quan tâm hàng đầu trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế.
Nhà nước cần có các biện pháp để thu hút vốn đầu tư, do vậy điểm quan trọng cần đặt ra là phải có biện pháp chấn chỉnh tình trạng thông qua quy hoạch để bảo vệ độc quyền. Bởi hiện nay, danh mục các dự án thu hút đầu tư được lập ra dựa theo quy hoạch, trong khi nhiều quy hoạch lại chính là do một số ngàn, tổng công ty lập ra. Cho nên, một số ngành có xu hướng dành phần tốt cho mình và phần xương xẩu để làm dự án thu hút đầu tư. Trên thực tế, một số ngành như: xi măng, thép, điện, dịch vụ… có thể thu hút vốn đầu tư lớn nhưng lại đang hạn chế thu hút đầu tư nước ngoài. Sự độc quyền này không chỉ cản trở sự đầu tư từ nước ngoài mà còn ảnh hưởng nhiều đến sản xuất trong nước. Do vây, nhà nước cần có những biện pháp để ngăn chặn những ý đồ lợi dụng quy hoạch để độc quyền.
Bên cạnh đó, để thu hút được đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả hơn, danh mục các dự án kêu gọi đầu tư phải làm cụ thể hơn, như một báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, chứ không sơ sài, “chỉ gạch đầu dòng” như hiện nay. Về phía chính phủ, cần xây dựng quỹ xúc tiến đầu tư, và đây là vấn đề cần được đẩy mạnh thực hiện trong tương lai.
Còn đối với các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa phải giải quyết các bài toán rất khó hiện nay về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta. Doanh nghiệp cần đưa ra các chính sách hỗ trợ và liên kết với các trường cao đẳng và đại học để doanh nghiệp và các trường là đối tác tốt, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Doanh nghiệp có thể tuyển dụng được những nhân viên có năng lực thông qua cách hợp tác với nhà trường. Doanh nghiệp có thể tạo cơ hội cho sinh viên đến thực tập, đến học hỏi kinh nghiệm và kĩ năng làm việc. Đây là việc làm cần thiết cho cả doanh nghiệp và sinh viên. Thông qua đó, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được cải thiện hơn khi học được đi đôi với hành. Ngoài ra, doanh nghiệp cần có chế độ đãi ngộ tốt để phát huy khả năng làm việc của nhân viên, khuyến khích nhân viên làm việc và xử lý công việc có hiệu quả hơn. Điều này vừa đem lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo cơ hội và rèn luyện khả năng cho nhân viên làm việc.
Chính những cách thức tưởng chừng đơn giản đó nhưng nó sẽ giúp cho nguồn nhân lực của nước ta sẽ được nâng cao về chất lượng, đây cũng là yếu tố quan trọng tạo ra hiệu quả cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với mỗi khu vực kinh tế, các doanh nghiệp đều có những thế mạnh riêng về từng ngành nghề, do đó các doanh nghiệp cần phát huy và hoàn thiện thế mạnh ấy để việc sản xuất đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp nào muốn tham gia vào các lĩnh vực mới thì cần có hướng đi cụ thể, hợp lý, và có khả năng cạnh tranh cao. Đây là yếu tố giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và tác phong làm việc, nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Điều này là yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, các DN cần có các kế hoạch kết hợp và sử dụng lượng vốn và lao động sao cho phù hợp với từng ngành nghề, từng khu vực kinh tế. Đối với mỗi loại hình DN đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Như vậy, các DN nên phát huy những điểm mạnh của DN mình và hạn chế những điểm yếu của chính các DN. Vì vậy các DN nên đưa ra các điểm mạnh của mình để nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường kinh doanh. Đây là yếu tố rất quan trọng trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước.
Trong các mô hình ước lượng , ta thấy lao động ảnh hưởng rõ rệt và nhiều nhất đến lợi nhuận của các DN, chính vì vậy các DN nên có những biện pháp nhằm nâng cao cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Để làm được điều này, các DN nên thực hiện việc đào tạo lại lao động và có những cách thức sử dụng lao động một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao hơn. Nên có những chính sách khuyến khích ngưởi lao động làm việc và tạo cơ hội cho họ có cơ hội phát triển bản thân. Từ việc tạo môi trường và điều kiện cho họ, họ sẽ cố gắng để trước tiên có thể hoàn thành công việc của bản thân đã được giao, thậm chí họ còn có thể sáng tạo và công hiến nhiều hơn so với yêu cầu mà công ty đặt ra.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A9392.DOC