Tài liệu Đề tài Các vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương: Lời mở đầu
Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, để đưa đất nước đi lên theo kịp các nước có nền công nghiệp phát triển. Chúng ta phải thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng một cơ cấu kinh tế thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay và với tình hình quốc tế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Trong những năm qua, cùng với sự đi lên của kinh tế đất nước, kinh tế tỉnh Bình Thuận cũng đã có những chuyển biến rõ nét. Điều này thể hiện thông qua : Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng sản phẩm quốc nội Tỉnh (GDP) thời kỳ 2001-2004 là 11,67% (Trong đó nông ngư lâm nghiệp tăng 7,6%; Công nghiệp xây dựng tăng 16,5%; Dịch vụ tăng 14,6%); Sản lượng lương thực 420.000 tấn; Sản lượng khai thác hải sản 140.000 tấn; Giảm tỷ lệ nghèo 6,7%… Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của Bình Thuận là đầu tư đúng hướng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách hợp lý và có hiệ...
80 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1053 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, để đưa đất nước đi lên theo kịp các nước có nền công nghiệp phát triển. Chúng ta phải thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng một cơ cấu kinh tế thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay và với tình hình quốc tế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Trong những năm qua, cùng với sự đi lên của kinh tế đất nước, kinh tế tỉnh Bình Thuận cũng đã có những chuyển biến rõ nét. Điều này thể hiện thông qua : Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng sản phẩm quốc nội Tỉnh (GDP) thời kỳ 2001-2004 là 11,67% (Trong đó nông ngư lâm nghiệp tăng 7,6%; Công nghiệp xây dựng tăng 16,5%; Dịch vụ tăng 14,6%); Sản lượng lương thực 420.000 tấn; Sản lượng khai thác hải sản 140.000 tấn; Giảm tỷ lệ nghèo 6,7%… Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của Bình Thuận là đầu tư đúng hướng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách hợp lý và có hiệu quả…
Bên cạnh những tiến bộ về kinh tế-xã hội Bình Thuận cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế trong phát triển kinh tế. Đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, ngành công nghiệp chưa phát triển, dịch vụ mặc dù chiếm tỷ trọng khá trong GDP toàn tỉnh nhưng vẫn mang tính nhỏ bé, cơ sở vất chất kỹ thuật còn ở mức thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu mang tính thời vụ. Nền kinh tế chưa có tích luỹ để phục vụ nhu cầu tái đầu tư. Trình độ dân trí vẫn còn thấp, lực lượng lao động có kỹ thuật và có kiến thức kinh tế còn rất ít. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các tỉnh khác và so với cả nước.
Từ thực tế trên đòi hỏi Bình Thuận phải tận dụng mọi nguồn lực hiện có để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, mau chóng thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục những khó khăn, hạn chế những vấn đề đang vấp phải như hiện nay. Và nếu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đúng hướng sẽ đáp ứng được những yêu cầu bức thiết đó. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại một hướng đi đúng hơn trong quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Đó cũng là một quá trình đi theo xu hướng chung của cả nước, khu vực và thế giới nhưng phải được điều chỉnh theo những đặc trưng cơ bản nhất của địa phương như : Xuất phát điểm trong phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề truyền thống, nguồn nhân lực…
Chuyên đề thực tập này tập trung vào nghiên cứu, đánh giá một số mặt của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2001-2005. Và dựa trên những tri thức đã học kết hợp với việc đối chiếu, so sánh với hoạt động chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một số tỉnh trên toàn quốc, chuyên đề đưa ra một số phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình thuận thời kỳ 2006-2010 và đề xuất một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh một cách hợp lý, có hiệu quả.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt chân thành đến PGS.TS Ngô Thắng Lợi, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành giai đoạn thực tập và hoàn thành bản chuyên đề này.
Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ, chuyên viên Vụ kinh tế Địa phương và Lãnh thổ, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, đặc biệt là bác Nguyễn Thế Quy, người đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến đóng góp rất quý báu cho nội dung của bản chuyên đề này.
Do những hạn chế về mặt nhận thức, cũng như về mặt thời gian nghiên cứu, chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô giáo chỉ bảo thêm để bản chuyên đề thực tập này có được nội dung hoàn thiện hơn.
Chương 1
lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương
I. Các vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương:
1. Khái niệm:
Cơ cấu ngành kinh tế của địa phương là số ngành kinh tế được hình thành và mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành đó với nhau. Biểu thị bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong hệ thống nền kinh tế của địa phương.
Xem xét cơ cấu ngành của nền kinh tế địa phương thường đứng trên hai góc độ. Thứ nhất, xem xét dưới góc độ định lượng. Cơ cấu ngành kinh tế tỉnh bao gồm số ngành kinh tế và tỷ trọng mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế địa phương. Thứ hai là xem xét dưới giác độ định tính. Cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành kinh tế và vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế địa phương.
Ngành kinh tế của một địa phương là tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội của địa phương. Cơ cấu ngành kinh tế của địa phương phản ánh trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế địa phương và qua đó phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của địa phương. Trong mối quan hệ giữa các ngành kinh tế thường biểu hiện hai mối quan hệ chủ yếu như : Ngành có quan hệ trực tiếp (Trong đó bao gồm các ngành có mối quan hệ ngược chiều và các ngành có mối quan hệ xuôi chiều) và ngành có mối quan hệ gián tiếp.
2. Phân loại các ngành kinh tế của địa phương :
Cơ cấu ngành kinh tế địa phương bao gồm các ngành kinh tế sau :
+ Công nghiệp : Gồm các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu, ngành xây dựng…
+ Nông nghiệp : Gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
+ Dịch vụ : Gồm thương mại, du lịch, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng và các ngành dịch vụ khác…
* Mối quan hệ giữa ba ngành Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ :
Ba ngành Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ tuy được tách biệt nhau nhưng mối quan hệ hữu cơ giữa ba ngành vẫn mang tính sâu sắc, hỗ trợ lẫn nhau. Nông nghiệp được xem là ngành cung cấp những thứ yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Nhưng cũng là khu vực cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho ngành công nghiệp và đồng thời là nơi tiêu thụ những sản phẩm đầu ra của ngành công nghiệp. Công nghiệp được xem là bộ phận làm biến đổi sâu sắc nhất đến cơ cấu ngành nông nghiệp. Công nghiệp cung cấp máy móc thiết bị, phân bón cho nông nghiệp. Công nghiệp là nơi biến đổi, chế biến sản phẩm nông nghiệp thành những sản phẩm công nghiệp phục vụ cho cuộc sống của con người và sự hoạt động của các ngành kinh tế khác. Để đảm bảo mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp ngày càng có hiệu quả thì không thể không kể đến vai trò của ngành dịch vụ. Dịch vụ bao gồm thương mại, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông…Do mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp có thể biểu hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua quá trình sản xuất hay là trong quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Điều đó có nghĩa là tính chất xã hội của lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp có thể biểu hiện một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Như vậy, nếu không có sự tồn tại và phát triển không ngừng của ngành dịch vụ thì công nghiệp và nông nghiệp không thể tồn tại trong cuộc sống của con người hiện nay. Thương mại, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng…là chiếc cầu nối quan trọng giữa quá trính sản xuất với quá trình lưu thông hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Sản xuất hàng hoá luôn luôn phải gắn liền với thị trường. Không thể tồn tại sản xuất hàng hoá mà không có thị trường. Như vậy công nghiệp, nông nghiêp không thể tách rời khỏi dịch vụ. Xu hướng phát triển của xã hội hiện nay cho thấy, dịch vụ có xu hướng tăng nhanh hơn công nghiệp và công nghiệp có xu hướng tăng nhanh hơn nông nghiệp. Mặc dù quy mô của ngành nông nghiệp có xu hướng tăng lên nhưng tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế ngày càng giảm.
3. Cơ cấu ngành kinh tế hợp lý của một địa phương :
Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế của địa phương không chỉ giới hạn ở mối quan hệ giữa các ngành và mang tính cố định mà nó luôn ở trang thái động và nhất là không có một khuôn mẫu nhất định, nó tuỳ thuộc vào những điều kiện tất yếu cụ thể theo không gian và thời gian. Cho đến nay sự tranh luận trong các giới khoa học, giới quản lý không phải có khái niệm cơ cấu ngành kinh tế mà chủ yếu là ở việc xác định cơ cấu đó có phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương trong thời gian xác định. Trên thực tế có nhiều mô hình cơ cấu ngành kinh tế, giữa các mô hình đó có những điểm giống nhau, song cũng có những điểm khác nhau. Vấn đề là lựa chọn cơ cấu ngành kinh tế nào là được coi là hợp lý nhất, đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Để có thể thồng nhất trong sự lựa chọn có cấu kinh tế hợp lý, cần có sự nhất trí về quan điểm và tiêu chuẩn của cơ cấu ngành kinh tế như thế nào là hợp lý.
Muốn xác định cơ cấu ngành kinh tế hợp lý phải căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội-chính trị ở trong địa phương và chính sách đối ngoại của địa phương. Một cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu kinh tế thích ứng nhất với các điều kiện cụ thể của địa phương và đem lại hiệu quả nhất định.
Nhìn chung một cơ cấu ngành kinh tế đạt được hiệu quả phải tạo ra sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều đó được biểu hiện qua các mặt sau đây :
+ Một là, khai thác tối đa những ưu thế và thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên nói chung của địa phương như : Đất đai, địa hình, khí hậu, vị trí địa lý, ưu thế truyền thống, tiềm năng vốn có về xã hội, chính trị, về quan hệ đối ngoại…
Tuy nhiên, việc khai thác tối đa tài nguyên thiên nhiên không có nghĩa là sử dụng và khai thác bừa bãi, có tính bóc lột, chạy theo lợi ích trước mắt, gây huỷ hoại lâu dài, mà phải khai thác một cách khoa học, hợp lý đem lại hiệu quả cao.
+ Hai là, cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển với số lượng, chủng loại sản phẩm đa dạng và phong phú bảo đảm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
+ Ba là, bảo đảm và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng và mỗi thành phần kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế hợp lý phải làm sao tạo khả năng phát triển thuận lợi cho cả tổng thể và từng bộ phận trong tổng thể.
+ Bốn là, tạo tích luỹ nhiếu nhất cho nền kinh tế của địa phương. Tiêu chuẩn này có tính chất tổng hợp. Nó chứng tỏ nền kinh tế phát triển và tăng trưởng cao.
Khả năng tích luỹ của mỗi ngành, mỗi vùng kinh tế là khác nhau. Có ngành, có vùng không thể đòi hỏi phải có tích luỹ và ngược lại nhiều khi cón phải hỗ trợ thêm để đảm bảo duy trì hoạt động bình thường của nó. Chẳng hạn như ngành xây dựng kết cấu hạ tầng từng phục vụ nhu cầu công cộng…
Cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả phải tạo khả năng tích luỹ cao ở những ngành, những vùng không có điều kiện tích luỹ, mà còn góp phần làm tăng tích luỹ cho nền kinh tế của địa phương.
4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế địa phương :
Quá trình phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy sự biến đổi không ngừng của cơ cấu ngành kinh tế địa phương. Nhưng quá trình hoạt động kinh tế của các ngành, các vùng và các thành phần không phải bao giờ cũng đồng đều, nhịp nhàng với nhau. Vì trong quá trình ấy có nhiều yếu tố tác động đến xu hướng phát triển của mỗi ngành. Vì thế cơ cấu kinh tế cũng có sự biến đổi, song nếu cơ cấu vẫn còn thích ứng, chưa gây ra những trở ngại cho sự phát triển của từng bộ phận và cả tổng thể thì chưa đòi hỏi phải xác định lại cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ diễn ra khi :
+ Có những thay đổi lớn về điều kiện phát triển.
+ Có những khả năng và những giải pháp mới làm thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện tại.
Theo E.Engel, Nhà kinh tế học người Đức, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập.
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển. Khi thu nhập theo đầu người tăng lên thì tỷ trọng của sản phẩm nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân sẽ giảm xuống, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên nhưng tỷ trọng của dịch vụ tăng nhanh hơn công nghiệp.
Các nhà kinh tế cho rằng, một nước (hay một dịa phương) nông nghiệp muốn chuyển sang một nước (hay một dịa phương) công nghiệp phát triển cần phải trải qua các bước sau : Chuyển nền kinh tế nông nghiệp (Tỷ trọng Nông nghiệp chiếm 40%-60%, Công nghiệp chiếm 10%-20%, Dịch vụ chiếm 20%-30%) sang kinh tế nông công nghiệp (Tỷ trọng Nông nghiệp chiếm 15%-25%, Công nghiệp từ 25%-35%, Dịch vụ từ 40%-50%), để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển (Tỷ trọng Nông nghiệp chiếm dưới 10%, Công nghiệp chiếm từ 35%-40%, Dịch vụ từ 50%-60%).
II. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương :
1. Nhóm các yếu tố tự nhiên :
Bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, đất đai và tài nguyên. Nhóm yếu tố này quyết định lợi thế nguồn lực tự nhiên của từng địa phương, chúng có mối quan hệ đan xen vào nhau, ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Chuyển dịc cơ cấu kinh tế trước hết phải làm rõ các yếu tố này đẻ từ đó nhìn nhận được các vấn đề thuận lợi cũng như những khó khăn trong suốt quá trình chuyển dịch.
Về vị trí địa lý : Tác động trực tiếp tới quá trình phát triển của địa phương. Nếu một địa phương là đầu mối giao lưu kinh tế của vùng, đất nước như : Đầu mối giao thông, cảng biển chính, cửa khẩu quan trọng,…sẽ có điều kiện phát triển hơn các tỉnh khác không có được những lợi thế đó. Bởi vì, vị trí địa lý tạo khả năng giao lưu mạnh giữa các tỉnh nằm trong cùng một vùng với nhau, sự giao lưu này thể hiện ở việc trao đổi hàng hoá, sản phẩm sản xuất, các nguồn lực như lao động, vốn tài nguyên, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý…giữa các tỉnh với nhau, các vùng với nhau.
Tài nguyên thiên nhiên : Bao gồm khí hậu, tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên biển, tài nguyên rừng. Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò là nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, là yếu tố quan trọng tác động tới quá trình sản xuất nông nghiệp.Ví dụ như khí hậu và đất đai là hai yếu tố quan trọng nhất tác động tới sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên biển, tài nguyên rừng là những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh các ngành công nghiệp sử dụng các nguồn tài nguyên đó như : Công nghiệp chế biến lâm, thuỷ hải sản, công nghiệp luuyên thép…
2. Nhóm các yêu tố xã hội :
Đây là nhóm yếu tố làm nên thị trường, thể hiện tầm quan trọng của các nhu cầu xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đên xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Nhân tố thị trường : Là nhân tố quan trọng tạo sự phát triển của các ngành kinh tế, nhân tố nàythể hiện ở nhu cầu và tính cạnh tranh của thị trường, hai yếu tố này luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của nó cũng như tính cạnh tranh của thị trường đăt ra những mục tiêu phát triển của các ngành kinh tế, là cơ sở đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của các phương án hình thành cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Nhân tố Khoa học-Công nghệ : Tác động mạnh tới quá trình hình thành và phát triển của cơ cấu ngành kinh tế. Chính sự phát triển của khoa học – công nghệ đã hình thành nên các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, không chỉ dừng lại ở đó khoa học – công nghê là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế theo chiếu saau, các hình thức đa dạng hoá và chuyên môn hoá trong sản xuất.
Nhân tố sức lao động : Là một trong những nhân tố tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng và của cơ cấu kinh tế nói chung.
Cơ sở hạ tầng : Là nhân tố thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nêu nhu địa phương có được một cơ sở hạ tầng vững chắc, thuân tiện, có khả năng thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài. Nhưng sẽ là ngược lại, nó sẽ kim hãm sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nêu như địa phương không có được một cơ sở hạ tầng như vậy.
3. Nhóm các yếu tố chính trị :
Bao gồm các yếu tố chủ yếu như các định hướng mục tiêu phát triển của đât nước, các chính sách quản lý kinh tế- xã hội của đất nước, các chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương.
Các định hướng mục tiêu phát triển cũng như các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của nhà nước có vai trò quan trọng đến việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Nếu như các mục tiêu phát triển và các chính sách quản lý vĩ mô đề cao vai trò của thị trường trong quá trình phát triển kinh tế thì sự hình thành cơ cấu kinh tế như mong muốn sẽ quá chậm, nhất là các ngành, tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực cung cấp hàng hoá công cộng. Ngược lại, những định hướng mục tiêu, chính sách quản lý vĩ mô không sát với thực tế khách quan, hoặc sự điều tiết quá sâu của nhà nước vào các hoạt động kinh tế sẽ dẫn tới việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế kém hiệu quả, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Các chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương. Mỗi địa phương cần phải xây dựng cho riêng mình những chính sách, giải pháp phù hợp nhất, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để đạt được mục tiêu đề ra của địa phương cũgn như góp phần đạt được mục tiêu phát triển của tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, cơ cấu ngành kinh tế của địa phương một mặt phải căn cứ vào định hướng mục tiêu phát triển và chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, mặt khác phải tuỳ thuộc vào điều kiện của địa phương mình, các chính sách, giải pháp phát triển kinh tế của địa phương mà chuyển dịch theo xu hướng phù hợp với mục tiêu chung của đất nước.
III. ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương :
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại một hướng đi đúng hơn trong quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Đó cũng là một quá trình đi theo xu hướng chung của cả nước, khu vực và thế giới nhưng phải được điều chỉnh theo những đặc trưng cơ bản nhất của địa phương như : Xuất phát điểm trong phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề truyền thống, nguồn nhân lực…Đề ra hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một vấn đề phức tạp và tốn nhiều công sức trong quá trình nghiên cứu thực trạng cơ cấu cũ cũng như tìm những giải pháp mang tính tối ưu nhất cho hướng chuyển dịch tiếp theo.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hình thành thành nên một hệ thống các ngành kinh tế một cách cân đối nhất. Một nước không thể phát triển dựa trên sản xuất nông nghiệp được mà phải dựa trên nền tảng của ngành công nghiệp mà đặc biệt là công nghiệp nặng, ngành dịch vụ và du lịch. Đó là một tất yếu của sự phát triển kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn địa phương. Xuất phát từ công nghiệp sẽ là cái nôi cung cấp công cụ thiết bị máy móc sản xuất cho nông nghiệp, là ngành đóng vai trò quan trọng trong quá trình cơ khí hoá nông nghiệp, đẩy mạnh nông nghiệp phát triển theo xu hướng sản xuất hàng hoá, nông nghiệp phát triển lại tạo tiền đề cho công nghiệp phát triển. Từ quá trình đó sẽ thúc đẩy sự phát triển sự của ngành dịch vụ theo xu hướng tỷ trọng liên tục được tăng lên nhanh nhất.
Từ những ý nghĩa hết sức quan trọng và to lớn trên ta thấy rằng sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là sự phát triển khách quan của nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế của một địa phương nói riêng.
Chương 2
thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh bình thuận thời kì 2001-2005.
I. Điều kiện tự nhiên và kinh tế -xã hội tỉnh Bình Thuận:
1. Điều kiện tự nhiên :
a. Vị trí địa lý :
Bình Thuận là tỉnh ven biển cực Nam Trung Bộ, có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực ảnh hưởng của ĐBTĐNB. Phía Bắc giáp Lâm Đồng và Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, Tây Nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, Đông và Đông Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km. Ngoài khơi có đảo Phú Quý cách Thành phố Phan Thiết 120 km.
Tỉnh nằm giữa hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang, có quốc lộ I, đường sắt thống nhất chạy qua nối Bình Thuận với các tỉnh phía Bắc và phía Nam của cả nước; quốc lộ 28 nối liền Thành phố Phan Thiết với các tỉnh Nam Tây Nguyên; quốc lộ 55 nối liền trung tâm dịch vụ dầu khí và du lịch Vũng Tàu.
Với vị trí địa lý như trên tạo cho Bình Thuận giao lưu kinh tế chặt chẽ với các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và vùng Duyên Hải. Sức hút của các thành phố và trung tâm phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang tạo điều kiện cho tỉnh đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật. Đồng thời cũng là một thác thức lớn đặt ra cho tỉnh Bình Thuận phải phát triển nhanh nền kinh tế nhất là những ngành mũi nhọn theo thế mạnh đặc thù để mở rộng liên kết, không bị tụt hậu so với khu vực.
b. Địa hình :
Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Địa hình hẹp ngang, kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, phân hoá thành 4 dạng địa hình sau :
Đồi cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22% diện tích tự nhiên phân bố dọc ven biển từ Tuy Phong đến Hàm Tân; rộng nhất là ở Bắc Bình ; dài khoảng 52 km, rộng 20 km. Địa hình chủ yếu là những lượn sóng.
Đồng bằng phù sa chiếm 9,43% diện tích tự nhiên, gồm : Đồng bằng phù sa ven biển ở các lưu vực từ sông Lòng Sông đến sông Dinh nhỏ hẹp độ cao từ 0 – 12 m. Đồng bằng thung lũng sông La Ngà, độ cao từ 90 – 120 m.
Vùng đồi gió chiếm 31,66%, độ cao từ 30 – 50 m kéo dài theo hướng Đông Bắc Tây Nam từ Tuy Phong đến Đức Linh.
Vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích. Đây là những dãy núi của khối Trường Sơn chạy theo hướng Đông Bắc Tây Nam từ phía Bắc huyện Bắc Bình đến Đông Bắc huyện Đức Linh.
Đặc điểm địa hình trên tạo điều kiện cho tỉnh phát triển kinh tế đa dạng.
c. Khí hậu :
Nằm trong khu vực có vùng khô hạn nhất cả nước, khí hậu nhiệt đới điển hình, nhiều gió, nhiều nắng không có mùa đông, lượng mưa trung bình 800 – 1.600 mm/năm, thấp hơn trung bình cả nước (1.900 mm/năm).
Đặc điểm trên là điều kiện rất thuận lợi tăng năng suất cây trồng, phát triển chăn nuôi đại gia súc có sừng nếu được tiếp nước từ bên ngoài; thuận lợi cho phơi sấy trong sản xuất nông ngư nghiệp và sản xuất muối. Song do lượng mưa nhỏ, lượng bốc hơi lớn nên vấn đề khô hạn là một trong những hạn chế lớn của tỉnh. Vì vậy yếu tố thuỷ lợi để giữ nước và cấp nước có vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân Bình Thuận.
d. Tài nguyên biển :
Bình Thuận với 192 km bờ biển có 3 cửa Phan Thiết, Lagi, Tuy Phong và đảo Phú Quý; diện tích vùng lãnh hải 52.000 km2, là một trong những vùng biển giàu nguồn lợi nhất về các loại hải sản; nhiều tiềm năng để phát triển diêm nghiệp, du lịch và khai thác khoáng sản biển.
Tổng trữ lượng cá 230 nghìn tấn, khả năng khai thác 100 – 120 nghìn tấn/năm, trong đó 60% cá nổi tập trung ở 3 ngư trường Phan Thiết, Hàm Tân và đảo Phú Quý; mực 10.000 tấn, sò điệp là đặc sản của Bình Thuận, trữ lượng 50.000 tấn, khả năng khai thác hàng năm 25 – 30 nghìn tấn, tập trung ở 4 bài chính : Lai Khế, Hòn Rơm, Cù Lao Cau và Phan Rí Cửa.
Vùng ven biển Bình Thuận còn nhiều khả năng nuôi trồng thuỷ sản, diêm nghiệp và du lịch :
Toàn tỉnh có trên 3.000 ha mặt nước triều có thể đưa vào nuôi tôm, làm ruộng muối. Trong đó diện tích có khả năng nuôi tôm là 1.500 ha : tập trung Tuy Phong (575 ha), Bắc Bình (50 ha), Phan Thiết (115 ha), Hàm Thuận Nam (360 ha), Hàm Tân (340 ha); khả năng diện tích phát triển ruộng muối 2.000 ha tại Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Thuận Nam và Hàm Tân. Ngoài ra còn có gần 1.000 ha mặt nước hồ, đầm và các công trình thuỷ lợi có khả năng nuôi cá nước ngọt.
Bình Thuận có các bài biển bờ cát trắng mịn như Vình Thuỷ, Rạng, Mũi Né (Phan Thiết), Đồi Dương (Hàm Tân), có bãi biển nằm cạnh sườn núi với bờ đá nhấp nhô như Vĩnh Hảo, Bình Thạnh (Tuy Phong) điều kiện để phát triển du lịch biển.
e. Tài nguyên đất :
Với diện tích 799.200 ha, Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau:
Đất cát, cồn cát ven biển và đất mặn phân bố dọc bờ biển từ nam Tuy Phong đến Hàm Tân, diện tích 146,5 nghìn ha (18,3% diện tích toàn tỉnh). Trên các loại đất này có thể phát triển mô hình nông lâm kết hợp, trồng các băng rừng phòng hộ – kết hợp trồng cây ăn quản và các loại hoa màu như dưa hạt, đậu các loại … Trên đất mặn có thể làm muối hoặc nuôi tôm nước lợ.
Đất phù sa với diện tích 75.400 ha (9,43% diện tích tự nhiên) phân bố ở các đồng bằng ven biển và vùng thung lũng sông La Ngà. Hầu hết diện tích đất này đã được khai thác đưa vào trồng lúa nước, hoa màu, cây ăn quả …
Đất xám có diện tích 151.000 ha (18,9% diện tích toàn tỉnh) phân bố hầu hết trên địa bàn các huyện. Khả năng sử dụng loại đất này vào nông lâm nghiệp và mặt bằng công nghiệp còn lớn. Trong đó tới 85% diện tích có thể phát triển cấy điều, cao su, cây ăn quả và các loại cây có giá trị kinh tế cao.
Diện tích còn lại chủ yếu là tổ hợp đất đồi núi, đất đỏ vàng, đất nâu vùng bán khô hạn … Trên các loại đất này có thể sử dụng vào các mục đích nông lâm nghiệp.
Trong quá trình khai thác sử dụng các loại đất trên cần đặt biện pháp cải tạo và bảo vệ như : trồng rừng phòng hộ chống cát bay ven biển, cải tạo xây dựng đồng ruộng, bảo vệ nghiêm ngặt rừng đầu nguồn. Xây dựng một cơ cấu cây trồng và chế độ canh tác hợp lý theo không gian nhiều tầng phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái.
Với diện tích đất đai trên, đến năm 1999 đã đưa vào sử dụng nông nghiệp khoảng 132,7 nghìn ha (16,6% diện tích), sử dụng lâm nghiệp 550,3 nghìn ha (68,8% diện tích); đất thổ cư chuyên dùng 22,6 nghìn ha (2,8% diện tích). Diện tích đất trống đồi trọc chưa đưa vào sử dụng 248,8 nghìn ha (30,8% diện tích); trong đó đất có khả năng mở rộng để phát triển nông nghiệp thời kỳ 1996 – 2010 khoảng 4 vạn ha. Diện tích đất mở rộng này chủ yếu là đất dốc, vì vậy khi khai hoang phải đầu tư đồng bộ, nhất là giải quyết vấn đề nước và thâm canh ngay từ đầu để sử dụng đất lâu bền và có hiệu quả.
f. Tài nguyên rừng :
Theo kết quả kiểm kê hiện trạng rừng năm 1998, diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh là 550.327 ha, chiếm 68,85% diện tích tự nhiên. Diện tích đất có rừng 391.815 ha, trữ lượng gỗ 25,6 triệu m3 gỗ và 25 triệu cây tre nứa. So với vùng Đông Nam Bộ, Bình Thuận là tỉnh có diện tích rừng và trữ lượng gỗ lớn nhất, chiếm 45,5% diện tích rừng tự nhiên và 57,3% tổng trữ lượng gỗ tròn vùng Đông Nam Bộ.
Diện tích rừng tự nhiên hiện có 381.469 ha, phân loại theo trạng thái cho thấy ở Bình Thuận như sau :
Kiểu rừng gỗ lá rộng thường xanh và nửa rụng lá 191,3 nghìn ha, trữ lượng gỗ 15,2 triệu m3. Kiểu rừng rụng lá 176 nghìn ha trữ lượng gỗ 9,9 triệu m3, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế và kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại có diện tích 13,9 nghìn ha, trữ lượng 576 nghìn m3.
Điều đáng chú ý là quá trình diễn thế theo xu hướng giảm rừng giàu, rừng trung bình. Hiện nay, rừng giàu còn 42,5 nghìn ha và 5,6 triệu m3 gỗ, chiếm 11,4% diện tích và 22% trữ lượng gỗ; rừng trung bình có 59,7 nghìn ha, trữ lượng 7,5 triệu m3 gỗ, chiếm 16,1% về diện tích và 29,6% trữ lượng; rừng nghèo 267,7 nghìn ha, trữ lượng 12,2 triệu m3 gỗ, chiếm 72,5% về diện tích và 48,4% trữ lượng. Gần một nửa diện tích là rừng khộp (176 nghìn ha), trong đó rừng khộp nghèo và khộp non tái sinh chiếm tới 59,4% diện tích.
Đây là xu thế xấu do quá trình khai thác chưa hợp lý, cần phải thay đổi xu thế này bằng khai thác rừng hợp lý và đẩy mạnh tu bổ cải tạo rừng tự nhiên và trồng rừng.
Tổng diện tích đất trống toàn tỉnh 248,8 nghìn ha, trong đó diện tích đất trống đồi trọc do ngành Lâm Nghiệp quản lý là 158,8 nghìn ha (19,8% diện tích tự nhiên). Đây là địa bàn để tiến hành trồng rừng nguyên liệu, rừng phòng hộ, trồng cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi bò, mặt bằng có kết cấu nền tốt để bố trí công nghiệp (nhất là những khu vực gần đường giao thông); cơ sở mở rộng phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp, tạo việc làm và thu hút lao động.
g. Tài nguyên nước và thuỷ điện :
Bình Thuận có 7 lưu vực sông chính là : sông Lòng Sông. sông Luỹ, sông Cái Phan Thiết, sông Cà Ty, Sông Phan, sông Dinh và sông La Ngà. Tổng diện tích lưu vực 9880 km2 với chiều dài sông suối 663 km. Nguồn nước mặt hàng năm của tỉnh khoảng 5,4 tỉ m3 nước trong đó lượng dòng chảy bên ngoài đưa đến 1,25 tỉ m3, riêng sông La Ngà chiếm 2,1 tỉ m3. Nguồn nước phân bố mất cân đối theo không gian và thời gian. Lưu vực sông La Ngà thừa nước thường bị ngập úng như vùng Tuy Phong, Bắc Bình, ven biển (lưu vực sông Phan, sông Dinh), thiếu nước trầm trọng, có những nơi như vùng Tuy Phong, Bắc Bình, dấu hiệu báo động tình trạng hoang mạc hoá đã xuất hiện.
Nguồn nước ngầm ít, bị nhiễm mặn, phèn; rất ít có khả năng phục vụ nhu cầu sản xuất, chỉ đáp ứng được phần nhỏ cho sinh hoạt và sản xuất trên một số vùng nhỏ thuộc Pha Thiết và đồng bằng sông La Ngà.
Nguồn thuỷ năng khá lớn, tổng trữ năng lý thuyết khoảng 450.000 KW, tập trung chủ yếu trên sông La Ngà. Riêng 4 bậc thuỷ điện La Ngà với công suất lắp máy 417.000 KW, sản lượng điện dự kiến khai thác 1,8 tỷ KWh. Khả năng khai thác nguồn thuỷ năng trên các lưu vực sông Dinh đến sông Lòng Sông rất nhỏ, chủ yếu là các công trình thuỷ điện nhỏ (15 công trình) với công suất lắp máy 1.900 KW.
h. Tài nguyên khoáng sản :
Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại : vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, có gía trị thương mại và công nghiệp là nước khoáng.
Nước khoáng : có nhiều điểm nước khoáng từ 39 – 420 như Vĩnh Hảo (Tuy Phong), Đa Kai (Đức Linh), Đồng Kho (Tánh Linh), Văn Lâm, Hàm Cường, Tà Kóu (Hàm Thuận Nam), Phong Điền (Hàm Tân). Riêng 4 điểm Vĩnh Hảo, Văn Lâm, Hàm Cường và Đa Kai là loại nước khoáng thuộc loại cacbonat – natri được dùng làm nước giải khát, khả năng khai thác khaỏng 300 triệu lít/năm. Nước khoáng khu vực Tuy Phong có đủ điều kiện để sản xuất tảo với sản lượng tương đối lớn.
Trữ lượng sa khoáng II – menit 1.08 triệu tấn, Zicon 193 nghìn tấn, đi cùng với Zicon còn có nhiều Monazit và đất hiếm. Hàm lượng TiO 43 – 45%, hàm lượng ZrO2 48,6 – 59,5%.
Sa khoáng Iimenit – Zicon phân bố ở mũi Kê Gà (Hàm Thuận Nam), Mũi Né (Phan Thiết), Tân Thiện (Hàm Tân), Thiện ái (Bắc Bình).
Nguồn khoáng sản lớn nhất của Bình Thuận là cát trắng thuỷ tinh với tổng trữ lượng 496 triệu m3 cấp P2, hàm lượng SiO2 97 – 99%. Phân bố ở Dinh Thầy, Tân An, Tân Thắng (Hàm Tân), Cây Táo, Long Thịnh, Hồng Sơn (Hàm Thuận Nam), Nhơn Thành, Phan Rí và Pha Rí Thành (Bắc Bình). Có thể thoả mãn yêu cầu sản xuất thuỷ tinh cao cấp và kính dân dụng hoặc xuất khẩu nguyên liệu.
Khoáng vật liệu xây dựng có cát kết vôi 3,9 triệu m3 cấp P2 phân bố ở Vĩnh Hảo và Phước Thể (Tuy Phong), đá vôi san hô (Tuy Phong). Sét gạch ngói phâ bố ở nhiều nơi (Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Tánh Linh, Bắc Bình). Đá xây dựng và trang trí ở Tà Kóu (Hàm Thuận Nam) trữ lượng 45 triệu m3, Núi Nhọn (Hàm Tân) trữ lượng cấp P là 30 triệu m3.
k. Nguồn nhân lực :
Dân số năm 1999 có 1.230 nghìn người, dân số đô thị chiếm 26,4%. Toàn tỉnh có hơn 30 dân tộc. Dân tộc Kinh 93%, còn lại là các dân tộc Chăm (Bắc Bình, Tuy Phong), Hoa, Tày, Nùng … Mật độ dân cư 120 người/km2, phân bố không đều giữa các khu vực. Dân cư phân bố chủ yếu theo các đồng bằng ven sông, ven biển, thuộc các lưu vực sông Phan Thiết, sông Luỹ và sông Lòng Sông. Khu vực Bắc Bình - Tuy Phong dân cư tập trung chủ yếu ở đồng bằng ven biển (riêng 2 thị trấn Phan Rí Cửa và Liên Hương tập trung tới 40% dân số của huyện Tuy Phong).
Đến năm 1999, tổng nguồn lao động của tỉnh có 549,3 nghìn người, chiếm 47,09% dân số. Lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân : 489,3 nghìn người. Số lao động chưa có việc làm là 60 nghìn người.
Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật có 23.170 người, trong đó công nhân kỹ thuật 9.310 người, trung học chuyên nghiệp 9.960 người, cao đẳng đại học 3.900 người. Những ngành cần nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật như khai thác, chế biến hải sản, nông nghiệp, thuỷ lợi và y tế thì thiếu, chất lượng nguồn lao động làm việc trong nông nghiệp ngư nghiệp chủ yếu vẫn là lao động cơ bắp.
Hàng năm tỉnh có khoảng 18 – 20 nghìn thanh niên đến tuổi bổ sung vào tổng lao động toàn tỉnh. Đây là một nguồn lực quan trọng, đồng thời cũng là một thách thức đối với sự phát triển.
Nguồn lao động của tỉnh cần được đào tạo và đào tạo lại để thích nghi với cơ chế thị trường nhằm đáp ứng được yều cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2. Tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2000 – 2004 :
Sự chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường được thực hiện từ năm 1986. Thời kỳ 1986 – 1990 là thời kỳ đan xen giữa hai cơ chế, nền kinh tế của Thuận Hải cũ nói chung và phần lãnh thổ Bình Thuận nói riêng đang trong quá trình tìm tòi, tiếp cận. Từ năm 2001 – 2004, nền kinh tế Bình Thuận đã đi vào ổn định và có tăng trưởng, tường bước hoà nhập với xu thế phát triển của cả nước.
2.1. Tăng trưởng kinh tế :
Trong 5 năm 2000 – 2004 nền kinh tế liên tục đạt được nhịp độ tăng trưởng cao, tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) tăng bình quân 11,33%. GDP năm 2004 tăng gấp 1,3 lần năm 2000, bình quân đầu người tăng từ 263 USD năm 2000 lên 365 USD năm 2004. Trong đó sự tăng trưởng :
- Ngành nông lâm thuỷ sản đạt mức tăng trưởng bình quân 7,12%. Trong đó : nông lâm nghiệp tăng 6,4%, thuỷ sản tăng bình quân 10,5%.
- Ngành công nghiệp – xây dựng từng bước xác định được hướng tập trung ưu tiên phát triển đạt được những kết quả khá. Nhịp độ tăng trưởng bình quân 29,4%, trong đó : công nghiệp tăng 20,1%, xây dựng tăng 60,5%.
- Khu vực dịch vụ đạt nhịp độ tăng bình quân 16,6%, chủ yếu tăng trưởng cao ở các ngành vận tải, thông tin liên lạc (28,2%); tài chính tín dụng (15,9%), thương nghiệp (16,2%). Hoạt động khách sạn, nhà hàng tốc độ tăng trưởng (12,0%). Các hoạt động dịch vụ phi kinh tế tăng bình quân 14,4%.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
Trong 5 năm 2000 – 2004 có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp và tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.
- Tỷ trọng ngành nông lâm thuỷ sản trong cơ cấu GDP của tỉnh giảm xuống rất nhanh từ 46,38% năm 2000 xuống còn 39,73% năm 2004. Trong đó : ngành nông nghiệp từ 66,18% năm 2000 xuống còn 60,74% năm 2004; ngành thuỷ sản từ 31,64% lên 37,38%; ngành lâm nghiệp từ 2,18% năm 2000 giảm xuống còn 1,88% năm 2005.
- Ngành công nghiệp – xây dựng có sự dịch chuyển khá từ 22,15% năm 2000 lên 25,65% năm 2004. Riêng ngành công nghiệp tỷ trọng từ 10,1% tăng lên 15,7%; ngành xây dựng từ 11,3% tăng lên 19,08% năm 2004.
3. ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế, trong nước và thị trường tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận :
3.1. Bối cảnh quốc tế và thị trường nước ngoài :
a. Tác động do tiến bộ khoa học công nghệ :
Cuộc cánh mạng khoa học – công nghệ với làn sóng đổi mới công nghệ nhanh chóng đã và đang tác động cơ bản trên tất cả các mặt của xã hội về kinh tế, văn hoá, chính trị và khuynh hướng phát triển quốc tế hoá. Trong điều kiện đó để hội nhập và cạnh tranh quốc tế yêu cầu phải : nhanh chóng tiếp thu đổi mới công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế, thu hẹp khoảng cách tụt hậu với các tỉnh trong khu vực. Với tỉnh Bình Thuận, kết hợp với các yếu tố đó gắn với thế mạnh về nguồn nhân lực dồi dào và sử dụng tối đa sẽ là nguồn lực và động lực cơ bản của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, phải có chính sách và cách ứng xử thích hợp để tận dụng những thuận lợi, khai thác các nguồn lực có hiệu quả, không rơi vào tình trạng thụ động bị chèn ép hoặc hứng chịu những hậu quả xấu về cơ cấu kinh tế lạc hậu, môi trường sinh thái suy giảm.
b. Tác động của vấn đề hội nhập kinh tế khu vực và thế giới :
Trong 10 năm tới bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi. Nền kinh tế thế giới sẽ có bước phát triển mạnh mẽ theo xu hướng toàn cầu hoá vừa hợp tác, vừa cạnh tranh đan xen phức tạp, trên cơ sở cách mạng khoa học công nghệ trong giai đoạn mới mà chủ yếu là cách mạng tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới, hình thành các cực và trung tâm phát triển có vai trò chi phối nền kinh tế thế giới và khu vực.
Trong bối cảnh đó, nước ta gia nhập WTO sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa hàng hoá các nước. Vấn đề đặt ra là yêu cầu đổi mới thiết bị công nghệ, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phâm để tạo được thế mạnh cho sản phẩm của mình, đây là vấn đề mang tính sống còn của sản phẩm.
c. Khả năng thu hút đầu tư nước ngoài :
- Nguồn vốn FDI : ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực tuy đã qua được một thời gian nhưng hậu quả của nó vẫn chưa được khắ phục hoàn toàn, cùng với môi trường đầu tư trong nước còn nhiều hạn chế, cộng với phần lớn nguồn cung cấp FDI vào Việt Nam là từ các nước Châu á nền lượng FDI vào Việt Nam trong thời gian qua không cao. Trong thời gian tới, dự báo khả năng thu hút FDI sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn nữa. Một mặt theo dự báo đánh giá sự vận động của nguồn vốn FDI trên thế giới vào khu vực Đông Nam á theo chiều hướng giảm sút, một mặt sau khủng hoảng môi trường đầu tư trong các nước vẫn chưa được cải thiện đáng kể.
Trong tình hình trên với yêu cầu phát triển, sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư FDI giữa các tỉnh trong nước sẽ diễn ra rất quyết liệt. Yêu cầu đặt ra là cải thiện môi trường đầu tư thật thông thoáng, bao gồm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và ban hành các chính sách khuyến khích để cạnh tranh thu hút đầu tư phát triển.
- Thu hút nguồn vốn ODA : trong các năm qua Việt Nam đã thu hút được nguồn vốn ODA tài trợ khá cao, tuy nhiên theo đánh giá của các nhà tài trợ thì mức giải ngân của Việt Nam còn chậm. Theo đánh giá của các nhà tài trợ, Việt Nam là một nước đang tiến hành cải cách, có chính sách đúng đắn và bước đầu đã cải cách thành công, hơn nữa Việt Nam vẫn còn nằm trong danh sách các nước có thu nhập thấp, được ưu tiên trong việc nhận viện trợ.
Trên tình hình đó cần có sự chuẩn bị thật tốt các chương trình phát triển, các dự án để tranh thủ tối đa các nguồn vốn ODA đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và xoá đói giảm nghèo. Trên cơ sở dự báo thị trường quốc té và khả năng thu hút vốn đầu tư vào các lĩnh vực có liên quan, Bình Thuận với lợi thế của mình từng bước phát triển hoà nhập vào kinh tế của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam và có thể có những mặt hàng xâm nhập vào thị trường quốc tế Như : thuỷ hải sản (cá, mực, tôm), muối, nước mắm, điều, mủ cao su, rau quả…
3.2. Bối cảnh và thị trường trong nước :
a. Bối cảnh trong nước :
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước với sự ổn định chính trị và thành công bước đầu trong cải cách kinh tế đã được quốc tế công nhận. Nhà nước đang từng bước tạo ra môi trường thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Dự báo nhịp độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 – 2005 từ 7,2 – 8,2%, thời kỳ 2006 – 2010 từ 7,2 – 7,8%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong GDP năm 2005 là 35%, dịch vụ là 45%. Đến năm 2010 : công nghiệp – xây dựng là 40%, dịch vụ là 45%. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi cơ cấu lãnh thổ quốc gia cũng sẽ có những biến đổi; mỗi vùng, mỗi tỉnh sẽ có những tăng trưởng cao dựa trên cơ sở phát triển những ngành mũi nhọn, những vùng trọng điểm.
Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển sôi động, có nhịp độ tăng trưởng cao. Trong bối cảnh đó, hoà nhập vào nhịp độ phát triển của Đông Nam Bộ, nhất là địa bàn trọng điểm Nam Bộ, Bình Thuận với thế mạnh của mình cần thiết và có khả năng phát triển, bắt nhịp với nhịp độ chung của vùng để tránh tụt hậu quá xa so với các tỉnh trong vùng và cả nước.
b. Thị trường trong nước :
Trong cơ chế thị trường, theo quy luật cạnh tranh bất cứ đối tượng nào cũng có thể cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Trong tương lai, nền kinh tế Bình Thuận đi theo hướng ngoại, song vẫn phải dựa chủ yếu vào thị trường trong nước là chính.
Thị trường Việt Nam với 86 triệu dân năm 2005 và 95 triệu dân năm 2010 với đời sống ngày càng tăng, sức mua tăng 3,5 – 4 lần vào năm 2010, nhu cầu ngày càng đa dạng. Trên cơ sở dự báo đó, nền kinh tế Bình Thuận phát triển sẽ có những sản phẩm và lĩnh vực có điều kiện phát triển, đủ sức cạnh trạnh chiếm lĩnh thị trường nông thôn của tỉnh, thị trường các địa phương lân cận. Đồng thời phát triển mạng lưới dịch vụ xuất nhập khẩu của tỉnh ở các nơi khác, trong đó có các thành phố lớn, tạo thế vươn ra thị trường các vùng khác. Bình Thuận còn khả năng sản xuất những mặt hàng tham gia trao đổi với các tỉnh là : các sản phẩm của công nghiệp chế biến nông – lâm sản, sản phẩm hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, vật liệu xây dựng … Những hoạt động dịch vụ có thể sẽ đáp ứng được nhu cầu trong tỉnh và trong nước là dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ sữa chữa, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ du lịch tham quan di tích lịch sử văn hoá, du lịch biển …
4. Những thuận lợi và hạn chế :
4.1. Thuận lợi :
- Nằm trong địa bàn trọng điểm Nam Bộ, gần Thành phố Hồ Chí Minh – có sức hút lớn về kinh tế. Vị trí này có ảnh hưởng lớn đến Bình Thuận trong quá trình phân bố lại sản xuất và phân công lao động; đã và sẽ hội nhập vào thị trường khu vực thông qua các dòng trao đổi như : tiếp thu nhanh văn hoá, khoa học kỹ thuật, được hỗ trợ về hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp. Đồng thời, Bình Thuận có thể cung cấp cho địa bàn trọng điểm Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh các mặt hàng nguyên liệu nông lâm sản, các mặt hàng hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu rừng và biển.
- Biển Bình Thuận giàu nguồn lợi, nguồn nguyên liệu nông nghiệp và lâm nghiệp phong phú, thế mạnh về khoáng sản và sa khoáng ven biển. Đây là lợi thế cho phát triển công nghiệp chế biến hải sản, chế biến thực phẩm và công nghiệp khai khoáng, sớm tạo ra khối lượng sản phẩm xuất khẩu lớn.
- Đã hình thành hệ thống đô thị, bao gồm Thành phố Phan Thiết và các thị trấn huyện, các cụm công nghiệp và khai thác chế biến hải sản ở Phan Thiết, Hàm Tân, Tuy Phong … cư dân có kinh nghiệm tay nghề khai thác và chế biến hải sản, công nghiệp và dịch vụ hướng biển.
4.2. Hạn chế và thách thức :
- Hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội : giao thông, điện, cấp thoát nước, mạng lưới y tế, giáo dục và văn hoá bước đầu được quan tâm song so với yêu cầu phát triển còn quá yếu kém, xuống cấp; Yếu tố này đã hạn chế sự khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh, chưa tạo được sự hấp dẫn đối với các nguồn lực đầu tư bên ngoài.
- Nằm bên cạnh Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương và Thành phố Nha Trang là những trung tâm phát triển kinh tế lớn và năng động, có vị trí địa lý, kinh tế – cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng – nguồn lao động kỹ thuật ưu thế hơn, có chính sách linh hoạt hơn. Do đó, quá trình cạnh tranh về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về thu hút đầu tư phát triển sẽ diễn ra gay gắt và quyết liệt - đó là thách thức và hạn chế lớn đối với Bình Thuận cần phải vượt qua.
- Tài chính tiền tệ còn mất cân đối và thiếu hụt. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế mới chỉ giải quyết mức tối thiểu nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển chủ yếu phụ thuộc vào TW – thu hút đầu tư trong và ngoài nước còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, trình độ công nghệ lạc hậu, khối lượng sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao còn quá ít, sức cạnh tranh yếu nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực trong một vài năm nữa.
- Dân số còn tăng nhanh, lao động chưa có việc làm còn nhiều, lực lượng lao động bổ sung hàng năm ở nông thôn chủ yếu tham gia vào nông nghiệp. ở thành phố, thị trấn thì thiếu việc làm.
- Nguồn nhân lực tại chỗ là một yếu tố quyết định cho tiến trình phát triển trước mắt cũng như lâu dài đang bị hẫng hụt và mất cân đối về số lượng và chất lượng, sức khỏ và trình độ, thế hệ hiện tại và thế hệ kế tiếp. Trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý còn yếu kém.
- Trình độ dân trí, đời sống của cư dân nông nghiệp, miền núi, ngư nghiệp còn thấp và gặp nhiều khó khăn.
II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2001-2005 :
1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuạn hời kỳ 2001 – 2005 :
Bước đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được khẳng định bằng những thành tựu kinh tế trong những năm gần đây, đặc biệt là nền kinh tế luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Hoà mình cùng với sự phát triển chung của cả nước, Bình Thuận cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cơ cấu kinh tế của Tỉnh có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực và thể hiện rõ nhất ở cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu kinh tế được chia theo 3 nhóm ngành lớn là: Nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp); Công nghiệp (bao gồm cả công nghiệp và xây dựng) và Dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại). Trong những năm đổi mới, cơ cấu ngành kinh tế của Tỉnh Bình Thuận đã chuyển dịch theo chiều hướng : Thực hiện nhanh việc chuyển dịch cơ cấu từ Nông ngư lâm – Công nghiệp – Dịch vụ sang cơ cấu Công nghiệp – Dịch vụ – Nông lâm ngư nghiệp với tỷ trọng công nghiệp chiếm ngày càng cao trong nền kinh tế làm điều kiện cho kinh tế phát triển ổn định, vững chắc, đồng thời chú trọng phát triển mạnh ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thông tin liên lạc để nâng cao tích luỹ tạo điều kiện về thông tin, thị trường, vốn, công nghệ cho các ngành kinh tế khác phát triển. Tuy mục tiêu là giảm tỷ trọng nông lâm ngư trong GDP toàn tỉnh nhưng vẫn tăng sản lượng lương thực, đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh. Bảng số liệu dưới đây thể hiện sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận trong thời gian gần đây :
Bảng 2 : Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Đơn vị tính: %
Năm
Nông lâm ngư
Công nghiệp
Dịch vụ
2000
41,96
22,61
35,43
2001
40,17
23,38
36,46
2002
39,50
24,25
36,25
2003
36,49
25,84
37,66
2004
34,19
27,78
38,03
KH 2005
32,35
28,59
39,05
Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận.
Dựa vào nguồn số liệu trên bảng trên có thể thấy cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Thuận đã có sự thay đổi rõ rệt, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP toàn tỉnh thay đổi đúng theo định hướng đã đề ra. Tỷ trọng ngành nông lâm ngư giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng trưởng giữa các ngành có sự khác nhau, cao nhất vẫn thuộc về ngành công nghiệp, tiếp theo là ngành dịch vụ và thấp nhất là ngành nông lâm ngư. Điều đó cho thấy chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang đi đúng hướng và cần có những kế hoạch trong thời gian tới để đạt được hiệu quả cao hơn nữa, hoàn thành những mục tiêu đề ra tạo tiền đề phát triển kinh tế trong những năm tới. Tuy xuất phát điểm của Bình Thuận còn thấp so với các địa phương khác nhưng với kết quả ban đầu sẽ tạo điều kiện cho tỉnh phát triển về sau và theo kịp sự phát triển của các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước. Đạt được thành tựu cơ bản trên là nhờ vào đường lối chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, cùng với sự vận dụng sáng tạo của tỉnh đã phát huy được lợi thế so sánh của mình cũng như khai thác triệt để thế mạnh của địa phương, tạo nên những thành công bước đầu.
1.1. Nông lâm ngư nghiệp :
Trong thời kỳ 2000 – 2004, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp trong cơ cấu GDP toàn tỉnh giảm nhanh chóng, từ 41,96% năm 2000 giảm xuống còn 34,19% năm 2004 và dự kiến kế hoạch năm 2005 là còn 32,35%, giảm bình quân 1,55%/năm. Tuy tỷ trọng ngành nông nghiệp có giảm nhưng xét về cơ bản vẫn đảm bảo những mục tiêu đề ra, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng năm vẫn tăng đều. Năm 2000 giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2.098 tỷ đồng thì năm 2004 đạt 3.084 tỷ đồng, bình quân tăng 197,2 tỷ đồng/năm. Bước đầu đã hình thành các vùng sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả tập trung có hiệu quả kinh tế như cao su ở Đức Linh – Tánh Linh, cây điều ở các huyện phía Nam, thanh long ở Phan Thiết, Hàm Thuận Nam … Sản lượng cây công nghiệp và cây ăn quả liên tục tăng qua các năm : sản lượng cao su năm 2000 là 900 tấn tăng lên 3.000 tấn năm 2004 và năm 2005 ước đạt 5.500 tấn; cây thanh long đạt 43.500 tấn năm 2000 và năm 2004 đạt 89.100 tấn; điều hạt khô năm 2000 là 3.500 tấn tăng lên 16.300 tấn năm 2004. Với sản lượng các cây công nghiệp và cây ăn quả cso giá trị cao liên tục tăng đã đóng góp rất nhiều vào giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.
Bảng 3 : Giá trị sản xuất nông, lâm , ngư nghiệp
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
KH năm 2005
- Giá 1994 (nn)
2.098
2.326
2.507
2.751
3.084
3.475
+ Nông nghiệp
1.400
1.558
1.664
1.818
2.043
2.300
+ Lâm nghiệp
46
48
49
46
46
50
+ Thuỷ sản
652
720
795
887
995
1.125
- Giá thực tế
2.568
2.840
3.242
3.750
4.386
5.206
+ Nông nghiệp
1.686
1.856
2.105
2.429
2.849
3.419
* Trồng trọt
1.234
1.382
1.548
1.808
2.115
2.496
* Chăn nuôi
369
389
460
521
623
748
* Dịch vụ
84
85
98
100
111
175
+ Thuỷ sản
792
889
1.033
1.127
1.432
1.661
+ Lâm nghiệp
90
95
104
104
105
126
Nguồn : Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận.
Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao, năm 2000 đạt 1.686 tỷ đồng đến năm 2004 đạt 2.849 tỷ đồng, bình quân tăng 160,6 tỷ đồng/năm. Những kết quả đạt được nói trên là nhờ vào sự ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp cũng như diện tích canh tác trong thời gian qua tăng nhanh. Diện tích cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả có giá trị kinh tế từ 152.264 ha năm 2000 tăng lên 179. 838 ha năm 2004. Trong 5 năm đã trồng mới 6.250 ha điều, 1.824 ha cao su, 2.450 ha thanh long … tỷ trọng cây công nghiệp và cây ăn quả trong giá trị tổng sản lượng trồng trọt từ 18,05% năm 2000 tăng lên 26,95% năm 2004. Bên cạnh đó, sản xuất lương thực phát triển tương đối ổn định đã đáp ứng được nhu cầu tại chỗ, đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh. Ba vùng trọng điểm lương thực hàng hoá Đức Linh – Tánh Linh; Hàm Thuận Bắc và Bắc Bình – Tuy Phong được tập trung đầu tư xây dựng và phát huy năng lực tưới của các công trình thuỷ lợi, nâng diện tích tưới chủ động từ 12.000 ha năm 2000 lên 18.000 ha năm 2004, diện tích gieo trồng được tưới từ 38.300 ha năm 2000 tăng lên 41.980 ha năm 2004. Năm 2000 đạt 393.000 tấn lương thực qui thóc, năm 2004 đạt 428.400 tấn (vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ đề ra 10.000), tăng hơn 7.080 tấn/năm, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 6,2%/năm (vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ đề ra là 1%). Đặc biệt đã hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh có điều kiện để phát huy hiệu quả cao trong thâm canh tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Vùng lúa ở các huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình với diện tích gieo trồng năm 2004 khoảng 65.000 ha, sản lượng 227.700 tấn, chiếm 70% về diện tích và 79,5% về sản lượng lúa toàn Tỉnh. So với năm 2000, diện tích tăng 5.000 ha và sản lượng tăng 36.460 tấn.
Vùng trồng bắp diện tích 18.000 ha (năm 2004) chủ yếu tập trung ở Đức Linh và Tánh Linh, sản lượng 82.000 tấn, tăng 5,6% so với năm 2003. Trong đó, diện tích bắp lai gần 7.000 ha chiếm 38,89% diện tích bắp toàn tỉnh. Năng suất bắp bình quân từ 4,5 – 5 tấn/ha. Tỉnh đã đưa vào trồng rộng rãi giống bắp lai ở Đức Linh- Tánh Linh và một số vùng miền núi, tuyển chọn được nhiều giống lúa có năng suất khá. Bên cạnh đó cũng từng bước áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác hiện đại tiên tiến, phòng trừ dịch bệnh tổng hợp … nên đã góp phần gia tăng sản lượng bắp từ 62.685 tấn năm 2000 lên 82.000 tấn năm 2004, tăng bình quân 4.828 tấn/năm. Diệc tích trồng cây lương thực qua các năm liên tục tăng, các biện pháp canh tác và các giống cây trồng có năng suất cao được đưa vào trồng đã mang lai những kết quả khả quan cho trồng trọt. Được sự quan tâm đầu tư cũng như chỉ đạo của tỉnh một số vùng trước đây diện tích trồng trọt còn thấp, năng suất không cao nay đã chuyển sang trồng các cây lương thực có giá trị cao, không chỉ tăng về mặt diện tích mà năng suất cũng tăng rõ rêt. Đến cuối năm 2004 diện tích cây lương thực đạt 123.200 ha và trong năm 2005 ước đạt 126.200 ha, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 2,62% (đạt kế hoạch đề ra của Tỉnh). Sản lượng lương thực quy thóc cũng tăng nhanh, từ 0,344 triệu tấn năm 2001 tăng lên 0,398 triệu tấn năm 2004 và ước đạt tốc độ tăng bình quân của thời kỳ 2001 – 2005 là 5,25%. Với những kết quả khả quan trên góp phần nâng sản lượng lương thực bình quân/người tăng từ 354 kg/người năm 2001 lên 368 kg/người năm 2004, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 1,88%, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 1,5%.
Cây công nghiệp dài ngày phát triển khá đã hình thành các cùng tập trung ở các huyện phía Nam như : cây cao su chủ yếu ở Đức Linh, Tánh Linh. Tính đến năm 2004 diện tích trồng cao su toàn tỉnh là 13.505 ha, tăng gấp 1,47 lần so với năm 2000. Hàng năm trồng mới hơn 1.000 ha, có gần 3.000 ha đang khai thác có sản lượng mũ từ 800 – 950 tấn. Sản lượng mũ cao su liên tục tăng nhanh qua các năm, từ 592 tấn năm 2000 tăng lên 3.900 tấn năm 2004 và năm 2005 ước đạt 6.400 tấn, và trong thời kỳ 2001 – 2005 tốc độ tăng bình quân ước đạt 46,22%. Nhìn chung, sản lượng và diện tích cao su tăng đều qua các năm, góp phần tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân địa phương, tăng thu nhập và đem lại hiệu quả kinh tế cao, tăng độ che phủ, chống xói mòn đất.
Cùng với cây cao su, cây điều cũng là thế mạnh của tỉnh. Diện tích và sản lượng cây điều tăng khá, trung bình hàng năm trồng mới hơn 1.050 ha điều. Cây điều hiện là cây có giá trị xuất khẩu cao, thị trường đầu ra lớn và ổn định. Năm 2000 có 15.519 ha, diện tích thu hoạch 12.275 ha, sản lượng 3.508 tấn thì đến năm 2004 có 20.500 ha và sản lượng đạt 6.800 tấn, ước tính tốc độ tăng bình quân 2001 – 2005 đạt 41,42%. Nhưng hiện nay năng suất cây điều đang bị giảm từ 5,5 tạ/ha xuống còn 4 tạ/ha do cây điều bị lão hoá, nhiều sâu bênh và canh thác trong tình trạng quảng canh nên hiệu quả kinh tế chưa cao, hiện đang có xu hướng giảm diện tích do nông dân chặt phá chuyển sang trồng các loại cây công nghiệp khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, để duy trì thế mạnh về xuất khẩu điều, tỉnh cần có biện pháp chỉ đạo để duy trì và phát triển diện tích trồng điều.
Cây ăn quả phát triển khá nhanh trong thời gian lại đây, năm 2000 có 10.446 ha thì đến cuối năm 2004 có 19.000 ha, tăng gấp 1,8 lần. Trong đó, cây thanh long chiếm diện tích cao nhất trong tổng số diện tích trồng cây ăn quả của tỉnh. Đây là loại cây rất thích hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh, đã có những chuyến hàng xuất khẩu sang các nước và đã khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tỉnh. Đến cuối năm 2004, diện tích trồng cây thanh long là 5.400 ha, trồng mới hàng năm là 400 ha, sản lượng đạt 72.962 tấn, chủ yếu tập trung ở Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc. Thời gian gần đây lại hình thành thêm vùng nho ở Tuy Phong, nhãn xoài ở Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Tân góp phần lớn trong việc tạo ra nông sản hàng hoá, giải quyết việc làm góp phần nâng cao đời sống nông dân.
- Chăn nuôi : cùng với trồng trọt, giá trị sản xuất chăn nuôi vẫn duy trì được tốc độ phát triển bình quân 11% (ước tăng hơn 1% so với thời kỳ 1996 – 2000). Việc chuyên dịch cơ cấu vật nuôi theo hướng có lợi cho người chăn nuôi, đàn heo, đàn bò, đàn gia cầm tăng trưởng cả tổng đàn và qui mô đàn. Riêng đàn dê, ngựa, trâu giảm dần, đàn bào cày kéo cũng đang giảm dần do cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng. Tổng đàn trâu năm 2000 từ 10.585 con đến năm 2004 giảm xuống còn 9.400 con; trong khi đó đàn bò cày kéo giảm nhưng nhờ việc cải tạo giống trong chăn nuôi các năm qua được chú trọng, chương trình bò lai sind đã phối được 35.980 con và tổng số bò lai sơ sinh 30.453 con góp phần tăng số lượng đàn bò của Tỉnh từ 115.060 con năm 2000 lên 155.000 con năm 2004, tăng bình quân 7.988 con/năm. Chương trình cải tạo giống heo, gà thả vườn, vịt siêu thịt siêu trứng … đã tạo ra nhiều giống có chất lượng cao, góp phần rất lớn để tăng giá trị sản phẩm chăn nuôi trong các năm qua, cung cấp cho các thị trường lân cận như : Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Kiên Giang…
Tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong giá trị sản xuất toàn ngành Nông nghiệp phát triển nông thôn đã tăng dần qua các năm, từ 17,9% năm 2000 lên 19,8% năm 2004; trong khi đó tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt, dịch vụ đang có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, trong những năm qua việc đầu tư của Tỉnh trong lĩnh vực chăn nuôi cũng chưa nhiều, nhân dân chăn nuôi vẫn mang nặng tính chất chăn nuôi để tận dụng phụ phẩm từ trồng trọt, chưa đầu tư với qui mô lớn, thị trường đầu ra vãn bấp bênh nên tốc độ tăng còn chậm, chưa vượt lên trồng trọt nên giá trị sản xuất của chăn nuôi còn đạt tỷ trọng thấp trong ngành Nông nghiệp. Trong thời gian gần đây, dịch cúm gia cầm vẫn còn nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá trị sản xuất của chăn nuôi cũng như tâm lý của người dân nên trong thời gian tới Tỉnh cần đầu tư khắc phục thiệt hại, khôi phục lại các vùng chăn nuôi. Để thúc đẩy chăn nuôi phát triển đòi hỏi phải có sự tác động nhiều mặt của công tác thú y, chương trình khuyến nông, cải tạo chất lượng giống, đáp ứng nhu cầu của thị trường… Tuy nhiên trong những năm qua đối với chăn nuôi heo thì tập trung cho xu hướng nuôi heo thịt là chủ yếu, còn đàn nái, đực giống giảm đáng kể, dẫn đến việc thiếu giống heo con để cung ứng cho sản xuất, phải nhập heo từ các tỉnh lân cận, chất lượng không tốt, đây cũng là một yếu tố quan trọng lầm lây nguồn bệnh, làm hạn chế sự phát triển của tổng đàn.
- Thuỷ sản : hoạt động nuôi trồng Thuỷ sản những năm gần đây đã được Ngành và địa phương chú ý đầu tư, tạo mọi điều kiện phát triển từ khâu giống, thức ăn, mở rộng diện tích tăng nguồn lợi thuỷ sản qua các chương trình 327, 773 đã từng bước đi vào sản xuất ổn định.
Nghề nuôi tôm tiếp tục phát triển, diện tích nuôi tôm tăng khá, số trại sản xuất tôm giống tăng nhanh. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh qua các năm, từ 432 ha năm 2000 tăng lên 4.200 ha năm 2004 và năm 2005 ước đạt 5.420 ha, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 65,85%. Với điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho nuôi trồng thuỷ sản và đay là ngành đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Tỉnh nên với tốc độ tăng bình quân như trên cho thấy trong thời gian tới Tỉnh cần chú ý đầu tư, có kế hoạch khai thác để phát huy được thế mạnh của địa phương, Sản lượng thuỷ sản khai thác hàng năm tăng nhanh, đặc biệt là sản lượng nuôi trồng từ 2.600 tấn năm 2001 tăng lên 7.600 tấn và tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn 2001 – 2005 tăng bình quân 56,95%. Hiện nay có 2.500 ha nuôi tôm thịt, năng suất 1,5 tấn/ha/vụ, tăng gấp 3 lần so với năm 2000, gần 200 trại sản xuất tôm giống đạt hơn 3,5 tỷ con POST, tăng hơn 2 lần so với năm 2000.
Với gần 1.000 ha mặt nước ao hồ nhỏ (chưa kể hơn 10.000 ha diện tích mặt thoáng các hồ chứa thuỷ lợi diện tích vừa và lớn), hiện có 667 ha sử dụng nuôi cá nước ngọt, tập trung ở các huyện Đức Linh, Tánh Linh. Ngoài ra nuôi cá lồng trên sông cũng đang phát triển nhanh ở 2 huyện Đức Linh và Tánh Linh, đạt năng suất bình quân 200 kg/lồng/năm.
Thực hiện mục tiêu tăng khối lượng đánh bắt xa bờ, phát triển nghề cá nhân dân, năng lực tàu thuyền tăng lên đáng kể theo hướng phát triển tàu thuyền công suất lớn. Trong 5 năm 2000 – 20004, số lượng tàu thuyền tăng thêm 1.487 chiếc/90.872 CV nâng số tàu thuyền đánh cá toàn tỉnh lên 5.284 chiếc/158.050 CV. Công suất bình quân tàu thuyền từ 17,7 CV/chiếc năm 2000 lên 29,91 CV/chiếc/năm 2004; loại tàu thuyền công suất trên 45 CV tăng từ 9,4% lên 25,2% về số lượng và từ 24,4% lên 49,8% về công suất, hình thành đội tàu thuyền đánh bắt ở ngư trường Trường Sa từ 150 – 200 chiếc. Tổng sản lượng đánh bắt xa bờ trong 5 năm đạt 667.470 tấn, sản lượng khai thác hải sản tăng bình quân 4,34%/năm, từ 127.700 tấn năm 2000 tăng lên 140.400 tấn năm 2004, tỷ lệ khai thác cá đáy từ 38% năm 2000 tăng lên 50% năm 2004. Công tác bảo vệ nguồn lợi hải sản được quan tâm hơn trước, đã có chú ý đầu tư thêm phương tiện, thiết bị tuần tra trên biển, tăng cường kiểm tra trên bờ, bước đầu đã xây dựng và tuyên truyền phổ biến cho ngư dân các quy định về kích cỡ, chủng loại hải sản vài mùa vụ đánh bắt.
Diêm nghiệp phát triển khá, diện tích được mở rộng từ 500 ha năm 2000 lên 750 ha năm 2004. Sản lượng muối tăng 5.000 tấn/năm. Hiện nay có 8 xã làm muối và 3 Xí nghiệp sản xuất và chế biến muối, tổng sản lượng muối trong 5 năm 2000 – 2004 thực hiện được 395.000 tấ, hiện nay công suất muối hàng ănm được nâng lên khoảng 50.000 – 70.000 tấn/năm (muối quốc doanh khoảng 40.000 – 50.000 tấn). Dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng thêm sau năm 2006, tuy nhiên việc qui hoạch đất đang còn khó khăn tranh chấp giữa hiệu quả nuôi tôm và phát triển đồng muối.
Trong thời gian vừa qua giá trị sản xuất của ngành thuỷ sản có tăng nhanh, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành nông lâm nghiệp. Tốc độ tăng trưởng đều nhưng chưa thật sự vững chắc và ổn định.
Bảng 4 : Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Đơn vị : %
Chỉ tiêu
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
KH 2005
a.Nông nghiệp
66,18
66,99
66,35
62,65
60,74
59,55
- Trồng trọt
54,31
52,37
52,22
50,75
49,61
45,96
- Chăn nuôi
11,86
11,44
11,01
11,9
12,05
10,4
b. Thuỷ sản
31,64
30,94
31,72
35,42
37,38
39,01
c. Lâm nghiệp
2,18
2,07
1,93
1,93
1,88
1,44
Nguồn : Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận.
Bảng biểu 4 cho thấy giá trị sản xuất của ngành thuỷ sản trong cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp tuy có tăng nhưng không đều qua các năm. Nếu năm 2000 là 31,64% thì năm 2001 là 30,94%, trong các năm tiếp theo đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Thực tế cho thấy tỷ trọng của ngành thuỷ sản đang tăng dần và đóng góp rất lớn vào giá trị sản xuất của ngành nông, lâm ngư nghiệp trong cơ cấu GDP toàn Tỉnh nên cần phải có kế hoạch khai thác, phát huy thế mạnh và duy trì được tốc độ phát triển như hiện nay. Đặc biệt nên chú trọng tăng nhanh diên tích nuôi trồng thuỷ sản vì đây là hình thức mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu trong ngành nông nghiệp.
- Lâm nghiệp : trong những năm qua, nhiệm vụ Lâm nghiệp đã chuyển hướng từ quản lý khai thác sang mục tiêu trồng và bảo vệ rừng là chính, khai thác ở mức độ hợp lý, việc giao đất, giao rừng, sắp xếp lại kinh doanh nghề rừng, trồng rừng, tổ chức quản lý bảo vệ, phòng chống phá rừng được tiến hành thường xuyên, đạt nhiều kết quả, lâm nghiệp xã hội đã có bước phát triển. Với việc tập trung huy động nhiều nguồn vón : PAM, Chương trình 327, vốn ngân sách, các tổ chức kinh tế Nhà nước, vốn nhân dân … diện tích rừng trồng hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch, mặc dù điều kiện trồng rừng đối với khí hậu khô hạn là rất khó khăn. Từ năm 2000 đến năm 2004, tổng diện tích trồng tập trung là 27.500 ha, diện tích khoanh nuôi tái sinh là 18.300 ha, cây phân tán 3.087 ha, tỷ lệ tnhà rừng đạt 85 – 90%.
Công tác giao khoán rừng : trong nhiều năm qua cùng với quá trình quản lý và phát triển vốn rừng, hàng năm Tỉnh Bình Thuận đã quan tâm cân đối kế hoạch đầu tư cho công tác giao khoán bảo vệ rừng và được cân đối từ nguồn vốn ngân sách sự nghiệp, chương trìh 327 bình quân từ 2 – 3 tỷ đồng/năm. Đến nay toàn tỉnh đã giao khoán bảo vệ rừng được trên 200.000 ha (giao đến hộ 33.000 ha, đến xã 171.000 ha; trong đó đồng bào dân tộc nhận hơn 30.000 ha). Từ năm 2000 đến năm 2004, Nhà nước đã cấp kinh phí cho công tác khoán bảo vệ rừng 10.514 triệu đồng giao cho các đơn vị tham gia thực hiện.
Nhìn chung mô hình giao khoán bảo vệ rừng nhất là diện tích rừng trồng, ven biển giao cho hộ gia đình và tập thể đều có hiệu quả tốt do điều kiện gần đường, gần nhà thuận lợi trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Qua công tá giao khoán đã kết hợp được một số lực lượng tổng hợp tham gia quản lý có hiệu quả, tăng thêm trách nhiệm và thu nhập đời sống góp phần xoá đói giảm nghèo cho nông dân.
Khai thác lâm sản : sản lượng gỗ (qui ra khối) khai thác qua các năm giảm dần, từ 40.760 m3 (năm 2000) giảm còn 19.438 m3 (năm 2004), bình quân giảm 4.264 m3/năm. Riêng gỗ tròn, khai thác chính năm 2000 là 6.500 m3/năm. Năng lực chế biến gỗ có bước tăng trưởng khá, hiện có 28 cơ sở cưa xẻ gỗ và 180 các cơ sở sản xuất mộc dân dụng tư nhân, sản lượng gỗ tròn qua chế biến tăng khá, từ 30% năm 2000 tăng lên 65% năm 2004. Nhìn chung, kinh tế lâm nghiệp đạt được một số kết quả tốt, nhất là trong khâu trồng rừng. Nhưng nhiều mặt vẫn còn trì trệ và hạn chế, rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá nặng nề. Việc giao khoán bảo vệ tài nguyên rừng chưa làm tốt công tác quy hoạch mặt bằng sử dụng đất lâm nghiệp và qui hoạch mạng lưới các cơ sở chế biến gỗ; Lâm sản đưa vào chế biến còn ít, gỗ tròn bán ra ngoài tỉnh còn phổ biến (trên 30%). Một số dự án chuyển dịch đất lâm nghiệp sang cây công nghiệp, cây ăn quả chưa được quy hoạch, khảo sát kỹ nên xảy ra sự tranh chấp đất với dân và thiếu hiện thực, kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến lãng phí và kém hiệu quả.
1.2. Công nghiệp :
Công nghiệp và xây dựng ở Bình Thuận có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Do xuất phát điểm thấp nên cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn lạc hậu. Với vị trí then chốt trong cơ cấu ngành kinh tế của Tỉnh, công nghiệp và xây dựng sẽ từng bước phát huy tác dụng thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bình Thuận là tỉnh có nguồn tài nguyên và lao động dồi dào sẽ tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển. Thực tế cho thấy trong thời gian gần đây công nghiệp – xây dựng đã có những thành công nhất định, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng của cả nước, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước.
Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hàng năm đóng góp khoảng 60 – 65% ngân sách của Tỉnh. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ năm 2001 – 2005 ước đạt 12,05%, cao hơn so với thời kỳ 1996 – 2000. Thời kỳ 1996 – 2000 các khu công nghiệp của Tỉnh còn đang triển khai nên chưa thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nên giá trị sản xuất của ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP toàn Tỉnh. Thời kỳ 2001 – 2004 các khu công nghiệp đã hình thành, nhiều cơ chế chính sách và hình thức khuyến khích đầu tư được áp dụng đã tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều đó thể hiện qua tổng số vốn đầu tư qua các năm tăng nhanh. Tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng nhanh qua các năm, năm 2000 chiếm 22,61% đến năm 2004 là 27,78% và năm 2005 ước là 28,59%. So với các ngành khác thì công nghiệp là ngành chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP và liên tục tăng qua các năm.
Bảng 5 : Giá trị sản xuất ngành công nghiệp. (giá 1994)
Đơn vị : tỷ đồng.
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
KH 2005
1. Công nghiệp QD
354
340
300
280
160
- TW
9
22
53
67
130
- Địa phương
345
318
248
213
230
2. Công nghiệp ngoài QD
610
758
973
1.226
1.380
3. Công nghiệp có vốn ĐTNN
1
12
20
30
60
Nguồn : Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận.
Ngành công nghiệp của Tỉnh đã có bước chuyển biến tích cực, phát huy thế mạnh của tỉnh về công nghiệp chế biến và vật liệu xây dựng, đồng thời tạo ra được một số sản phẩm có giá trị như : dầu thô, đá xây dựng, cát sỏi xây dựng, cát thuỷ tinh, sa khoáng… Nhiều cơ sở vật chất tăng thêm, tạo bước phát triển cho các ngành kinh tế khác. Giá trị sản xuất của công nghiệp quốc doanh có xu hướng giảm, đặc biệt là công nghiệp do địa phương quản lý, từ 345 tỷ đồng năm 2001 giảm xuống còn 213 tỷ đồng năm 2004. Trong đó, công nghiệp do TW quản lý tuy có tăng nhưng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với giá trị sản xuất của công nghiệp quốc doanh. Thời gian vừa qua đánh dấu sự tăng nhanh của công nghiệp ngoài quốc doanh, năm 2004 đạt 1.226 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2001. Năm 2001 công nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 62,3% so với tổng giá trị sản xuất của ngành, đến năm 2004 chiếm 79,8%. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ năm 2001 chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ thì đến năm 2004 đã có sự thay đổi rõ rệt, từ hầu như không có đến năm 2004 chiếm 1,95% trong tổng giá trị sản xuất của ngành. Qua đó cho thấy rõ cơ cấu ngành công nghiệp của tỉnh đã có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Năng lực sản xuất ở một số ngành chủ yếu gồm : các cơ sở chế biến hạt điều tổng công suất 8.500 tấn nguyên liệu/năm, năng lực chế biến hải sản có 40 tấn công suất cấp đông/ngày, 1.000 tấn kho lạnh, năng lực chế biến hải sản khô cao cấp 700 tấn/ngày; nhà máy đường công suất 1.000 tấn mía cây/ngày…
Các khu công nghiệp Hàm Tân, Phan Thiết – Hàm Thuận Nam, Tuy Phong bước đầu đã ổn định, thu hút được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Nhiều ngành nghề được tập trung đầu tư, khai thác phát huy thế mạnh của tỉnh, quan trọng nhất là giải quyết một số lượng lớn lao động trong Tỉnh. Trong năm 2004 đã giải quyết được việc làm cho 21.000 người, góp phần tăng thu nhập bình quân đầu người, nâng cao tốc độ tăng trưởng GDP của Tỉnh.
Nhìn chung công nghiệp chế biến tuy có phát triển nhưng so với tiềm năng nguồn nguyên liệu tại chỗ vẫn còn quá nhỏ bé, thiết bị công nghệ đa phần lạc hậu hết thời gian khấu hao, sản phẩm ở dạng bán thành phẩm, giá trị chưa cao, chưa tạo tiền đề ổn định để tiêu thụ sản phẩm nông lâm hải sản. Công nghiệp dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp qui mô còn nhỏ, một số ngành nghề truyền thống chưa khôi phục. Tuy nhiên cơ cấu cấu sản phẩm còn đơn điệu, chậm đôỉ mới, nhiều ngành hàng tiêu dùng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, ngành thu hút nhiều lao động như may mặc, giầy da,… chưa được sản xuất nhiều trong tỉnh, chưa đáp ứng được nhu cầu ngay cả thị trường nội tỉnh. Công nghiệp quỗc doanh do địa phương quản lý có công nghệ lạc hậu, yếu kém về tài chính, tổ chức lao động do đó hoạt động kém hiệu quả, các doanh nghiệp mới đầu tư công suất còn thấp. Công nghiệp ngoài quốc doanh tuy đã có bước phát triển khá hơn trước nhưng chưa mạnh, chưa phát huy hết nội lực trong nhân dân, các chính sách khuyến khích đầu tư chưa đồng bộ và chưa được quan tâm tổ chức chỉ đạo thực hiện.
1.3. Dịch vụ :
Trong những năm qua dịch vụ là ngành đạt tốc độ tăng trưởng khá, đều qua các năm. Giá trị của ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm GDP toàn Tỉnh liên tục tăng qua các năm, năm 2000 đạt 683 tỷ đồng, năm 2004 đạt 1.169 tỷ đồng, ước tính tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 đạt 14,94%. Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ chỉ sau công nghiệp – xây dựng, tỷ trọng của ngành trong cơ cấu GDP ngày càng tăng, năm 2000 chiếm 35,43% thì đến năm 2004 chiếm 38,03%. Các hoạt động Dịch vụ thương mại phát triển nhanh và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, nhất là hoạt động kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu, bưu chính viễn thông, vận tải, tiền tệ, du lịch và các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Hoạt động thương mại đã có những bước phát triển đáng kể, hàng hoá lưu thông ngày càng thuận lợi, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của dân cư cũng như yêu cầu phát triển sản xuất của các ngành kinh tế. Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội tăng trưởng ổn định với nhịp độ khá, từ 2.468 tỷ đồng năm 2000 tăng lên 5.006 tỷ đồng năm 2004; tốc độ tăng trưởng bình quân trong suốt thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 18,5%. Thương mại dân doanh tiếp tục phát triển, chiếm tỷ trọng lơn trong các ngành và là lực lượng chủ yếu trong việc đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong tỉnh. ( đặc biệt là vùng nông thôn).
Thương mại đã xây dựng và phát triển thị trường với ngày một nhiều thành phần kinh tế tham gia. Thị trường không chỉ bó hẹp trong phạm vi các tỉnh lân cận hay trong nước mà đã hướng ra xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong thời kỳ 2000 – 2004 đạt hơn 278 triệu USD, năm 2000 đạt 46,728 triệu USD và năm 2004 đạt 75 triệu USD, tăng gấp 1,6 lần; nhịp độ tăng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 18,7%. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu như : nhân hạt điều, thanh long, hải sản đông lạnh, hải sản khô. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ 2000 – 2004 khoảng 88 triệu USD, bình quân 22 triệu USD/năm. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu đầu vào cho hoạt động chế biến xuất khẩu, nguyên phụ liệu may mặc, nguyên liệu sản xuất tấm lợp và một số thiết bị sản xuất chuyên dùng của các ngành có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó tư liệu phục vụ sản xuất chiếm 78,4%.
Hoạt động du lịch có những chuyển biến tích cực, đặc biệt trong những năm gần đây. Thời kỳ 2000 – 2004 tổng lượt khách du lịch đến Bình Thuận là 5.193.000 lượt khách, tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn 1996 – 2000 là 24,3%, đến thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 27,1%. Năm 2000, lượng khách du lịch đến tỉnh là 513.000 lượt khách, năm 2004 tăng lên 1.500.000 lượt khách và năm 2005 ước đạt 1.700.000 lượt khách. Trong đó, khách du lịch quốc tế chiếm 12 – 15%. Doanh thu hoạt động du lịch đóng góp vào giá trị sản xuất dịch vụ rất lớn, doanh thu liên tục tăng nhanh qua các năm. Năm 2001 đạt 178 tỷ đồng và năm 2005 ước đạt 450 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001 – 2005 ước đạt 29,6%. Dịch vụ đã có những chuyển biến khởi sắc, đặc biệt trong 2 – 3 năm gần đây. Đã có 4 dự án đầu tư nước ngoài về sân golf, khách sạn, làng nghỉ mát được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư 20,6 triệu USD. Các khách sạn nội địa được đầu tư mới, sữa chữa nâng cấp, trang bị khá hơn để đáp ứng nhu cầu của khách. Cơ sở vật chất du lịch tăng nhanh đáng kể, năm 2000 toàn tỉnh có 238 phòng khách sạn, trong đó có 60 phòng đủ tiêu chuẩn đón khách quốc tế, đến năm 2004 số lượng buồng là 1.000 phòng (chưa kể các nhà trọ). Số phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế là 61,55%. Về chất lượng phòng nghỉ, trang thiết bị tiện nghi và chất lượng dịch vụ cũng được chú ý đầu tư nâng lên với chất lượng tốt hơn, tăng cường công tác tiếp thị.quảng cáo. Đến năm 2004, toàn Tỉnh có 140 khách sạn, cơ sở lưu trú du lịch, trong đó khách sạn 3 sao trở lên là 15 cái. Công suất sử dụng phòng luôn đạt trên 55%.
Trên cơ sở phân tích đã thấy được sự đóng góp của ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm GDP của tỉnh liên tục tăng. Ngoài ra Bình Thuận được ưu ái về tiềm năng du lịch nên trong thời gian tới cần khai thác tốt hơn nữa thế mạnh này, nâng cao giá trị của du lịch. Cùng với nông nghiệp, công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển nhanh chóng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế. Qua đó ta thấy sự phát triển thương mại - dịch vụ và cơ cấu ngành trong cơ cấu GDP của tỉnh đã thể hiện rõ mức tăng trưởng khá và việc chuyển dịch nền kinh tế của tỉnh theo hướng phát huy và sử dụng tốt khả năng theo hướng tích cực của các thành phần kinh tế trong phát triển kinh tế nói chung và phát triển thương mại dịch vụ nói riêng.
2. Kết luận chung về thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2001 – 2005 :
2.1. Những thành tựu :
Qua việc phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận thời gian qua, trên cơ sở so sánh giữa mục tiêu và kết quả đã đạt được của các chỉ tiêu. Đề tài rút ra một số nhận xét về kết quả đạt được như sau:
Một là, thông qua các chính sách phát triển như cho phép tự do hoá lưu thông, chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế, các luật khuyến khích đầu tư trong nước và ngoài nước được ban hành và có sự đổi mới ngày càng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, các chính sách tài chính, tín dụng ưu đãi cho đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng... đã thu hút được đông đảo mọi thành phần kinh tế trong cũng như ngoài tỉnh tham gia phát triển kinh tế. Nó thực sự là những động lực và hành lang pháp lý hữu hiệu bền vững cho sự tăng trưởng và phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thời kỳ 2000 - 2004, cơ cấu kinh tế có sự tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng năm 2000 đạt 9,98%, năm 2004 đạt 13,07% và ước tính tốc độ tăng trưởng bình quân năm thời kỳ 2000 – 2005 đạt 12,05%. Do vậy tạo được tiền đề cho bước phát triển nhanh hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Hai là, đã huy động được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển , đặc biệt là năm 2004 đạt 2.486 tỷ đồng, cao gấp 3,33 lần năm 2000, bình quân thời kỳ 2000 -2004 mỗi năm huy động được 1.500 – 1.800 tỷ đồng cho đầu tư phát triển. Vốn đầu tư tăng nhanh, đặc biệt ưu tiên dành cho lĩnh vực phát triển mạng lưới giao thông, thuỷ lợi, thông tin liên lạc, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Trong thời kỳ này đặc biệt đã thu hút được một khối lượng vốn đầu tư lớn trong dân cư, phục vụ cho đầu tư phát triển, từ 156 tỷ đồng năm 2000 tăng lên 440 tỷ đồng năm 2004. Bên cạnh đó không thể không nói tới vai trò của vốn đầu tư nước ngoài, giá trị sản xuất của khu vực này luôn chiếm tỷ trọng cao, những mặt hàng xuất khẩu đã khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Sự xuất hiện của vốn đầu tư nước ngoài đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho Bình Thuận. Sự đóng góp từ khu vực này là rất to lớn, và sẽ là nhân tố để thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh trong thời gian tới.
Ba là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP toàn tỉnh. Tỷ trọng công nghiệp tăng lên đáng kể và trong thời gian tới vẫn sẽ là ưu tiên phát triển của tỉnh, từ 22,61% năm 2000 tăng lên 27,78% năm 2004. Cơ cấu ngành công nghiệp chủ yếu là công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 93% chủ yếu tập trung vào một số sản phẩm chủ lực như chế biến hải sản, nông sản, nước khoáng, muối, nước đá… Giá trị sản xuất của công nghiệp liên tục tăng, ước tính tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000 – 2005 đạt 17%… Bước đầu đã hình thành một số khu công nghiệp tập trung, tạo điều kiện phát triển một số ngành nghề, giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh.
Tỷ trọng nông nghiệp tuy giảm nhưng trong cơ cấu ngành nông nghiệp đã tăng dần giá trị sản xuất của chăn nuôi, trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản. Sản lượng lương thực của tỉnh tăng nhanh, từ 393.000 tấn năm 2000 tăng lên 428.400 tấn năm 2004, sản lượng lúa năm 2000 là 321.400 tấn và đến năm 2004 là 338.400 tấn. Sản xuất lâm nghiệp đạt được kết quả, nhất là trong công tác trồng rừng. Diện tích trồng rừng tập trung đạt 27.500 ha, bình quân mỗi năm trồng 5.200 ha rừng. Cùng với giao khoán bảo vệ rừng, gắn kinh tế rừng với kinh tế xã hội miền núi như định canh, định cư, cho vay vốn, hỗ trợ vật tư kỹ thuật cho đồng bào phát triển sản xuất đã góp phần hạn chế việc phá rừng làm rẫy, khai thác lâm sản trái phép, đời sống đồng bào dân tộc được nâng lên. Thủy sản được xác định là ngành kinh tế quan trọng của Tỉnh, cơ sở hạ tầng nghề cá được chú ý đầu tư xây dựng, cùng với chính sách khuyến khích về thuế, hỗ trợ vốn tín dụng đầu tư đánh bắt xa bờ của Chính Phủ là động lực thúc đẩy phát triển năng lực khai thác hải sản của tỉnh, sản lượng khai thác tăng nhanh.
Trong cơ cấu dịch vụ cũng có nhiều biến chuyển, các hoạt động dịch vụ như bưu điện, tài chính ngân hàng ngày càng tăng, trình độ trang thiết bị cơ sở vật chất khu vực dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, vận tải... được tăng cường một bước. Hoạt động thương mại đã có những bước phát triển đáng kể, hàng hoá lưu thông ngày càng thuận lợi cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng dân cư cũng như yêu cầu PTSX của các ngành kinh tế. Ngành du lịch của vùng hiện nay đang chiếm dần ưu thế, bên cạnh lượng khách trong nước, tỉnh đang ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch nước ngoài. Doanh thu của hoạt động du lịch liên tục tăng qua các năm, đóng góp lớn vào giá trị sản xuất của ngành dịch vụ.
Bốn là, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận đã tạo điều kiện cho các vùng trong tỉnh phát triển kinh tế. Việc xây dựng Phan Thiết – Hàm Thuận Nam – Hàm Tân – Phú Quý thành vùng kinh tế động lực đã tạo điều kiện thúc đẩy các vùng khác trong tỉnh phát triển theo, mở ra hướng phát triển mới cho các ngành như : công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, hải sản... Bước đầu đã hình thành và phát triển các ngành kinh tế chủ lực, tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời có tác dụng thúc đẩy kinh tế chung của tỉnh. ở một số vùng đã phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, xây dựng các vùng kinh tế hàng hoá chuyên canh kết hợp sản xuất tổng hợp. Vùng miền núi, vùng sâu, vùng cao đã ổn định được đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số, hoàn thành cơ bản định canh định cư, chấm dứt đói giáp hạt, từng bước đi vầo sản xuất hàng hoá, nâng cao mức sống.
Năm là, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận là quá trình cải biến toàn diện trên mọi mặt của nền kinh tế xã hội, các quan niệm trong quan hệ kinh tế có sự thay đổi căn bản, những phong tục tập quán bảo thủ, lạc hậu trong sản xuất đời sống từng bước được xoá bỏ. Quá trình đó cũng chính là quá trình nâng cao tính tự chủ, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm với sản xuất kinh doanh, từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn lực trong tỉnh đã vươn lên đón lấy cơ hội từ bên ngoài để phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh tích cực tham gia đầu tư nắm bắt các thông tin kinh tế, các xu hướng biến đổi của thị trường... phục vụ cho chính mình.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian qua cũng đã bộc lộ những yếu kém của nó. Vì vậy để xác định những yếu kém, tồn tại và từ đó xác định các nguyên nhân cản trở nhằm đề ra các giải pháp cho sự phát triển tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tiếp theo, chúng ta sẻ xem xét tiếp mục : Những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận.
2.2. Hạn chế :
Ngoài những tiến bộ và kết quả đạt được, theo bài viết, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận trong những năm qua còn tồn tại một số yếu kém sau đây:
Một là, khối lượng vốn đầu tư huy động chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của tỉnh. Thời gian vừa qua tỉnh đã chú trọng đầu tư hoàn thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội : giao thông, điện, cấp thoát nước… nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hai là, nguồn lao động tại chỗ chư a đáp ứng được yêu cầu phát triển. Bình Thuận có giá thuê lao động rẻ và đó cũng là lý do khiến nhiều nhà đầu tư chú ý. Nhưng vấn đề quan trọng là nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn lao động ở Bình Thuận đa số là lao động nông nghiệp, trình độ thấp. Trong khi đó, nhu cầu của các nhà đầu tư là tìm các lao động có trình độ, có khả năng thích nghi với các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Do đó, số lượng lao động trong nông nghiệp vẫn thừa, lao động có tay nghề và chất lượng tốt thì vẫn thiếu. Tỷ lệ số lao động được đào tạo năm 2000 là 7,78% và năm 2004 là 13,2%, tuy có sự chuyển biến nhưng so với yêu cầu đặt ra còn quá thấp. Tình trạng này sẽ ảnh hưởng tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ba là, năng lực triển khai các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ còn nhiều hạn chế; nguồn lực đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật còn thấp, dàn mỏng hiệu quả chưa cao. Trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vai trò tác động của khoa học công nghệ là rất to lớn. Trong sản xuất nông lâm nghiệp, tác động của khoa học công nghệ chỉ mới tập trung vào lĩnh vực sản xuất lương thực. Việc nâng cao chất lượng các giống cây công nghiệp ngắn và dài ngày, cây thực phẩm, cây ăn quả trên các vùng sinh thái; đàn bò, đàn heo và gia cầm chưa được chú ý đúng mức.
Bốn là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp còn khá lớn, chiếm 34,19% trong cơ cấu GDP năm 2004. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng tăng chậm, đến năm 2004 chiếm 27,78%. Với tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP hiện nay để Bình Thuận trở thành một tỉnh có nền công nghiệp phát triển cần phải có kế hoạch thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Nông lâm nghiệp : chất lượng các giống cây trồng, vật nuôi chưa được quan tâm đúng mức nên tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp vẫn chưa cao. Vẫn chưa giải quyết được mâu thuẩn giữa chăn nuôi và đồng cỏ bị thu hẹp, thiếu các dịch vụ và những biện pháp đồng bộ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Công tác khuyến ngư làm chậm hơn so với các tỉnh Duyên Hải Trung Bộ, các tiến bộ kỹ thuật về khai thác chưa làm được nhiều; tỷ lệ tàu thuyền công suất nhỏ đánh bắt ven bờ còn lớn làm suy giảm nguồn lợi, chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền còn khó khăn do hạn chế về cảng cá, luồng trạch.
Công nghiệp : Công nghiệp chế biến tuy có phát triển nhưng so với tiềm năng nguồn nguyên liệu tại chỗ vẫn còn ở mức quá nhỏ, thiết bị công nghệ đa phần còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa cao, tính cạnh tranh yếu. sản xuất công nghiệp còn quá thấp, sử dụng tài nguyên chưa hợp lý : phần lớn là sản phẩm sơ chế giá trị chưa cao; sản phẩm tinh chế với hàm lượng kỹ thuật cao chưa nhiều, ít phát triển các ngành nghề mới. Ngành thủ công mỹ nghệ sau khi mất thị trường truyền thống chậm được khôi phục.
Dịch vụ : Những mặt hoạt động của thương mại và thị trường còn hạn chế, mạng lưới hoạt động chưa đều, ở vùng núi, nông thôn, vùng sâu vùng xa nhiều khi còn bị bỏ trống, hiện tượng buôn gian bán lận, hàng giả còn nhiều. Hoạt động thương mại chưa gắn với sản xuất, chưa làm được vai trò mở đường, hướng dẫn và kích thích sản xuất. Trong xuất khẩu, kim ngạch và mặt hàng xuất khẩu không vững chắc, thị trường bó hẹp không có thêm hàng mới. Đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh và chế biến vật liệu xây dựng chưa được chú ý đúng mức.
Năm là, quy hoạch kiến trúc đô thị chưa hoàn chỉnh và chắp vá, trình tự xây dựng các công trình đô thị, cấp thoát nước, vỉa hè, lòng đường, chưa đồng bộ, mâu thuẩn nhau, gây lãng phí. Tốc độ đô thị hoá chậm trong khi chênh lệch giữa thành thị và nông thôn tăng ( Chênh lệch gay gắt về thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn).
Sáu là, một yếu kém bao trùm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận là thiếu một chiến lược và chính sách ổn định lâu dài. Chưa có chiến lược và quy hoạch có luận cứ khoa học và có tính khả thi. Sự thiếu vắng chiến lược và chính sách nhất quán trước hết làm cho quy hoạch phát triển của các ngành, các vùng thiếu đi một cơ sở vững chắc. Việc chưa định hình rõ các ngành, các sản phẩm mũi nhọn then chốt phần nào có nguyên nhân từ sự thiếu vắng chiến lược và chính sách cơ cấu từ đó dẫn đến chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm yếu. Do vậy khả năng tăng trưởng kém và hậu quả tất yếu là cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch và kém hiệu quả.
Bảy là, Một đặc điểm và đồng thời cũng là một yếu kém trong thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Bình Thuận thời gian qua là điểm xuất phát thấp, thực chất còn ở giai đoạn sơ khai của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song tư tưởng nóng vội muốn sử dụng lợi thế của tỉnh đi sau, tỉnh công nghiệp hoá muộn để đốt cháy giai đoạn đã làm cho bức tranh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận có phần hỗn tạp pha trộn, thể hiện chưa rõ.
Tóm lại, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận thời gian qua tuy đã đạt được các thành tựu, góp phần tạo đà tăng trưởng kinh tế nhanh và tương đối ổn định. Song cũng phát sinh thêm nhiều vấn đề cần tiếp tục được tháo gỡ, nhất là trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy, cần xác định rõ nguyên nhân của những tồn tại trên trong quản lý là điều cần thiết để có những quyết định đúng đắn trong giai đoạn tiếp theo.
2.3. Nguyên nhân :
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài... Song có thể tập trung lại mốt số nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là: Xuất phát từ đặc điểm, điều kiện tự nhiên của Bình Thuận. Bình Thuận là một tỉnh Duyên Hải, nằm trong vùng kinh tế Đông Nam Bộ và địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam đang diễn ra sự phát triển năng động với tốc độ cao nhưng xuất phát điểm còn thấp so với mức bình quân chung của cả nước và khu vực, hiệu quả của nền kinh tế chưa cao, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, tiềm năng và lợi thế chưa được khai thác tốt. Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa được đầu tư, còn nhiều yếu kém, cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ lạc hậu nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Chất lượng lao động thấp, công nghiệp dịch vụ chưa phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Là một tỉnh mới tách ra từ tỉnh Thuận Hảo cũ nhưng trong bố trí, cân đối vốn ngân sách, đặc biệt là vốn đầu tư của Trung ương hàng năm vẫn không có gì hơn các tỉnh khác, thu ngân sách hàng năm không đủ để đầu tư phát triển ... Đây là một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận.
Hai là: Cơ cấu ngành chưa có sự kết hợp chặt chẽ theo mục tiêu thống nhất với cơ cấu theo thành phần, cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu công nghệ. Do vậy, về mặt chủ trương phát triển kinh tế đã có sự định hương khá rõ nhưng chủ trương đó không được thực hiện nghiêm túc và tính tự phát trong phát triển kinh tế còn nặng nề.
Ba là: Trình độ khoa học công nghệ kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý công nghiệp chậm được đổi mới, cơ chế cũ chưa được xoá đi hoàn toàn, đội ngũ cán bộ quản lý chưa thích ứng được với thị trường, tạo ra sức cản lớn đối với quá trình chuyển dịch, đổi mới. Bên cạnh đó, sức ép về giải quyết việc làm và thực hiện chính sách xã hội cũng không cho phép chuyển dịch mạnh mẽ sang các ngành kỹ thuật cao.
Bốn là: Thị trường tiêu thụ hàng hoá trên địa bàn chưa phát triển và không ổn định, nhất là thị trường tiêu thụ hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận.
Năm là: Vốn đầu tư cho sản xuất còn rất hạn chế, vốn đầu tư do tích luỹ được trong nền kinh tế của tỉnh còn rất thấp, trong khi đó lại không dám mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư mà chỉ chú trọng trông chờ vào vốn đầu tư của nhà nước. Một bộ phận doanh nghiệp và tư nhân có vốn nhưng lại không đầu tư vào sản xuất mà chỉ để mua sắm trang bị các tiện nghi đắt tiền cho tiêu dùng xa hoa lãng phí đã làm kìm hãm tiến trình đổi mới và hạn chế quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sáu là: Tư tưởng bảo thủ trì trệ, thiếu hiểu biết về thị trường và cơ chế thị trường hạn chế, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình đổi mới.
Bảy là: Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong những năm qua mặc dù đã được trú trọng đầu tư, song so với các tỉnh và thành phố trong cả nước thì Bình Thuận còn quá thấp kém, vừa thiếu lại vừa không đồng bộ.
Tám là: Các nhân tố khác như tình hình thiên tai, lũ lụt, hạn hán các biến động của tình hình kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước bị hàng giả, hàng ngoại nhập tràn lan... cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Bình Thuận.
Chương 3
định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh bình thuận thời kì 2006 - 2010.
I. Quan điểm và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2001 – 2010 :
1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2006 – 2010 :
* Ưu tiên phát triển theo hướng trọng tâm, trọng điểm : Để đạt được những mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, những định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng trọng tâm, trọng điểm Bình Thuận cần phải tập trung vào các hướng phát triển như sau :
+ Không ngừng phát triển nông nghiệp theo hướng ngày càng hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, hạ tầng giao thông nông thôn và tích cực chuyển đổi cây trồng vật nuôi nhằm bảo đảm an toàn lương thực và tạo ra các nông sản cho xuất khẩu, nguyên liêu phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến mà trước hết là công nghiệp chế biến nông hải sản.
+ Từng bước phát triển công nghiệp nhằm tạo cơ sở chính cho sự tăng trưởng cao và thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác như : Nông-Lâm-Ngư nghiệp, dịch vụ phục vụ công nghiệp…Tuy nhiên nguồn lực cho phát triển công nghiệp là lớn, trong khi đó nội lực của tỉnh còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải có những biện pháp hợp lý để thu hút nguồn vốn bên ngoài đồng thời kết hợp với việc thu hút vốn nhàn rỗi hiện có trong dân.
+ Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng, tập trung chủ yếu vào mạng lưới giao thông và mạng lưới điện. Đối với mạng lưới giao thông phải chú ý tới đường giao thông nông thôn, các đường giao thông liên xã, liên huyện nhằm tạo nên một sự kết nối trong giao lưu hàng hoá và hành khách giữa các xã, các huyện với nhau, từ đó phát huy được nội lực hiện có của mỗi xã, huyện, khôi phục các làng nghề truyền thống để vừa giải quyết được công ăn việc làm cho người dân, vừa tăng thu nhập cho người lao động.
* Phát huy tối đa nội lực, tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài :
Tích cực và chủ động phát huy tối đa nội lực hiện có của tỉnh để thúc đẩy hơn nữa quá trình phát triển kinh tế trong tương lai, Bình Thuận phải bám sát đường lối chủ trương của Đảng, khai thác triệt để nội lực là chính, không ỷ lại Trung Ương, tự lực vươn lên, đồng thời tận dụng tối đa những cơ hội từ bên ngoài để phát triển. Bên cạnh đó Bình Thuận phải có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút nguồn vốn đầu tư từ dân, các doanh nghiệp, các tổ chức khác, song nguồn vốn này phải được sử dụng một cách có hiệu quả. Điều này buộc Bình Thuận phải xác định riêng cho mình một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý. Cơ cấu ngành phải phù hợp với điều kiện hiện tại của tỉnh cũng như xu hướng phát triển chung của đất nước, khu vực và thế giới. Chỉ có vậy Bình Thuận mới có cơ hội phát huy tốt nội lực hiện có và thu hút vốn đầu tư của Trung Ương, vốn đầu tư thông qua các chương trình, các dự án của nước ngoài thông qua các hình thức liên doanh, liên kết. Tuy nhiên, dể phát huy các nguồn lực này thì cần phải có các nguồn vốn đối ứng và phải tính đến khả năng trả nợ sau này.
Một đất nước, một thành phố lớn hay một tỉnh nhỏ bé không thể phát triển mạnh nếu như không có nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Bình Thuận xuất phát từ một tỉnh nghèo và lạc hậu, nguồn vốn đầu tư từ nội lực nền kinh tế không đáp ứng dủ nhu cầu đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh, khoa học, công nghệ cũng như trình độ quản lý chưa cao, vì vậy trong thời kì phát triển kinh tế như hiện nay, Bình Thuận vừa phải phát huy chính nội lực của mình vừa phải tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Nguồn lực này bao gồm vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý cũng như các kinh nghiệm khác.
* Đảm bảo hiệu quả - bền vững :
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là lựa chộn sự phát triển nhanh, hiệu quả nhưng phải bảo đảm tính bền vững. Bình Thuận hiện đang ở điểm xuất phát rất thấp, để giảm bớt khoảng cách chênh lệch với các tỉnh thành phố khác trong cả nước, không còn con đường nào khác là Bình Thuận phải ưu tiên cho tăng trưởng cao, nhưng đồng thời không thể bỏ qua yêu tố bền vững, bởi nó không chỉ là lợi ích trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài nhất là ở các khu đô thị, các khu công nghiệp và các khu đầu nguồn nước. Bền vững ở đây không chỉ đề cập tới khả năng ô nhiễm môi trường mà còn là các vấn đề khác như nguồn lao động lâu dài, dân số và kế hoạch hoá gia đình. Hai vấn đề trên coi như mâu thuẫn với nhau nhưng vẫn có thể thực hiện được nếu lựa chọn hiệu quả kinh tế được tính đến trong mỗi bước đi.
* Tận dụng tối đa lợi thế so sánh :
Bình Thuận nằm trong địa bàn trọng điểm Nam Bộ, gần thành phố Hồ Chí Minh – Có sức hút lớn về kinh tế. Vị trí này có ảnh hưởng đến Bình Thuận trong quá trình phân bố lại sản xuất và phân công lao động ; Đã và sẽ hội nhập vào thị trường khu vực thông qua các dòng trao đổi như : Tiếp thu nhanh văn hoá, khoa học kỹ thuật, được hỗ trợ về hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp. Đồng thời Bình Thuận có thể cung cấp cho địa bàn trọng điểm Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh các mặt hàng nguyên liệu nông lâm sản, các mặt hàng hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu rừng và biển.
Biển Bình Thuận giàu nguồn lợi, nguồn nguyên liệu nông nghiệp và lâm nghiệp phong phú, thế mạnh về khoáng sản kim loại và sa khoáng ven biển. Đây là lợi thế cho phát triển công nghiệp chế biến hải sản, chế biến thực phẩm và công nghiệp khai khoáng, sớm tạo ra khối lượng sản phẩm xuất khẩu lớn.
Đã hình thành hệ thống đô thị, bao gồm thành phố Phan Thiết và các thị trấn, huyện, các cụm công nghiệp và khai thác chế biến hải sản ở Phan Thiết, Hàm Tân, Tuy Phong…cư dân có kinh nghiệm tay nghề khai thác và chế biến hải sản, công nghiệp và dịch vụ hướng biển.
Phải tận dụng một cách tối đa lợi thế của mình so với các tỉnh khác, chỉ có như vậy mới tạo nên sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trong tỉnh với các tỉnh khác, đồng thời điều này cũng tạo nên một nền kinh tế linh hoạt, mềm dẻo và thích nghi nhanh với những điều kiện môi trường thay đổi, tạo điều kiện cho Bình Thuận bắt nhịp với sự phát triển chung của cả nước, từng bước xây dựng Bình Thuận vững mạnh, giàu đẹp.
2. Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận thời kì 2006-2010 :
2.1. Mục tiêu tổng quát thời kì 2006-2010 :
Tập trung phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, hiệu quả cao hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục cơ bản các yếu tố thiếu vững chắc, cải biến rõ nét cơ cấu kinh tế lạc hậu, sớm hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế Công nghiệp – Dịch vụ – Nông Lâm Ngư nghiệp.
Xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển và tương đối đồng bộ ; quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế đảm bảo tích luỹ từ nội bộ của nền kinh tế cơ bản đáp ứng được yêu cầu đầu tư phát triển.
Nâng cao đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thu nhập bình quân đầu người tăng 6-7 lần so với năm 1995, xoá bỏ tình trạng nghèo khó, xây dựng xã hội công bằng văn minh, quốc phòng an ninh vững chắc.
2.1. Các mục tiêu chủ yếu :
Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế cao hơn mức bình quân cả nước, để rút ngắn khoảng cách và từng bước hội nhập vào nền kinh tế của đất nước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 15% – 16,3% ở giai đoạn 2006 – 2010.
Thực hiện nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, giai đoạn 2001 – 2005 hình thành cơ bản cơ cấu kinh tế : Công nghiệp – Dịch vụ - Nông Ngư Lâm nghiệp. Phấn đấu đạt tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân 19%-20% thời kỳ 2001 – 2005 và 22%-23% thời kì 2006-2010.
Kim ngạch xuất khẩu 200-220 triệu USD vào năm 2010.
Thực hiện các biện pháp giảm sinh, khống chế tốc độ phát triển dân số bình quân 1,75% vào năm 2005 và phấn đấu đạt mức sinh thay thế trước năm 2010 để đạt được GDP bình quân đầu người 600-660 USD vào năm 2005 và 1.100-1.300 USD vào năm 2010. Bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 2 vạn lao động.
Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở năm 2005, tiến tới phổ cập giáo dục phổ thông trung học cho thanh niên ở đô thị. Tích cực đào tạo lực lượng công nhân lành nghề, tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo kể cả dạy nghề ngắn hạn đạt tỷ lệ 40%-45% vào năm 2010. Đào tạo và đào tạo lại để chuẩn hoá đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học – kỹ thuật trước năm 2010 có ít nhất 5% lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật được đào tạo sau Đại học.
Đến năm 2010 xoá các khu nhà ổ chuột ở đô thị, 80% hộ nông thôn có nhà cửa khang trang. Thực hiện điện khí hoá toàn tỉnh vào năm 2005. Các thị trấn trung tâm huyện lỵ có hệ thống nước máy, có trung tâm sinh hoạt văn hoá - thể thao, vui chơi giải trí.
Phục hồi và tái tạo môi trường tự nhiên nhanh chóng, giải quyết cơ bản các vấn đề xử lý chất thải, nước thải các vùng đô thị và các xí nghiệp công nghiệp, quy hoạch sắp xếp các xí nghiệp công nghiệp gây ô nhiễm môi trường thành khu riêng biệt xa khu dân cư và khu du lịch.
II. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2006-2010 :
1. Phương hướng chung :
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm khơi dậy mọi nguồn lực giành cho được sự thắng lợi đạt mức bằng hoặc cao hơn mức bình quân của cả nước trong một số chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội. Tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng nguồn đầu tư, phát triển sản xuất và xây dựng, tiếp tục xây dựng và mở rộng hơn, chất lượng hơn cơ sở hạ tầng mà trước hết là giao thông, thuỷ lợi, điện, bưu điện và đô thị…
Tận dụng mọi lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, các nguồn lực kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16556.DOC