Đề tài Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở một số tỉnh phía bắc và phía nam

Tài liệu Đề tài Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở một số tỉnh phía bắc và phía nam: VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG TRUNG TÂM TƯ VẤN QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO ************* ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG CỦA DOANH NGHIỆP KHU VỰC TƯ NHÂN Ở MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC VÀ PHÍA NAM Nhóm nghiên cứu: Chủ nhiệm đề tài: ThS. Tạ Minh Thảo Thành viên: 1. PGS. TS. Nguyễn Đình Tài 2 . ThS. Vũ Lan Anh 3. Nguyễn Văn Hưởng 4. Nguyễn Anh Dũng 5. Nguyễn Nam Hải 6. Thái Hồng Thu 7. TS. Lê Mạnh Hùng 8. Bùi Đức Chiến Hà Nội 2006 MỤC LỤC 2 Danh sách các bảng và hình vẽ Bảng Bảng 1: Những khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp thường phải đối phó qua các giai đoạn Bảng 2: Cơ cấu đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế, 1995-2004 (%) Bảng 3: Tỷ lệ % tổng vốn đăng ký của các DN thuộc khu vực tư nhân/ GDP của địa phương sau khi có Luật Doanh nghiệp (1999) Bảng 4: Số vốn đăng ký kinh doanh bình quân của 1 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân theo địa phương qua các năm Bảng 5: Kết quả phương trình hồi quy Bảng 6: Nhân tố bên ...

pdf90 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở một số tỉnh phía bắc và phía nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG TRUNG TÂM TƯ VẤN QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO ************* ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG CỦA DOANH NGHIỆP KHU VỰC TƯ NHÂN Ở MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC VÀ PHÍA NAM Nhóm nghiên cứu: Chủ nhiệm đề tài: ThS. Tạ Minh Thảo Thành viên: 1. PGS. TS. Nguyễn Đình Tài 2 . ThS. Vũ Lan Anh 3. Nguyễn Văn Hưởng 4. Nguyễn Anh Dũng 5. Nguyễn Nam Hải 6. Thái Hồng Thu 7. TS. Lê Mạnh Hùng 8. Bùi Đức Chiến Hà Nội 2006 MỤC LỤC 2 Danh sách các bảng và hình vẽ Bảng Bảng 1: Những khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp thường phải đối phó qua các giai đoạn Bảng 2: Cơ cấu đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế, 1995-2004 (%) Bảng 3: Tỷ lệ % tổng vốn đăng ký của các DN thuộc khu vực tư nhân/ GDP của địa phương sau khi có Luật Doanh nghiệp (1999) Bảng 4: Số vốn đăng ký kinh doanh bình quân của 1 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân theo địa phương qua các năm Bảng 5: Kết quả phương trình hồi quy Bảng 6: Nhân tố bên trong tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở 4 tỉnh/thành phố Bảng 7: Nhân tố bên ngoài tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở 4 tỉnh/thành phố Hình Hình 1: Một số nhân tố qua các giai đoạn của vòng đời doanh nghiệp Hình 2: Số lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân được thành lập mới (1991-2005) Hình 3: Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh qua các năm của bốn tỉnh/thành phố Hình 4: Số vốn đăng ký của doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân qua các năm của bốn tỉnh/thành phố Hình 5: Giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở bốn tỉnh nghiên cứu (Triệu đồng) Hình 6: Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở bốn tỉnh nghiên cứu (%) 3 LỜI GIỚI THIỆU Sau hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế. Tuy nền kinh tế vẫn ở giai đoạn đầu của một nền kinh tế thị trường, nhưng khu vực tư nhân đã phát triển khá mạnh với hơn 200.000 doanh nghiệp và khoảng 2,7 triệu hộ kinh doanh. Đầu tư của khu vực tư nhân đạt khoảng 200 ngàn tỷ đồng (khoảng 13 tỷ USD) (QLKT, 2005)1, tạo ra gần 10 triệu việc làm chiếm 27% lực lượng lao động của cả nước. Song, những thành công ban đầu sẽ khó có thể duy trì nếu chính sách cải cách không tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy khu vực kinh tế tư nhân vẫn phải đối mặt với nhiều cản trở trong kinh doanh như: khó khăn khi vay vốn, khó tiếp cận thị trường, khó tiếp cận công nghệ và thông tin và rủi ro xuất phát từ chính sách của nhà nước. Những khó khăn này là do sự yếu kém của cơ sở hạ tầng, yếu kém trong quản lý hành chính và thiếu một khung khổ pháp lý hiệu quả, đồng bộ để bảo vệ và khuyến khích doanh nghiệp tăng trưởng. Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu đưa ra kiến nghị ở tầm quốc gia để cải thiện môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thừa nhận rằng, tuy cùng ở trong một môi trường kinh doanh nhưng sự tăng trưởng của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác nhau đáng kể giữa các tỉnh thành. Các doanh nghiệp ở phía nam kinh doanh thành công hơn các doanh nghiệp ở phía bắc (Nguyễn Đình Cung và các cộng sự, 2004). Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu hiện có chỉ dùng phương pháp định tính để nhận dạng và phân tích các nhân tố tác động đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mà chưa có kiểm nghiệm thực tế và tính toán định lượng. Vì vậy, Đề tài sẽ áp dụng phương pháp định lượng để chỉ ra nhân tố tác động và cách thức chúng tác động đến tăng trưởng của các 1 Báo cáo Kết quả thực hiện Luật Doanh nghiệp- Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW 4 doanh nghiệp. Hơn nữa, Đề tài cũng sẽ chỉ ra những nhân tố này tác động khác nhau như thế nào đến doanh nghiệp giữa các địa phương được lựa chọn nghiên cứu. Việc phân tích nhân tố nào nằm sau quá trình tăng trưởng của các doanh nghiệp, phát hiện những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và nhân tố kìm hãm tăng trưởng của các doanh nghiệp là cần thiết đối với Việt Nam. Hiện nay, Nhà nước ta đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích sự tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp nói chung và khu vực doanh nghiệp tư nhân nói riêng, một khu vực mà sự tăng trưởng vẫn chưa xứng với tiềm năng của nó. Các chính sách đưa ra sẽ có thể mang tính thuyết phục cao hơn nếu dựa trên những phân tích định lượng về các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp. Hiện nay, phần lớn các nghiên cứu về tăng trưởng doanh nghiệp đều xuất phát từ công trình nghiên cứu của Edith Penrose (1959) về lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp. Nghiên cứu của bà đưa ra hai vấn đề chính là nhận dạng các nguồn lực cho tăng trưởng và vai trò của năng lực quản lý đối với tăng trưởng. Dựa vào đó, các nhà kinh tế đã thêm vào các giả thiết và xây dựng mô hình hồi quy để kiểm nghiệm tác động của các nhân tố đối với tăng trưởng doanh nghiệp. Mô hình hồi qui cho phép áp dụng để quan sát các nhân tố tác động như thế nào đối với tăng trưởng của một tập hợp doanh nghiệp. Nhờ đó, người ta có thể quan sát các nhân tố tác động tới tăng trưởng của cả khu vực doanh nghiệp. Với mục đính nghiên cứu định lượng các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp, Đề tài sẽ sử dụng mô hình phân tích hồi quy để phân tích các nhân tố tác động dựa trên bộ số liệu điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam do bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Viện Nghiên cứu Lao động và Xã hội và Trường Kinh tế Stockholm thực hiện vào các năm 1997 và 2002. Đề tài sử dụng bộ số liệu điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam để phân tích và suy luận nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân dựa trên kết luận của 5 nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận là phần lớn các doanh nghiệp khu vực tư nhân là các doanh nghiệp vừa và nhỏ2. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp. Đề tài sẽ nghiên cứu tác động của những nhân tố này đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có đăng ký hoạt động (gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và không đăng ký hoạt động (hộ kinh doanh). Các doanh nghiệp này hoạt động trong các ngành nghề khác nhau. Vì có rất nhiều nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp có đặc điểm riêng, nên các nhân tố tác động tới từng doanh nghiệp có thể khác nhau. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học đã phân tích và chỉ ra có một số nhân tố quan trọng có tác động chung đến tăng trưởng của các doanh nghiệp. Do đó, Đề tài sẽ chỉ tập trung nghiên cứu nhóm nhân tố này. Về phạm vi nghiên cứu, Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hai nhóm nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp: (i) Nhân tố bên trong là các nhân tố mà nhà quản lý có thể tác động được (ii) Nhân tố bên ngoài là các nhân tố mà nhà quản lý không thể hoặc khó có thể tác động được. Do hạn chế về mặt số liệu và thời gian nghiên cứu, Đề tài sẽ chỉ phân tích dựa trên bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của năm 1997 và 2002 và cho bốn tỉnh ở miền Bắc và miền Nam gồm: Hà Nội, Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An. Về phương pháp nghiên cứu, Đề tài sẽ sử dụng mô hình hồi quy do Geroski (1959) phát triển. Theo đó, các nhân tố bên trong và bên ngoài được coi là các biến độc lập của phương trình hồi quy. Để thực hiện những mục tiêu nghiên cứu ở trên, Đề tài “Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở một số tỉnh phía Bắc và phía Nam” được chia thành ba chương. Chương I nêu lên cơ sở lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp. Chương II nêu lên nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở Việt Nam và tập trung phân tích 2 Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy 96% doanh nghiệp khu vực tư nhân là doanh nghiệp vừa và nhỏ 6 nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở các tỉnh được lựa chọn nghiên cứu. Cuối cùng, Chương III đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy nhân tố tác động tích cực và giảm thiểu nhân tố tác động tiêu cực từ góc độ của nhà nước và doanh nghiệp. Thông qua nghiên cứu này, Đề tài mong muốn góp thêm một đánh giá mang tính định lượng về các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp khu vực tư nhân ở Việt Nam. Hy vọng rằng những kết luận và giải pháp của Đề tài sẽ hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và giới doanh nghiệp đề ra các giải pháp ở tầm vĩ mô và vi mô để thúc đẩy các nhân tố có tác động tích cực và giảm thiểu các nhân tố có tác động tiêu cực tới tăng trưởng của các doanh nghiệp khu vực tư nhân ở Việt Nam. 7 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG DOANH NGHIỆP 1.1. Lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp Nghiên cứu về doanh nghiệp nói chung và tăng trưởng doanh nghiệp nói riêng là một chủ đề được rất nhiều nhà kinh tế quan tâm. Phần lớn các nghiên cứu đều tập trung giải thích tại sao doanh nghiệp tồn tại và tăng trưởng, nhân tố chủ yếu tác động tới tăng trưởng là gì và tác động như thế nào. Do mục đích cơ bản của doanh nghiệp là gia tăng lợi nhuận, nên, về cơ bản, “tăng trưởng doanh nghiệp” được các nhà nghiên cứu hiểu là sự gia tăng hàng năm về thu nhập của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, họ nghiên cứu và xác định các nhân tố có tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số học thuyết/lý thuyết về doanh nghiệp và tăng trưởng doanh nghiệp dựa trên cơ sở nghiên cứu định tính và định lượng. Nghiên cứu cơ bản nhất phải kể đến là lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp của Penrose cho rằng các nhân tố tác động tới tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp là năng lực quản lý và khả năng phối hợp các nguồn lực của doanh nghiệp trong sản xuất. Ngoài ra, lý thuyết về giá cả tân cổ điển truyền thống cho rằng động lực của doanh nghiệp nằm ở tính linh hoạt của doanh nghiệp và khả năng thích nghi. Lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp lại chỉ ra chi phí giao dịch, năng lực điều hành, chiến lược quản lý là những nhân tố tác động trực tiếp tới tăng trưởng doanh nghiệp. Lý thuyết tăng trưởng theo giai đoạn nghiên cứu sự phát triển từng bước của doanh nghiệp kể từ khi mới thành lập đến khi doanh nghiệp suy thoái. Tuy nghiên cứu về tăng trưởng doanh nghiệp rất đa dạng, nhưng nói chung có ba lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và dựa trên đó làm nền tảng cho nghiên cứu của mình (Geroski, 1999). Đó là lý thuyết tăng trưởng của Penrose, lý thuyết về quy mô doanh nghiệp tối ưu và lý thuyết tăng trưởng theo giai đoạn. 8 1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp của Penrose Lý thuyết tăng trưởng của Penrose đề cập tới hai vấn đề. Đó là lý thuyết về thúc đẩy nguồn lực (“resources push” theory) và “những giới hạn về quản lý đối với tăng trưởng doanh nghiệp” (“managerial limits to growth”). Tác giả rất quan tâm đến việc phân tích các nguồn lực cho tăng trưởng và nhân tố cản trở sự tăng trưởng doanh nghiệp. Theo bà, tăng trưởng doanh nghiệp đồng nghĩa với việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực và năng lực quản lý có tác động quan trọng tới tăng trưởng. Penrose đã thể hiện rõ mục đích nghiên cứu của mình qua bài báo được đăng năm 1955 trên American Economic Review “Tôi tập trung nghiên cứu nguyên nhân và giới hạn đối với tăng trưởng doanh nghiệp... Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là những nhân tố nào của thể chế kinh tế làm cho doanh nghiệp tăng trưởng, làm doanh nghiệp có thể tăng trưởng hoặc cản trở tăng trưởng” Theo Penrose, doanh nghiệp là một tổ chức sử dụng các nguồn lực theo một cách thức nào đó. Để giải thích sự tăng trưởng của doanh nghiệp, Penrose đã tập trung nghiên cứu quá trình sản xuất và cạnh tranh của nó. Qua nghiên cứu, bà đưa ra hai vấn đề, thứ nhất là nguồn lực và yếu tố dùng cho sản xuất; thứ hai là yếu tố dùng cho sản xuất và cơ hội sản xuất. Theo đó, bản thân các nguồn lực chưa thể là đầu vào cho quá trình sản xuất mà chỉ khi các nguồn lực đó được mỗi doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất theo những cách thức nhất định thì chúng mới trở thành nhân tố cho quá trình tăng trưởng doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực dựa trên kinh nghiệm, năng lực quản lý, trình độ của đội ngũ lao động và chiến lược của doanh nghiệp. Vì thế, kết quả có được do các nguồn lực mang lại là kết quả thực hiện cách thức sử dụng chúng, nghĩa là với các nguồn lực giống nhau nhưng do cách thức sử dụng khác nhau, mục đích sử dụng khác nhau và sự kết hợp khác nhau hay khối lượng nguồn lực khác nhau sẽ đem lại kết quả khác nhau (Kor và Mahoney, 2004). 9 Penrose nhấn mạnh năng lực quản lý có tác động lớn tới tăng trưởng doanh nghiệp. Năng lực quản lý xuất phát từ kiến thức, kinh nghiệm của đội ngũ quản lý. Đó là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên năng lực của đội ngũ quản lý đem lại tăng trưởng doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định. Penrose nhận định rằng một doanh nghiệp là một tổ chức, tổ chức này cần một ban quản lý có kiến thức sâu sắc về tình hình bên trong doanh nghiệp. Vậy giới hạn về năng lực quản lý tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp như thế nào? Do năng lực của ban quản lý có thể chỉ được phát triển trong một thời gian nào đó, trong khi doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề trong sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, tới một thời điểm nhất định, ban quản lý cũ không còn khả năng để quản lý tốt và điều này có ảnh hưởng tới tăng trưởng doanh nghiệp. Do đó, để tiếp tục tăng trưởng, doanh nghiệp cần bổ sung yếu tố mới cho đội ngũ quản lý. Đó là thuê thêm các nhà quản lý mới có năng lực. 1.1.2. Lý thuyết về quy mô doanh nghiệp tối ưu Về lý thuyết, hầu hết doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận với quy mô sản xuất ở điểm thấp nhất của đường chi phí trung bình (dạng chữ U) trong điều kiện cạnh tranh. Vì thế, trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có xu hướng chuyển từ quy mô doanh nghiệp ban đầu sang quy mô có điểm chi phí trung bình thấp nhất. Ở đây tăng trưởng doanh nghiệp được nghiên cứu là sự chuyển đổi quy mô doanh nghiệp sang quy mô tối ưu (quy mô với điểm chi phí trung bình là thấp nhất). Theo đó, tăng trưởng chỉ diễn ra đến khi doanh nghiệp đạt tới quy mô tối ưu và tăng trưởng tiếp tục diễn ra nếu quy mô tối ưu thay đổi. Lý thuyết này cho rằng những nhân tố tác động tới quy mô tối ưu của doanh nghiệp bao gồm chi phí sản xuất, mức độ cạnh tranh, năng lực quản lý, kỹ thuật công nghệ. Đây là những nhân tố chủ yếu tác động tới quy mô của doanh nghiệp và vì thế tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp. Một kết luận quan trọng của lý thuyết này là doanh nghiệp nhỏ tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp lớn cho đến khi đạt tới quy mô sản xuất hiệu quả. 10 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đối với doanh nghiệp có quyền lực thị trường thì quy mô tối ưu khác với vị trí thấp nhất của đường chi phí trung bình của doanh nghiệp. Trong trường hợp này sự giới hạn tăng trưởng doanh nghiệp được xác định bởi cầu đối với hàng hóa chứ không phải bởi sự tối ưu hóa nhờ chi phí. Doanh nghiệp loại này có đường cầu với độ dốc đi xuống đối với sản phẩm có tính đặc biệt của mình. Chính vì vậy, sự đa dạng hóa sản phẩm là một nhân tố tác động đến tăng trưởng của loại doanh nghiệp này. Một vài nhà kinh tế đã cố gắng chuyển lý thuyết về quy mô doanh nghiệp tối ưu được đề cập ở trên sang một mô hình đơn giản và có thể kiểm định trên thực tế (Geroski, 1999). Mô hình như sau: )()1()( * ttSStS iiii µβ +−+=∆ (1) Trong đó: )(tS i là quy mô thực của doanh nghiệp i tại thời điểm t *iS là quy mô ổn định trong dài hạn của doanh nghiệp i β là tốc độ doanh nghiệp i hội tụ tới *iS khi *ii SS ≠ )(tiµ là phân phối chuẩn độc lập và đồng nhất. Trước khi sử dụng phương trình (1), người ta phải xác định *S . Cách tiếp cận thông dụng nhất là: )()()(* ttXctS ii ηα ++= (2) Trong đó: )(tX là tập hợp nhân tố ngoại sinh có thể quan sát được tạo ra )(* tSi )(tiη là là phân phối chuẩn độc lập và đồng nhất. Thay phương trình (2) vào phương trình (1) ta có: )()1()()( ttStXctS iii νβα +−++=∆ (3) và ở đây )()()( ttt iii ηµν +=  Nếu 0=α , phương trình (2) chỉ ra *S là không đổi qua thời gian và giống nhau cho tất cả doanh nghiệp  Nếu 0≠α , thì *S phụ thuộc vào tập hợp biến ngoại sinh )(tX . 11 Những nhân tố tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp là các biến ngoại sinh có thể quan sát được trong thực tế và thông tin về chúng hoàn toàn có thể thu thập được. Chúng bao gồm:  Chi phí sản xuất  Mức độ cạnh tranh  Năng lực quản lý  Kỹ thuật công nghệ  Đa dạng hóa sản phẩm  Nguồn nhân lực  Số năm hoạt động của doanh nghiệp  Hình thức pháp lý (loại hình tổ chức doanh nghiệp)  Địa điểm hoạt động  Chính sách và khung khổ pháp lý  Và một số nhân tố khác. 1.1.3. Lý thuyết tăng trưởng theo giai đoạn Mặc dù lý thuyết này hiện nay không còn được sử dụng thông dụng nữa (Gerosky, 1999), nhưng trong nhiều năm, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chu kỳ sống của doanh nghiệp và giai đoạn tăng trưởng doanh nghiệp, xây dựng mô hình quá trình tăng trưởng hay tập trung phân biệt các thời kỳ mà doanh nghiệp tăng trưởng. Có nhiều nghiên cứu khác nhau dựa trên lý thuyết này. Nói chung các nghiên cứu đều cho rằng doanh nghiệp phải trải qua nhiều giai đoạn tăng trưởng (Churchill và Lewis, 1983). Số lượng các giai đoạn tăng trưởng rất đa dạng, chủ yếu là qua ba (Cooper, 1979), năm (Greiner, 1972) hay bảy (Flamholtz, 1986) giai đoạn. Cũng có nhà nghiên cứu xây dựng mô hình lên tới 10 giai đoạn tăng trưởng (Adizes, 1989). Thậm chí có nghiên cứu đưa ra tới 20 giai đoạn tăng trưởng (Kiriri, 2000). Trong số đó được nhắc đến nhiều nhất là nghiên cứu của Greiner năm 1972. Tác giả lý luận rằng doanh nghiệp tăng trưởng qua năm giai 12 đoạn: sáng tạo (“creativity”), sự điều khiển (“direction”), ủy quyền (“delegation”), điều phối (“coordination”) và hợp tác (“collaboration”). Các nhà nghiên cứu còn xem xét giai đoạn tăng trưởng thông qua việc phân tích các nhân tố. Một số nhân tố chủ yếu có thể dùng để xác định doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào của vòng đời gồm có:  Quy mô doanh nghiệp  Số năm hoạt động của doanh nghiệp (tuổi đời doanh nghiệp)  Tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp  Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp  Khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp phải đối phó Hình 1: Một số nhân tố qua các giai đoạn của vòng đời doanh nghiệp  Quy mô doanh nghiệp. Thông thường, quy mô doanh nghiệp được xác định bởi doanh số bán, tổng tài sản và/hoặc số lượng người lao động (Timmons, 1994). Thời gian đầu thành lập, doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức đơn giản, sản xuất sản phẩm đơn nhất, hoạt động trên địa bàn hẹp. Phải sau một thời gian, doanh nghiệp mới thích nghi để hoạt động trên địa bàn rộng, với cơ cấu chức năng phức tạp hơn, sản 13 Tiền thành lập Thành lập Tăng trưởng Tăng trưởng vững chắc Suy thoái/Phụ c hồi Quy mô doanh nghiệp Tuổi đời doanh nghiệp Tốc độ tăng trưởng xuất nhiều dòng sản phẩm khác nhau. Đó là thời kỳ doanh nghiệp bắt đầu tăng trưởng nhờ đó tăng quy mô doanh nghiệp. Barrie (1974) cho rằng doanh số và lợi nhuận là nhân tố cơ bản để xác định đường vòng đời vì các số liệu này là thực tế, có thể thu thập được, và có ý nghĩa phản ảnh tương lai của doanh nghiệp. Khi so sánh doanh số và lợi nhuận của doanh nghiệp qua thời gian và vẽ đồ thị xu hướng tăng trưởng của doanh nghiệp, người ta có thể nhận biết doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào của vòng đời.  Số năm hoạt động của doanh nghiệp (tuổi đời doanh nghiệp). Khi biết tuổi đời của doanh nghiệp người ta có thể một cách tương đối doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào của vòng đời (Timmons, 1994). Nhưng luận điểm này bị một số học giả phê phán. Số năm hoạt động của doanh nghiệp không thể cho biết giai đoạn trong vòng đời của doanh nghiệp, vì nếu một doanh nghiệp không có kế hoạch thành lập và hoạt động hiệu quả thì doanh nghiệp cần nhiều thời gian hơn để có thể đứng vững và tăng trưởng so với một doanh nghiệp có kế hoạch thành lập và hoạt động hiệu quả hơn. Chính vì thế, hai doanh nghiệp có thể thành lập cùng thời gian nhưng doanh nghiệp này tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp kia.  Tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng nói chung là khác nhau ở các giai đoạn tăng trưởng khác nhau (Hanks và các cộng sự, 1993). Một số nhà nghiên cứu đã tính toán tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp để xác định doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào của vòng đời.  Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Theo Chandler (1962), doanh nghiệp phát triển cơ cấu tổ chức để giải quyết khó khăn xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhìn từ khía cạnh cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, có một số hình thức cơ cấu tổ chức doanh nghiệp là chính thức hóa (formalization), tập trung hóa (centralization), phân cấp theo chiều dọc (vertical differentiation) và 14 số lượng các cấp doanh nghiệp (number of levels) (Hanks và các cộng sự, 1993). Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp và các vấn đề liên quan đến quản lý có ảnh hưởng lẫn nhau, điều này làm cho hình thức cơ cấu tổ chức có thể đại diện cho giai đoạn nào đó trong vòng đời của doanh nghiệp (Hanks và các cộng sự, 1993). Vì thế, giai đoạn trong vòng đời có thể xác định được dựa vào các biến liên quan tới cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.  Khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp phải đối phó. Trong thực tế, khi phân tích các khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp gặp phải, ta có thể xác định được các giai đoạn trong vòng đời của doanh nghiệp (Kazanjian, 1988). Những khó khăn này liên tiếp xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, trong mỗi giai đoạn, các khó khăn này có xu hướng xuất hiện nhiều hơn (Kazanjian và Drazin, 1990). Các học giả cho rằng nếu doanh nghiệp muốn chuyển sang giai đoạn khác trong vòng đời, thì doanh nghiệp cần phải giải quyết được các khó khăn đó. Theo lý thuyết, các doanh nghiệp ở giai đoạn giống nhau thường phải đối phó với một nhóm khó khăn giống nhau (Churchill và Lewis, 1983). Bảng 1: Những khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp thường phải đối phó qua các giai đoạn Giai đoạn trong vòng đời Năm khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp thường phải đối phó Tiền thành lập 1. Chiếm lĩnh thị phần 2. Hỗ trợ sản phẩm và dịch vụ khách hàng 3. Phát triển mạng lưới bán hàng và mạng lưới cung cấp 4. Kiểm soát chi phí 5. Xác định vai trò tổ chức/trách nhiệm/chính sách Thành lập 1. Xây dựng sản phẩm mạnh /có vị trí trên thị trường 2. Hỗ trợ sản phẩm và dịch vụ khách hàng 15 Giai đoạn trong vòng đời Năm khó khăn chủ yếu mà doanh nghiệp thường phải đối phó 3. Chiếm lĩnh thị phần 4. Kiểm soát chi phí 5. Gia tăng khối lượng sản phẩm nhờ gia tăng nhu cầu Tăng trưởng 1. Kiểm soát chi phí 2. Hỗ trợ sản phẩm và dịch vụ khách hàng 3. Gia tăng khối lượng sản phẩm nhờ gia tăng nhu cầu 4. Chiếm lĩnh thị phần 5. Thu hút nhân sự có năng lực Tăng trưởng vững chắc 1. Kiểm soát chi phí 2. Hỗ trợ sản phẩm và dịch vụ khách hàng 3. Chiếm lĩnh thị phần 4. Phát triển mạng lưới bán hàng và mạng lưới cung cấp 5. Gia tăng khối lượng sản phẩm nhờ gia tăng nhu cầu Suy thoái/Phục hồi 1. Hỗ trợ sản phẩm và dịch vụ khách hàng 2. Kiểm soát chi phí 3. Đáp ứng mục tiêu doanh số 4. Chiếm lĩnh thị phần 5. Phát triển sản phẩm mới Nguồn: Kiriri (2000) 1.2 Nhận dạng nhân tố chủ yếu tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp Qua các lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp, nhóm nghiên cứu nhận thấy tăng trưởng doanh nghiệp là quá trình điều chỉnh giữa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với môi trường của nó, theo đó, sự thay đổi các nhân tố bên ngoài (nhân tố mà nhà quản lý không hoặc khó có thể tác động) và sự thay đổi các nhân tố bên trong (nhân tố mà nhà quản lý có thể tác động) được kết hợp với nhau phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Vấn đề tiếp theo là phương pháp đo lường tăng trưởng của doanh nghiệp. Khi tổng kết các nghiên cứu đã có về tăng trưởng doanh nghiệp, 16 Hoy và Dsouza (1992) đã phát hiện ra sự đa dạng trong cách đo lường tăng trưởng của doanh nghiệp, như dựa vào sự gia tăng thị phần, gia tăng vốn đầu tư, gia tăng doanh thu, lợi nhuận, gia tăng số lượng khách hàng của doanh nghiệp hoặc là gia tăng về số lượng lao động. Sự gia tăng về số lượng lao động được nhiều nghiên cứu sử dụng vì số liệu dễ thu thập và phân loại, không cần tính đến tác động lạm phát mặc dù khó có thể xác định loại lao động làm theo mùa vụ. Một cách đo tăng trưởng thông dụng khác là thông qua đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp như doanh thu, tổng tài sản có, lợi nhuận nhưng cách đo này lại gặp khó khăn về tính xác thực của số liệu, bởi vì số liệu này khá nhạy cảm. Ngoài ra, trình tự và phương pháp hạch toán ở các doanh nghiệp là khác nhau (ví dụ sự khác nhau trong cách tính giá trị khấu hao và giá trị tài sản vô hình). Một cách nữa để đo tăng trưởng là đo thị phần doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương pháp này lại gặp khó khăn trong quá trình xác định thị phần của doanh nghiệp . Vậy có những nhân tố nào tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp? Qua nhiều nghiên cứu, các nhà kinh tế đã rút ra các kết luận về các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp. Có nhiều cách phân nhóm các nhân tố tác động. Tuy nhiên, cách phân nhóm phổ biến là phân thành nhóm các nhân tố bên trong (những nhân tố mà ban quản lý/giám đốc/chủ sở hữu có thể tác động được) và nhóm các nhân tố bên ngoài (những nhân tố mà ban quản lý/giám đốc/chủ sở hữu khó có thể tác động được). a) Nhóm nhân tố bên trong  Chất lượng sản phẩm: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp biết củng cố chất lượng sản phẩm và có một chính sách giá cả hợp lý cho từng thị trường, đối tượng khách hàng, giảm chi phí đơn vị, thì doanh nghiệp sẽ tăng trưởng (Andrew, 1949).  Đa dạng hóa sản phẩm nhằm phân tán rủi ro, xây dựng nhóm sản phẩm có vị trí trên thị trường đặc biệt nếu sản phẩm có ưu thế vượt 17 trội trên thị trường và tạo ra thương hiệu riêng sẽ tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp (Ansoff, 1957).  Năng lực quản lý là yếu tố vô cùng quan trọng mà các nhà nghiên cứu luôn nhấn mạnh. Một ban quản lý (i) sử dụng các nguồn lực đầu vào hiệu quả nhằm nâng cao năng suất, (ii) quản lý tài chính, nhân sự, sản xuất, thị trường tốt, và (iii) có chiến lược kinh doanh hiệu quả nhằm đảm bảo nguồn vốn đầu tư và đầu tư hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng vững chắc. Tuy nhiên doanh nghiệp tăng trưởng đến một quy mô nào đó mà ban quản lý cũ không thể đáp ứng được thì doanh nghiệp cần phải mở rộng đội ngũ quản lý và mở rộng kiến thức kinh doanh. Nếu vẫn duy trì ban quản cũ mà không có sự đổi mới nâng cao năng lực quản lý, thì đó lại là rào cản sự tăng trưởng của doanh nghiệp.  Ngoài kiến thức của chủ doanh nghiệp thì tố chất kinh doanh/tinh thần kinh doanh của người chủ sẽ quyết định sự mở rộng của doanh nghiệp. Một người chủ có tham vọng thấp, không muốn chấp nhận rủi ro, hay sợ mất quyền kiểm soát thì doanh nghiệp khó có thể tăng trưởng được.  Vấn đề về lao động- liên quan đến trình độ người lao động, chế độ làm việc, thỏa thuận lương bổng - được nhấn mạnh trong một số nghiên cứu. Đây là nhân tố vô hình, phụ thuộc vào con người cụ thể. Do vậy, nếu được phát triển tốt, thì lực lượng lao động sẽ trở thành động lực cho tăng trưởng; nếu không sẽ là một lực cản đáng kể.  Quy mô doanh nghiệp. Các nghiên cứu đều cho thấy quy mô doanh nghiệp càng lớn thì tốc độ tăng trưởng càng chậm (Geroski, 1999).  Số năm hoạt động của doanh nghiệp (tuổi đời của doanh nghiệp). Các nghiên cứu (Jovanovic, 2000) cho thấy có mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa tuổi đời doanh nghiệp và tăng trưởng doanh nghiệp, 18 nghĩa là doanh nghiệp có tuổi đời càng lớn thì tỷ lệ tăng trưởng càng thấp.  Hình thức pháp lý. Theo nghiên cứu ở nhiều nước3, doanh nghiệp có hình thức pháp lý là chịu trách nhiệm hữu hạn trong sản xuất kinh doanh sẽ có ưu thế để theo đuổi những dự án có lợi nhuận cao đồng thời cũng kèm theo rủi ro cao hơn so với hình thức pháp lý khác, vì theo đuổi một lợi nhuận cao hơn thì sẽ đem lại tăng trưởng cao hơn. Luận điểm này đã được một số nhà nghiên cứu kiểm định trong thực tế và khẳng định (xem Stiglitz và Weiss (1981) và Harhoff và các cộng sự (1990)). Theo kết quả nghiên cứu của họ, doanh nghiệp có hình thức pháp lý là trách nhiệm hữu hạn có tỷ lệ tăng trưởng trên trung bình trong mẫu kiểm định.  Đổi mới công nghệ, doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ, tiếp cận những nguồn công nghệ hiện đại sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành. Điều này hỗ trợ doanh nghiệp tăng trưởng (Cohen, 1995).  Chủ doanh nghiệp. Một vấn đề nữa mà rất nhiều nghiên cứu về tăng trưởng doanh nghiệp tập trung phân tích là các nhân tố liên quan đến người chủ doanh nghiệp /nhà quản lý/ giám đốc điều hành. Barkham và đồng sự (1995) đã phát hiện ra các đặc điểm có liên quan trực tiếp tới chủ doanh nghiệp ở các doanh nghiệp có tăng trưởng nhanh là chủ doanh nghiệp trẻ, công ty là sở hữu của nhiều người, chủ doanh nghiệp sở hữu nhiều công ty. Macrae (1991) phát hiện thấy giám đốc điều hành ở doanh nghiệp tăng trưởng nhanh có bằng cấp về giáo dục cao hơn, tham gia nhiều khóa đào tạo về kinh doanh hơn, có nhiều kinh nghiệm về quản lý hơn so với các giám đốc điều hành của doanh nghiệp không tăng trưởng. Thế nhưng, nghiên cứu của Turok (1991) về doanh nghiệp lại chỉ ra rằng không có sự khác nhau đáng tin cậy về mặt thống kê giữa doanh nghiệp tăng trưởng và không 3 Chưa có nghiên cứu về nhân tố này ở Việt Nam nên chưa thể khẳng định điều này có đúng với Việt Nam hay không. 19 tăng trưởng khi phân tích tuổi người chủ doanh nghiệp, trình độ giáo dục và đào tạo, nghề nghiệp trước đây của chủ doanh nghiệp.  Tổ chức doanh nghiệp. Để tiếp tục tìm kiếm những đặc điểm chung nằm đằng sau sự tăng trưởng của doanh nghiệp, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào mảng tổ chức doanh nghiệp. Khi nghiên cứu doanh nghiệp từ khía cạnh tổ chức của nó và người sáng lập doanh nghiệp, Turok (1991) đã phát hiện ra một điều thú vị. Ông thấy các doanh nghiệp tăng trưởng quan tâm đến việc gia tăng doanh thu và chủ động đổi mới có hình thức tổ chức là công ty trách nhiệm hữu hạn. Burns và Myers (1994) nghiên cứu 1.350 doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước Anh, Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha và phát hiện ra rằng các doanh nghiệp tăng trưởng thường là doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh cho ít nhất là ba năm, có sản phẩm có chất lượng hay khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh hơn là chỉ cạnh tranh với đối thủ bằng giá cả. Nghiên cứu của Grant (1992) cho thấy có ba yếu tố chính có mối liên hệ với sự tăng trưởng doanh nghiệp là người chủ doanh nghiệp, dự án kinh doanh táo bạo và tác động từ nhân tố bên ngoài. Storey (1994) đã đưa ra các nhân tố chính tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp là chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp và chiến lược. Ông cho rằng nếu các nhân tố trên kết hợp với nhau nhuần nhuyễn thì doanh nghiệp tăng trưởng. b) Nhóm nhân tố bên ngoài  Khung khổ pháp lý, chính sách là các quy định pháp luật tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, các chính sách tác động trực tiếp là các chính sách liên quan đến gia nhập thị trường, thuế, lao động, cạnh tranh, xuất nhập khẩu và các chính sách hỗ trợ của nhà nước... Chi phí gia nhập thị trường cao do những quy định về cấp phép và đăng ký kinh doanh có thể là một cản trở thành lập doanh nghiệp. Chính sách thuế không rõ ràng hợp lý sẽ vô tình làm doanh nghiệp gặp khó khăn trong mở rộng kinh doanh... Do vậy, 20 những chính sách này có thể gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp.  Thị trường các yếu tố sản xuất: các yếu tố đầu vào cho sản xuất như vốn, lao động, đất đai và khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu thị trường các yếu tố sản xuất phát triển mạnh, thì doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội huy động tối đa và tối ưu các yếu tố này cho quá trình sản xuất – kinh doanh của mình.  Năng lực cạnh tranh quốc gia. Ngày nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt ở mức độ quốc gia và quốc tế để mở rộng thị phần của mình. Vì thế, nếu một quốc gia có năng lực cạnh tranh tốt, có kinh nghiệm marketing quốc tế từ phía chính phủ và doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng trong việc mở rộng thị phần trong thị trường thế giới. Tuy nhiên, nếu một quốc gia và các doanh nghiệp của nó thiếu năng lực cạnh tranh nhưng lại thực hiện mở cửa nền kinh tế, thì sẽ có nguy cơ nhiều doanh nghiệp sẽ không thể cạnh tranh nổi và phải phá sản. 1.3. Phương pháp đánh giá các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp Cho dù nghiên cứu về tăng trưởng hết sức đa dạng nhưng các nhà kinh tế đều cố tìm ra những đặc điểm chung để có thể xây dựng mô hình kinh lượng nhằm lượng hóa các nhân tố tác động qua sử dụng các dữ liệu có thể thu thập được trên thực tế. Theo Geroski (1999), trên phương diện kinh tế lượng, giả thuyết cơ bản nhất về tăng trưởng doanh nghiệp áp dụng cho cả doanh nghiệp có quy mô lớn và nhỏ là quy mô doanh nghiệp tuân theo một đường đi ngẫu nhiên “firm size follows a random walk”. Nếu chúng ta định nghĩa quy mô doanh nghiệp i trong thời kỳ t là )(tS i thì quan sát có thể được viết chính xác là: (1) )()1(log)(log)(log ttStStS iiii µ=−−=∆ 21 Trong đó  )(log tSi∆ : Sự thay đổi quy mô doanh nghiệp i ở thời điểm t so với quy mô doanh nghiệp i ở thời điểm (t-1)  )(log tSi : Quy mô doanh nghiệp i ở thời điểm t nhưng đã được chuyển sang dạng logarithm  )1(log −tSi Quy mô doanh nghiệp i ở thời điểm t-1 nhưng đã được chuyển sang dạng logarithm  )(tiµ là biến ngẫu nhiên phân phối chuẩn độc lập và đồng nhất được phân bổ thường với trung bình bằng 0 và phương sai là 2δ Phương trình (1) cho biết sự gia tăng quy mô doanh nghiệp xuất phát từ những thay đổi của doanh nghiệp điều này nghĩa là tăng trưởng không phải do may mắn đem lại. Nói một cách khác, phương trình (1) mô tả một cách ngắn gọn và súc tích quá trình tăng trưởng doanh nghiệp nhưng rõ ràng không thể mô tả hay dự đoán một cách chính xác sự thay đổi của doanh nghiệp diễn ra khi nào. Nhưng các nhà kinh tế biết được là sự thay đổi của doanh nghiệp có liên quan đến một số nhân tố có thể quan sát được. Vì thế, phương trình (1) có thể mô tả những gì sảy ra cho doanh nghiệp qua những nhân tố có thể quan sát và thu thập được. Phương trình (1) có thể diễn tả sự thay đổi của doanh nghiệp theo một cách khác là: (2) ∑+= )()(log 0 sStS ii µ Trong đó  0S là giá trị đầu tiên của S(t) tức là quy mô ban đầu của doanh nghiệp (quy mô lúc thành lập)  Chỉ số s chạy từ 1 đến t Ta có thể thấy rằng, quy mô doanh nghiệp ở bất kỳ thời điểm nào cũng chỉ là tổng của những thay đổi của doanh nghiệp kể từ khi nó được thành lập tại thời điểm t=0. Nghĩa là, quy mô doanh nghiệp tại bất kỳ thời điểm t nào đều phụ thuộc vào tất cả những thay đổi đã sảy ra của doanh nghiệp. 22 Trên thực tế, nhiều nghiên cứu khai thác những biến thể của phương trình (1), đó là: (3) )()(log)(log ttStS iii µβα ++=∆  Nếu giá trị của β <0 cho biết doanh nghiệp quy mô lớn tăng trưởng tương đối chậm hơn doanh nghiệp quy mô nhỏ.  Nếu α >0 và là chung cho tất cả doanh nghiệp, thì quy mô doanh nghiệp phát triển qua thời gian theo phương trình (3) hội tụ về quy mô không thay đổi (-α /β ). Hai ứng dụng quan trọng của (1) cần chú ý. Thứ nhất, khi )(tiµ được phân bổ một cách độc lập đối với doanh nghiệp i, tỷ lệ tăng trưởng của bất kỳ hai doanh nghiệp i và j nào, được lựa chọn ngẫu nhiên là không có tương quan với nhau. Nghĩa là tỷ lệ tăng trưởng doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc trưng của doanh nghiệp. Ứng dụng thứ hai của (1) là sự xuất hiện của biến động (dynamics) cùng với biến phụ thuộc trễ. Mô hình kinh tế lượng động truyền thống của tăng trưởng có thể là dạng: (4) )()1(log)()(log ttSLtS iii µθα +−∆+=∆ Trong đó )(Lθ là một đa thức của L. 1.4. Kinh nghiệm nghiên cứu các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp Các nghiên cứu về nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp được các nhà nghiên cứu thực hiện dưới hai dạng định tính và định lượng. Do khuôn khổ nghiên cứu này là phân tích định lượng các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở Việt Nam, nên nhóm tác giả sẽ chủ yếu đề cập đến các nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng đã được thực hiện. Trên cơ sở lý thuyết về tăng trưởng của doanh nghiệp của Penrose (1959) và mô hình của Geroski (1999), nhiều tác giả đã thực hiện các phân tích định lượng các nhân tố tác động đến quá trình tăng trưởng của doanh nghiệp. Có thể kể ra đây nghiên cứu của Najib Harabi (2003), nghiên cứu 23 tập trung phân tích tăng trưởng kinh tế ở Ma rốc trên phương diện sự tăng trưởng doanh nghiệp tư nhân. Sử dụng lý thuyết quy mô doanh nghiệp tối ưu như là khung lý thuyết, nghiên cứu đã phân tích các nhân tố tác động đến quá trình tăng trưởng doanh nghiệp tư nhân của Morocco dựa vào số liệu điều tra 370 doanh nghiệp được thực hiện dưới sự tài trợ của World Bank năm 1998. Mẫu điều tra bao gồm doanh nghiệp với các quy mô khác nhau, từ doanh nghiệp lớn với trên 100 lao động đến doanh nghiệp nhỏ có chưa đầy 5 lao động. Ngoài ra, nó cũng bao gồm doanh nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau như sản xuất, xây dựng, dịch vụ và thương mại. Nghiên cứu đã kiểm định tác động về mặt định lượng của các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp của Morroco. Theo kết quả nghiên cứu, những nhân tố có tác động tích cực đến tăng trưởng doanh nghiệp ở Ma rốc bao gồm: (i) chiến lược kinh doanh chú trọng vào đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; (ii) hình thức pháp lý là công ty trách nhiệm hữu hạn; (iii) nhu cầu cao đối với sản phẩm của công ty và một số chính sách của nhà nước như chính sách lao động, cạnh tranh và môi trường. Những nhân tố có tác động tiêu cực đến tăng trưởng doanh nghiệp bao gồm: (i) thiếu lao động có tay nghề và cán bộ quản lý giỏi; (ii) vị trí của doanh nghiệp xa các trung tâm kinh tế; và (iii) một số chính sách của nhà nước như ngoại thương và chính sách giá trong nước. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị đối với lãnh đạo doanh nghiệp và nhà lập chính sách của Ma rốc. Các lãnh đạo doanh nghiệp phải chú trọng đến việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp, địa điểm đặt trụ sở và thị trường mà doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh. Đối với các nhà hoạch định chính sách, nghiên cứu chỉ ra một số chính sách cần được cải thiện. Khuôn khổ chính sách, thủ tục hành chính cần được điều chỉnh để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Các chính sách về giáo dục và đào tạo phải thực sự hướng tới nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Những vấn đề liên quan đến bất bình đẳng giữa các vùng về cơ sở 24 hạ tầng (đường sá, công trình công cộng), nguồn nhân lực, chất lượng cuộc sống và điều kiện làm việc phải được giải quyết. Cũng sử dụng mô hình kinh tế lượng, hai tác giả Mark Hart và Seamus (2000) đã nghiên cứu nguyên nhân tăng trưởng của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương ở Anh. Nghiên cứu này đã sử dụng mô hình kinh tế lượng đa biến để nhận dạng tập hợp các nhân tố dẫn đến sự khác nhau trong tăng trưởng doanh nghiệp tại một số địa phương ở Anh. Xuất phát từ cuộc điều tra khoảng trên 400 doanh nghiệp, các tác giả Liao, Welsch và Pistrui (2000) cũng đã xây dựng một mô hình kinh tế lượng để kiểm định những nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp, lần này các tác giả nhấn mạnh vào hai nhóm yếu tố liên quan đến động lực cho tăng trưởng và cơ sở hạ tầng hỗ trợ tăng trưởng. Nghiên cứu các công ty trong danh sách 500 doanh nghiệp lớn từ 1992 đến 1998, Markman và Gartner (2002) phát hiện ra rằng tốc độ tăng trưởng của các công ty về mặt doanh thu và số lượng lao động không liên quan đến khả năng sinh lời của công ty. Tuy nhiên, tuổi đời (số năm hoạt động) của công ty lại có mối quan hệ chặt chẽ với khả năng sinh lời của công ty, các công ty non trẻ thường có tỷ suất lợi nhuận cao hơn một chút. Nhân tố kỹ năng quản lý cũng đóng vai trò không nhỏ cho sự thành công của công ty. Vijverberg và Haughton (2001) đã sử dụng số liệu điều tra hộ gia đình của Việt Nam năm 1992 và 1998 để phân tích các nhân tố tác động đến sự tồn tại và tăng trưởng của các hộ kinh doanh phi nông nghiệp. Hai tác giả đã đưa ra một số kết luận đáng chú ý. Các hộ gia đình có thu nhập giảm đi thì ít có khả năng tiến hành kinh doanh. Các nhân tố khác tác động tới quyết định thành lập doanh nghiệp bao gồm vị trí địa lý (ở nông thôn hay thành thị), truyền thống kinh doanh của gia đình, trình độ đào tạo và tuổi đời của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các tác giả cũng lưu ý rằng môi trường chính sách cho hoạt động của doanh nghiệp đã có nhiều thay đổi so 25 với khi tiến hành điều tra. Do vậy, các kết quả nghiên cứu có thể chưa phản ánh đúng và đầy đủ tình hình thực tế. Tóm lại, các nghiên cứu đều chỉ ra được các nhân tố tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp thông qua mô hình kiểm định mặc dù tầm quan trọng tác động của các nhân tố là khác nhau ở các nghiên cứu. 26 Tựu chung lại, trong chương này, Đề tài đã phân tích cơ sở lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về tăng trưởng doanh nghiệp dựa trên phân tích định tính và định lượng. Mặc dù có khá nhiều lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp, nhưng có ba lý thuyết đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng làm cơ sở cho nghiên cứu của mình. Trước hết là lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp của Edith Penrose (1959). Lý thuyết này đề cập tới lý thuyết thúc đẩy nguồn lực và những giới hạn về quản lý đối với tăng trưởng doanh nghiệp. Lý thuyết thứ hai là về quy mô doanh nghiệp tối ưu. Theo đó, hầu hết doanh nghiệp hoạt động đều nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận với quy mô sản xuất ở điểm thấp nhất của đường chi phí trung bình trong điều kiện cạnh tranh. Do vậy, quá trình tăng trưởng của doanh nghiệp là quá trình chuyển sang quy mô tối ưu. Lý thuyết cuối cùng là lý thuyết tăng trưởng theo giai đoạn. Lý thuyết này xác định các nhân tố có thể xuất hiện trong các giai đoạn tăng trưởng của doanh nghiệp. Trên cơ sở tổng kết các lý thuyết về tăng trưởng doanh nghiệp, Đề tài đã tổng kết các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp. Về cơ bản, có thể chia các nhân tố thành hai nhóm: nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. Các nhân tố bên trong là các nhân tố mà lãnh đạo doanh nghiệp có thể tác động được để thúc đẩy tăng trưởng doanh nghiệp. Các nhân tố bên ngoài là các nhân tố mà doanh nghiệp không thể tự chủ được. Cuối cùng, Đề tài đã đề cập đến mô hình của Geroski (1999) được dùng để ước lượng các nhân tố này. Mô hình này đã được sử dụng với nhiều biến thể qua một số nghiên cứu về tăng trưởng doanh nghiệp trên thế giới. 27 CHƯƠNG II. NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG DOANH NGHIỆP Ở MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC VÀ PHÍA NAM 2.1. Tổng quan tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ khi thực hiện đổi mới kinh tế Khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển rất ấn tượng sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành. Hình 2: Số lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân được thành lập mới (1991-2005) 3 9 9 0 3 3 6 9 9 3 2 6 0 0 9 2 1 5 2 3 2 1 0 4 0 1 4 4 4 4 4 6 1 5 3 1 2 13 7 6 0 5 5 2 25 7 2 9 7 4 6 07 8 1 3 4 2 4 1 1 3 2 0 5 0 0 0 1 0 0 0 0 1 5 0 0 0 2 0 0 0 0 2 5 0 0 0 3 0 0 0 0 3 5 0 0 0 40 0 0 0 45 0 0 0 19 91 19 92 19 93 19 94 19 95 19 96 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 20 04 20 05 Nguồn: - Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội Khóa XI “Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006- 2010”, 10/2005. - Số liệu năm 2005 của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp - Cục Phát triển Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tính từ năm 2001 đến năm 2004, có 105.842 DN đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký là 197.122 tỷ đồng; gấp 2,6 lần số lượng và 7,6 lần về vốn đăng ký so với giai đoạn 9 năm thi hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (1991- 1999). Tốc độ tăng bình quân hàng năm của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ 2001-2004 là 23,4% về số lượng và 44,7% về vốn. 28 Theo báo cáo mới nhất nhất của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2005, có 39.903 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành lập mới, với số vốn đăng ký là 107.983 tỷ đồng, đưa tổng số DN đăng ký thành lập mới trong giai đoạn 2001- 2005 lên trên 150.000 DN, với tổng vốn đăng ký khoảng 300.000 tỷ đồng4. Kinh tế tư nhân đã và đang là một lực lượng đáng kể thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế-xã hội trong 20 năm đổi mới từ cơ chế kinh tế kế họach hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Hiệu quả kinh tế của các đồng vốn đầu tư bởi kinh tế tư nhân cao hơn nhiều so với hiệu quả kinh tế của đầu tư nhà nước. Chẳng hạn, năm 2005, vốn đầu tư nhà nước chiếm tới 52,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nhưng chỉ đóng góp 38,0% GDP, trong khi đó, khu vực ngoài quốc doanh5 chỉ chiếm 32,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nhưng đóng góp tới 47% GDP. Nếu tính theo tiêu chí này, thì hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn cho thấy cao hơn cả khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, khi tỷ lệ giữa “tỷ trọng đóng góp cho GDP/tỷ trọng vốn đầu tư” của khu vực ngoài quốc doanh liên tục đạt mức cao nhất trong những năm gần đây. Tính trung bình hàng năm trong giai đoạn 2000- 2004, tỷ lệ giữa “tỷ trọng đóng góp cho GDP/tỷ trọng vốn đầu tư” của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 1,71 lần, cao hơn đáng kể so với các mức tương ứng của khu vực kinh tế nhà nước (0,69 lần) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (0,88 lần) cũng trong cùng giai đoạn6. Đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (mà các doanh nghiệp tư nhân có vai trò nòng cốt) vào GDP luôn duy trì ở mức xấp 50%. Bảng 2. Cơ cấu đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế, 1995-2004 (%) Năm Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài quốc doanh Kinh tế cú vốn đầu tư nước ngoài Tổng số 4 Nguồn: “Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2005”, dự thảo báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội khóa XI, tháng 10 năm 2005. 5 Do số liệu về vốn đầu tư thực tế của các doanh nghiệp kinh tế tư nhân chưa được thống kê đầy đủ, Nhóm nghiên cứu sử dụng số liệu thay thế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 6 Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả 29 1995 40,2 53,5 6,3 100 1996 39,9 52,7 7,4 100 1997 40,5 50,4 9,1 100 1998 40,0 50,0 10,0 100 1999 38,7 49,0 12,2 100 2000 38,5 48,2 13,3 100 2001 38,4 47,8 13,8 100 2002 38,3 47,8 13,9 100 2003 38,3 47,7 14,0 100 2004 39,2 45,6 15,2 100 2005 38,0 47,0 15,0 100 Nguồn: Tổng cục Thống kờ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Khu vực kinh tế tư nhân là nơi thu hút, tạo việc làm cho xã hội. Trong 4 năm qua, kinh tế tư nhân đã tạo ra gần 2 triệu việc làm mới (Sơn, 2005), chưa kể 2,7 triệu hộ kinh doanh cá thể. Sự phát triển của kinh tế tư nhân không chỉ góp phần tạo việc làm mà còn có tác dụng thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao động vốn đang mất cân đối ở nước ta hiện nay. Đóng góp về xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân đang được cải thiện. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (Sơn, 2005). Kinh tế tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhiều doang nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng, ở các địa phương, kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ yếu về xuất khẩu. Một vài số liệu thống kê nêu trên cho thấy khu vực kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, việc đánh giá những nhân tố tác động đến tốc độ tăng trưởng của khu vực này ngày càng trở nên cần thiết. 2.2. Thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân tại các tỉnh được lựa chọn nghiên cứu 2.2.1. Lý do lựa chọn địa bàn nghiên cứu Các tỉnh, thành phố được lựa chọn nghiên cứu trong Đề tài này là Hà Nội, Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An với những lý do sau đây: 30  Các tỉnh, thành phố có điều kiện về cơ sở hạ tầng, thông tin, thị trường tương đối tương đồng ở mỗi miền.  Hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế lớn nhất đại diện cho miền Bắc và miền Nam  Hà Tây và Long An là hai tỉnh lân cận ở hai trung tâm kinh tế lớn ở trên  Các tỉnh, thành phố này đều đã đưa ra những chính sách riêng về khuyến khích, thu hút đầu tư. Nói chung, các tiêu chí trên đã thể hiện được tính đại diện và tính tương đồng của các địa phương nghiên cứu, tính năng động trong sản xuất kinh doanh của giới doanh nghiệp và trong quản lý của địa phương. Thật vậy, chỉ tính trong năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở hai thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã chiếm 54% số lượng doanh nghiệp đăng ký và 50% số vốn đăng ký kinh doanh so với cả nước7. Trong một chừng mực nào đó, khu vực doanh nghiệp tư nhân của hai thành phố có thể đại diện cho khu vực doanh nghiệp tư nhân của cả nước ở các khía cạnh nghiên cứu. Hai tỉnh Hà Tây và Long An nằm cận kề hai trung tâm kinh tế trên cũng có thể đại diện cho những tỉnh “vệ tinh” của vùng kinh tế động lực. Thêm vào đó, bốn tỉnh thành phố được nghiên cứu ở đây có mức độ phát triển cơ sở hạ tầng tương đối giống nhau. Về mặt kinh tế xã hội cả bốn tỉnh, thành phố đều nằm ở đồng bằng, có lực lượng lao động dồi dào, có thị trường tiêu thụ lớn, các doanh nghiệp ở những địa phương này đều được đánh giá là năng động, chính quyền địa phương đều có các chính sách riêng về khuyến khích sự phát triển của khu vực doanh nghiệp. Chi tiết về điều kiện kinh tế – xã hội của các địa phương này xin xem ở Phụ lục 2. 2.2.2. Vai trò và xu hướng phát triển của doanh nghiệp Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò của nó trong nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho các tỉnh, thành phố được lựa chọn nói riêng. Qua số liệu về tỷ trọng vốn đầu tư đăng ký kinh doanh của khu vực 7 Tính toán từ Báo cáo Đăng ký kinh doanh của Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 31 kinh tế tư nhân so với GDP của địa phương có thể thấy tỷ trọng cao nhất là ở Hà Nội, tiếp đó là TP. Hồ Chí Minh, Hà Tây và Long An (xem Bảng 3). Tỷ trọng 80% ở Hà Nội chứng tỏ quy mô của khu vực kinh tế tư nhân ở đây chiếm vị trí rất quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị của địa phương. Cùng với tỷ trọng 40% của TP. Hồ Chí Minh cho thấy rằng, tại hai trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân là vô cùng quan trọng. Bảng 3: Tỷ lệ % tổng vốn đăng ký của các DN thuộc khu vực tư nhân/ GDP của địa phương sau khi có Luật Doanh nghiệp (1999) Tỉnh Tỷ trọng tổng vốn đầu tư đăng ký/ GDP của địa phương năm 2005 Hà Nội 80% Hà Tây 27% Tp. HCM 44% Long An 11% Nguồn: VCCI (2005) Một cách cụ thể hơn, kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và số vốn đăng ký ở 4 tỉnh, thành phố đã tăng lên nhanh chóng. Hình 3 cho thấy thành phố Hồ Chí Minh có số lượng doanh nghiệp đăng ký nhiều nhất, tiếp đến là Hà Nội. Hà Tây và Long An có số lượng đăng ký xấp xỉ nhau. Điều này, chứng tỏ các trung tâm kinh tế lớn luôn là địa điểm lý tưởng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Cùng là đô thị lớn nhưng số lượng doanh nghiệp chọn TP. Hồ Chí Minh làm nơi khởi nghiệp lớn hơn nhiều so với Hà Nội. Thông qua các yếu tố tác động tới doanh nghiệp khi khởi nghiệp như thủ tục thành lập, vốn, nguồn nguyên liệu, kênh marketing, lao động có kỹ năng có thể nhận thấy thành phố Hồ Chí Minh là nơi lý tưởng hơn Hà Nội. Đối với Hà Tây và Long An, cùng có các điều kiện kinh tế tương đối giống nhau số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập qua các năm là xấp xỉ nhau. Hình 3: Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh qua các năm của bốn tỉnh/thành phố 32 Sè l­î ng do anh ng h iÖp ® n¨ g k ý k inh do anh q ua c c¸ n¨m 0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 14000 2000 2001 2002 2003 2005 N¨ m Sè l­ în g do an h ng hi Öp Hµ Né i Hµ T© y HCM Lo ng An Nguồn: Báo cáo Đăng ký kinh doanh của Cục phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư các năm 2000, 2001, 2002, 2003 và 2005 Hình 4: Số vốn đăng ký của doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân qua các năm của bốn tỉnh/thành phố Sè vè n d o anh ng h iÖp ® ¨ng k ý k inh d o anh q ua c ¸c n¨m 0 5000000 10000000 15000000 20000000 25000000 30000000 2000 2001 2002 2003 2005 N¨ m Sè v èn (t riÖ u ®å ng ) Hµ Né i Hµ T© y HCM Long An Nguồn: Báo cáo Đăng ký kinh doanh của Cục phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư các năm 2000, 2001, 2002, 2003 và 2005 Bảng 4: Số vốn đăng ký kinh doanh bình quân của 1 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân theo địa phương qua các năm Đơn vị: Triệu đồng 33 Địa phương/năm 2000 2001 2002 2003 2005 Hà Nội 887 1260 1668 2275 2607 Hà Tây 1137 1912 1742 2236 2833 TP. Hồ Chí Minh 1061 1342 1630 1677 2359 Long An 539 1104 2152 1909 3758 Nguồn: Báo cáo Đăng ký kinh doanh của Cục phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư các năm 2000, 2001, 2002, 2003 và 2005 Hình 4 cho thấy số vốn đăng ký của doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội vẫn là cao nhất trong bốn địa phương. Số vốn đăng ký kinh doanh ở Hà Tây và Long An cũng tương đối bằng nhau. Nếu số vốn đăng ký kinh doanh bình quân của mỗi doanh nghiệp ở ba địa phương Hà Nội, Hà Tây và TP. Hồ Chí Minh tăng dần đều qua các năm thì con số này ở Long An có sự gia tăng đột biến. Đặc biệt là năm 2005, số vốn đăng ký kinh doanh bình quân ở Long An là cao nhất trong khi số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh lại không có sự gia tăng lớn. Điều này có thể được giải thích là do có một số doanh nghiệp quy mô lớn và rất lớn đầu tư vào địa phương trong thời gian này. Về giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân ở bốn tỉnh được nghiên cứu, có thể thấy các doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh tạo ra giá trị lớn nhất, hơn hẳn ba địa phương còn lại. Ngoài ra, xu hướng chung là giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp đều tăng lên ở cả bốn địa phương. Hình 5: Giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở bốn tỉnh nghiên cứu (Triệu đồng) 34 0 5,000,000 10,000,000 15,000,000 20,000,000 25,000,000 30,000,000 35,000,000 2000 2001 2002 2003 2004 Hµ Né i Hµ T© y TP.HCM Long An Nguồn: TCTK (2006) Về chỉ số phát triển của các doanh nghiệp, ta có thể thấy các doanh nghiệp ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có phần chậm phát triển hơn. Trong khi đó, các doanh nghiệp ở Long An và Hà Tây vẫn tăng trưởng đều. Hình 6: Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở bốn tỉnh nghiên cứu (%) 0 50 100 150 200 250 2001 2002 2003 2004 Hµ Né i Hµ T© y TP.HCM Long An Nguồn: TCTK (2006) Như vậy, các số liệu thống kê đã phần nào cho thấy khu vực kinh tế tư nhân ở bốn tỉnh được nghiên cứu đóng một vai trò quan trọng đối với kinh tế địa phương. Hơn thế nữa khu vực này đang tiếp tục gia tăng vai trò của mình qua sự gia tăng về số lượng, quy mô, giá trị sản xuất công nghiệp và mức độ đóng góp cho kinh tế địa phương. Sự tăng trưởng này chắc chắn sẽ góp phần vào việc tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới, thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước địa phương và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Với việc giảm dần quy mô khu vực doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò ngày càng lớn trong sự 35 phát triển kinh tế địa phương. Sự phát triển của khu vực này sẽ là một trong những nhân tố đảm bảo sự phồn thịnh từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. 2.2.3. Tình hình thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của các địa phương Như đã phân tích ở trên, sự tăng trưởng của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào nội lực của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh và sự hỗ trợ của Nhà nước. Hay nói một cách khác, Nhà nước nên có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng. Đó có thể là các chính sách cải thiện thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt các cơ hội kinh doanh mới. Chẳng hạn, nếu doanh nghiệp có thể đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh trong vòng 24 giờ, thì họ có thể nhanh chóng ký kết một hợp đồng kinh doanh trong một lĩnh vực mới. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có những chính sách để tạo lập thị trường các nhân tố sản xuất (bao gồm vốn, lao động, đất đai, công nghệ) cho doanh nghiệp. Hơn thế nữa, những chính sách này cần được thực hiện một cách đồng bộ từ trung ương đến địa phương để thực sự hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi như vậy để hỗ trợ doanh nghiệp. Các chính sách này đã được thực hiện ở cả bốn địa phương được nghiên cứu (QLKT, 2005). Ngoài ra, bốn tỉnh, thành phố cũng đã ban hành bổ sung nhiều chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp nhằm thu hút thêm nhà đầu tư vào địa phương mình8. a - Cải cách thủ tục hành chính. Đây là một vấn đề được các địa phương rất quan tâm. Những năm gần đây hầu hết các địa phương trong cả nước đều tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính. Hà Nội đã đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền giải quyết các thủ tục hành chính trong đó trọng tâm là các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực 8 Chủ yếu là gia tăng mức độ ưu đãi so với chính sách chung và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho doanh nghiệp 36 đầu tư, xây dựng cơ bản, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, lĩnh vực tư pháp, đầu tư phát triển, môi trường kinh doanh. Hà Nội có kỳ vọng sẽ thực hiện quy chế “một cửa” tại tất cả các cấp, ngành trong thời gian tới. Tính đến hết năm 2005, 100% cơ quan hành chính, bao gồm 26 sở, ban, ngành, 14 quận, huyện, 232 xã, phường, thị trấn của Hà Nội đã thực hiện quy chế “một cửa”9. Tuy nhiên, thủ tục hành chính liên quan đến nhà đất, đầu tư xây dựng cơ bản, giải quyết tranh chấp về đất, cấp phép xây dựng vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất. Sau một thời gian dài bị coi là một địa phương kém năng động, hiện nay Hà Tây đang quyết tâm thay đổi hình ảnh của mình. Trong chính sách kêu gọi đầu tư vào địa phương, cải cách hành chính được chính quyền tỉnh hết sức quan tâm. Điều này được thể hiện tại quy định “sẽ xử lý nghiêm theo pháp luật bất cứ cá nhân, tổ chức nào cố tình gây khó khăn, cản trở việc kêu gọi đầu tư vào Hà Tây”. Quy định này đã có tác dụng đáng kể. Theo báo cáo của Hà Tây, năm 2005, tỉnh đã thu hút được 1.230 tỷ đồng vốn đầu tư, tăng 30% so với năm 2004. Cũng giống các địa phương khác, TP. Hồ Chí Minh cũng thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực điều hành quản lý nhà nước ở các cấp chính quyền. TP. Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên thực hiện đăng ký kinh doanh qua mạng Internet giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, các thủ tục hành chính liên quan đến đất đai cũng được giải quyết một cách nhanh chóng. Tại Long An đã có 26 đề án cải cách hành chính được tỉnh phê duyệt. Trong đó, đề án cải cách về quản lý các khu công nghiệp theo cơ chế một dấu, một cửa được áp dụng tại Ban quản lý các khu công nghiệp được triển khai thực hiện ngay từ đầu và cơ quan này đã trở thành cơ quan chủ quản giải quyết thủ tục cho các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp. 9 Hạnh Nguyên, Thực hiện cải cách hành chính ở Hà Nội: Chủ trương và thực tế còn khoảng cách lớn, Báo Quân đội nhân dân ngày 10/10/2005 37 b - Chính sách tài chính tín dụng Ở Việt Nam, nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp là nguồn vốn tín dụng phát triển của nhà nước và nguồn cho vay của các ngân hàng thương mại. Quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và ngân hàng thương mại theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp muốn vay vốn tín dụng đầu tư ưu đãi của nhà nước thì phải là những đối tượng ưu đãi và thực hiện quy trình vay vốn thông qua chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển ở địa phương. Song, nhiều doanh nghiệp là đối tượng được vay ưu đãi phàn nàn rằng họ rất khó vay được từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển của nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp được vay từ Quỹ là rất thấp. Trở ngại lớn nhất do họ không thể thế chấp tài sản có giá trị nhất là quyền sử dụng đất để vay vốn ngoài ra còn một nguyên nhân khác là năng lực lập dự án của doanh nghiệp còn yếu nên khó được Quỹ chấp nhận. Để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, các địa phương đã có sáng kiến riêng của mình là hình thành các quỹ địa phương nhằm hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy mô của các quỹ là khác nhau phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của địa phương. Hà Tây và Long An đều có quỹ khuyến công của tỉnh nhằm hỗ trợ cho các đối tượng sản xuất, dịch vụ công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, phát triển nông thôn, các ngành nghề ưu đãi đầu tư, các hoạt động hướng dẫn kỹ thuật chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề, du nhập và phát triển nghề mới, khôi phục và phát triển nghề truyền thống, làng nghề truyền thống, xây dựng làng nghề mới, v.v. TP. Hồ Chí Minh có chương trình kích cầu thông qua đầu tư kể từ năm 2000 để hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế do thành phố quản lý. c - Chính sách hỗ trợ đất đai - cơ sở hạ tầng Nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng, chính quyền địa phương đã thực hiện những biện pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn lực đất đai cho doanh nghiệp. Công khai quy hoạch đất đai là một trong những biện pháp như vậy. Các địa phương đã thực hiện quy hoạch đất đai, nguồn nguyên liệu, và công khai các chính sách cho thuê đất. Cả 38 bốn tỉnh, thành phố đều đã thực hiện công khai quy hoạch đất, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, các địa phương còn thực hiện hỗ trợ giải phóng mặt bằng với thủ tục hành chính thuận tiện, đơn giản. Doanh nghiệp có thể đứng ra tự thoả thuận với người có đất. Đối với những địa điểm khó khăn, cơ quan nhà nước sẽ đứng ra thực hiện. Nhằm giảm bớt chi phí liên quan đến đất đai cho doanh nghiệp, chính quyền các tỉnh còn hỗ trợ chi phí đền bù, giải toả và miễn, giảm một số loại phí, tiền thuê đất, v.v… với các hình thức khác nhau. Điểm cần lưu ý là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn, thu hút nhiều doanh nghiệp kinh doanh. Do vậy, chính quyền địa phương không thể hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp về mặt này. d - Chính sách lao động - tiền lương, đào tạo và công nghệ Hai nhân tố nữa không kém phần quan trọng cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp là lao động và công nghệ. Do Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn, thu hút nhiều lao động, nên các doanh nghiệp hoạt động tại hai thành phố ít phải lo lắng về việc thiếu lao động có trình độ. Tuy nhiên, Hà Tây có tình trạng thiếu lao động có trình độ. Do vậy, địa phương đã thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động. Cụ thể là các địa phương đã xác định rõ tiêu chí về đào tạo nghề bậc cao, nghề phổ thông, đào tạo nghệ nhân, truyền nghề, v.v... Ngoài ra, ngân sách địa phương dành ra một phần để hỗ trợ cho doanh nghiệp đào tạo tay nghề cho công nhân. Long An có chính sách đào tạo theo địa chỉ, dạy nghề theo yêu cầu của nhà tuyển dụng. Tỉnh đã có 5 cơ sở dạy nghề của địa phương gắn kết chặt chẽ với ban quản lý khu công nghiệp và các doanh nghiệp. Do đào tạo đúng nhu cầu nên sau khi đào tạo các lao động đều được tuyển dụng. Về chuyển giao công nghệ, do Hà Tây và Long An có ngân sách địa phương hạn hẹp, nên hoạt động của Quỹ khuyến công còn hạn chế. Các biện pháp chủ yếu khác như hỗ trợ chi phí chuyển giao, tư vấn chuyển giao, cung cấp thông tin công nghệ, tạo thuận lợi về mặt bằng, chính sách khen thưởng chưa được thực hiện đầy đủ. Về khó khăn trong chuyển giao công 39 nghệ, đầu tiên phải nhắc đến việc ngân sách của nhiều địa phương còn hạn chế, trong khi hoạt động chuyển giao công nghệ này đòi hỏi vốn lớn và nhu cầu đổi mới thiết bị cũng lớn. Đối với doanh nghiệp nhỏ, với tiềm lực kinh tế không lớn thì chi phí cho hoạt động đổi mới và chuyển giao công nghệ lại càng nan giải. Số doanh nghiệp này hiện nay rất nhiều và cũng rất cần được hỗ trợ để tạo thêm sức cạnh tranh khi thực hiện hội nhập. Vấn đề trình độ quản lý, sử dụng, trình độ tay nghề lao động cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp. e - Chính sách hỗ ttợ xúc tiến thương mại - đầu tư Tất cả bốn tỉnh, thành phố đều có chính sách xúc tiến thương mại- đầu tư. Cụ thể là tổ chức hội thảo xúc tiến đầu tư, hỗ trợ chi phí quảng cáo và thưởng xúc tiến đầu tư, hỗ trợ xây dựng thương hiệu; cung cấp thông tin thị trường; xây dựng trang web cập nhật thông tin phục vụ doanh nghiệp. 2.3. Phân tích định lượng các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp tại bốn tỉnh, thành phố được lựa chọn nghiên cứu 2.3.1. Mô tả số liệu điều tra Về ý tưởng, mô hình thực nghiệm về tăng trưởng doanh nghiệp được kiểm định ở đây dựa trên số liệu điều tra doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Viện Nghiên cứu Lao động và Xã hội và Trường Kinh tế Stockholm thực hiện vào các năm 1991, 1996, 2001 và 2005 nhằm quan sát về mặt định lượng các nhân tố tác động đến doanh nghiệp ở miền Bắc (nghiên cứu cho trường hợp của Hà Nội và Hà Tây) và miền nam (nghiên cứu cho trường hợp của Long An và TP. Hồ Chí Minh). Thật không may, số liệu thu thập được dựa trên câu hỏi điều tra lại chưa có một cách đầy đủ theo nhu cầu nghiên cứu vì Đề tài này phải hoàn thành theo yêu cầu về mặt thời gian (cuối năm 2006), nhưng dữ liệu điều tra cho năm 2005 vẫn trong giai đoạn triển khai. Ngoài ra, Đề tài không sử dụng số liệu của năm 1991 vì nếu tính số doanh nghiệp được điều tra lặp từ năm 1991 thì mẫu quan sát khá nhỏ. Điều này làm kết quả thực 40 nghiệm không đáng tin cậy. Do vậy, số liệu được sử dụng cho Đề tài này là dựa trên cuộc điều tra năm 1996 và 2001 cho doanh nghiệp đăng ký và không đăng ký (hộ kinh doanh) ở Hà Nội, Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An. Các doanh nghiệp này được điều tra từ năm 1996 và được điều tra lại trong năm 2001. Vì nhiều lý do, nên mẫu điều tra doanh nghiệp ở bộ số liệu này chưa phản ảnh một cách có ý nghĩa thống kê tất cả số lượng doanh nghiệp của bốn tỉnh, thành phố nghiên cứu. Vì theo nguồn số liệu của Cơ quan đăng ký kinh doanh (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) năm 2000 số liệu doanh nghiệp đăng ký mới ở Hà Nội, Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An lần lượt là: 2312, 135, 5449 và 49; năm 2001 lần lượt là 3381, 240, 6946 và 295; năm 2002 lần lượt là 4262, 297, 7486 và 97. Mặc dù còn nhiều thiếu sót, cuộc điều tra mẫu này vẫn cho phép phân tích mang tính thăm dò về hoạt động của doanh nghiệp tại bốn tỉnh, thành phố nghiên cứu. 2.3.2. Lượng hóa các nhân tố tác động Dựa vào mô hình lý thuyết, các nghiên cứu trước đây đã có ở Việt Nam và trên thế giới và nội dung cuộc khảo sát doanh nghiệp vừa và nhỏ đã nêu ở trên, nhóm nghiên cứu lựa chọn và đưa vào phân tích hồi quy những biến như sau: Biến phụ thuộc Biến phụ thuộc của mô hình hồi quy được đo bằng tỷ lệ tăng trưởng thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn 1996-2001. Một doanh nghiệp được coi là có tăng trưởng thu nhập nếu có chênh lệch doanh thu giữa năm 2001 và 1996 dương. Vì trong mô hình hồi quy tỷ lệ tăng trưởng được ước lượng dưới dạng logarithm nên tỷ lệ tăng trưởng có công thức tính là: 1)1 96 01log()01_96log( 5 +−= QM QMChisoTT Trong đó: Chisott96_01 là tỷ lệ tăng trưởng thu nhập doanh nghiệp trong thời kỳ 1996-2001 41 QM96 là tổng doanh thu của doanh nghiệp năm 1996 QM01 là tổng doanh thu của doanh nghiệp năm 2001 Biến giải thích Quy mô doanh nghiệp ở thời kỳ trước là biến )1( −tS i trong mô hình hồi quy. Đó là biến dạng logarithm của QM95 (được đo bằng tổng thu nhập doanh nghiệp năm 1995). Biến ngoại sinh khác Nhân tố Giải thích Giả thuyết kiểm định Tên biến và dấu hiệu dự tính Lượng hóa Nhân tố bên trong Năm thành lập doanh nghiệp Là số năm tuyệt đối doanh nghiệp tồn tại kể từ khi thành lập Về lý thuyết, doanh nghiệp mới thành lập thì tăng trưởng nhanh. SNHD (-) Đổi mới công nghệ Doanh nghiệp thực hiện đầu tư lớn vào máy móc thiết bị kể từ năm 1997 Doanh nghiệp có đổi mới thì tăng trưởng nhanh hơn DMCN (+) DMCN=1 nếu doanh nghiệp có hoạt động đổi mới công nghệ, = 0 nếu không có Đa dạng hóa sản phẩm/đổi mới sản phẩm Doanh nghiệp phát triển dòng sản phẩm mới hoặc cải thiện đáng kể các sản phẩm hiện tại từ năm 1997 Nếu doanh nghiệp có đa dạng hóa sản phẩm trong quá trình hoạt động thì tăng trưởng cũng nhanh hơn DDSP (+) DDSP=1 nếu doanh nghiệp đa dạng hóa sản phẩm/đổi mới sản phẩm; =0 nếu không có Khả năng cạnh tranh - Khả năng cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp hiện nay như thế nào Doanh nghiệp không gặp khó khăn trong cạnh tranh sẽ tăng trưởng nhanh KNCT (-) KNCT=1 nếu doanh nghiệp gặp khó khăn về cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động; =0 nếu doanh nghiệp 42 Nhân tố Giải thích Giả thuyết kiểm định Tên biến và dấu hiệu dự tính Lượng hóa hơn không gặp khó khăn về cạnh tranh Nhân tố bên ngoài Tiếp cận nguồn lực đầu vào -Vốn - Năng lượng (đại diện cho cơ sở hạ tầng) Doanh nghiệp gặp thuận lợi/khó khăn khi tiếp cận với nguồn vốn Doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ về nguồn điện năng cho sản xuất Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn sẽ tăng trưởng nhanh hơn Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn năng lượng ổn định sẽ trưởng nhanh hơn TCV (+) TCNL (+) TCV = 1 nếu doanh nghiệp trả lời dễ dàng tiếp cận vốn vay; =0 nếu doanh nghiệp trả lời không dễ tiếp cận với vốn vay TCNL = 1 nếu doanh nghiệp trả lời dễ dàng tiếp cận với nguồn năng lượng ổn định như điện, than, dầu...; =0 nếu doanh nghiệp trả lời không dễ tiếp cận với nguồn năng lượng ổn định Nhu cầu thị trường Có cầu thị trường đối với hàng hoá của doanh nghiệp Doanh nghiệp khó khăn vì thiếu cầu sẽ tăng trưởng chậm hơn NCTT (-) NCTT=1 nếu doanh nghiệp cho biết khó khăn là thiếu nhu cầu; =0 nếu doanh nghiệp cho là không gặp khó khăn này. Hỗ trợ của nhà nước - Về đào tạo (nguồn Doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ về Nói chung doanh nghiệp nhận được nhiều sự hỗ HTDT (+) HTDT=1 nếu doanh nghiệp nhận được sự 43 Nhân tố Giải thích Giả thuyết kiểm định Tên biến và dấu hiệu dự tính Lượng hóa nhân lực) - Tiếp cận nguồn tín dụng - Tư vấn pháp lý/ giải quyết chính sách đào tạo tay nghề cho người lao động Doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ tiếp cận nguồn tín dụng Doanh nghiệp được tư vấn pháp lý/giải quyết chính sách của các cơ quan Nhà nước trợ chưa chắc đã tăng trưởng nhanh hơn HTTD (+) HTCS (+) hỗ trợ; =0 nếu doanh nghiệp không nhận được sự hỗ trợ HTTD=1 nếu doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ; =0 nếu doanh nghiệp không nhận được sự hỗ trợ HTCS =1 nếu doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ; =0 nếu doanh nghiệp không nhận được sự hỗ trợ 2.3.3. Mô hình đánh giá tác động Dựa vào lý thuyết quy mô doanh nghiệp tối ưu, Đề tài sử dụng mô hình hồi quy đã được kiểm định của Geroski (1999) để quan sát ( ) ( ) ( ) )(1 tvtStXctS iii +−++=∆ βα Trong đó: ( )tSi : quy mô doanh nghiệp i tại thời điểm t X(t): nhân tố tác động đến doanh nghiệp )(tvi : phân phối chuẩn độc lập và đồng nhất Nhóm nghiên cứu xây dựng mô hình hồi quy đa biến tuyến tính cho 4 tỉnh nghiên cứu như sau: ),,,,,,,,,,95(01_96 htcshttdhtdtncttkncttcnltcvddspdmcnsnhdqmfchisott −−++++−− = 44 Phương trình hồi quy là: htcshttdhtdt ncttkncttcnltcvddspdmcnsnhdlog(qm95) t96_01)log(chisot 11109 876543210 βββ βββββββββ +++ ++++++++= Bảng 5: Kết quả phương trình hồi quy10 Biến/tỉnh Hà Nội Hà Tây TP. Hồ Chí Minh Long An log(QM95) -0.056 (0.017)*** -0.042 (0.015)*** -0.072 (0.028)** -0.019 (0.018) SNHD 0.000 (0.001) -0.003 (0.003) -0.071 (0.027) -0.000 (0.002) DMCN 0.114 (0.057)** 0.067 (0.050) 0.162 (0.063)** 0.028 (0.053) DDSP 0.073 (0.054) 0.056 (0.044) 0.026 (0.066) 0.145 (0.085)* TCV -0.044 (0.085) -0.128 (0.153) 0.146 (0.140) 0.059 (0.079) TCNL -0.070 (0.155) 0.098 (0.060) 0.195 (0.206) 0.152 (0.113) KNCT 0.064 (0.104) -0.198 (0.08)** -0.332 (0.197)* 0.097 (0.091) NCTT 0.132 (0.073)* 0.061 (0.045) 0.127 (0.098) -0.001 (0.048) HTDT -0.034 (0.129) 0.287 (0.154)* -0.269 (0.311) -0.425 (0.156)* HTTD 0.114 (0.073) 0.060 (0.051) 0.163 (0.117) -0.047 (0.060) HTCS 0.010 (0.054) 0.001 (0.099) 0.112 (0.100) -0.062 (0.070) Số quan sát 83 99 85 87 2R 0.30 0.29 0.22 0.19 Hệ số ước lượng hồi quy (trong ngoặc là độ lệch chuẩn) ***,**,* hệ số tin cậy lần lượt là 1%, 5% và 10% 2.3.4. Kết quả và đánh giá Thiếu sót của mô hình kinh tế lượng 10 Xem chi tiết ở Phụ lục 45 Hạn chế đầu tiên là các câu hỏi điều tra trong bộ số liệu thường có nội dung mang tính định tính. Vì vậy, để có thể dùng được các biến định tính trong mô hình kinh tế lượng phải chuyển sang dùng biến giả. Vấn đề thứ hai là có số liệu bị thiếu không thể đưa vào ước lượng ở phương trình hồi quy. Ngoài việc số liệu bị thiếu thì những số liệu còn lại không phải là lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả Với giá trị 2R của phương trình hồi quy cho các địa bàn nghiên cứu Hà Nội, Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An lần lượt là 0.30, 0.29, 0.22 và 0.19 có thể thấy rằng phương trình hồi quy ở trên có thể giải thích tác động của các nhân tố lên tăng trưởng doanh nghiệp ở bốn tỉnh, thành phố này. Ngoài ra, giá trị P-value của F-test rất nhỏ cũng chỉ ra rằng phương trình ước lượng trên là phù hợp. Với kết quả nhận được, nhóm nghiên cứu diễn giải phương trình như sau:  Quy mô doanh nghiệp năm 1995 có tác động tỷ lệ nghịch với tăng trưởng doanh nghiệp giai đoạn 1996-2001 ở Hà Nội, Hà Tây và Tp HCM (nhân tố này không có ý nghĩa về mặt thống kê cho trường hợp của Long An). Doanh nghiệp có quy mô càng lớn tại thời điểm năm 1995 thì có tỷ lệ tăng trưởng càng thấp trong giai đoạn 1996-2001. Nói cách khác doanh nghiệp nhỏ tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp lớn ở 3 địa phưong Hà Nội, Hà Tây và TP. Hồ Chí Minh.  Số năm hoạt động của doanh nghiệp không có ý nghĩa về mặt thống kê cho doanh nghiệp ở cả 4 địa bàn nghiên cứu. Vì vậy, chúng ta chưa thể nói được tăng trưởng doanh nghiệp bị ảnh hưởng như thế nào, cho dù có nhiều nghiên cứu khẳng định rằng doanh nghiệp có số năm hoạt động ít thì tăng trưởng nhanh hơn.  Đổi mới công nghệ có tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với mức ý nghĩa thống kê 5%, doanh nghiệp có hoạt động đổi mới (có đầu tư lớn vào máy móc thiết bị từ năm 1997) thì tăng trưởng nhanh hơn doanh nghiệp không đầu tư đổi 46 mới công nghệ. Tuy nhiên biến này lại không có ý nghĩa về mặt thống kê cho doanh nghiệp ở Hà Tây và Long An. Dựa theo cuộc điều tra thì phần lớn các doanh nghiệp ở Hà Tây và Long An không hề có những khoản đầu tư lớn vào máy móc thiết bị từ năm 1997 nhưng vẫn có sự tăng trưởng, nếu chỉ tính sự gia tăng về doanh thu của doanh nghiệp năm 2001 so với năm 2000 thì phần lớn doanh nghiệp có sự gia tăng doanh thu trên 30% nhưng không hề có một khoản đầu tư lớn nào cho đổi mới thiết bị công nghệ trong thời kỳ 3 năm. Điều này có thể là do nhu cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp tương đối cao và doanh nghiệp không phải tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ. Hoặc các sản phẩm của doanh nghiệp không đòi hỏi phải đầu tư lớn về công nghệ.  Đa dạng sản phẩm là một động lực có tương quan tỷ lệ thuận với tăng trưởng doanh nghiệp. Điều này đúng cho doanh nghiệp ở tỉnh Long An với ý nghĩa thống kê ở mức 90%, nhưng nhân tố này không có ý nghĩa về mặt thống kê cho trường hợp doanh nghiệp ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Hà Tây. Phần lớn doanh nghiệp ở ba tỉnh này không phát triển dòng sản phẩm mới từ năm 1997. Có thể do doanh nghiệp vẫn có lợi nhuận khi sản xuất mặt hàng cũ mà không hề nhận thấy có áp lực nào thúc đẩy doanh nghiệp phải phát triển dòng sản phẩm mới.  Tiếp cận vốn không hề có ý nghĩa về mặt thống kê khi xem xét tác động của nó lên tăng trưởng doanh nghiệp của cả bốn địa phương nghiên cứu, cho dù có nhiều bằng chứng ở các nghiên cứu khác nhận định rằng khó tiếp cận với nguồn vốn sẽ cản trở doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Hơn nữa thiếu vốn và khó vay vốn luôn là khó khăn đầu tiên mà doanh nghiệp nêu ra. Vấn đề rào cản về vốn dường như mới được tháo gỡ cho các doanh nghiệp lớn (Nguyễn Đình Cung và các cộng sự (2004), còn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó khăn trong vay vốn. Mặc dù đây là vấn đề khó khăn của 47 phần lớn các doanh nghiệp, nhưng đáng tiếc lại không có bằng chứng khẳng định doanh nghiệp khó tiếp cận vốn thì tăng trưởng sẽ chậm lại.  Tiếp cận với nguồn cung năng lượng cũng không có ý nghĩa về mặt thống kê cho cả bốn tỉnh, thành phố. Dường như cho đến nay ít có nghiên cứu về vấn đề đảm bảo năng lượng cho doanh nghiệp có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Một lý giải khác là doanh nghiệp không có nhu cầu cao về năng lượng cho sản xuất loại sản phẩm của mình. Hoặc số liệu điều tra không phải là lựa chọn ngẫu nhiên.  Khả năng cạnh tranh, theo kết quả của phương trình hồi quy, tác động tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng trưởng ở Hà Tây và TP. Hồ Chí Minh. Nghĩa là, doanh nghiệp gặp khó khăn trong cạnh tranh thì tăng trưởng chậm. Nhưng nhân tố này không có ý nghĩa về mặt thống kê cho trường hợp của Hà Nội và Long An.  Nhu cầu thị trường, dựa vào kết quả này, không thể nói có ảnh hưởng tới tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Tây, TP. Hồ Chí Minh và Long An. Tuy nhiên, nó lại ảnh hưởng thuận chiều với tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Nội, nghĩa là, doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu nhu cầu thì có chiều hướng tăng trưởng nhanh. Điều này phi lý trên phương diện kinh tế vì nhu cầu thị trường là một động lực quan trọng tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, một doanh nghiệp thiếu nhu cầu thị trường thì không thể hoạt động kinh doanh một cách phát đạt.  Trong nhóm biến được gọi là biến chính sách gồm có chính sách hỗ trợ của nhà nước về đào tạo, tiếp cận nguồn tín dụng và hỗ trợ tư vấn pháp lý/chính sách cho doanh nghiệp, chỉ có biến hỗ trợ đào tạo có ý nghĩa về mặt thống kê khi xem xét tác động của nó đến tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Tây và Long An. Nó có tác động tỷ lệ thuận cho tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Tây (nghĩa là nếu doanh nghiệp nhận 48 được hỗ trợ về đào tạo thì tăng trưởng nhanh hơn) nhưng lạ kỳ là lại có tác động tỷ lệ nghịch cho tăng trưởng doanh nghiệp ở Long An (nghĩa là nếu doanh nghiệp nhận được hỗ trợ về đào tạo thì tăng trưởng chậm hơn). Điều này dường như là đối với Hà Tây các doanh nghiệp hoạt động tốt thì dễ tiếp cận với dịch vụ hỗ trợ của nhà nước, còn Long An thì có xu hướng hỗ trợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hơn. Các biến hỗ trợ chính sách không có ý nghĩa về mặt thống kê cho các doanh nghiệp ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Điều này có thể được giải thích là hai thành phố lớn ít thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp do có quá nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn và có nhiều công ty tư vấn có thể cung cấp dịch vụ này thay cho cơ quan Nhà nước. 2.4. So sánh các nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp giữa bốn tỉnh, thành phố được lựa chọn nghiên cứu Dựa vào kết quả hồi quy và dữ liệu có được, dưới đây sẽ phân tích những nhân tố tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp xem chúng tác động như thế nào và so sánh chúng giữa các địa phương nghiên cứu để trả lời hai câu hỏi nghiên cứu: (i) Nhân tố bên trong và bên ngoài nào tác động đến sự tăng trưởng doanh nghiệp và chúng tác động thế nào? (ii) Những nhân tố nào tạo nên sự khác biệt tăng trưởng doanh nghiệp ở phía bắc và phía nam? 2.4.1.Nhân tố bên trong Nhóm nhân tố bên trong được lựa chọn kiểm định đó là: số năm hoạt động của doanh nghiệp, đổi mới khoa học công nghệ, mức độ đa dạng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường. Vậy nhóm yếu tố bên trong ảnh hưởng như thế nào tới tăng trưởng doanh nghiệp. 49 Trong nhóm yếu tố bên trong, kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng tỷ lệ tăng trưởng doanh nghiệp chịu sự tác động của biến DMCN, DDSP, KNCT. Ở đây ta thấy đổi mới công nghệ có tác động tỷ lệ thuận với tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Điều này chỉ ra tầm quan trọng về đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp. So với các biến khác được kiểm định thì giá trị beta=0.114 của biến DMCN có giá trị lớn hơn so với các biến khác trong phương trình hồi quy của Hà Nội (mặc dù các giá trị beta của các biến này không có ý nghĩa về mặt thống kê). Điều này cho thấy đổi mới công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng doanh nghiệp ở Hà Nội. Trong trường hợp thành phố Hồ Chí Minh, giá trị beta=0.162 của biến DMCN có giá trị tương đối lớn so với các biến khác, vì vậy có thể nói đổi mới công nghệ cũng giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh cùng với các biến khác. Biến này ở Hà Tây và Long An cùng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Thêm vào đó, giá trị beta của chúng thấp hơn so với các biến khác. Dù chưa có bằng chứng để khẳng định đổi mới công nghệ dường như không có tác động tới tăng trưởng doanh nghiệp ở hai địa phương này, nhưng rõ ràng so với Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh thì nhân tố đổi mới công nghệ không có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng doanh nghiệp của doanh nghiệp ở Hà Tây và Long An. Hệ số tương quan của biến đa dạng hóa sản phẩm (DDSP) có giá trị dương cho 4 phương trình hồi quy ở cả bốn địa phương. Tuy nhiên, chỉ có trường hợp Long An là có ý nghĩa về mặt thống kê và giá trị beta là khá lớn so với các biến khác trong phương trình hồi quy cho Long An. Có thể nói rằng, đa dạng hóa sản phẩm là một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Long An. 50 Hệ số này không có ý nghĩa về mặt thống kê ở Hà Nội, Hà Tây và TP. Hồ Chí Minh và thêm vào đó, giá trị beta của nó là khá nhỏ so với các biến khác. Cuối cùng là biến khả năng cạnh tranh. Biến này được kỳ vọng là có dấu âm nghĩa là doanh nghiệp càng gặp khó khăn trong cạnh tranh thì sẽ có tăng trưởng chậm hơn. Nhưng, ở đây có sự khác biệt, nó có dấu dương cho trường hợp Hà Nội (tuy không có ý nghĩa về mặt thống kê) và Long An, và có dấu âm ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Tây (đều có ý nghĩa về mặt thống kê song so với các nhân tố khác thì giá trị beta tương đối thấp). Điều này có nghĩa là nhân tố tác động đến sự tăng trưởng doanh nghiệp ở hai địa phương này chính là khả năng cạnh tranh. Bảng 6: Nhân tố bên trong tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở 4 tỉnh/thành phố Nhân tố tác động Hà Nội Hà Tây TP. Hồ Chí Minh Long An Đổi mới khoa học công nghệ Nhân tố rất quan trọng có tác động tỷ lệ thuận tới tăng trưởng doanh nghiệp so với nhân tố khác Tác động không rõ ràng Nhân tố rất quan trọng có tác động tỷ lệ thuận tới tăng trưởng doanh nghiệp so với nhân tố khác Tác động không rõ ràng Mức độ đa dạng sản phẩm Tác động không rõ ràng Tác động không rõ ràng Tác động không rõ ràng Nhân tố rất quan trọng có tác động tỷ lệ thuận tới tăng trưởng doanh nghiệp so với nhân tố khác Hạn chế Tác động không rõ ràng Là nhân tố tác động tỷ lệ nghịch Là nhân tố tác động tỷ lệ nghịch Tác động không rõ ràng 51 Nhân tố tác động Hà Nội Hà Tây TP. Hồ Chí Minh Long An trong khả năng cạnh tranh tới tăng trưởng doanh nghiệp tới tăng trưởng doanh nghiệp 2.4.2. Nhân tố bên ngoài Nhân tố bên ngoài được kiểm định ở đây là: khả năng tiếp cận nguồn tài chính, khả năng tiếp cận năng lượng, chính sách hỗ trợ đào tạo, chính sách hỗ trợ tiếp cận vốn và tư vấn chính sách. Trong nhóm nhân tố bên ngoài, kết quả thực nghiệm cho thấy chỉ biến HTDT có tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp. Biến này cũng chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê cho trường hợp của Hà Tây và Long An. Dấu hiệu kỳ vọng ở đây là không rõ ràng, nghĩa là hỗ trợ của chính quyền về đào tạo có thể tác động tỷ lệ thuận hay tỷ lệ nghịch lên tăng trưởng doanh nghiệp. So với các biến khác thì biến này có giá trị beta tương đối lớn ở Hà Tây (beta=0.287) và Long An (beta=-0.425). Điều này cho thấy doanh nghiệp càng tiếp cận dễ dàng với hỗ trợ đào tạo thì càng tăng trưởng nhanh cho trường hợp Hà Tây. Ngược lại doanh nghiệp ở Long An càng dễ dàng tiếp cận với hỗ trợ đào tạo thì càng tăng trưởng chậm. Điều này có thể được giải thích bằng hai lý do (i) số liệu chưa chính xác hoặc (ii) những hỗ trợ về đào tạo không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp. Bảng 7: Nhân tố bên ngoài tác động đến tăng trưởng doanh nghiệp ở 4 tỉnh/thành phố Nhân tố tác động Hà Nội Hà Tây TP. Hồ Chí Minh Long An Hỗ của nhà nước (hỗ trợ Tác động không rõ ràng Nhân tố rất quan trọng có tác động Tác động không rõ Nhân tố rất quan trọng có tác động 52 đào tạo nguồn nhân lực) tỷ lệ thuận tới tăng trưởng doanh nghiệp so với nhân tố khác ràng tỷ lệ nghịch tới tăng trưởng doanh nghiệp so với nhân tố khác Qua kết quả phân tích ở trên ta có thể thấy rằng dường như không có sự khác biệt rõ ràng nào về nhân tố tạo nên sự khác biệt tăng trưởng doanh nghiệp ở phía bắc và phía nam. Điều này nghĩa là doanh nghiệp tăng trưởng như thế nào phụ thuộc vào đặc điểm và nội lực của doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ của nhà nước nói chung và địa phương nói riêng đã được chỉnh sửa theo hướng thông thoáng. Nếu so sánh ta có thể thấy tất cả các địa phương nghiên cứu đều đưa ra các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tương đối giống nhau nhằm giảm tối đa chi phí và thời gian giao dịch cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tập trung vốn, thời gian, năng lực cho sản xuất kinh doanh. Do đó, nếu có sự khác biệt, bản thân doanh nghiệp mới quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Nhiệm vụ chính của các doanh nghiệp là tập trung đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, khẳng định thương hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh để có chỗ đứng trên thị trường trong và ngoài nước. Tóm lại, Chương II đã phân tích thực trạng phát triển khu vực kinh tế tư nhân cả nước nói chung và của bốn tỉnh/thành phố được nghiên cứu nói riêng. Các số liệu thống kê cho thấy sự tăng trưởng nhanh chóng của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian qua và xu hướng tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới. Bên cạnh các nhân tố nội lực của doanh nghiệp đóng góp vào sự tăng trưởng mạnh mẽ đó còn có các chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Đề tài đã xác định các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở bốn tỉnh nghiên cứu và tiến hành phân tích định lượng các nhân tố đó. Mặc dù sự hạn chế về số liệu làm cho nhiều biến không có ý nghĩa về mặt thống kê ở tất cả bốn tỉnh được nghiên cứu, nhưng kết quả phân tích 53 định lượng cho thấy một số điểm đáng chú ý. Một là tuổi đời của doanh nghiệp dường như không có tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp, mặc dù nghiên cứu ở các nước khác cho thấy điều ngược lại. Điều này có thể là do sự hạn chế về số liệu hoặc do các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa có tuổi đời đủ dài để đánh giá được nhân tố này. Hai là, việc đổi mới công nghệ có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Điều này có thể được lý giải là doanh nghiệp ở hai thành phố này phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt nên phải đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Ba là, việc đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết đối với doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay. Bốn là chính sách hỗ trợ đào tạo đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp. Điều này có thể lý giải là vì nó góp phần tạo nên một lực lượng lao động có tay nghề – một đầu vào quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Năm là nội lực của doanh nghiệp quan trọng hơn địa điểm của doanh nghiệp. Kết quả phân tích không thấy có sự khác biệt rõ ràng về nhân tố tạo nên sự khác biệt trong tăng trưởng của doanh nghiệp miền bắc và miền nam. Những kết luận này có thể được dùng để đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. 54 CHƯƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ GIẢM THIỂU NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC Chương II đã đưa ra các phân tích về những nhân tố bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của các doanh nghiệp ở bốn tỉnh nghiên cứu. Mặc dù số liệu chưa phản ánh một cách đầy đủ tác động của những nhân tố này đối với sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, nhưng các lý thuyết chung về tăng trưởng doanh nghiệp cũng đã khẳng định rằng những nhân tố được phân tích sẽ có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu tương tự về Việt Nam cũng khẳng định vai trò của những nhân tố này (xem Hansen và các cộng sự, 2004). Do vậy, Chương III sẽ đưa ra những giải pháp tác động đến tất cả những nhân tố bên trong và bên ngoài được phân tích trong nghiên cứu này. Các giải pháp này sẽ hướng tới các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân nói chung. Bên cạnh đó, một số giải pháp sẽ được trình bày cụ thể hơn cho bốn tỉnh được nghiên cứu. Nói chung, việc cải thiện các nhân tố bên ngoài chính là dựa vào các chính sách của Nhà nước, còn việc cải thiện các nhân tố bên trong phụ thuộc vào chính sách của doanh nghiệp. 3.1. Đề xuất các giải pháp chung đối với Nhà nước 3.1.1. Hỗ trợ tiếp cận các nguồn lực đầu vào Việc phân tích cơ sở dữ liệu điều tra của bốn tỉnh cho thấy các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nhân tố đầu vào cho sản xuất, trong khi đây lại là những yếu tố mà doanh nghiệp khó có thể can thiệp được. Do vậy, Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ tích cực và hiệu quả để nâng cao khả năng tiếp cận các nhân tố đầu vào cho sản xuất của doanh nghiệp. a - Hỗ trợ tiếp cận đất đai Mặt bằng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, các địa phương cần tiếp tục tìm các quỹ đất chưa sử 55 dụng hết và tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng quỹ đất hiện thời. Cụ thể là: - Công khai quy hoạch đất đai: Việc này cần được tiếp tục thực hiện để minh bạch hoá môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp biết được thông tin để lựa chọn địa điểm đầu tư cho phù hợp, tránh trường hợp bị giải toả hoặc phải di dời sau khi đã tiến hành đầu tư. - Thu hồi diện tích đất của các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước không sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích để cho doanh nghiệp thiếu mặt bằng kinh doanh thuê. - Tiếp tục thực hiện các ưu đãi về tiền thuê đất và thuế sử dụng đất theo Luật Đầu tư và các văn bản pháp luật có liên quan. b- Hỗ trợ tiếp cận vốn Việc hỗ trợ tiếp cận vốn cho doanh nghiệp không phải là vấn đề cấp thiết đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Vì theo điều tra gần đây tại các thành phố lớn, các doanh nghiệp không coi đây là vấn đề cấp thiết và xếp yêu cầu này dưới yêu cầu về cải cách hành chính. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cho rằng những quy định hiện hành đã tạo điều kiện tương đối thuận lợi cho họ tiếp cận vốn vay ngân hàng thương mại (EADN, 2004). Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn cần có sự hỗ trợ nhất định về vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vấn đề đặt ra là làm sao cho doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi hơn vốn vay thương mại. Nguồn vốn này chủ yếu là từ Quỹ Hỗ trợ phát triển của các tỉnh. Do vậy cần đẩy mạnh việc thực hiện các hình thức cho vay sau: - Cho vay tín dụng đầu tư phát triển (vay trung và dài hạn): Đối tượng được vay vốn đầu tư tập trung vào một số dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có hàm lượng xuất khẩu cao; các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ; các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu; các dự án đầu tư thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hóa giáo dục, y tế; và các dự án tạo nhiều việc 56 làm, làm sạch môi trường và các dự án có ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. - Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Hình thức này rất phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Giá trị khoản hỗ trợ không lớn nên doanh nghiệp dễ vay được hơn. Hy vọng rằng các cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh sẽ cấp chứng nhận đăng ký đầu tư để doanh nghiệp được hưởng ưu đãi này theo Luật Đầu tư mới. - Bảo lãnh tín dụng đầu tư: Đối tượng là các nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới được vay một phần vốn đầu tư của nhà nước. Hy vọng rằng các cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh sẽ tiếp tục cấp bảo lãnh cho doanh nghiệp theo Luật Đầu tư mới. Để có thể hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được những nguồn vốn vay ưu đãi này, các cơ quan quản lý nhà nước nên chú ý một số vấn đề sau: - Giảm bớt các thủ tục phiền hà đối với doanh nghiệp xin vay vốn - Đẩy nhanh thời gian xử lý hồ sơ vay để doanh nghiệp không bị mất cơ hội kinh doanh - Thực hiện những điều chỉnh cần thiết về văn bản quy phạm pháp luật để doanh nghiệp có thể vay vốn phù hợp với nội dung của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới. Ngoài ra, trên lý thuyết, doanh nghiệp có thể được bảo lãnh vay vốn của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có quy định việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập để bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi họ không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng. Đây là phương 57 thức bảo lãnh chủ yếu dựa vào tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của các doanh nghiệp mà không lệ thuộc vào hình thức giấy tờ, tài sản thế chấp. Như vậy, thiết chế bảo lãnh tín dụng là một trong những công cụ tài chính giúp cho việc tiếp cận tín dụng của những doanh nghiệp có uy tín hoặc những doanh nghiệp có dự án khả thi nhưng lại không đủ tài sản thế chấp, cầm cố. Nhờ hoạt động của Quỹ, các ngân hàng sẽ mạnh dạn hơn khi cho các doanh nghiệp vay vốn, hạn chế được nhiều thủ tục phiền hà đồng thời được chia sẻ rủi ro khi doanh nghiệp mất khả năng trả nợ. Tuy nhiên, cho đến nay, Quỹ này mới được thành lập ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh nhưng chưa thực sự đi vào hoạt động do các quy định về tỷ lệ đóng góp cho quỹ chưa hợp lý, thiếu động lực, nhất là về phía các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại phải góp vào Quỹ 30% và cho vay theo bảo lãnh của Quỹ. Như vậy, ngân hàng sẽ phải chi nhiều hơn mức cho vay. Do đó, nhiều ngân hàng không muốn góp vào Quỹ. Vì vậy, đề xuất đưa ra là các địa phương tăng thêm mức đóng góp vào quỹ để có thể thành lập được quỹ này. Ngoài ra, các địa phương có thể hợp tác với nhau để đóng góp thành lập một quỹ chung. Các doanh nghiệp tư nhân sẽ phải cạnh tranh bằng các đề án kinh doanh của mình để được quỹ bảo lãnh. c - Hỗ trợ lao động Hỗ trợ đào tạo lao động là một hỗ trợ quan trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân vốn thiếu vốn và năng lực đào tạo cho người lao động. Mặc dù hiện nay các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đào tạo đã bắt đầu đảm đương được việc này, nhưng vẫn cần có sự điều chỉnh bằng chính sách nhà nước để đảm bảo chất lượng đào tạo. Các hoạt động hỗ trợ đào tạo cần thực hiện là: - Đặt ra tiêu chuẩn và kiểm tra chất lượng đào tạo của các trung tâm dạy nghề. - Công khai các nguồn tài trợ để hỗ trợ tổ chức đào tạo cho nhiều lao động hơn. Ví dụ như có thể lấy kinh phí đào tạo từ nguồn quỹ hỗ trợ 58 giải quyết việc làm hoặc các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đào tạo thành lập và hoạt động. - Đối với những tỉnh nghèo mà doanh nghiệp chưa có khả năng tổ chức đào tạo nghề cho người lao động, chính quyền địa phương cần đứng ra tổ chức đào tạo cho những ngành nghề phổ biến hoặc nằm trong định hướng phát triển ở địa phương. d - Hỗ trợ tiếp cận cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng ở đây bao gồm điện, nước, phương tiện thông tin liên lạc, đường sá, cầu cống, cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào khu/cụm công nghiệp. Chúng có đóng góp đáng kể đến hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Thời gian qua, các tỉnh đã có nhiều hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho doanh nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và cho doanh nghiệp thuê với mức giá ưu đãi. Đây là những biện pháp thiết thực nhất đối với doanh nghiệp. Do đó, chúng cần được phát huy. Cụ thể là các tỉnh cần tiếp tục thực hiện những ưu đãi này, đồng thời xóa bỏ những trở ngại khác có liên quan cho doanh nghiệp. e - Hỗ trợ tiếp cận khoa học công nghệ Bốn tỉnh nghiên cứu có điều kiện thuận lợi về tiếp cận khoa học công nghệ. Nhiều cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ nằm ở hai thành phố lớn. Hai tỉnh Hà Tây và Long An là hai tỉnh giáp ranh hai thành phố này nên cũng có điều kiện tiếp cận với những cơ sở nghiên cứu nói trên. Vấn đề đặt ra là làm sao cho các nghiên cứu đó phù hợp với nhu cầu thực tiễn doanh nghiệp và được giới thiệu cho doanh nghiệp. Bên cạnh việc các cơ sở nghiên cứu này phải tự quảng cáo, giới thiệu sản phẩm công nghệ của mình, các tỉnh cũng cần có biện pháp kích thích doanh nghiệp tìm tòi và ứng dụng công nghệ mới. Nhiều doanh nghiệp ngần ngại trong việc ký kết hợp đồng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới với các tổ chức 59 nghiên cứu với lý do thiếu vốn. Tuy nhiên, nếu có thể tổ chức ứng dụng trên một quy mô rộng cho nhiều doanh nghiệp, thì chi phí mà từng doanh nghiệp phải chi trả cho công nghệ đó có thể giảm đi một cách đáng kể. Như vậy, doanh nghiệp sẽ có khả năng ứng dụng công nghệ mới với chi phí hợp lý. Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng công nghệ của doanh nghiệp. Vì thế, các tỉnh nên chú trọng đến việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới và nhân rộng việc áp dụng công nghệ. Biện pháp thực hiện có thể là - Công bố danh sách các tổ chức, đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ trên trang web của tỉnh để nhiều doanh nghiệp biết và trực tiếp liên hệ ký hợp đồng nghiên cứu công nghệ. - Hỗ trợ việc nghiên cứu một số công nghệ có khả năng nhân rộng. Kinh phí có thể lấy từ Quỹ khuyến công của tỉnh. - Tổ chức việc ứng dụng công nghệ trên quy mô toàn tỉnh. Tứnh có thể khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới bằng cách hỗ trợ một phần chi phí chuyển đổi sang công nghệ mới. 3.1.2. Hỗ trợ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp a- Cải cách hành chính Một trong những hoạt động có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp là cải cách thủ tục hành chính. Việc này bao gồm thủ tục hành chính từ khi đăng ký kinh doanh cho đến suốt thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Cho đến nay việc đăng ký kinh doanh được coi l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBáo cáo đề tài- Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khui vực tư nhân ở một số tỉnh phía bắc và phía nam.pdf
Tài liệu liên quan