Tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thẩm định dự án: Mục Lục
Đề tài:
Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thẩm định dự án.
Chương 1: Tổng quan về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư
Dự án đầu tư
Định nghĩa
Đầu tư
Theo quan điểm của chủ đầu tư ( Doanh nghiệp )
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận.
Theo quan điểm của xã hội ( Quốc gia )
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát thát triển, để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia.
Dự án đầu tư
“ Dự án đầu tư ” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sỏ vật chất nhất định, nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định ( Chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp).
Phân loại đầu tư
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô và thời hạn và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số ...
33 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2039 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thẩm định dự án, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
Đề tài:
Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thẩm định dự án.
Chương 1: Tổng quan về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư
Dự án đầu tư
Định nghĩa
Đầu tư
Theo quan điểm của chủ đầu tư ( Doanh nghiệp )
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận.
Theo quan điểm của xã hội ( Quốc gia )
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát thát triển, để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát triển quốc gia.
Dự án đầu tư
“ Dự án đầu tư ” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sỏ vật chất nhất định, nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định ( Chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp).
Phân loại đầu tư
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô và thời hạn và được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại dự án nhằm tạo thuận lợi cho việc quản lý, theo dõi và đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả của các hoạt động đầu tư theo dự án.
Theo tính chất dự án đầu tư
Dự án đầu tư mới: Là họat động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm hình thành các công trình mới. Thực chất trong đầu tư mới, cùng với việc hình thành các công trình mới, đòi hỏi có bộ máy quản lý mới.
Dự án đầu tư chiều sâu: Là họat động đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm cải tạo, mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, dịch vụ; trên cơ sở các công trình đã có sẵn. Thực chất trong đầu tư chiều sâu, tiến hành việc cải tạo mở rộng và nâng cấp các công trình đã có sẵn, với bộ máy quản lý đã hình thành từ trước khi đầu tư.
Dự án đầu tư mở rộng: Là dự án nhằm tăng cường nâng lực sản xuất – dịch vụ hiện có nhằm tiết kiệm và tận dụng có hiệu quả công suất thiết kế của năng lực sản xuất đã có.
Theo nguồn vốn
Dự án đầu tư có vốn huy động trong nước: Vốn trong nước là vốn hình thành từ nguồn tích luỹ nội bộ của nền kinh tế quốc dân, bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, các nguồn vốn khác.
Dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài: Vốn ngoài nước là vốn hình thành không bằng nguồn tích luỹ nội bộ của nền kinh tế quốc dân, bao gồm: Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho đầu tư phát triển( kể cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA), vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn đầu tư của cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và cơ quan nước ngoài khác đầu tư xây dựng trên đất Việt Nam, vốn vay nước ngoài do Nhà nước bảo lãnh đối với doang nghiệp.
Theo ngành đầu tư
Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Là họat động đầu tư phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Dự án đầu tư phát triển công nghiệp: Là họat động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công trình công nghiệp.
Dự án đầu tư phát triển nông nghiệp: Là họat động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công trình nông nghiệp.
Dự án đầu tư phát triển dịch vụ: Là họat động đầu tư phát triển nhằm xây dựng các công trình dịch vụ( thương mại, khách sạn – du lịch, dịch vụ khác....).
Ở Việt Nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP, ngày 05/5/2000 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999, dự án đầu tư được phân loại như sau:
STT
Loại dự án đầu tư
Tổng mức
vốn đầu tư
1
2
3
I. Nhóm A
1
Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất mất quốc gia, có ý nghĩa chính trị – xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới.
Không kể
mức vốn
2
Các dự án: sản xuất chất độc hại, chất nổ không phụ thuộc vào quy mô đầu tư.
Không kể
mức vốn
3
Các dự án: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, chế biến dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy( bao gồm cả mua và đóng tàu, lắp ráp ôtô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ.
Trên 600
tỷ đồng
4
Các dự án: thuỷ lợi, giao thông( khác ở điểm I – 3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy họach chi tiết được duyệt.
Trên 400
tỷ đồng
5
Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp nhẹ, sành, sứ, thuỷ tin, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Trên 300
tỷ đồng
6
Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Trên 200
tỷ đồng
II. Nhóm B
1
Các dự án: công nghiệp điện, dầu khí; hoá chất, phần bón, chế tạo máy( bao gồm cả mau và đóng tàu, lắp ráp ôtô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ.
Từ 30 đến 600 tỷ đồng
2
Các dự án: thuỷ lợi, giao thông( khác ở điểm II – 1), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, trường phổ thông, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đẫ có quy họach chi tiết được duyệt.
Từ 20 đến 400 ỷ đồng
3
Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Từ 15 đến 300 tỷ đồng
4
Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Từ 7 đến 200 tỷ đồng
III. Nhóm C
1
Các dự án: công nghiệp điện, dầu khí; hoá chất, phần bón, chế tạo máy( bao gồm cả mua và đóng tàu, lắp ráp ôtô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ. Các trường phổ thông nằm trong quy họach( không kể mức vốn).
Dưới 30
tỷ đồng
2
Các dự án: thuỷ lợi, giao thông( khác ở điểm III – 1), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, trường phổ thông, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đẫ có quy họach chi tiết được duyệt.
Dưới 20
tỷ đồng
3
Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Dưới 15
tỷ đồng
4
Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Dưới 7
tỷ đồng
Ghi chú:
Các dự án nhóm A về đường sắt, đường bộ phải được phân đoạn theo chiều dài đường, cấp đường, cầu, theo hướng dẫn của Bộ giao thông vận tải sau khi thống nhất với Bộ kế họach và đầu tư.
Các dự án xây dựng trụ sở, nhà làm việc của cơ quan Nhà nước phải thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Chu trình dự án đầu tư
Định nghĩa
Chu trình dự án là các thời kỳ và các giai đoạn mà một dự án cần phải trải qua, bắt đầu từ thời điểm có ý định đầu tư, cho đến thời điểm kết thúc dự án.
Các thời kỳ và các giai đoạn trong chu trình dự án đầu tư
Chu trình dự án đầu tư gồm 3 thời kỳ:
Thời kỳ 1: Chuẩn bị dự án
Trong thời kỳ này của dự án bao gồm các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1
Nghiên cứu cơ hội đầu tư( hình thành ý tưởng đầu tư, bản giới thiệu cơ hội đầu tư, tìm đối tác đầu tư)
Giai đoạn 2
Nghiên cứu tiền khả thi( dự kiến quy mô vốn, thị trường, kỹ thuật, công nghệ, môi trường, tài chính, quản lý, nhân lực...)
Giai đoạn 3
Nghiên cứu khả thi ( hồ sơ thẩm định, hồ sơ phê duyệt)
Thời kỳ 2: Thực hiện dự án
Trong thừo kỳ này của dự án bao gồm các giai đoạn:
Giai đoạn 1
Xây dựng công trình dự án( chuẩn bị xây dựng, thiết kế chi tiết, xây lắp, nghiệm thu đưa vào họat động)
Giai đoạn 2
Dự án họat động( chương trình sản xuất, công suất sử dụng, giá tri còn lại vào năm cuối của dự án)
Thờ kỳ 3: Kết thúc dự án
Trong thời kỳ này của dự án bao gồm các giai đoạn:
Giai đoạn 1
Đánh giá dự án sau khi thực hiện (thành công, thất bại, nguyên nhân)
Giai đoạn 2
Thanh lý, phát triển dự án mới
Vai trò của dự án đầu tư
D = f ( C,T,L,R)
Lý thuyết phát triển cho rằng, khả năng phát triển của một quốc gia được hình thành bởi các nguồn lực về: vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên thiên nhiên. Đó là hệ thống các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau rát chặt chẽ, được biểu diễn bởi phương trình sau:
Trong đó:
D – Khả năng phát triển của một quốc gia
C – Khả năng về vốn
T – Khả năng về công nghệ
L – Khả năng về lao động
R – Khả năng về tài nguyên thiên nhiên
Tất cả các yếu tố phát triển trên cũng chính là các nhân tố được huy động để thực hiện các dự án đầu tư. Do đó, dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế- xã hội được thể hiện như sau:
Dự án đầu tư là phương tiện để chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế.
Dự án đầu tư giải quyết quan hệ cung – cầu về vốn trong phát triển
Dự án đầu tư góp phần xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nguồn lực mới cho phát triển.
Dự án đầu tư giải quyết quan hệ cung – cầu về sản phẩm, dịch vụ trên thị trường, cân đối quan hệ sản xuất và tiêu dùng trong xã hội.
Dự án đầu tư góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cải tiến bộ mặt kinh tế – xã hội của đất nước.
Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng để tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư.
Dự án đầu tư là công cụ quan trọng trong quản lý vốn, vật tư, lao động, trong quá trình thực hiện đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư
Định nghĩa
Thẩm định dự án đầu tư là rá soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư.
Đối với các nhà tài trợ, tổ chức cho vay, Ngân hàng: Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một quá trình được thực hiện bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập trên cơ sở những chuẩn mực, nhằm rút ra những kết luận làm căn cứ quyết định cho khách hàng vay vốn đầu tư dự án.
Mục tiêu thẩm định dự án
Giúp chủ đầu tư, các cấp ra quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư lựa chọn phương án đầu tư tốt nhất, quyết định đầu tư đúng hướng và đạt lợi ích kinh tế – xã hội mà dự án đầu tư mang lại.
Quản lý quá trình đầu tư dựa vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước, quy họach phát triển ngành và địa phương từng thời kỳ.
Thực thi luật pháp và các chính sách hiện hành.
Lựa chọn phương án khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Quan điểm thẩm định dự án đầu tư
Một dự án, qua thẩm định, dược chấp nhận và cấp giấy phép đầu tư, phải được xem xét và đánh giá trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và đáp ứng các lợi ích kinh tế – xã hội của đất nước.
Thẩm định dự án đầu tư nhằm thực hiện sự điều tiết của Nhà nước trong đầu tư, bảo đảm sự cân đối giữa lợi ích kinh tế – xã hội của quốc gia và lợi ích của chủ đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư được thực hiện theo chế độ thẩm định của Nhà nước đối với các dự án có hoặc không có vốn đầu tư của đất nước; phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Cơ sở pháp lý về thẩm định dự án đầu tư
Theo “ Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định của chính phủ số 52/1999/NĐ - CP, ngày 08/7/1999.
“Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” ban hành kèm theo Quyết định số 324/1998/QĐ- NHNN ngày 30/9/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Theo Nghị định của Chính phủ số 12/2000/NĐ-CP, ngày 05/5/2000 về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ số 52/1999/NĐ-CP, ngày 08/7/1999.
Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, sửa đổi ngày 20/5/1998.
Theo Nghị định của Chính phủ số 51/1999/NĐ - CP, ngày 8/7/1999 về “ Quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước ”( sửa đổi ), số 03/1998/QH 10.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 12/11/1996; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày9/6/2000 (Sửa đổi từ: 1987,1990,1992).
Theo Nghị định của Chính phủ số 24/2000/NĐ-CP, ngày 31/7/2000 về “Quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
Theo Thông tư của Bộ Kế họach và Đầu tư số 12/2000/ TT- BKH, ngày 15/9/2000 về “Hướng dẫn họat động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
Theo Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
Theo Nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày20/4/1999 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 3/10/1996 của Chính phủ.
Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định.
Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Thông tư số 58/2002/TT-BTC ngày 28/6/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn Quy chế tài chính của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Quyết định số 1141-TC/QĐ/CCĐKT ngày 01/2/1995 của Bộ tài chính ban hành chế độ kế toán đối với doanh nghiệp.
Căn cứ định mức kinh tế kỹ thuật theo từng ngành nghề, từng vật nuôi cây trồng do các cơ quan có chức năng ban hành.
Các văn bản khác có liên quan ...
Các văn bản trên đây được thay đổi, bổ sung theo tưng thời điểm nhất định tuy theo từng thời kỳ. Do đó khi tiến hành thẩm định phải căn cứ vào tính hiệu lực của các văn bản có liên quan để thẩm định .
Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định kỹ thuật dự án
Thẩm định kinh tế dự án
Thẩm định tài chính dự án
Sự cần thiết thẩm định dự án đầu tư
Dưới góc độ của Doanh nghiệp
Tại sao chúng ta phải thẩm định dự án đầu tư? Dự án dù được chuẩn bị, phân tích kỹ lưỡng đến đâu vẫn thể hiện tính chủ quan của nhà phân tích và lập dự án, những khiếm khuyết, lệch lạc tồn tại trong quá trình dự án là đương nhiên. Để khẳng định được một cách chắc chắn hơn mức độ hợp lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự án, cần phải xem xét, kiểm tra lại một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn thảo dự án, hay nói cách khác, cần thẩm định dự án. Thẩm định dự án giúp cho chủ đầu tư khắc phục được tính chủ quan của người soạn thảo và giúp cho việc phát hiện, bổ sung những thiếu sót trong từng nội dung phân tích của dự án. Thẩm định dự án là một bộ phận của công tác quản lý đầu tư , nó tạo ra cơ sở vững chắc cho việc thực hiện hoạt động đầu tư có hiệu quả.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư , các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Nếu không có dựa án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Những công trình thế kỷ của nhân loại trên thế giới luôn là những minh chứng về tầm quan trọng của dự án. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ , các cơ quan chức năng của nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư. Dự án còn được coi là công cụ quan trọng trong quản lý vốn, vật tư, lao động trong quá trình thực hiện đầu tư. Do vậy, hiểu được những đặc điểm của dự án là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của dự án.
Xuất phát từ khái niệm dự án: dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định ( chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp). Từ đó có thể thấy được những đặc điểm cơ bản sau của dự án:
Một là, dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn hàm ý hành động với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái tiềm năng.
Hai là, dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực thể mới.
Ba là, dự án tồn tại trong môi trường không chắc chắn. Môi trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong dự án rủi ro thường là lớn và có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý dự án.
Bốn là, dự án bị khống chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi, tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế.
Năm là, dự án chịu sự rang buộc về nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tư, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp; mọi vấn đề có liên quan đến các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ, chẳng hạn, chủ đầu tư , nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công, các nhà kỹ thuật… Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án.
Một dự án sẽ thành công nếu các đặc điểm của dự án được các nhà quản lý dự án nhận biết và đánh giá một cách đúng đắn.
Từ sự hiểu rõ về thẩm định dự án và vai trò của dự án, thẩm định dự án chúng ta có thể thấy thẩm định dự án nằm trong khâu thứ hai của chuẩn bị đầu tư. Thẩm định dự án đã tạo ra tiền đề và quyết định sự thành công của các giai đoạn sau đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. Do đó, để dự án đi vào hoạt động tốt, với kết quả cao, cần phải có hoạt động thẩm định dự án trước khi quyết định đầu . Thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong công tác chuẩn bị đầu tư.
Chính vì vậy, đứng trên góc độ chủ đầu tư hay các doanh nghiệp , thẩm định dự án đầu tư là để ra quyết định đầu tư , có nên triển khai dự án hay không, việc triển khai dự án đem lại những lợi ích gì cho chủ đầu tư , so sánh chi phí sử dụng vốn với lợi ích đem lại của dự án, lựa chọn tỷ suất chiết khấu trong việc tính toán… Thẩm định dự án đầu tư nhằm giúp chủ đầu tư hay doanh nghiệp lựa chọn các dự án có tính khả thi cao (có khả năng thực hiện, đem lại hiểu quả và hiệu quả chắc chắn); loại bỏ được các dự án đầu tư không khả thi, tránh bỏ lỡ các cơ hội đầu tư có lợi. Mục đích của thẩm định dự án là giúp chủ đầu tư đánh giá tính hợp lý của dự án, tính hợp lý của dự án được thể hiện trong từng nội dung và cách thức tính toán của dự án, nó còn được thể hiện cả trong tính hiệu quả và khả năng thực hiện của dự án. Giúp chủ đầu tư đánh giá tính hiệu quả của dự án bao gồm: hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế- xã hội, đánh giá độ an toàn của dự án đầu tư ; đánh giá khả năng thực hiện của dự án: đây là mục đích rất quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có khả năng thực hiện. Mặt khác, tính hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có thể thực hiện được.
Dưới góc độ của Ngân hàng
Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng phải thẩm định trên nhiều phương diện khác nhau để làm sao có cái nhìn khách quan trước khi quyết định cho vay. NHTM với tư cách là người cho vay, tài trợ cho dự án đầu tư đạc biệt quan tâm đến khía cạnh thẩm định tài chính dự án, nó có ý nghĩa quyết định trong các nội dung thẩm định. Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, các khoản cho vay thường chiếm 59% tích sản của ngân hàng và 65 - 70% lợi tức ngân hàng sinh ra từ các hoạt động cho vay. Thành công của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công tín dụng, xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Trong các hoạt động cho vay của ngân hàng thì cho vay theo dự án được ngân hàng đạc biệt quan tâm vì nó đòi hỏi vốn lớn, thời hạn kéo dài và rủi ro cao nhưng lợi nhuận cao. Vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay nói chung và cho vay theo dự án nói riêng, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc không chi trả được nợ khi đến hạn. Do đó để quyết định có chấp nhận cho vay hay không, ngân hàng cần phải coi trọng phân tích tín dụng nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng. Thông qua việc thẩm định này, ngân hàng có cái nhìn toàn diện về dự án đánh giá về như cầu tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguôn vốn và tình hình sử dụng nguồn vốn, hiệu quả tài chính mà dự án mang lại cũng như khả năng trả nợ của dự án.
Với mục tiêu hoạt động là an toàn và sinh lời, do đó Ngân hàng chỉ cho vay đối với các dự án có hiệu quả tài chính tức là dự án mang lại lợi nhuần và khả năng trả nợ thì ngân hàng mới có thể thu hồi được gốc và lãi, khoản cho vay mới đảm bảo, Ngân hàng mới có được khoản vay có chất lượng.
Dưới góc độ của Nhà nước
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư bị chi phối bởi nhiêu nhân tố, song có thể phân chia thành nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan là nhân tố thuộc về nội bộ ngân hàng mà ngân hàng có thể kiểm soát, điều chỉnh. Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài môi trường tác động nó không thể kiểm mà chỉ khắc phục để thích nghi. Việc xem xét, đánh giá các nhân tố đó là rất cần thiết đối với ngân hàng trong việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Nhân tố chủ quan
Năng lực, kiến thức, kinh nghiệm của cán bộ thẩm định (yếu tố con người)
Con người đóng vai trò quan trọng mang tính chất quyết định tới thẩm định dự án đầu tư.Kết quả thẩm định tài chính dự án là kết quả của quá trình đánh giá dự án về nhiều mặt theo nhận định chủ quan của con người bởi vì con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện thẩm định theo phương pháp và kĩ thuật của mình.Mọi yếu tố khác sẽ không có ý nghĩa nếu như cán bộ thẩm định không đủ trình độ và phương pháp làm viẹc khoa học nghiêm túc,sai lầm của con người trong công tác thảm định dù vô tình hay cố ý đều dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng tới nhiều mặt của dự án,đặc biệt là ảnh hưởng tới bên cho vay vốn như ngân hàng,các tổ chức tín dụng…làm cho các tổ chức này khó khăn trog việc thu hồi nợ,nguy cơ mất vốn và suy giảm lợi nhuận kinh doanh là không thể tránh khỏi.
Thẩm định dự án là một công việc hết sức phức tạp,tinh vi nó không chỉ là việc tính toán theo những công thúc cho sẵn đòi hỏi cán bộ thẩm định phải hội tụ được các yếu tố :kiến thức,kinh nghiệm,năng lực và phẩm chất đạo đức.Kiến thức đó là sự am hiểu chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn và sự hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực trong đời sống khoa học- kinh tế-xã hội.Kinh nghiệm của cán bộ cũng có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình thẩm định,những tiếp xúc trong hoạt động thực tiễn như tiếp xúc với khách hàng,khảo sát nơi hoạt động của doanh nghiệp,phân tich báo cáo tài chính…sẽ giúp cho các quyết định của thẩm định chính xác hơn.Năng lực là khẳ năng nắm bắt và xử lý công việc trên cơ sở kiến thức kinh nghiệm.Ngoài 3 yếu tố trên ,cán bộ thẩm định phải có tính kỷ luật cao,phẩm chất đạo đức,lòng say mê và khả năng nhạy cảm trong công việc.Nếu cán bộ thẩm định không có phẩm chất đạo đức tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng làm mát uy tín của ngân hàng,đưa ra những nhận xét đánh giá thiếu tính khách quan,minh bạch làm cơ sở cho việc quyết định cho vay của ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác.Sự hội tụ các yếu tố trên sẽ là cơ sở tiền đề cho những quyết định đúng đắn của cán bộ thẩm định dự án,từ đó giúp ngân hàng lựa chọn những dự án bảo đảm khả năng trả nợ của các chủ dự án theo những thỏa thuận đac bàn.
Trong xu thế phát triển như hiện nay,dự án đầu tư không chỉ giới hạn trong phạm vi của các doanh nghiệp trong nước mà nó có sự liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài thì vấn đề nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định là cấp bách và phải được ưu tiên.
Thông tin, tài liệu thu thập phục vụ cho quá trình thẩm định
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc thu thập những thông tin về khách hàng phục vụ cho quá trình thẩm định không phải là vấn đề khó khăn mà làm sao để các nguồn thông tin thu thập được phải đảm bảo đầy đủ, chính xác và kịp thời. Việc lấy tài liệu, thông tin ở đâu với số lượng bao nhiêu phải được cân nhắc tính toán thận trọng trước khi tiến hành phân tích, đánh giá dự án. Thông tin mà ngân hàng có thể thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau:
Từ khách hàng xin vay vốn: Ngân hàng căn cứ vào hồ sơ dự án do chủ đầu tư gửi đến, phỏng vấn trực tiếp người xin vay vốn, điều tra nơi hoạt động kinh doanh của người xin vay vốn, các báo cáo tài chính. Trong đó nguồn thông tin từ hồ sơ dự án là nguồn thông tin cơ bản nhất.
Từ trung tâm tín dụng của NHNN như sổ sách của các ngân hàng mà khách hàng vay vốn đã từng có quan hệ để thấy được năng lực vay nợ, uy tín của khách hàng.
Từ các nguồn thông tin bên ngoài về tín dụng.......
Thông tin chính là nguồn nguyên liệu chính phục vụ cho quá trình tác nghiệp của cán bộ thẩm định. Do đó, số lượng cũng như chất lượng và tính kịp thời của thông tin có tác đông rất lớn đến chất lượng thẩm định. Nếu thông tin không chính xác thì mọi quá trình thẩm định từ đầu cho đến cuối đều không có ý nghĩa cho dù chúng ta sử dụng các phương pháp hiện đại như thế nào, thông tin chính xác là điều kiện để đưa ra những đánh giá đúng. Thông tin thiếu, không đầy đủ dẫn đến chất lượng thẩm định không tốt hoặc không thẩm định được, nhất là những thông tin không cân xứng có thể dẫn tới lựa chọn đối nghịch, gây rủi ro cho ngân hàng. Do đó, việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn có liên quan đến dự án là rất cần thiếu, tuy nhiên khái niệm đầy đủ chỉ mang nghĩa tương đối. Vấn đề là các nguồn thông tin phải đẩm bảo độ tin cậy, có ý nghĩa quyết định. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, thì tính kịp thời của các nguồn thông tin thu thập được có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thẩm định, sự chậm trễ của thông tin làm ảnh hưởng không tốt trong mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, nhất là khách hàng truyền thống và có thể làm mất cơ hội tài trợ cho một dự án tốt.
Ngoài ra, bên cạnh việc có được các nguồn thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời thì việc lựa chọn phương pháp xử lý, lưu trữ và sử dụng các thông tin đó đúng mục đích cũng cần được quan tâm.
Như vậy, thông tin có vai trò rất quan trọng trong quá trình thẩm định tài chính dự án, song để có thể thu thập, xử lý, lưu trữ thông tin một cách có hiệu quả cần phải có các trang thiết bị và các phần mền hỗ trợ.
Phương pháp và tiêu chuẩn thẩm định
Trên cơ sở các thông tin đễ thu thập được thì việc lựa chọn phương pháp thẩm định cũng rất quan trọng. Đó là việc lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá, cách thức xử lý thông tin một cách khoa học, tiên tiến, phù hợp với từng dự án cụ thể giúp cho cán bộ thẩm định phân tích, tính toán hiệu quả tài chính dự án nhanh chóng, chính xác, dự báo các khả năng có thể xảy ra trong tương lai để tránh được các rủi ro.
Phương pháp thẩm định: việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau tùy thuộc vào nội dung của dự án xem xét. Việc lụ chọn phương pháp thẩm định phù hợp đối với từng dự án là một yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng thẩm định. Các phương pháp thẩm định thường được sử dụng đó là phương pháp so sánh, phương pháp thẩm định theo trình tự, phương pháp phân tích độ nhạy của dự án. Tuy nhiên phương pháp chung để thẩm định là so sánh đối chiếu nội dung của dự án với các chuẩn mực đã được quy định bởi pháp luật và các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật thích hợp hoặc thông lệ quốc tế cũng như trong nước và các kinh nghiệm thực tế.
Tiêu chuẩn thẩm định: để thẩm định dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, mặc dù trong thẩm định dự án cũng có những vấn đề được phân tích lựa chọn trên cơ sở định tính. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật cần thiết phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xây dựng tiêu chuẩn để đánh giá các chỉ tiêu đó. Để có cơ sở đánh giá dự án thì việc nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu hoặc các chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết, trước hết là các chỉ tiêu về tài chính và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả dự án như: tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho từng loại dự án, thời gian hoàn vốn tiêu chuẩn, hệ số đảm bảo trả nợ, suất đầu tư hoặc suất chi phí cho mỗi loại công trình, hạng mục công trình…Đây là những điểm phải được đặc biệt chú ý đối với các cơ quan quản lý đầu tư tổng hợp như các bộ và từng địa phương.
Hệ thống trang thiết bị phục vụ cho quá trình thẩm định
Với việc phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện này đã tạo điều kiện cho các ngân hàng ngày càng hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ đắc lực cho công tác chuyên môn của mình. Bằng hệ thống máy tính hiện đại và các phần mền chuyên dụng đã giúp cho công tác thẩm định tài chính dự án diễn ra thuận lợi hơn, với việc tính toán các chỉ tiêu được nhanh chóng, chính xác chỉ trong tích tắc rút ngắn thời gian thẩm định dự án. Chỉ trong thời gian ngắn máy tính có thể xử lý lưu trữ được một khối lượng thông tin khổng lồ, với khả năng nối mạng như hiện nay thì việc truy cập để tìm kiếm những thông tin cần thiết phục vụ cho thẩm định dự án là rất đơn giản và nhanh chóng giúp cho ngân hàng tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Với việc ứng dụng các phầm mền chuyên dụng đã giúp cho cán bộ thẩm định giải quyết được những vấn đề tưởng trừng không thể làm được. Từ đó, chất lượng thẩm định ngày càng được nâng cao.
Tổ chức công tác thẩm định
Là việc bố trí sắp xếp quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cá nhân, bộ phận tham gia thẩm định, trình tự tiến hành cũng như mối quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận đó trong việc thực hiện, cần có sự phân công phân nhiệm cụ thể, khoa học và tạo ra được cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong khâu thực hiện nhưng không cứng nhắc, tạo gò bó nhằm đạt được tính khách quan và việc thẩm định được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện mà vẫn bảo đảm chính xác.Sự phối hợp các bộ phận trong quá trình thẩm định sẽ tránh được sự chồng chéo, phát huy được những mặt mạnh, hạn chế những mặt yếu của mỗi tác nhân và trên cơ sở đó giảm bớt chi phí cũng như thời gian thẩm định. Như vậy việc tổ chức, điều hành hoạt động thẩm định nếu xây dựng được một hệ thống mạnh, phát huy tận dụng được tối đa năng lực sáng tạo của cá nhân và sức mạnh tập thể sẽ nâng cao được chất lượng thẩm định.
Thời gian và chi phí ảnh hưởng đến thẩm định dự án
Việc tuân thủ theo như quy định của công tác thẩm định là rất cần thiết tuy nhiên đối với những dự án phức tạp đôi khi đó là một rào cản .Việc tuân thủ không đúng thời gian có thể dẫn đến công tác thẩm định một cách sơ sài,những dự án khi cho vay sẽ gặp những rủi ro gây hiệu quả xấu cho ngân hàng. Trên thực tế cho thấy, các cán bộ quản lý chưa phân bổ thời gian hợp lý để các cán bộ thẩm định tuân thủ đúng. Ví dụ như phân bổ thời gian đi thu thập thông tin không ấn định cụ thể rõ ràng ngày hoàn thành và yêu cầu nội dung thông tin phai như thế nào dẫn đến các cán bộ thẩm định lơ là không chú tâm hoàn thành công việc. Đồng thời kiểm tra giám sát không gắt gao khiến cho công tác thẩm định không hiệu quả, mất thời gian mà chất lượng không cao.
Chi phí thẩm định cũng là nhân tố giúp công tác thẩm định được hoàn thiện và là một phần không thể thiếu trong bất kì hoạt động nào. Tuy nhiên trong chi phí thẩm định cũng cần quản lý rõ ràng minh bạch, tránh thất thoát lãng phí, bỏ ra chi phí ít để hiệu quả thẩm định không cao.
Nhân tố khách quan
Thẩm định dự án bị chi phối bởi nhiều nhân tố khách quan, đó là những nhân tố bên ngoài tác động vào dự án làm cho chất lượng thẩm định tài chính dự án bị giảm sút. Các dự án thường có tuổi thọ dài, do đó rủi ro mà các nhân tố khách quan mang lại là rất khó dự báo như: tình hình kinh tế, chính trị, các cơ chế chính sách, pháp luật của nhà nước... mà các nhân tố này luôn luôn thay đổi và nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng và chủ dự án.
Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế nước ta hiện nay cũng là một trong những nhân tố khách quan tác động vào dự án và làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định dự án. Một nền kinh tế của một quốc gia phát triển thiếu đồng bộ và không ổn định sẽ hạn chế trong việc cung cấp thông tin chính xác để phục vụ cho công tác thẩm định. Đồng thời những định hướng, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội theo vùng, lãnh thổ, ngành chưa được xây dựng cụ thể, đồng bộ và ổn định cũng là yếu tố gây rủi ro trong phân tích, đánh giá và đi đến chấp nhận dự án. Nhiều yếu tố nằm ngoài tầm dự báo của ngân hàng hay chủ đầu tư như: thiên tai, chiến tranh, khủng bố,… làm cho ngân hàng không thể thu hồi vốn bởi vì rủi ro này ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự án và Doanh nghiệp hay chủ đầu tư không tự chống đỡ được.
Môi trường pháp lý
Là yếu tố quyết định đến tốc độ quá trình thẩm định cũng như độ chính xác của công tác thẩm định.Với một quốc gia đang phát triển và còn nhiều bất cập trong pháp luật như Việt Nam thì môi trường pháp lý còn rất nhiều điểm yếu kém. Các thủ tục pháp lý rườm rà,các luật định còn lỏng lẻo, tính minh bạch pháp lý thấp….Trong vài năm trở lại đây pháp luật cũng được sửa đổi nhiều làm hệ thống pháp luật chặt chẽ và tính thông thoáng cao hơn,tuy nhiên những bất cập vẫn còn tồn tại nhiều và làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nói chung cũng như công tác thẩm định nói riêng.
Những khiếm khuyết trong tính hợp lí đồng bộ và hiệu lực của các văn bản pháp lí của Nhà nước đều tác động xấu đến chất lượng thẩm định (cũng như kết quả hoạt động của dự án). Ví dụ sự mâu thuẫn chồng chéo của các văn bản, dưới luật về các lĩnh vực, sự thay đỏi liên tục những văn bản về quy chế quản lí tài chính, tính không hiệu lực của pháp lệnh kế toán thống kê… làm thay đổi tính khả thi của dự án theo thời gian cũng như khó khăn cho Ngân hàng trong việc đánh giá, dự báo rủi ro, hạn chế trong thu thập những thông tin chính xác (ví dụ như một doanh nghiệp có nhiều loại báo cáo tài chính phục vụ cho những mục đích khác nhau).
Chương 3: Thực trạng và giải pháp để nâng cao chất lượng thẩm định dự án
Nhân tố chủ quan
Năng lực,kiến thức,kinh ghiệm của cán bộ thẩm đinh dự án
Thực trạng
Vẫn biết yếu tố con người là quan trọng nhưng hiện nay những cán bộ thẩm định vẫn còn là một vấn đề bất cập.Như chúng ta đã biết ngành ngân hang tài chính của nước ta mới phát triển những năm gần đây,cán bộ trong ngành còn chưa có nhiều kinh nghiệm nghiệp vụ trong khi đó khối lượng thẩm định dự án là rất lớn và rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực .
Hiện nay tại các ngân hàng vẫn còn những cán bộ chưa có bằng đại học,những người làm trái ngành nghề.Đặc biệt là tại các ngân hàng nhà nước khi mà vẫn còn dùng các mối quan hệ để có được những công việc này.Cụm từ “con ông cháu cha” vẫn được áp dụng ở lĩnh vực này,một lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và trình độ.
Phòng thẩm định thường có khá nhiều cán bộ nhưng phòng thẩm dịnh thì ít nhân viên hơn,có cả nhân viên mới ra trường ,công việc khá nhiều….điều này đã ảnh hưởng tới công tác thẩm định do chưa có khinh nghiệm trong công tác thẩm đinh nhất là trong lĩnh vực kĩ thuật
Một vấn đề nữa là các cán bộ thẩm định vẫn còn bị tha hóa về nhân phẩm khi cấu kết với các chủ dự án để hòng bỏ túi 1 khoản lợi nhuận cho riêng mình.rất nhiều ngân hàng,nhiều tổ chức tín dụng bị thiệt hại lớn..
Giải pháp
Vậy đứng trước những bất câọ như vậy chúng ta có nhưng giải pháp gì để khắc phục thực trạng trên?
Đầu tiên ở khâu lựa chọn cán bộ thẩm định,ta phải chọn những cán bộ thẩm định:
+ Về năng lực chuyên môn phải có trình độ đại học trở lên,phải có kiến thức cơ bản tài chính và về kinh tế thị trường,hoạt đông tài chính và pháp luật,phải thong thạo ngoại ngữ và công nghệ thong tin lien quan đến lĩnh vực thẩm định.Biết phân tích đánh giá các dự án đầu tư và các vấn đề liên quan thuần thục,sáng tạo và tìm ra nhiều phương pháp mới.
+ Về kinh nghiệm,cán bộ thẩm định phải là người trực tiếp tham gia giám sát,theo dõi và quản lý nhiều dự án,biết đức kết kinh nghiệm từ các lĩnh vực khác phục vụ cho chuyên môn của mình.
+ Về đạo đức nghề nghiệp,cán bộ thẩm định phải trung thực,có tính kỷ luật cao,tinh thần trách nhiệm trong công việc,có lòng say mê,tâm huyết với nghề nghiệp.
Thông tin
Thực trạng
Các thông tin này chủ yếu được cung cấp từ khách hàng.Mặc dù có sự tiếp xúc trực tiếp giưã cán bộ thẩm định và khách hàng nhưng những thông tin được cung cấp phần lớn mang tính có lợi cho doanh nghiệp ,mang độ chính xác không cao.Vì vậy quản lý bổ sung những thông tin chính xác từ phía khách hàng đòi hỏi khá nhiều thời gian ,làm chậm tiến độ thẩm định dự án
Các thông tin thu thập từ báo chí,internet,khách hàng của doanh nghiệp nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ,thông tin tuẹc tế vẫn rất ít.Chưa có sự kiểm tra tiến độ thực hiện dự án thường xuyên
Giải pháp
Phương pháp và tiêu chuẩn
Thực trạng
Mặt tích cực: các phương pháp thẩm định được áp dụng ngày càng khoa học hiện đại và các chỉ tiêu được sử dụng trong quá trình thẩm định cũng được áp dụng khá linh hoạt tùy theo từng loại dự án. Điều này được thể hiện ở chỗ: mặc dù quy trình thẩm định đã quy định rõ các bước,các công đoạn trong quá trình thẩm định song trên thực tế vẫn có khoảng mở nhất định, nghĩa là việc lựa chọn chỉ tiêu nào và lựa chọn bao nhiêu chỉ tiêu để đánh giá đối với mỗi dự án là tùy thuộc vào trình độ và cách nhìn nhận của cán bộ thẩm định…. Tuy nhiên mục tiêu cuối cùng của sự phân tích đánh giá vẫn là đảm bảo tính khách quan và tổng thể toàn diện nhất.
Những mặt còn hạn chế: việc kết hợp các phương pháp và sử dụng từng chỉ tiêu trong quá trình thẩm định còn nhiều hạn chế.
Phương pháp so sánh các chỉ tiêu đôi khi còn mang tính giản đơn: các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư hoặc các chỉ tiêu về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên vật liệu, nhân công… chưa có sự so sánh kĩ lưỡng với các dự án tương tự và kết hợp chuyên sâu với các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật của bộ ngành. Các tiêu chuẩn về công nghệ thiết bị còn thiếu chuẩn mực để kiểm tra đối chứng.
Phương pháp dự báo vẫn chưa được áp dụng một cách khoa học các thông tin về cung cầu sản phẩm, giá cả, chất lượng, công nghệ, thiết bị…. Mới chỉ được thu thập qua sách báo tạp chí , các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày mà các nguồn thông tin này nhiều khi không thực sự đầy đủ và cập nhật. Mặt khác việc áp dụng các phương pháp toán học hiện đại còn chưa phổ biến và cập nhật thường xuyên. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác dự báo, làm giảm độ chính xác của các chỉ tiêu hiệu quả.
Các phương pháp phân tích rủi ro chưa được chú trọng một cách đúng đắn. Phân tích rủi ro thông qua phân tích độ nhạy là một trong những phân tích hiện đại nhưng chưa thực sự phát huy hết hiệu quả nếu có cũng chủ yếu ở phân tích độ nhạy một chiều, việc lựa chọn yếu tố dao động, khoảng dao động còn mang tính chủ quan vì vậy kết quả phân tích có tính hiệu quả không cao.
Thông thường đánh giá một dự án được nhìn nhận trên 2 tiêu chí chủ yếu là: các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật và các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Ở nước ta hiện nay nhiều khi có sự mâu thuẫn lợi ích giữa 2 chỉ tiêu này trên các góc độ thẩm định khác nhau gây khó khăn trong công tác thẩm định và ra quyết định của các bên liên quan. Đồng thời các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật đôi lúc còn thiếu sự đồng bộ và không phù hợp với yêu cầu thực tiễn khách quan ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thẩm định.
Giải pháp
Cần có sự vận dụng các phương pháp thẩm định toàn diện hơn không chỉ xét đến sự phù hợp mà còn cả tính hiệu quả của việc kết hợp chúng với nhau, điều này yêu cầu cần thường xuyên cập nhật và hoàn thiện hệ thống các phương pháp và tiêu chuẩn thẩm định.
Về phía các cá nhân tổ chức thẩm định cần có sự phối hợp với các cơ quan chức năng nhằm có những đánh giá toàn diện và đầy đủ hơn về phía các doanh nghiệp cần thẩm định.
Cần áp dụng các phương pháp phân tích hiện đại trong phân tích và dự báo cung cầu sản phẩm , lựa chọn một phương pháp phù hợp nhất hoặc kết hợp nhiều phương pháp nhằm làm tăng tính chính xác cho các kết quả dự báo.
Về phía nhà nước cần nghiên cứu và đưa ra các chỉ tiêu kinh tế-xã hội và kinh tế-kĩ thuật đầy đủ và toàn diện hơn, đảm bảo tính đồng bộ thống nhất là căn cứ pháp lý và kĩ thuật giúp các bên liên quan có cơ sở thống nhất để đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể thích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định sau này.
Việc áp dụng các chỉ tiêu trong công tác thẩm định cần linh hoạt và phù hợp với từng phương pháp thực hiện và thực trạng của từng đơn vị , cá nhân tổ chức thẩm định cũng như các quy phạm pháp lý chung của nhà nước và quốc tế.
Tổ chức công tác thẩm định
Công tác thẩm định trong và sau khi dự án chưa được xem trọng.Để đành giá việc thẩm định đạt kết quả cao hay không,điều quan trọng phải xem xét khi đi vào thuẹc tế có đúng nội dung thẩm định hay không.Tuy nhiên hiện nay những báo cáo về hoạt động của phòng thẩm định chủ yếu chỉ đề cập đến số lượng mà chưa chú trọng đến phần đánh giá sau dự án .Nếu việc đánh giá sau dự án được xem trọng có thể đánh giá chính xác hơn về năng lực của cán bộ thẩm định và tích luỹ được kinh nghiệm cho dự án tiếp theo.
Thời gian thẩm định
Việc tuân thủ theo như quy định của công tác thẩm định là rất càn thiết tuy nhiên đối với những dự án phức tạp đôi khi đó là một rào cản .Việc tuân thủ đúng thoeig gian có thể dẫn đến công tác thẩm định một cáhc sơ sài,nhuẽng dự án khi cho vay sẽ gặp những rủi ro gây hiệu quả xấu cho ngân hàng.
Giaỉ pháp : Cần xác định thời gian hợp lý vừa đảm bảo dự án đi vào hoạt động đồng thời tránh rủi ro cho bên chủ đầu tư hoặc ngân hàng
Nhân tố khách quan
Môi trương kinh tế
Thực trạng
Ở nước ta hiện nay, sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện.Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo.Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng.Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng điện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, trong đó có những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích còn nặng; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm; quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém; tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; tổ chức thực hiện kém hiệu quả, nhiều việc nói chưa đi đôi với làm; chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi.
Bước sang năm 2011ngay từ khi dự đoán đã được xem là một năm khó khăn của Việt Nam với mục tiêu hàng đầu giữ vững tăng trưởng, ngăn chặn lạm phát. năm 2011 thực hiện tập trung ưu tiên hàng đầu trong việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo. Chính phủ vừa ban hành Nghị Quyết 11 đề ra một loạt các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, theo đó, chính sách tiền tệ và tài khóa đều buộc phải thắt chặt.Ngoài ra, Chính phủ cũng tăng cường sử dụng các biện pháp hành chính như siết lại các hoạt động mua bán vàng và ngoại tệ trên thị trường tự do, NHNN đưa ra thông tư luật hóa trần lãi suất huy động không quá 14%.Những giải pháp trên nhằm giải quyết các bất ổn vĩ mô trong ngắn hạn nhưng đổi lại Việt Nam phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại, lãi suất cao gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Đây cũng là một tín hiệu cho thấy kinh tế năm 2011 sẽ tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn.
1. Tỷ lệ đầu tư vẫn cao nhưng tăng trưởng kinh tế đã suy giảm:
- Tăng trưởng kinh tế giảm mạnh: Theo Tổng cục Thống kê, Tổng giá trị GDP trong quý 1 tính theo giá thực tế đạt 441.70 nghìn tỷ đồng, theo giá năm 1994 đạt 109.31 nghìn tỷ đồng. Tăng trưởng kinh tế trong quý 1/2010 đạt 5.43%, trong đó tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 5.47%, nông nghiệp đạt 2.05 % và dịch vụ đạt 6.28%. Trước đó, trong năm 2010 tăng trưởng GDP quý 4 đạt 7.34%, quý 3 đã đạt 7.18%, còn quý 1 và quý 2 lần lượt đạt 6.4% và 5.83%.Như vậy, quý 1/2011 là giai đoạn có tăng trưởng GDP thấp nhất kể từ quý 3/2009 đến nay.
Tăng trưởng kinh tế quý 1 khá thấp ngoài tính chu kỳ còn do tác động của bất ổn vĩ mô. Lãi suất và lạm phát cao buộc các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu làm giảm tổng cầu trong nền kinh tế.Mặc dù tăng trưởng kinh tế suy giảm mạnh nhưng sản xuất công nghiệp trong quý 1 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng 14.4%, cao hơn mức 14% trong năm 2010. Trong đó, tăng trưởng sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế nhà nước chỉ tăng 3.6%, ngoài nhà nước tăng 17.4% và khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 16.8%.
-Tỷ lệ đầu tư vẫn cao và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện: Cũng theo Tổng cục Thống kê, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội quý 1/2011 vào khoảng 171.5 nghìn tỷ đồng, tăng 14.7% so cùng kỳ và bằng 38.8% của GDP.Trong đó, khu vực nhà nước đầu tư 76.4 nghìn tỷ đồng, chiếm 44.5% và tăng 15.2%; khu vực ngoài nhà nước 45.6 nghìn tỷ đồng và chiếm 26.6%, tăng 28.5%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài 49.5 nhìn tỷ đồng chiếm 28.9% và tăng 3.8% so với cùng kỳ.
Số liệu trên cho thấy đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao trong nền kinh tế. Trong khi đó, hiệu quả đầu tư vẫn ở mức rất thấp thể hiện qua hệ số ICOR quý 1 đang ở mức 7.15 lần, cao hơn con số 6.2 lần của cả năm 2010.Chất lượng đầu tư thấp cho thấy tính bền vững trong tăng trưởng của nền kinh tế đang gặp thách thức nghiêm trọng.
2. Lạm phát gia tăng gây áp lực cho bất ổn trong nền kinh tế :
CPI tháng 3/2011 tăng 2.17% so với tháng 2, và như vậy đã tăng 6.12% so đầu năm và tăng 13.89% so với cùng kỳ năm trước. CPI tháng 3 có mức tăng cao nhất kể từ tháng 6/2008 đến nay. Trước đó, CPI tháng 12/2010 tăng 1.98%, tháng 1/2011 tăng 1.74% và tháng 2 tăng 2.09%.Xét theo các mặt hàng cụ thể, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1.98%, lương thực tăng 2.18%, thực phẩm tăng 1.57% so với tháng trước.Mức tăng cao nhất thuộc về nhóm giao thông với mức tăng 6.69% do chịu tác động mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu.
Tiếp ngay sau mức tăng mạnh trên thì CPI nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng thêm tới 3.67% do chịu ảnh hưởng của tăng giá chất đốt, thép xây dựng, xi măng và nhiều loại vật liệu xây dựng khác.Ngoài ra, CPI của hầu hết các nhóm hàng hóa khác cũng tăng khá mạnh.
Ngoài các nguyên nhân có tính ngắn hạn và có phần khách quan kể trên thì nguyên nhân cơ bản làm cho lạm phát tăng mạnh vẫn do các yếu kém trong nội tại nền kinh tế.Có thể dẫn chứng các yếu tố như hiệu quả đầu tư thấp khi hệ số ICOR liên tục ở mức 6-8 lần trong mấy năm gần đây, và tăng trưởng tín dụng và cung tiền lại quá cao.Tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt trung bình khoảng 7% nhưng tăng trưởng tín dụng luôn duy trì quanh mức 30%, tăng trưởng cung tiền cũng ở mức tương ứng. Do vậy, lạm phát do cung tiền như là một hệ quả tất yếu của việc mất cân đối giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra.
3. Dòng vốn đầu tư vào Việt Nam đang chậm lại :
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tính từ đầu năm đến ngày 22/3/2011 đạt 2.37 tỷ USD, giảm 33.1% so với cùng kỳ năm 2010. Trong khi đó, vốn thực hiện ước tính đạt 2.54 tỷ USD, tăng 1.6% so với cùng kỳ năm 2010. Như vậy, vốn đăng ký giảm mạnh tuy không hẵn là một tín hiệu tiêu cực nhưng là một hồi chuông cảnh tỉnh đối với những người quá kỳ vọng vào dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Trong suốt những năm vừa qua vốn đăng ký vào Việt Nam khá lớn. Tuy nhiên, con số thực tế giải ngân quanh mức 10 đến 12 tỷ USD và tốc độ tăng đang chững lại. Gần đây, một số dự án có mức đầu tư hàng tỷ USD bị rút chứng nhận đầu tư do chủ đầu tư thiếu năng lực tài chính. Bên cạnh đó, có nhiều cảnh báo của các nhà kinh tế về việc các nhà đầu tư nước ngoài đang chuyển công nghệ lạc hậu, ô nhiễm và tốn năng lượng vào Việt Nam hay tình trạng chiếm đất và ”kinh doanh dự án” của một số nhà đầu tư nước ngoài.
Do vậy, đã đến lúc cần quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng vốn đầu tư nước ngoài.
4. Lãi suất chạy đua:Đầu năm 2011, tỉ giá và lãi suất cho vay ở các ngân hàng đã bị đẩy lên đến con số 20%/năm, gây sốc cho thị trường tài chính và các nhà sản xuất kinh doanh. Lãi suất cao như hiện nay có nhiều nguyên nhân:- Trước tình hình lạm phát cao, các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất để huy động được vốn.- Việc giám sát và xử lý các vi phạm của các ngân hàng thương mại còn nhẹ tay, cho nên các ngân hàng đua nhau cạnh tranh nâng lãi suất đầu vào, và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng.- Tính tự chủ của Ngân hàng Trung ương còn ở mức thấp, hạn chế trong việc sử dụng nguồn tiền để can thiệp mạnh trên thị trường tiền tệ.Mặt bằng lãi suất cao sẽ gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế, dẫn đến những rủi ro cao.Doanh nghiệp vay vốn với lãi suất cao khả năng sinh lời sẽ thấp, dễ dẫn đến kinh doanh thua lỗ, hoặc phá sản, không có khả năng trả nợ. Ngoài ra, lãi suất càng cao rủi ro cho nền kinh tế sẽ càng lớn, kìm hãm những hoạt động đầu tư sinh lời, các dự án cũng sẽ chậm được triển khai. Bên cạnh đó, nó còn có thể dẫn đến hiện tượng các nhà sản xuất kinh doanh nản lòng trong đầu tư, và mang tiền gửi lại cho ngân hàng.Vì vậy, nếu để lãi suất tiếp tục tăng thì đó là dấu hiệu bất thường của nền kinh tế.
Giải pháp
Với thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay còn có nhiều điểm thiếu tính đồng bộ và không ổn định như đã phân tích trên đây đã làm hạn chế trong việc cung cấp thông tin chính xác cho công tác thẩm định một dự án đầu tư, đánh giá và đi đến việc chấp nhận dự án hay không. Từ đây, có thể đưa ra nhà nước ta đã đưa ra nhiều giai pháp để ổn định nền kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho đầu tư nói chung và thẩm định dự án nói riêng. Cụ thể như sau:
1.Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô:
Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội. Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế.
2.Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối lợi ích công bằng.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, cơ chế quản lý giá, pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công. Thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỉ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty. Quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn. Tăng cường vai trò giám sát ngân sách của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
3. Chính sách tiền tệ phải chủ động và linh hoạt thúc đẩy tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền:
Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng.Mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. Điều hành chính sách lãi suất, tỉ giá linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối và vàng; từng bước mở rộng phạm vi các giao dịch vốn; tăng cường kiểm tra, kiểm soát tiến tới xóa bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Kiện toàn công tác thanh tra, giám sát hoạt động tài chính, tiền tệ.
Môi trương pháp lý
Thực trạng
Đáng tiếc là, môi trường pháp lý ở nước ta hiện nay đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho khá nhiều doanh nghiệp áp dụng cách tiêu cực. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta rất đồ sộ nhưng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, rất dễ bị vô hiệu bằng những công văn – một trong những văn bản dưới luật – và việc thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt hiện nay là môi trường vô cùng thuận lợi cho những hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Còn vi phạm nghĩa vụ nộp các loại bảo hiểm bắt buộc cho người lao động và xả thải ra môi trường thì gần như các doanh nghiệp đang vô tư thực hiện mặc dù văn bản cấm thì không ít! Liên kết và hoạt động dưới sự bảo kê của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực để thu được những khoản lợi nhuận siêu ngạch cũng là phương thức rất hữu hiệu của các doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là nhiều dự án kinh doanh bất động sản, xây dựng…
Dấu ấn của cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp trước đây vẫn còn rất nặng nề trong mối quan hệ giữa cơ quan công quyền thuộc bộ máy Nhà nước.Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa thực sự cung cấp cho nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp những dịch vụ công thuận tiện nhất. Ngược lại, các cơ quan công quyền vẫn chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, giám sát một cách máy móc. Điều đó thể hiện ở hệ thống khổng lồ những thủ tục hành chính, giấy phép con vô lý…gây khó khăn cho công tác thẩm định.Một trong những “kẻ thù” của việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp là tham nhũng . Dự thảo Báo cáo chính trị sẽ được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng sắp tới đã nhận định: "Nhiều khuyết điểm, sai lầm của tổ chứ và cán bộ thẩm định chậm được phát hiện; chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…. ". Tham nhũng là vật cản vô cùng lớn đối với việc thiết lập một hệ thống quản trị thẩm định tiến tiến theo thông lệ quốc tế. Bởi lẽ, tham nhũng sẽ thủ tiêu sự công khai, minh bạch; làm rối loạn sổ sách kế toán và báo cáo thẩm định; tham nhũng “cạnh tranh” gay gắt với các Nhà tư vấn – vốn được coi là “Bác sĩ” của doanh nghiệp; tham nhũng cũng có thể đưa một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng thành những gương điển hình với những danh hiệu cao quý; tham nhũng có thể tôn vinh một số cá nhân vi phạm pháp luật đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thành anh hung lao động, v.v… Với những tác động như trên của tham nhũng thì việc cải tiến, áp dụng những biện pháp cần thiết để nâng cao năng lực quản trị thẩm định là một thách thức lớn.
Chính những bất cập trong chính sách quản lý trên đã dẫn đến sai lệch hoặc thậm chí còn là nguyên nhân để các cơ quan đơn vị tiến hành thẩm định không chính xác, không trung thực khiến cho dự án đầu tư có thể vì thế mà trở thành dự án xấu.
Giải pháp
Với tác động của môi trường pháp lý đến vấn đề quản trị doanh nghiệp nhất thiết cần phải hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật theo hướng nâng cao hơn nữa chất lượng văn bản khi ban hành, xử lý nghiêm tình trạng sử dụng công văn để sửa hoặc bổ sung nội dung thuộc phạm vi của văn bản quy phạm pháp luật và nhanh chóng sửa đổi những nội dung không phù hợp, gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được “chỉ đích danh” trong kết quả bước đầu của Đề án 30. Vấn đề quan trọng hơn cả là đảm bảo chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành. Một trong những điều kiện để đáp ứng được yêu cầu đó là triển khai thực hiện phân tích đánh giá tác động pháp luật (RIA) trong quá trình làm luật.Từ tháng 3/2009, việc đánh giá RIA là bắt buộc khi ban hành các văn bản luật. Theo tính toán của OECD, việc thực hiện RIA sẽ làm phát sinh chi phí cho Chính phủ khoảng trên 10.000 đô la hàng năm, nhưng lại có thể giúp tiết kiệm được 300.000 đô la do giảm được thời gian dành cho việc ban hành các quy định không cần thiết cũng như thời gian soạn thảo. Song, chưa có thông tin nào cho thấy việc thực hiện các quy định về RIA được thực hiện.Bộ Tư pháp có trách nhiệm báo cáo đánh giá nhưng chưa có báo cáo nào được công bố. Bên cạnh đó, thực hiện quyết liệt hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.Có thể đánh giá rằng trong 5 năm qua, khá nhiều quy định quan trọng trong luật phòng chống tham nhũng đang… bị “treo”. Chẳng hạn như, quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy định về kiểm tra và xử lý vi phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn; quy định về minh bạch tài sản, thu nhập; quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xẩy ra tham nhũng; quy định về cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán nhằm phòng ngừa tham nhũng….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tong Hop lan 2.docx