Đề tài Các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Tài liệu Đề tài Các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu thành quả to lớn: các ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao như công nghệ thông tin, chế tạo máy; ngành nông nghiệp từng bước máy móc hoá đã làm cho năng suất lao động cải thiện rõ rệt đưa nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú và đa dạng, nhiều doanh nghiệp mới thành lập và nhiều tập đoàn đầu tư lớn đã xuất hiện tại Việt Nam, đời sống dân ta ngày càng nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi ngày càng nhiều vốn đầu tư. Một trong những kênh huy động vốn đầu tư thông dụng trên thế giới là thị trường chứng khoán. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán, với nhiều nổ lực, ngày 20/07/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Từ ngày thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 11 năm hoạt động và phát triển. Tuy nhiên đó không phải là thời gian dài đủ để cho các yếu tố thị trường và n...

doc57 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 999 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu thành quả to lớn: các ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao như công nghệ thông tin, chế tạo máy; ngành nông nghiệp từng bước máy móc hoá đã làm cho năng suất lao động cải thiện rõ rệt đưa nước ta xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú và đa dạng, nhiều doanh nghiệp mới thành lập và nhiều tập đoàn đầu tư lớn đã xuất hiện tại Việt Nam, đời sống dân ta ngày càng nâng cao. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi ngày càng nhiều vốn đầu tư. Một trong những kênh huy động vốn đầu tư thông dụng trên thế giới là thị trường chứng khoán. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường chứng khoán, với nhiều nổ lực, ngày 20/07/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Từ ngày thành lập đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 11 năm hoạt động và phát triển. Tuy nhiên đó không phải là thời gian dài đủ để cho các yếu tố thị trường và nhà đầu tư hoàn thiện. Xét riêng về nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều vấn đề cần khắc phục để nâng cao năng lực đầu tư, giảm thiểu rủi ro không đáng có trong quá trình đầu tư chứng khoán. Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, đề tài này đặt ra 3 mục tiêu nghiên cứu: Một, nghiên cứu một cách có hệ thống thị trường chứng khoán và nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam, Hai, đánh giá hiện trạng nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam và đối tượng trọng điểm quan tâm là nhà đầu tư cá nhân, Ba, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Đối tượng được nghiên cứu trong đề tài này là năng lực của nhà đầu tư cá nhân trong phạm vi thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu: dùng phương pháp khảo sát, phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp biện chứng .. 4. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, đề tài được xây dựng theo kết cấu truyền thống 3 chương: Chương 1. Tổng quan về nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam. Chương 2. Những thăng trầm của nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại Việt Nam Chương 3. Các đề xuất nâng cao năng lực của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NHÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1.1. Lịch sử hình thành TTCK của các nước trên thế giới Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trưòng tài chính, thị trường chứng khoán đươc hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi các chứng khoán – các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc mua bán trao đổi này được thực hiện theo những quy tắc nhất định. Vào cuối thế kỷ XV, tại những thành phố trung tâm mua bán ở phương Tây, các thương gia đã thống nhất gọi nơi trao đổi, thương lượng mua bán là “thị trường”, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, và đặt ra quy ước trong việc trao đổi hàng hoá. Phiên chợ đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber ở Bruges (nước Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình 3 túi da với một từ “Brourse” (tiếng Pháp) nghĩa là “Mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyễn qua thị trấn Auvers (Bỉ), ở đây thị trường phát triển rất nhanh. Vào giữa thế kỷ XVI, đại thần Anh quốc đã đến quan sát và sau đó về thiết lập một thị trường mậu dịch tại London (nước Anh), sau này được gọi là Sở giao dịch. Tại Pháp, Đức và các nước Bắc Âu, thị trường cũng được thành lập tương tự. Sự phát triển của thị trường ngày càng mạnh cả về lượng lẫn về chất, cùng với số thành viên tham gia đông đảo, vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán…với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát tương tự như ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Đến năm 1921, ở Mỹ, “thị trường” giao dịch “ở trong nhà”, Sở Giao dịch Chứng khoán được chính thức thành lập. Hiện nay trước xu thế kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), của Liên minh Châu Âu, của các khối thị trường chung, đòi hỏi các quốc gia thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế. 1.2 Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế Thứ nhất, là nơi huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, dòng tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư mua chứng khoán sẽ được đưa vào vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân, và giúp chính phủ và chính quyền địa phương huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. Thứ hai, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, đây là một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có sự lựa chọn thích hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Thứ ba, thị trường tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, có thị trường chứng khoán thì các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán sỡ hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác, khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. Thứ tư, thị trường là nơi đánh giá hoạt động của doanh nghiệp một cách tổng hợp và chính xác, thị trường chứng khoán giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp nhanh chóng và thuận tiện, từ đó tạo ra một môi trường lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sử dụng khoa học kỹ thuật mới lam tăng năng suất lao động, tạo thêm việc làm cho xã hội. Thứ năm, thị trường tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư chứng khoán đang tăng lên, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại thì giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế, và là công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, chính phủ có thể mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Ngoài những tác động tích cực trên, thị trường chứng khoán cũng có những tiêu cực nhất định. Như ở các thị trường chứng khoán mới nổi, thông tin được chuyển tải đến các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau, hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại cho các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng nhà đầu tư và như vậy giá chứng khoán không phản ánh giá trị thực và sẽ làm méo mó định hướng phát triển của nền kinh tế. Như vậy, nhiệm vụ của các nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường. Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song sự tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự được phát huy hay hạn chế sẽ phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia vào thị trường và sự quản lý của Nhà nước. 1.3. Sơ lược về Thị trường chứng khoán Việt Nam 1.3.1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Việt Nam, được thành lập theo Nghị định 75/1996/NĐ-CP, là cơ quan thuộc chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thông qua các nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Soạn thảo văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. - Chủ trì và phối hợp các Bộ, ngành có liên quan tổ chức xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. - Cấp, đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép hoạt động đối với công ty kinh doanh chứng khoán và các đối tượng khác trên thị trường chứng khoán. - Trình Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán. - Kiểm tra, giám sát hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán và các tổ chức có liên quan đến việc phát hành, kinh doanh dịch vụ chứng khoán. - Ban hành các quy định về niêm yết, thông báo phát hành thông tin về giao dịch, mua bán chứng khoán, thoả thuận với Bộ tài chính để quy định phí, lệ phí lien quan đế việc phát hành và kinh doanh chứng khoán… 1.3.2. Sở Giao dịch Chứng khoán Hiện nay, Ủy ban chứng khoán nhà nước Việt Nam chỉ mới thành lập 2 Sở giao dịch chứng khoán đó là: 1.3.2.1. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (Hose) Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg  ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000, đến năm 2010, đổi thành Sở giao dịch TP HCM, đã đánh dấu một sự kiện quan trọng  trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Sự ra đời của TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân  sách nhà nước cấp, Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt Nam. Đó là: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và một số hoạt động khác. Để thực hiện tốt các chức năng. Trung tâm có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, bao gồm: một Giám đốc và hai Phó giám đốc, trong đó có một Phó giám đốc thường trực và 9 phòng ban. Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK TP.HCM gặp rất nhiều khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa được hoàn thiện, các văn bản điều chỉnh hoạt động trên thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất...., đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa có kinh nghiệm thực tiễn, sự hiểu biết của công chúng về đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, TTGDCK khai trương và chính thức đi vào hoạt động trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn quá thấp...Tuy vậy, sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ ngành, đặc biệt là sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), qua hơn 4 năm hoạt động TTGDCK TP.Hồ Chí Minh đã phát triển thành Sở giao dịch chứng khoán TP HCM (SGDCK TP HCM), về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả. Địa chỉ website của SGDCK Tp.HCM: 1.3.2.2. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (Hnx) Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. TTGDCK Hà Nội có các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; - Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán; - Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký chứng khoán; - Thực hiện đăng ký chứng khoán. Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam, hiện nay đã trở thành Sở Giao Dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) Website của SGDCK Hà Nội 1.3.3. Các công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Tính đến thời điểm hiện tại, toàn thị trường đang có 105 công ty chứng khoán đang hoạt động như Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI), Bảo Việt (BVSC), Thăng Long (TLSC), VNdirect (VND), Kim Long (KLS), CK Việt Tin (CTS), Rồng Việt (VDSC)… Trong đó, quy mô hoạt động của các công ty mạnh về các lĩnh vực như tư vấn, đầu tư, tự doanh, margin… Cùng với đó là đội ngũ làm việc chuyên nghiệp, am hiểu thị trường ngày càng tăng về lượng cũng như về chất. Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện cũng như qui mô hoạt động kinh doanh chứng khoán của nó: - Phòng môi giới, - Phòng tự doanh, - Phòng bảo lãnh phát hành, - Phòng quản lý danh mục đầu tư, - Phòng tư vấn tài chính đầu tư, - Phòng ký quỹ, 1.3.4 Các chủ thể tham gia thị trường Chứng khoán Chủ thể phát hành: bao gồm Chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Từ lúc bắt đầu thành lập thị trường giao dịch, chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết và giao dịch là REE và SAM với tổng giá trị 270 tỷ đồng. Chủ thể đầu tư: gồm có nhà đầu tư cá nhân (cá nhân và hộ gia đình) và các tổ chức đầu tư. Các chủ thể trung gian: là các tổ chức liên quan đến hoạt động của thị trường như Sở Giao dịch chứng khoán, thanh lý bù trừ và lưu ký chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư… Có vai trò quan trọng trong việc đưa các nguồn cung và nguồn cầu chứng khoán khác nhau thông qua các hoạt động kinh doanh, môi giới, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua bán chịu chứng khoán…Các trung gian này có thể hoạt động với tư cách thể nhân hoặc một pháp nhân. Người quản lý, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán là Ủy Ban chứng khoán, thường được tổ chức theo hình thức là một cơ quan chuyên trách, có vị trí pháp lý độc lập, thành viên là những quan chức của Bộ Tài chính, Ngân hàng trung ương, Bộ thương mại, Bộ Tư pháp, đại diện Sở giao dịch chứng khoán… 1.4 Nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chủ thể đầu tư bao gồm có nhà đầu tư (cá nhân và hộ gia đình) và các tổ chức đầu tư. Các nhà đầu tư cá nhân được định nghĩa là những người có dòng tiền nhàn rỗi mà không được sử dụng mang lại hiệu quả như mong muốn, họ luôn tìm kiếm những kênh đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất. Họ có thể là nhân viên, nội trợ, doanh nhân, nông dân, mà cũng có thể là sinh viên,… Điều quan trọng là họ quan tâm và muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán. Các tổ chức đầu tư chính là tổ chức tài chính phi ngân hàng nhận tiền từ một lượng lớn nhà đầu tư cá nhân để tiến hành đầu tư vào các tài sản tài chính. Tuy nhiên, xét khía cạnh nhà đầu tư cá nhân, muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán thì cần phải thỏa mãn được các yêu cầu tối thiểu như sau: 1.4.1 Kiến thức thị trường chứng khoán Đó là kiến thức về Chỉ số VN – index, cách thức giao dịch, mô hình hoạt động, đăng ký, lưu ký, các bản cáo bạch, báo cáo tài chính, chỉ số đánh giá….. của thị trường chứng khoán 1.4.1.1 Chỉ số chứng khoán Việt Nam VN – index: Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam là chỉ số phản ánh mức giá trên thị trường trong một ngày cụ thể so với mức giá tại thời điểm gốc. Chỉ số được cấu thành bởi hai yếu tố là loại chứng khoán trọng số và giá của từng chứng khoán cấu thành. Chỉ số VN-index, HNx-index là chỉ số cho đại diện các cổ phiếu được niêm yết trên Hose và Hnx, các nhà đầu tư không cần phải biết cách tính các chỉ số mà chỉ cần hiểu được ý nghĩa của các chỉ số đó để sử dụng trong các quyết định đầu tư của mình, chẳng hạn như khi chỉ số VN – index tăng liên tục qua một số phiên giao dịch có thể gợi ý cho các nhà đầu tư nên mua vào; khi VN – index có xu hướng giảm thì nhà đầu tư nên chốt lời hoặc cắt lỗ,… 1.4.1.2 Giao dịch trên thị trường CK: Việc hiểu được giao dịch trên thị trường như các loại lệnh giao dịch, đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá, biên độ giao dịch sẽ giúp cho các nhà đầu tư không những tránh phải viết sai nội dung trong lệnh, đỡ mất thời gian viết lại các lệnh giao dịch sai mà còn giúp nhà đầu tư đặt lệnh kịp lúc kịp thời trong một thời điểm…. 1.4.1.2.1 Các loại lệnh giao dịch: Giao dịch thực tế trên thị trường Chứng khoán Việt Nam phần lớn các lệnh giao dịch được nhà đầu tư sử dụng là lệnh giới hạn và lệnh thị trường. Lệnh ưu tiên (ATO, ATC) là loại lệnh được sử dụng rất phổ biến trong các giao dịch chứng khoán tương ứng phiên 1 và 3 của Hose. Khi sử dụng lệnh này, nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận mua hoặc bán theo mức giá của thị trường hiện tại và lệnh của nhà đầu tư luôn được thực hiện. Lệnh giới hạn (Limit order) là loại lệnh giao dịch trong đó người đặt lệnh đưa ra mức giá mua hay bán có thể chấp nhận đựoc. Lệnh dừng (Stop order) là loại lệnh đặc biệt để đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể thu lợi nhuận tại một mức độ nhất định (bảo vệ lợi nhuận) và phòng chống rủi ro trong trường hợp giá chứng khoán chuyển động theo chiều hướng ngược lại. Lệnh sửa đổi là lệnh do nhà đầu tư đưa vào hệ thống để sửa đổi một số nội dung vào lệnh gốc đã đặt trước đó (giá, khối lượng, mua hay bán). Lệnh sửa đổi chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện, Lệnh huỷ bỏ (Cancel order) là lệnh do nhà đầu tư đưa vào hệ thống để huỷ bỏ lệnh đặt trước đó. Lệnh huỷ bỏ chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện 1.4.1.2.2 Đơn vị giao dịch: Các sở giao dịch thường có quy định về khối lượng giao dịch tối thiểu của một lệnh giao dịch gọi là lô (lot) chứng khoán. Đơn vị giao dịch là một trong những yếu tố có thể tác động đến cung - cầu trong giao dịch chứng khoán. Tại sàn Hose, đơn vị giao dịch thấp nhất là 1 lot = 10 Cp, Hnx 1 lot đơn vị là 100 Cp. Ngoài ra còn có giao dịch thỏa thuận với mỗi giao dịch thấp nhất là 20.000 Cp 1.4.1.2.3 Đơn vị yết giá: Đơn vị yết giá (quotation unit) là bước giá tối thiểu (tick side) trong giao dịch chứng khoán. Đơn vị yết giá là yếu tố có tác đông đến tính thanh khoản của chứng khoán cũng như hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư. 1.4.1.2.4 Biên độ giao dịch: Hầu hết các sở giao dịch trên thế giới đều có những công cụ nhằm ngăn chặn những biến động bất thường của giá chứng khoán trong ngày giao dịch. Theo đó, lệnh giao dịch của nhà đầu tư khi đặt phải nằm trong khoảng biên độ cho phép: giới hạn trên (giá trần – ceiling) và giới hạn dưới (giá sàn – floor). Nó có thể đảm bảo tính ổn định của thị trường, góp phần củng cố lòng tin của công chứng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Hose là 5%, Hnx là 7% 1.4.1.3 Hệ thống hoạt động công bố thông tin thị trường: Hoạt động công bố thông tin thị trưòng chiếm vị trí khá quan trọng trong việc xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động công khai, minh bạch nhằm tạo ra một môi trường đầu tư công bằng, cung cấp kịp thời các thông tin, dữ liệu cần thiết cho các nhà đầu tư. Thông qua mạng Internet gửi đến các địa chỉ E-mail đăng ký, Fax và các ấn phẩm thường niên của Sở. Những thông tin cần thiết phải quan tâm như Báo cáo tài chính, Bản cáo bạch niêm yết, tin nội bộ doanh nghiệp như các giao dịch, làm ăn của công ty niêm yết với đối tác, chia cổ tức cổ phiếu, mua lại cổ phiếu quỹ….; các chỉ số cơ bản như P/E, EPS….Toàn bộ hệ thống thông tin rất quan trọng vì nó giúp nhà đầu tư biết tin tức thị trường và đưa ra các quyết định giao dịch… 1.4.1.4. Đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: Hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ của SGDCK không ngừng được cải thiện, nâng cao và luôn đảm bảo quy trình thanh toán các giao dịch được diễn ra thông suốt an toàn. Trong đó: - Đăng ký các thông tin về chứng khoán và quyền sỡ hữu chứng khoán của người nắm giữ chứng khoán. - Lưu ký chứng khoán là hoạt động lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hang và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán lưu ký. - Thanh toán bù trừ chứng khoán là hoạt động hoàn tất các giao dịch, trong đó bên bán chứng khoán thực hiện việc giao chứng khoán, bên mua thực hiện việc chuyển tiền mua chứng khoán; hoạt động bù trừ sẽ chỉ ra bên nào phải trả tiền, bên nào phải giao chứng khoán. Việc hiểu biết về các hoạt động này giúp nhà đầu tư an tâm về an toàn tài khoản chứng khoán của mình, nhà đầu tư luôn nắm chắc được những giao dịch trong tài khoản, có những loại cổ phiếu nào, những khoản thanh toán phải trả…. 1.4.1.5. Bản cáo bạch, báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đánh giá: Bản cáo bạch là một tài liệu rất quan trọng. Với tư cách là một nhà đầu tư, Bản cáo bạch là phương tiện giúp bạn đánh giá mức độ sinh lời và triển vọng của công ty trước khi bạn quyết định có đầu tư vào công ty hay không. Những thông tin cần xem như: - Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê sô liệu phát hành / chào bán, số nợ và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành; - Chứng khoán phát hành; - Thông tin về ngành kinh doanh; - Thông tin tài chính; - Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; - Các đối tác liên quan tới đợt phát hành; - Các nhân tố rủi ro; Báo cáo tài chính là tài liệu cung cấp những khoản chi tiêu vào sản xuất kinh doanh, doanh thu, khoản lợi nhuận trước thuế - sau thuế… theo khoảng thời gian định kỳ như theo tháng – quý – năm, cùng với đó là so sánh xem có đạt kế hoạch đã đặt ra ở kỳ trước hay ko? Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: ROA- tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản ROA = (Lợi nhuận sau thuế / Tổng tài sản); ROA > 20% được coi là tốt ROE - tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE = (Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sỡ hữu); ROE > 20% là tốt P/E – (Hệ số giá trên thu nhập) P/E = (Thị giá mỗi cổ phiếu Price / EPS) EPS - Tỷ suất lợi nhuận trên cổ phiếu (Earning per Share) EPS = Tổng lợi nhuận sau thuế / Tổng số cổ phiếu phát hành Các báo cáo tài chính, bản cáo bạch và các chỉ số đánh giá là một phần không thể thiếu của các nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán, vì thế các tài liệu đó cần phải được nghiên cứu tỉ mĩ, chi tiết nhằm có những quyết định đầu tư sáng suốt. 1.4.1.6. Chính sách thuế đối với nhà đầu tư: Các loại hình đầu tư tổ chức trên thị trường chứng khoán như ngân hàng, bảo hiểm vẫn phải thực hiện theo các quy định của Luật Thuế doanh nghiệp, tức là chưa được hưởng một chế độ ưu đãi nào. Đơn cử như: Theo Thông tư 84/2009/TT-BTC, trong mọi trường hợp chuyển nhượng chứng khoán, không phân biệt nộp thuế theo thuế suất ấn định 0,1% hay biểu thuế toàn phần với thuế suất 20%, công ty chứng khoán hoặc đơn vị phát hành chứng khoán đều phải khấu trừ thuế ấn định trước khi thanh toán cho người chuyển nhượng. Có nghĩa là, cá nhân chuyển nhượng chứng khoán, dù đã đăng ký nộp thuế theo biểu thuế toàn phần với thuế suất 20%, thì vẫn phải tạm bị khấu trừ 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần. Theo quy định tại Thông tư 62/2009/TT-BTC, cổ phiếu thưởng, cổ tức bằng tiền sẽ bị đánh thuế khi có giao dịch chuyển nhượng,… Vì vậy, nhà đầu tư phải nắm chắc khoản thuế thu nhập để tránh thắc mắc vì những khoản bị thu không biết ở đâu ra…. 1.4.1.7 Luật chứng khoán: Ngày 25 tháng 12 năm 2001, theo Nghị quyết 51/2001/QH10 Luật chứng khoán ra đời bao gồm các quy định về: - Phạm vi điều chỉnh như chào bán, niêm yết, giao dịch, kinh doanh đầu tư chứng khoán, dịch vụ chứng khoán …. - Đối tượng áp dụng là Cá nhân, Tổ chức trong và ngoài nước đầu tư và có liên quan đến chứng khoán tại Việt Nam. - Chính sách phát triền thị trường chứng khoán, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp tham gia nhằm huy động các nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, Nhà nước giám sát bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt động công bằng – công khai – minh bạch – an toàn - hiệu quả. - Các quy định về công ty đại chúng khi niêm yết như báo cáo tài chính, bản cáo bạch, thông tin minh bạch cũng như phải đạt lợi nhuận trong 3 năm liên tục mới được chào sàn… Các quyền và nghĩa vụ công ty đại chúng…. Nhà đầu tư cần phải biết các quyền lợi và nghĩa vụ của mình nhằm bảo vệ tài sản khi đầu tư chứng khoán, tránh những thiệt hại do thiếu hiểu biết về luật chứng khoán. 1.4.1.8. Các rủi ro khi tham gia thị trường chứng khoán: Nhà đầu tư cần phải biết các rủi ro khi tham gia thị trường chứng khoán vì từ đó sẽ đề ra các hoạch định và chiến lược đầu tư. Các rủi ro đó có thể là: - Rủi ro lạm phát là khả năng kiếm lời không đuổi theo kịp sự mất giá, trượt giá của đồng tiền. - Rủi ro bị cụt vốn là có thể bị mất một phần hay toàn bộ vốn đã bỏ vào đầu tư chứng khoán do tiên đoán sai hoặc bị hoàn cảnh bất lợi từ thị trường. - Rủi ro do chọn nhầm đối tượng là mua cổ phiếu không sinh lời hoặc bị lỗ. - Rủi ro do không gặp thời hoặc chậm trễ. - Rủi ro về lãi suất là khi lãi suất tăng thì giá cổ phiếu giảm. - Rủi ro do biến động thị trường là do áp lực tâm lý thị trường. - Rủi ro về tài chính, khả năng thanh khoản…. 1.4.2. Kỹ năng quản lý cảm xúc, hay còn gọi là EQ Đây là tiêu chuẩn mà bản thân tự rèn luyện mà có, “Lòng tham và nỗi sợ hãi”. Lòng tham ở đây được nhắc đến khi nhà đầu tư bỏ qua các quy tắc để mong chờ giá lên đến đỉnh rồi mới bán ra nhưng lại rơi vào tình trạng chỉ bán được sau khi giá đã giảm một số phiên và mức lãi vơi đi ít nhiều, thậm chí là thua lỗ. Còn nỗi sợ hãi xuất hiện khi giá giảm và nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu một cách ồ ạt khiến giá giảm quá mức cần thiết. Tâm lý này đặc biệt được thể hiện rõ nét khi cổ phiếu hay thị trường có xu hướng tăng, nhà đầu tư lao vào thị trường và giành nhau mua; còn khi cổ phiếu hay thị trường có xu hướng giảm thì lại cố hết sức để bán ra. Lòng tham và nỗi sợ hãi luôn hiện hữu trong mỗi nhà đầu tư và là hiện tượng tâm lý bình thường, phổ biến của con người. Nó không đáng bị chê trách trừ khi nó thúc đẩy nhà đầu tư có những hành động vượt quá mức bình thường, thậm chí là phi lý, cho nên nhà đầu tư nên cần phải có kỹ năng quản lý cảm xúc để đưa ra những quyết định thận trọng, hợp lý nhất. 1.4.3 Tâm lý nhà đầu tư (tâm lý thị trường) Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong biến động của giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu, của lợi nhuận Doanh nghiệp và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Sự suy giảm lòng tin trong công chúng đầu tư bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như hoạt động kém hiệu quả của công ty niêm yết, công tác quản lý, điều hành kém hiệu quả, công tác công khai thông tin.... Trong đó, nguyên nhân chủ quan chính là sự hiểu biết của công chúng về chứng khoán và thị trường chứng khoán bị hạn chế. Phần lớn công chúng tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán hiện nay đều xây dựng niềm tin chủ yếu dựa trên yếu tố lợi nhuận đạt được từ chênh lệch giá cổ phiếu, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán chủ yếu muốn đầu cơ ăn chênh lệch giá, họ ít quan tâm đến triển vọng lâu dài của công ty niêm yết, còn bị tác động bởi trào lưu, theo số đông và ngắn hạn. Vì vậy, nhà đầu tư cần nghiên cứu tâm lý thị trường để biết một trong hai nhóm, xu hướng nhóm người nào mạnh hơn, để đưa ra những giao dịch kịp thời. 1.4.4. Kinh nghiệm cho đầu tư Kinh nghiệm sẽ làm nhà đầu tư sáng suốt trong các quyết định giao dịch của bản thân, vì thế để đảm bảo điều đó thì nhà đầu tư cá nhân phải tự hỏi bản thân mình những câu hỏi sau: - Mục tiêu đầu tư của bạn là gì? Mua để tham gia vào hội đồng quản trị công ty? Mua để đầu tư lâu dài? Mua để đầu cơ lướt sóng? Mua để được chia cổ tức?. . . - Đầu tư trong khoảng thời gian ngắn hay dài? - Bạn sẽ phản ứng như thế nào nếu giá cổ phiếu mình đang đầu tư xuống đột ngột? Tăng đột ngột? - Quan tâm nhiều tới các thông số cơ bản một của công ty như tốc độ tăng trưởng doanh số và lợi nhuận, từ đó rút ra những kết luận về giá trị thực tế của cổ phiếu cũng như của cả công ty. Sau đó, bằng cách so sánh thị giá cổ phiếu với giá trị thực tế, ta quyết định có nên mua công ty hay không? … CHƯƠNG 2 NHỮNG THĂNG TRẦM CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 2.1. Toàn cảnh về thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1.1. Những thành tựu TTCK đã đạt được trong thời gian qua Ngày 11 - 07 – 2000, Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động, tại Sở giao dịch TP Hồ CHí Minh chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết giao dịch là REE và SAM với tổng giá trị 270 tỷ đồng, một tuần có 3 ngày giao dịch, mỗi ngày giao dịch theo hình thức khớp lệnh định kỳ, số nhà đầu tư tham gia giao dịch ít. Kể từ khi cổ phần hóa các doanh nghiệp, giao dịch cổ phiếu ngày càng diễn ra sôi động trên số lượng công ty chứng khoán bắt đầu là 6 thành viên. Trong giai đoạn 2000-2002, trái phiếu chính phủ (TPCP) là hàng hóa niêm yết chủ đạo trên SGDCK Tp.HCM. Tuy nhiên, số lượng không nhiều (40 mã). Trong giai đoạn này, CPTP tương đối kém thanh khoản, giá trị giao dịch bình quân cũng rất thấp, với khoảng 2% giá trị CPTP niêm yết. Giai đoạn 2004 – 2007, giá trị trái phiếu niêm yết so với GDP tăng đáng kể, lên tới 11,3% GDP, đồng thời, nhiều quy định mới được áp dụng nhằm thúc đẩy giao dịch trái phiếu như: không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài; bỏ biên độ dao động giá; cơ chế giao dịch thỏa thuận; rút ngắn thời gian thanh toán T+1. Vì vậy, tính thanh khoản của thị trường cũng tăng dần. Đến năm 2005, thị trường chứng khoán có nhiều khởi sắc, quy mô thị trường mở rộng, tăng khoảng 55% giá trị niêm yết, số lượng nhà đầu tư đã tăng 35%, bình quân có 667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên. Lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường được nâng lên, do tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết có sự tăng trưởng cao cả về vốn, doanh thu, lợi nhuận, tính công khai và quản trị công ty theo điều lệ mẫu được tăng cường. Bên cạnh đó, năm 2005 cũng xuất hiện một số dấu hiệu tích cực trên thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp đã phát hành thành công ra công chúng. Trong năm qua, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận phát hành thêm cho 6 công ty niêm yết với tổng trị giá 700 tỷ đồng, cấp giấy chứng nhận phát hành lần đầu ra công chúng cho 4 công ty với tổng trị giá 102 tỷ đồng. Ngoài ra Uỷ ban cũng cấp phép niêm yết cho 7 công ty với tổng vốn điều lệ 2.117 tỷ đồng, trong đó riêng Vinamilk có vốn điều lệ trên 1.500 tỷ đồng. Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp lớn, tổ chức đấu giá công khai qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán nhiều doanh nghiệp lớn của ngành điện lực như Nhà máy Thủy điện Vĩnh Sơn-Sông Hinh, Thủy điện Thác Bà, Nhiệt điện Phả Lại, Điện lực Khánh Hòa. Đầu năm tới sẽ chuyển sang cổ phần hóa, đấu giá các doanh nghiệp của ngành xi măng và tiếp tục hướng tới các doanh nghiệp thuộc ngành ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, bưu chính viễn thông… Các doanh nghiệp này đã và sẽ đưa ra niêm yết trên các Trung tâm Giao dịch chứng khoán, làm gia tăng đáng kể lượng hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Có nhiều thay đổi trong chính sách liên quan đến thị trường chứng khoán theo hướng ngày càng hoàn thiện, nhất là đối với nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể là đã nới lỏng tỷ lệ sở hữu từ 30% lên 49% đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cho phép các tập đoàn bảo hiểm như Prudential, Manulife và một số tổ chức liên doanh thành lập công ty quản lý quỹ ở Việt Nam, cấp phép lưu ký cho Tập đoàn CitiGroup, cho phép chuyển các xí nghiệp liên doanh thành công ty cổ phần và một số doanh nghiệp này đang hoàn tất hồ sơ niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Năm 2006, thị trường chứng khoán bắt đầu nổi bật trong các kênh đầu tư, các nhà đầu tư được “mùa chứng khoán”, tổng giá trị vốn hóa thị trường khoảng 40.000 tỷ đồng, khối lượng cổ phiếu niêm yết tăng thêm 30% so với năm 2005, đạt được 22,6%GDP, khối lượng giao dịch bình quân tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần so với năm 2005), Năm 2007, thị trường chứng khoán bùng nổ với những giao dịch có giá trị “khủng”, lượng tiền đổ vào thị trường chứng khoán như nước, đạt 40% GDP, con số giao dịch bình quân trong phiên tiếp tục tăng lên 9,79 triệu CP, số lượng nhà đầu tư và tài khoản tăng vù vù theo từng ngày (khoảng 307 nghìn tài khoản), trên cả hai sàn hiện có 249 công ty niêm yết và chứng chỉ quỹ (sàn TP.HCM 138, sàn Hà Nội 111). Mặc dù tăng khá so với thời điểm khi mới hoạt động cũng như một số thời điểm trước đây (cuối năm 2006 có 193, cuối năm 2005 có 41), nhưng nếu so với số lượng công ty cổ phần hiện hữu ở Việt Nam thì chiếm chưa được 2%, có 75 công ty chứng khoán, 24 công ty quản lý quỹ, … Các "đại gia" đã niêm yết có giá trị vốn hóa thị trường đạt trên 1.000 tỉ đồng (tức đạt trên 62,5 triệu USD) ở cả hai sàn mới đạt 70 (sàn TP.HCM 53, sàn Hà Nội 17), trong đó số đạt từ 10 nghìn tỉ đồng trở lên (tức trên 625 triệu USD) mới có 12 (sàn TP.HCM có 9, đứng đầu là VNM trên 29,4 nghìn tỉ đồng; tiếp đến là STB gần 28,7 nghìn tỉ đồng; DPM trên 27,5 nghìn tỉ; FPT trên 20,4 nghìn tỉ; SSI trên 19,8 nghìn tỉ; PPC trên 19 nghìn tỉ; PVD 16,3 nghìn tỉ; HPG trên 12,4 nghìn tỉ; VIC 12,4 nghìn tỉ; sàn Hà Nội có 3, đứng đầu - đồng thời cũng đứng đầu cả nước - là ACB gần 42,6 nghìn tỉ; tiếp đến là KBC 17,8 nghìn tỉ; PVS trên 11,9 nghìn tỉ) Năm 2008, Theo nguồn của Sở Giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh, 18,07 triệu CP là con số bình quân giao dịch trong phiên, khối lượng cổ phiếu niêm yết lúc này là 5,6 tỷ cổ phiếu toàn thị trường có giá trị 70.000 tỷ đồng, trong đó có 5,2 tỳ cổ phiếu niêm yết trên thị trường có giá trị 52.000 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 92,8%, chứng chỉ chiếm tỷ trọng 4,49% có giá trị 2.520 tỷ đồng, còn lại có 152 triệu trái phiếu chiếm 2,7% có giá trị 15.300 tỷ đồng. Nguồn cung cổ phiếu trên thị trường ngày càng nhiều. Trong năm 2008, lại có thêm các đại gia tham gia IPO “khủng” như Vietcombank, Incombank, mobifone… Quy mô của thị trường còn tiếp tục được mở rộng do các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá đã niêm yết vào năm 2007 – 2008 trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam với số vốn lên tới hàng ngàn tỉ đồng….khiến giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán khổng lồ, vì thế có những nhóm cổ phiếu được phân theo nhiều nhóm ngành với nhau để giúp nhà đầu tư so sánh với nhau dễ dàng hơn. Năm 2009, quy mô niêm yết theo nguồn của sở giao dịch chứng khoán Hose năm 2009 như sau: Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu Khác Số CK niêm yết (1 CK) 324,00 265,00 5,00 54,00 0,00 Tỉ trọng(%) 100,00 81,79 1,54 16,67 0,00 KL niêm yết (ngàn CK) 12.245.789,6 11.868.239,2 276.099,3 101.451,1 0,00 Tỉ trọng(%) 100,00 96,92 2,25 0,83 0,00 GT niêm yết (triệu đồng) 132.461.494,13 118.682.392,2 2.760.992,9 11.018.109,0 0,00 Tỉ trọng (%) 100,0 89,60 2,08 8,32 0,00 Hình 2.1: Quy mô niêm yết chứng khoán năm 2009 Hình 2.2: Biểu đồ tỷ trọng khối lượng và giá trị năm 2009 Quan sát các số liệu tại hình 2.1 và hình 2.2 ta thấy quy mô thị trường cổ phiếu có bước tăng trưởng mạnh mẽ, thị trường chứng khoán đã đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Năm 2009 toàn thị trường có 12,2 tỷ chứng khoán với giá trị vốn hóa xấp xỉ 132.461 tỷ đồng, có 11,868 tỷ CK (96,92%) có giá trị niêm yết 118.682 tỷ đồng (89,6%). Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai SGDCK và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, đạt 38%GDP => Thị trường chứng khoán đã có tính thanh khoản, quy mô tăng trường vượt bậc về giá trị lẫn về khối lượng so với các năm trước. Năm 2009 có lúc giao dịch trong phiên đạt 38 triệu đơn vị. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần (năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2007), 0.68 lần (năm 2008) và đạt 1.13 lần (năm 2009). Năm 2010, theo nguồn của Hose ta có quy mô TTCK qua các số liệu Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu Khác Số CK niêm yết (1 CK) 337,00 284,00 5,00 48,00 0,00 Tỉ trọng(%) 100,00 84,27 1,48 14,24 0,00 KL niêm yết (ngàn CK) 13.127.382,58 12.758.232,20 276.099,29 93.051,09 0,00 Tỉ trọng(%) 100,00 97,19 2,1 0,71 0,00 GT niêm yết (triệu đồng) 140.521.423,94 127.582.322,04 2.760.992,90 10.178.109,0 0,00 Tỉ trọng (%) 100,0 90,79 1,96 7,24 0,00 Hình 2.3: Quy mô niêm yết chứng khoán năm 2010 Hình 2.4: Biểu đồ tỷ trọng cổ phiếu năm 2010 Tính đến tháng 9/2010 thì đã có hơn 611 mã cổ phiếu (kể cả những cổ phiếu sắp lên sàn niêm yết) có 13,1 tỷ CP với tổng giá trị vốn hóa là hơn 540.320 tỷ đồng bao gồm các loại cổ phiếu vốn hóa lớn như Vietcombank VCB có 48.650 tỷ đồng, Hoàng Anh Gia Lai HAG 22.653 tỷ đồng, Sacombank STB 15.340 tỷ đồng…Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng. Ước tính đến cuối năm 2010 đạt khoảng từ 40-50% GDP. Số lượng doanh nghiệp (tính đến thời điểm này) đã niêm yết tăng 704% so với năm 2000. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam cũng có sự gia tăng đáng kể. Tính đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã đổ vào khoảng 4 tỉ USD. Trong năm nay, số lượng doanh nghiệp niêm yết sẽ tiếp tục được mở rộng, sàn Hose còn khoảng 18 doanh nghiệp đang “xếp hàng” chờ “lên sàn”, sàn Hnx dự kiến còn hơn 100 doanh nghiệp lên sàn Trong thời gian gần đây, năm 2011, do biến động của lãi suất, việc phát hành TPCP không được như mong muốn, dẫn đến tỷ lệ giá trị niêm yết so với GDP giảm xuống và chỉ còn khoảng 10,81% vào cuối năm. Tuy nhiên, nếu so sánh với tổng dư nợ trái phiếu phát hành là 16,9% GDP thì vẫn còn một lượng khá lớn trái phiếu chưa được đưa vào niêm yết và giao dịch trên các SGDCK. Số trái phiếu này phần lớn là trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong thời gian gần đây. Hiện tại đã có 646 công ty niêm yết với gia trị vốn hóa lên đến 722 nghìn tỷ đồng, tương đương 30% GDP của năm 2010. 2.1.2 Những biến động nổi bật của TTCK Việt Nam từ khi thành lập qua chỉ số VN –index Hình 2.5 Đồ thị chỉ số VN – index năm 2006 - 2011 Chỉ số VN - Index cũng đã chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường. Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28 - 7 - 2000, VN-Index ở mức 100 điểm thì tháng 3 – 2007, chỉ số này đã đạt ở mức kỷ lục trên 1.170 điểm và sau một vài tháng giảm sút, VN-Index đang dao động xung quanh ngưỡng 1.000 điểm (đến giữa tháng 5-2007 đã lên 1.060 điểm), tăng hơn 10 lần so với năm 2000. Rồi thị trường lại suy giảm đến tháng 06 – 2008 do những chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng nhà nước nhằm giảm đà tăng của lạm phát của năm 2007 đã khiến cho chỉ số VN – index chỉ còn hơn 400 điểm, đến tháng 09 – 2008, lúc này nguồn cung tiền được mở ra cho thị trường, chỉ số VN – index lại tăng lên 600 điểm. Tuy nhiên lúc này toàn bộ nền kinh tế thế giới rung chuyển bởi “bong bóng Bất động sản của Mỹ” khủng hoảng tiền tệ đến cao trào như đại suy thoái thế giới của năm 1929, TTCK Việt Nam giảm tệ hại đến tháng 2 - 2009, chỉ còn 235 điểm, do các nghi ngại ảnh hưởng kinh tế toàn cầu, chính sách nới lỏng tiền tệ được áp dụng để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, VN - index trong năm 2009 tăng lên hơn 600 điểm, bình quân có 77 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên, với giá trị đạt 2.270,57 tỷ đồng, đến nay năm 2010 thị trường “đi ngang giảm” còn 440 điểm. Lý giải cho hiện tượng đi ngang này, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng nguyên nhân chỉ có thể là các chính sách vĩ mô nước ta không nhất quán, thay đổi liên tục làm cho các nghi ngại dấy lên trong môi trường đầu tư. 2.1.3 Nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường chứng khoán Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng đông đảo. Từ khoảng gần 3000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm 2000, đến nay đã có trên 160.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ chức trong nước là 5000, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là khoảng 130.000, số nhà đầu tư nước ngoài là hơn 25.000 nhà đầu tư. Như vậy, nhà đầu tư cá nhân trong nước đã tăng hơn 43 lần so với số tài khoản giao dịch lúc ban đầu. Giai đoạn năm 2000 – 2006, chỉ có số ít khoảng 14.000 nhà đầu tư giao dịch trên sàn, trong khi đó công chúng còn xa lạ với kênh đầu tư này, nên có khi hỏi Thị trường chứng khoán là gì, có người còn không biết, vì thế ít người quan tâm đến chứng khoán => Trong giai đoạn này, thị trường không có những biến động đáng kể. Giai đoạn đầu 2007 - đầu 2008, thị trường chứng khoán biến động dữ dội, số lượng tài khoản gia tăng mạnh mẽ lên hơn 100.000 tài khoản giao dịch, gần như tất cả các nhà đầu tư tập họp về đây, có đủ mọi tầng lớp nhà đầu tư, giao dịch đột biến, thêm vào đó số lượng công ty chứng khoán tăng đáng kể khoảng 70 công ty, tuy nhiên với số lượng nhiều nhưng hoạt động tư vấn xãy ra bát nháo, công ty nào cũng đòi đưa ra nhận định của mình là chính xác, làm cho nhà đầu tư càng thêm mù mịt không còn biết phương hướng để đầu tư. Giữa năm 2007 đầu 2008, thời kỳ huy hoàng chứng khoán, đi đến đâu cũng nghe người ta nói về chứng khoán, cứ như chứng khoán thành món ăn ruột, món ăn tinh thần. Đầu tiên là việc nhà nhà đầu tư chứng khoán, kế đến là bà nội trợ cũng chơi chứng khoán cứ như là đi chợ vậy, chẳng quan tâm đến đấu giá, không biết nhiều đến thông tin của các công ty niêm yết, cũng không biết phân tích bản cáo bạch, không biết báo cáo tài chính là cái gì, phân tích thị trường cũng không, nhưng vẫn có nhiều thành công nhờ lời khuyên của người thân. Cứ biết “mua là thắng”. Tuy ngơ ngác khi nghe hỏi về các chỉ số tài chính cơ bản để xác định giá trị cổ phiếu nhưng lại mua bán khá chuyên nghiệp. Để chớp cơ hội đi trước hàng loạt các lệnh mua bán khác, nhiều người chọn cách mua trần bán sàn. Theo nhiều nội trợ thì đơn giản như suy nghĩ “Thị trường luôn ưu tiên lệnh mua trần bán sàn, mặc dù số lượng không nhiều. Mua bán như vậy không có nghĩa là tôi lỗ, mà khi xác định được một khoản lời chênh lệch vừa vặn, tôi bán ngay. Đã chọn cách mua bán này, thì tôi không ham lời nhiều”, một chị tâm sự nói. Chị thường “nuôi” một loại cổ phiếu từ 2 – 3 tháng, với những cổ phiếu quá nóng thì chị bán ngay trong 1-2 tuần. Vì vậy, mặc những người toan tính tìm những khoản lợi nhuận cao nhất, chị cứ thong dong chơi và có lãi “vừa đủ”. Không rõ lãi được bao nhiêu khi hết năm, vì tiền chẳng bao giờ nhàn rỗi trong tài khoản, hết bán chứng khoán này tới mua chứng khoán kia. “Mức lãi cao hàng chục lần so với lương tháng của nhân viên”, một chị hài lòng nói. chị Thọ, một người nội trợ kiếm sống thêm bằng nghề môi giới và mua bán nhà đất nhảy sang sàn chứng khoán hai năm nay. “Mua bán nhà đất cò con mà hết chờ rồi tìm không có ai mua, vốn đọng hết còn gì lời lãi”, chị nói. “Hơn nữa, mua bán nhà đất thì mất vài tuần đến mấy tháng mới bán được nhà, lấy được tiền. Còn chứng khoán khi cần là có ngay tiền mặt”, chị Thọ nói. Chỉ có vỏn vẹn vài chục triệu đồng, nhưng với kinh nghiệm mua bán bất động sản của mình, chị Thọ áp dụng khá nhuần nhuyễn vào thị trường chứng khoán. Những ngày đầu, chị mua liều vài cổ phiếu có tiếng, cổ phiếu lên giá cao chị bán ngay, cổ phiếu xuống giá chị không ngần ngại mua vào. “Cổ phiếu cũng như đất, không có đất nào là rẻ và bỏ hoang cả. Cứ nắm trong tay, ở mức nào cũng kiếm lời được”, chị nói. Chị thường vừa lau nhà vừa nghe tin tức chứng khoán qua tivi, đài, và giao dịch bằng điện thoại. Kế đến là việc nhân viên công sở trốn việc ra sàn chơi chứng khoán, dù công việc bận rộn đến mấy tuần nào cũng tranh thủ ra sàn giao dịch chứng khoán ít nhất 2 lần. Một anh nhân viên tiết lộ rằng chỉ cần một sáng đẩy cổ phiếu thắng lợi là ăn đứt mấy tháng "cày sâu cuốc bẫm" nơi công sở. "Mỗi buổi chỉ khoảng vài chục phút nhưng nhìn thấy được không khí hừng hực ở sàn "thú" lắm", anh nói. Ngồi ở văn phòng đặt lệnh không thể theo dõi được diễn biến của những lệnh chỉ xuất hiện trong vòng vài phút. Đó là những lúc nhà đầu tư muốn làm giá, đưa ra lệnh bán hoặc mua nhiều khiến giá cổ phiếu trên thị trường xoay chuyển. "Nếu khi ấy không có mặt trực tiếp, thì "toi" như chơi", anh khẳng định. Nhờ nhiều phen trực chiến tại sàn mà anh đã tự cứu mình nhiều bàn thua trông thấy => Đầu tư thắng lợi, thời kỳ huy hoàng của chứng khoán Việt Nam, chứng khoán nổi trội hơn tất cả các kênh đầu tư khác, thu nhập hàng tháng “rủng rẻng” trong túi, đến nỗi nghề môi giới chứng khoán cũng được gọi là “hot” nhất trong các nghề. Số lượng nhà đầu tư tăng mạnh nhưng kiến thức hiểu biết về chứng khoán thì hầu như ít người quan tâm đến. Theo ước tính của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, hệ số giá/lợi nhuận (P/E) trung bình của 20 công ty lớn nhất của Việt Nam là khoảng 73,3%, vuợt quá xa so với các thị trường khác. Chắc chắn sẽ phải giật mình nếu ta biết rằng, chỉ số P/E bình quân của thị trường đứng thứ 2 sau Việt Nam trong bảng thống kê của IMF là Ấn Độ chỉ có 20,4 và mức trung bình của thế giới là 16,2. Như vậy có thể thấy sức kỳ vọng của các nhà đầu tư đối với thị trường Việt Nam lớn đến mức nào và càng như một luồng động khí thổi phồng thêm “bong bóng” chứng khoán Việt Nam tưởng chừng như sẽ nổ vào năm 2007. Hình 2.6: Năm 2007 nhân viên ra sàn chớp nhoáng, quyết định đặt lệnh rồi đi Năm 2008, nhưng “Khi đứng ở thời điểm cuối năm 2007 đầu năm 2008, người ta không ngờ được thị trường lại xuống quá sâu như hiện nay. Có thể thấy cuối năm 2007 chiều hướng đã không tốt, nhưng ít ai nghĩ nó xấu đến như vậy. Sau Tết âm lịch cũng đã loáng thoáng thấy chiều hướng nó xấu rồi, nhận định có thể rõ nét hơn. Nhưng ngay cả ở thời điểm đó, người ta cũng không có ngờ”. để rồi “Năm 2008 phải trả nợ cho năm 2007” tình hình xấu đi kể từ sau Tết Âm lịch. Nền kinh tế rơi vào lạm phát và chống lạm phát. Những biện pháp mạnh chống lạm phát nó làm ảnh hưởng tới thị trường. Đó là những giải pháp về tiền tệ thắt chặt quá mạnh. Sau khi thị trường chứng khoán giảm khá sâu, trước tiên là những tập đoàn, công ty nhà nước có tham gia thị trường bắt đầu rút vốn. Thị trường bị hẫng một lượng tiền vốn rất lớn. Điều đó ít ai dự liệu được trong năm 2007 để bước vào năm 2008. Kế tiếp là các tổ chức đầu tư, các doanh nghiệp không phải là những tập đoàn trên, cũng bắt đầu tính toán, cấu trúc lại và rút bớt nguồn tiền ra khỏi thị trường, do giá chứng khoán đi xuống mạnh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của họ. Lực lượng rút tập trung đầu năm 2008 làm cho thị trường suy giảm mạnh, những lúc này các nhà đầu tư tham gia sau là người thua cuộc, cổ phiếu vừa về đến tài khoản là lập tức bán ra nhưng bán không được vì không ai dám mua lúc thị trường hoảng loạn, => Bất cứ ai tham gia vào mua đều nắm chắc phần lỗ, giảm khoảng 70% => Lỗ quá nặng! Hầu hết các nhà đầu tư đều “méo mặt” vì thua lỗ. Tuy nhiên đến giữa tháng 6 năm 2008, các chính sách kinh tế của các nước trên toàn thế giới được tung ra như là bơm tiền vào lưu thông cứu trợ ngân hàng thâm hụt, giảm lãi suất, tạo công ăn việc làm cho người thất nghiệp…Việt Nam ta cũng bơm vào một tỷ USD vào nền kinh tế mình. Ảnh hưởng bởi niềm tin kinh tế sẽ được cứu, nhà đầu tư Việt Nam bình tâm trở lại và bắt đầu mua cổ phiếu trở lại, thị trường lại tăng lên ào ào, những cổ phiếu trước kia giảm bao nhiêu thì tăng lại bấy nhiêu, lớp nhà đầu tư tham gia cuối cùng của đợt hoảng loạn trên vô tình trúng đậm, nhanh tay bán ra chốt lời vào cuối năm => Năm 2008 đầy sóng gió, nhà đầu tư xãy ra hai thái cực hoàn toàn trái ngược nhau, một bài học nhãn tiền về “Lòng tham và nỗi sợ hãi”, một kinh nghiệm xương máu cho hầu hết các nhà đầu tư cá nhân. Năm 2009, một đợt rung lắc mạnh của thị trường tài chính quốc tế, lực lượng thất nghiệp ở các nước quốc tế gia tăng đột biến, thị trường chứng khoán chao đảo thêm một lần nữa, toàn bộ thị trường trên thế giới suy giảm. Tuy nhiên, giữa tháng 3 năm 2009, lượng tiền bơm vào thị trường cuối năm 2008 đã phát huy tác dụng, cùng với sự hồi sinh của kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam, giá cổ phiếu trở nên quá rẻ, mua cổ phiếu để hưởng cổ tức còn cao hơn cả tiền lãi gửi tiết kiệm, chỉ số VN – index 235 point, thấp nhất trong 6 năm gần đây, các nhà đầu tư bắt đầu chuyển từ trạng thái sợ hãi dần dần tự tin trở lại, sự tăng điểm của thị trường chứng khoán đã làm cho lòng tham tiếp tục gia tăng và lại bắt đầu một chu kỳ đầu tư là thắng, tuy nhiên lần này thì sự tham gia của ngân hàng, các tổng công ty đã bị hạn chế, chỉ còn chủ yếu các quỹ, các công ty chứng khoán, và nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị trường là chủ yếu. Năm 2009 là năm mà các nhà đầu tư học được bài học về sử dụng đòn bẩy tài chính, thị trường tăng điểm đã khiến các nhà đầu tư mờ mắt, liên tục yêu cầu mức đòn bẩy cao hơn và đổ tiền vào thị trường. Chỉ thị 03 là một minh chứng, tiền vào thị trường bị thắt chặt nhưng không có một giải pháp nào để thay thế cái đó, trong khi đó ở thế giới người ta có, như Margin Trading (giao dịch cho phép nhà đầu tư mượn tiền trước của nhà môi giới - PV). Đó là một trong những công cụ rất tốt, nghiệp vụ tốt hỗ trợ cho thị trường và mang tính chuyên nghiệp cao. Hay xa hơn là các công cụ phái sinh Options, Futures… trong chứng khoán => Nhà đầu tư trong nước đã học được những bài học cay đằng nhất trong đầu tư vào thị trường chứng khoán khi sử dụng đòn bẩy tài chính quá mức cho phép. Năm 2010 cho đến nay thị trường lình xình gây chán nản cho nhiều nhà đầu tư, không có những đợt sóng biến động mạnh, có lúc tất cả đồng loạt tăng tới 3 hoặc 4% toàn thị trường hoặc đồng loạt giảm sàn hầu hết các chứng khoán, giao dịch trên thị trường ngày càng kém thanh khoản, thị trường chưa có nhiều điểm sáng nên làm cho thị trường có xu hướng đi xuống. Các thông tin vĩ mô trong nước tuy rằng tốt nhiều hơn xấu, nhưng cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới luồng tiền vào thị trường chứng khoán. Trong khi đó, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp cũng chưa có nhiều hứa hẹn, do: - Các yếu tố làm tăng đột biến về lợi nhuận không có nhiều như năm ngoái, khi hỗ trợ lãi suất không còn, - Lạm phát tăng cao hơn, làm cho chi phí đầu vào của doanh nghiệp tăng... Các yếu tố vĩ mô khác như : - Thị trường vàng, thị trường bất động sản, thị trường ngoại hối được đưa vào diện kiểm soát chặt chẽ để không xãy ra những cơn sốt đất, sốt vàng khiến người dân lo lắng. - Nhà đầu tư nước ngoài vẫn liên tục mua ròng và sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tới thị trường Việt Nam ngày càng tăng, nhiều tổ chức đầu tư quốc tế vẫn đánh giá cao tiềm năng nền kinh tế của ta. - Cổ phiếu Thị trường chứng khoán đang nằm trong vùng có giá quá rẻ. - Nhiều doanh nghiệp lớn tăng vốn và niêm yết, đặc biệt là các ngân hàng theo lộ cuối năm 2010 phải có vốn điều lệ tối thiểu 3000 tỷ. Điều này cũng ảnh hưởng tới nguồn vốn chảy vào thị trường chứng khoán. Hiện nay trên TTCK đã hình thành những công ty trung gian và giới đầu tư quen gọi là “siêu đại lý” bởi nắm trong tay những cổ phiếu có tính thanh khoản tốt với khối lượng khổng lồ. Những quỹ đầu tư dài hạn, những nhà đầu tư tổ chức, các cá nhân thậm chí là những lãnh đạo của DN niêm yết sở hữu lượng cổ phiếu lớn nhưng trước mắt không có nhu cầu giao dịch có thể cho công ty trung gian vay. Công ty này đứng ra ký hợp đồng với nhà đầu tư (NĐT) có nhu cầu vay cổ phiếu với các thỏa thuận về mức phí, cơ chế giao dịch…Mọi giao dịch vẫn được thực hiện trên tài khoản của người cho vay. Người đi vay nếu chưa có uy tín, quen biết sẽ phải đặt cọc 20% trên tổng giá trị cổ phiếu vay. Với những NĐT quen biết đôi khi chỉ cần chốt với nhau qua chat, qua nhắn tin điện thoại lúc đầu giờ giao dịch, cuối ngày mới thanh toán. Mọi giao dịch chỉ thực hiện thông qua công ty trung gian nên không biết được chính xác mỗi lệnh mua, lệnh bán đã khớp hay chưa. Nếu họ vay và bán được giá cao sau đó chứng khoán giảm sâu sẽ dễ nảy sinh tranh chấp do chủ sở hữu thực sự nhận thấy bị thua lỗ quá nhiều. Lúc đó thật khó phân xử vì họat động cho vay chứng khoán chưa được phép và cơ chế để giải quyết tranh chấp này chưa có. Đây là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện nên việc họat động “chui” của các công ty này mang đến cho NĐT nhiều rủi ro. Các nhà đầu tư Việt Nam đã trở nên dè dặt hơn khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, các nguồn tiền từ ngân hàng, các tổng công ty, Việt Kiều và cả nước ngoài đổ vào chứng khoán Việt Nam không còn mạnh mẽ như trước, số lượng các công ty niêm yết trên sàn và số lượng cổ phiếu phát hành cũng tương đối lớn. Với một sự hạn chế về dòng tiền và số lượng lớn cổ phiếu niêm yết như vậy, một chiến lược đầu tư mới ra đời, đầu tư vào các penny chip, giá trị vốn hóa nhỏ. Các nhà đầu tư Việt Nam lại đầu tư theo trào lưu mới, đầu tư theo “đội lái”, không cần phân tích  kỹ thuật, phân tích cơ bản, chủ yếu tìm kiếm động thái của các đội lái để đầu tư theo. Nhưng rồi, cái gì phải đến thì cũng đã tới, nếu coi đầu tư trên thị trường chứng khoán theo quan điểm chơi bạc thì chắc chắn phải có “người thua và kẻ thắng”, những người đầu tư thiếu kinh nghiệm, không làm chủ được tình hình dễ bị thua, và phần thắng thuộc về các “đội lái” Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động. Khi cổ phiếu tăng càng nóng thì nguy cơ cổ phiếu biến thành “dao rơi”, “dao rơi” là tiếng lóng mà giới đầu tư gọi những cổ phiếu sau một quá trình tăng “bốc hỏa” bắt đầu chuyển sang “chế độ” rớt sàn tự động mỗi ngày. Thanh khoản cực thấp, bán giá sàn chất đống là những đặc điểm dễ nhận thấy của các “con dao” này, bất kể doanh nghiệp làm ăn tốt thực sự hay cổ phiếu bị kéo lên một cách cố ý. Nguyên nhân chính vì tính đầu cơ trên thị trường quá cao. Dù doanh nghiệp tốt được số đông chú ý và tăng giá bình thường, đến lúc nào đó sẽ trở thành bất thường và tăng quá mức chấp nhận được của phân tích cơ bản. Mặt khác, không một cổ phiếu nào có thể tăng giá, dù là tốt hay xấu, nếu thiếu vắng dòng tiền lớn tham gia mua. Dòng tiền lớn đóng vai trò “lái tầu”, là “nhiên liệu”, và đó thường là những đồng tiền thông minh. Khi dòng tiền thông minh đã rút ra thì cũng như con tàu bị bỏ lái, tắt máy => Một năm chán nản đối với tất cả các nhà đầu tư, lượng tiền mất dần theo các giao dịch. 2.2 Những hạn chế của nhà đầu tư cá nhân Bên cạnh những ưu điểm như nồng nhiệt, ham học hỏi cũng như tham gia nhiều khóa hội thảo về chứng khoán để học tập chia sẽ kinh nghiệm nhưng vẫn còn những hạn chế như: 2.2.1. Trình độ của NĐT cá nhân về TTCK còn hạn chế, không phân biệt được lúc nào nên tham gia thị trường, khi nào không nên, một số nhà đầu tư còn không biết chỉ số VN – index dùng để làm gì? Nó có ảnh hưởng gì đến cổ phiếu hay không, các tài liệu các báo cáo tài chính, bản cáo bạch công ty niêm yết mà cũng không biết nó để làm cái gì, cũng như không phân biết phân tích nội dung nào quan trọng nhất trong báo cáo, các quyền lợi khi mua cổ phiếu như quyền biểu quyết đại hội, quyền mua và bán các quyền cổ đông; đến cả lệnh đặt giao dịch trên thị trường cũng còn sai như viết sai nội dung lệnh mua – bán - hủy, đặt lệnh trễ rồi cãi nhau với người nhận lệnh … Việc thanh toán bù trừ chứng khoán cũng gây nhiều rắc rối cho nhà đầu tư, thời hạn thánh toán T+4 cho bù trừ cổ phiếu và T+2 cho bù trừ tiền tuy viết rõ ràng nhưng vẫn làm nhiều nhà đầu tư cứ tưởng là cổ phiếu hoặc tiền đã về đến tài khoản rồi… Nhiều người có tiền vẫn đang lao vào mua cổ phiếu nhưng họ không để ý gì đến chỉ số P/E, không quan tâm gì đến tính thanh khoản. Ở Việt Nam, kỳ vọng của người mua cổ phiếu đã vượt qua giá trị thực tế của các công ty bán cổ phần. Do đó, phải thay đổi lại hệ thống giáo dục để cộng đồng, các nhà đầu tư nhỏ lẻ có sự hiểu biết hơn và biết đầu tư một cách dài hạn hơn. Khi giá cổ phiếu phản ánh đúng giá trị thực của doanh nghiệp, nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì nhìn chung, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận, lúc đó hầu như tất cả các nhà đầu tư “đều thắng” vì trò chơi có tổng lớn hơn không. Ngược lại, khi giá bị đẩy lên quá cao, phần chênh lệch ảo sẽ tạo ra trò chơi có tổng bằng không, lúc đó, có người thắng ắt có kẻ thua. Câu hỏi đặt ra là ai được, ai mất? Điều mà các nhà đầu tư nhỏ lẻ cần lưu ý đó là khi bức màn thông tin bất cân xứng vẫn còn lớn, các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư chuyên nghiệp thường có lợi thế rất nhiều. Do vậy, không thể nghĩ một cách đơn giản là mình chỉ nắm một ít cổ phiếu nên dễ bán hơn khi giá đi xuống. Thực ra, một nhà đầu tư cá nhân thì giữ rất ít, nhưng tất cả số này cộng lại sẽ là một khối lượng khổng lồ, thậm chí lớn hơn rất nhiều phần nắm giữ của các nhà đầu tư có tổ chức. Khi mà những người có lợi thế hơn về mặt thông tin biết mua lúc giá thấp, bán lúc giá cao và rút khỏi thị trường đúng lúc thì phần thiệt thòi chắc chắn sẽ thuộc về các nhà đầu tư đơn lẻ. Các nghiên cứu cho thấy ở các TTCK mới nổi thì tâm lý đầu tư theo đám đông luôn là yếu tố nổi cộm nhất, như là đồng loạt tranh nhau mua hoặc tranh nhau bán trên toàn thị trường, tuy hiện nay không còn kiểu như vậy nhưng vẫn còn lác đác ở một số CP trên sàn xảy ra hiện tượng trên,.. Nhiều nhà đầu tư cá nhân mới tham gia vào chứng khoán ít chịu nghiên cứu tài liệu cơ bản về chứng khoán, các chỉ tiêu cơ bản về tài chính, các chỉ số đánh giá ROA, ROE, EPS, P/E,…giúp họ tính toán để ra quyết định đầu tư. Trong đó P/E có vị trí quan trọng để xem có nên đầu tư hay không? Thực tế thì P/E cao thì không hẳn là tốt hoặc thấp mời gọi là tốt, mà ta còn phải xét xem cổ phiếu đó thuộc loại nào, kinh doanh tốt hay không? Có triển vọng tương lai hay không? Tuy nhiên vẫn có nhiều người thấy giá cổ phiếu cao mà quên mất cổ phiếu đó từng bị “làm giá”, mua vào rồi thấy giá lại giảm nên lại mua tiếp… Đấy là những tiêu chí quan trọng khi nghiên cứu chứng khoán để làm những danh mục những cổ phiếu tiềm năng phát triển về sau nhưng lại bị lãng quên, hoặc có đọc cho qua chứ không có phân tích nội dung. Thuế chứng khoán, một "nỗi đau" khác mà tất cả các nhà đầu tư đang gánh chịu là bị lỗ trong năm vừa rồi, nhưng vẫn phải nộp thuế thu nhập. Sau mỗi lần giao dịch, CTCK tự động trừ trong tài khoản của nhà đầu tư 0,1% giá trị bán, ngay cả khi chọn cách nộp thuế 20%/thu nhập. Luật thiết kế như vậy là không hợp lý, bởi lẽ ra không nên khấu trừ ngay khi nhà đầu tư tiến hành bán chứng khoán. Nếu cơ quan thuế sợ nhà đầu tư "xù" thuế mà áp dụng cách làm như vậy, thì có thể đưa ra các chế tài để xử lý nhà đầu tư trốn thuế. Với thẩm quyền của mình, cơ quan thuế hoàn toàn tự chủ và có trách nhiệm trong theo dõi lỗ, lãi của nhà đầu tư để làm cơ sở đối chiếu với hồ sơ khai thuế của nhà đầu tư khi làm thủ tục quyết toán thuế hàng năm. Luật chứng khoán có nhiều sửa đổi nhưng ít nhà đầu tư quan tâm đến chuyện này vì họ cho rằng đó là vấn đề của UBCKNN, họ chỉ cần biết có đạt được lợi nhuận nào hay không mà thôi. Năm 2008, thị trường chứng khoán Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Nhiều doanh nghiệp, qua đầu mối câu lạc bộ các doanh nghiệp niêm yết, đã ngồi lại với nhau để đưa ra quyết sách mua lại cổ phiếu của chính mình để làm cổ phiếu quỹ. Đồng thời, hoạt động mua vào của các tổ chức, cá nhân là cổ động nội bộ của doanh nghiệp cũng khá sôi động. Những chuyển động này một lần nữa lại gây chú ý, đặc biệt trong tháng 5 đến tháng 8. Không thể phủ nhận các giá trị liên quan, đặc biệt trong sự hỗ trợ giá chứng khoán tại thời kỳ suy giảm; rộng hơn, khi có tiếng nói chung và mở rộng, sẽ là sự hỗ trợ cho thị trường. Theo cách hiểu thông thường, khi doanh nghiệp mua vào cổ phiếu quỹ, lượng hàng lưu thông trên thị trường sẽ giảm, giúp tăng cầu và thông thường sẽ ảnh hưởng tích cực đến giá chứng khoán. Mặt khác, với chính doanh nghiệp, việc mua lại đó cũng góp phần cải thiện một số chỉ số tài chính cơ bản, như giảm lượng cổ phiếu lưu hành và giảm vốn chủ sở hữu và theo đó làm tăng các chỉ số EPS, ROE… Tất nhiên, điều này còn phụ thuộc vào “phong độ” tạo lợi nhuận của doanh nghiệp, và quy mô mua vào lớn hay nhỏ. Và một lợi ích khác, dĩ nhiên đi cùng với rủi ro, là “mình hiểu mình hơn ai hết”, quyết định mua được xây dựng trên cơ sở đánh giá cơ hội ở thị trường với thực tế sức khỏe của doanh nghiệp (cũng không loại trừ những trường hợp mua vào vì mục đích khác mà xa rời yếu tố nội tại đó). Khi giá cổ phiếu giảm sâu, thấp, doanh nghiệp mua lại đồng nghĩa với việc tạo tiền để cho khả năng sinh lời từ chính khoản đầu tư đó trong tương lai. Với nhà đầu tư, phản ứng thường thấy là suy tính chung: khi doanh nghiệp mua vào thì ắt đã phải đánh giá những rủi ro, yếu tố cơ hội giữa thực tế với sức khỏe "bản thân". Nên những thông tin loại này thường tạo tâm lý tích cực cho cổ đông và nhà đầu tư. Dĩ nhiên, có những lý do khách quan để có thể khẳng định rằng hoạt động mua vào đó khó đảm bảm 100% kết quả như kỳ vọng. Với những giao dịch thành công và trọn vẹn đã đành. Vấn đề là thời gian gần đây, thông tin kiểm chứng lại những giao dịch đó có thể gây thất vọng với nhà đầu tư. Mới đây, theo thông tin công bố, một lãnh đạo của một doanh nghiệp lớn trên HOSE đăng ký mua vào 2 triệu cổ phiếu. Nếu chỉ gói gọn ở giao dịch này thì rõ ràng là có nhiều ý nghĩa trong bối cảnh thị trường “lao dốc không phanh”. Thế nhưng, tra cứu lại thì đây là giao dịch “chuyển tiếp”, khi giao dịch đăng ký mua vào trước đó không thực hiện được. Chuyện này không phải là cá biệt. Đọc thông tin công bố giao dịch nội bộ một tuần trở lại đây trên cả Hose và Hnx, dễ nhận thấy nhiều trường hợp chốt lại giao dịch đăng ký mua vào trước đó nhưng không trọn vẹn. Như đề cập ở trên, hẳn có những lý do khách quan. Thế nhưng, không loại trừ khả năng có “dị ứng” khi thông tin giải thích na ná nhau, như “giá không được như mong muốn” (ngại bắt đáy?), hay như “không chuẩn bị đủ tài chính” (liệu có thụ động khi đưa ra thông tin đăng ký mua vào?)…Ví như, Công ty Cổ phần Thuốc sát trùng Cần Thơ (CPC) vừa công bố thông tin mua vào 200.000 cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ với nguyên tắc xác định giá là dự kiến mua không cao hơn 25.000 đồng/cổ phiếu. Hay với Công ty Cổ phần Phát triển Hạ tầng Vĩnh Phúc (IDV), thông tin đăng ký mua 135.000 cổ phiếu làm cổ phiếu quỹ cũng xác định giá không quá 30.000 đồng/cổ phiếu… Chuyện thâu tóm công ty, điển hình là DCC Descon xây dựng công trình, một nhóm tổ chức thu mua rất nhiều cổ phiếu công ty từ các nhân viên trong công ty để tham gia vào hội đồng quản trị, nhưng hoàn toàn không công bố bất cứ thông tin nào lên truyền thông đại chúng, đến khi đại hội cổ đông thì nhóm này tung chiêu bài hủy bỏ quyền chủ tịch hội đồng quản trị công ty vào đòi lập ra người khác đứng lên làm quản trị. Vụ việc gây xôn xao trong giới đầu tư và xãy ra nhiều vụ kiện tụng nhau nhưng chưa đến hồi kết. Không hiểu nhiều về những rủi ro về lãi suất, lạm phát, tỷ giá…các rủi ro này đều có tác động trực tiếp đến hoạt động thị trường chứng khoán. Việc am hiểu nhiều về chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách tỷ giá là việc khó. Thông thường, chỉ có các chuyên gia kinh tế mới hiểu và phân tích được những ảnh hưởng của các rủi ro trong các chính sách đó. Tuy nhiên, khi nhà đầu tư bỏ ra một số lượng tiền khá lớn thì cần phải quan tâm đến các rủi ro này vì nó sẽ chỉ ra xu hướng lên hoặc xuống của thị trường chứng khoán, từ đó nhà đầu tư sẽ có những quyết định chính xác hơn. Các rủi ro thường thấy trong bối cảnh thị trường chứng khoán hiện nay như: Đầu tiên, đó là lãi suất ngân hàng có diễn biến cho thấy có xu hướng đi lên. Khi lãi suất tăng lên, lượng vốn nhà rỗi có xu hướng tìm về nơi an toàn để “trú ngụ”, cung tiền bị hạn chế… kéo theo việc sản xuất kinh doanh cũng phải được thu hẹp lại bởi vì những doanh nghiệp sử dụng vốn vay rất khó vay vốn của ngân hàng hoặc vay được nhưng lãi suất quá cao làm cho lợi nhuận doanh nghiệp sẽ giảm => Giá cổ phiếu đi xuống, thị trường chứng khoán đi xuống. Khi chính sách thắt chặt tiền tệ dần siết lại kể từ khi Thông tư 13/2010/TT- NHNN có hiệu lực (các ngân hàng thương mại phải có vốn điều lệ 3000 tỷ đồng). Một yếu tố cần xét song song với trên, đó là lạm phát, tình hình lạm phát đã kéo TTCK Việt Nam trở lại với những con số thực của nó. Ngay sau khi lộ ra tin chỉ số tiêu dùng CPI tăng lên so với dự báo của các chuyên gia kinh tế, nhiều NĐT đã bắt đầu quay lại kiểu tâm lý lo sợ cho những phiên giảm điểm sắp tới, bởi vì sắp tới sẽ là hạn chế lượng tiền lưu thông trên thị trường, một khi tiền lưu thông bị rút về, thông thường thì Ngân hàng nhà nước sử dụng biện pháp hành chính bằng cách tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát (lãi suất cho vay hiện nay rất cao khoảng 18% - 20% một năm), hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán, tính thanh khoản lại càng giảm sút, những khoản nợ vay lại sắp đến hạn sẽ làm cho thị trường vào tình thế “hiểm nghèo” hơn nữa. Xét Cp Vinamilk Ngày 19/1/2006, cổ phiếu Công ty sữa VN Vinamilk (mã chứng khoán VNM) chính thức được niêm yết trên sàn giao dịch của Trung tâm Chứng khoán TP. HCM với giá khớp lệnh trong phiên giao dịch đầu tiên là 53.000 đồng/cổ phiếu.. Số lượng cổ phiếu đưa vào giao dịch là 159 triệu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy, tổng giá trị cổ phiếu niêm yết theo mệnh giá là 1.590 tỷ đồng. Tình hình cố phiếu trước lạm phát: Bắt đầu ở mức 53.000đ, VNM nhanh chóng tăng giá giai đoạn sau đó. Và đến ngày 14/04/2006 giá Cp VNM đã là 102.000đ. 4 tháng sau đó, với sự thử thách của thị trường, VNM giảm nhẹ. Nhưng từ tháng 8, VNM bắt đầu bình ổn và tăng nhẹ. Giai đoạn cao nhất mà VNM đạt được là ngày 27/02/2007 với giá 212.000đ. So với nhiều “ông lớn” khác thì VNM vẫn duy trì được giá khá ổn định trong năm 2007. Đó là do liên tiếp những báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh thành công. Tình hình cổ phiếu sau lạm phát: Không tránh khỏi số phận như những cổ phiếu khác, mặc dù bắt đầu năm 2008 với mức giá 166.000 đ, nhưng ngay sau đó VNM tiếp tục giảm. và cụ thể là tháng 6/2008, giá VNM chỉ còn 93.400đ. biến động thất thường của VNM thực tế bắt đầu từ tháng 3 (tức là cũng từ sau chỉ thị 03). Giai đoạn sau đó tăng giảm rất thất thường, nhưng không vượt qua mức 120.000đ. Trong tháng 9/2008, khi những tin tức xấu từ thị trường sữa, cổ phiếu VNM tiếp tục giao động mạnh. Nhưng sau khi chứng minh được sự an toàn thì giá VNM bình ổn, thậm chí còn tăng trong những ngày qua. Giá và khối lượng giao dịch cổ phiếu VNM trong 3 tháng cũng như 1 năm qua: Biểu đồ 2.7 – Cổ phiếu VNM từ cuối tháng 7 đến tháng 10/2008 Biểu đồ 2.8 – Cổ phiếu VNM từ cuối tháng 10/2007 đến 10/2008 Nhận xét: Thống lĩnh trong ngành kinh doanh sữa, mặt khác lại là mặt hàng thiết yếu, có mức tăng trưởng tốt, VNM chỉ chịu tác động chung của toàn thị trường. Giá CP chỉ bị sụt giảm gần một nửa trong giai đoạn khủng hoảng tiền tệ cho thấy VNM có một vị trí khá tốt trong tâm lý nhà đầu tư. Trong giai đoạn tháng 8/2008, trước cơn bão Melamin trong sữa thì VNM vẫn dao động rất ít. Hiện nay giá Cp VNM vẫn xoay quanh 86.000đ Nhận xét: Bối cảnh thị trường chứng khoán tiếp tục ảm đạm và cung cổ phiếu áp đảo cầu, lượng tiền mặt của nhà đầu tư khan hiếm, van tín dụng cầm cố chứng khoán hạn chế => Tính thanh khoản giảm sút đáng kể gây cho nhà đầu tư chán nản. Kế đến là biến động về tỷ giá ngoại tệ. Việc điều chỉnh tỷ giá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp có các khoản nợ nước ngoài khi phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá cuối năm, trong đó có các doanh nghiệp ngành dịch vụ công cộng, xi măng, vận tải biển và dầu khí. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp ngành dầu khí và vận tải biển, có nguồn thu ngoại tệ trực tiếp từ việc bán sản phẩm, cung cấp dịch vụ đầu ra thì cũng đồng thời được hưởng lợi từ việc thay đổi tỷ giá. Nói đến tác động của việc tăng tỷ giá, thời điểm này giá cổ phiếu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên 2 sàn hiện đều xuống thấp. Lý do dễ nhìn thấy nhất đó là thị trường vẫn đang nằm trong xu hướng giảm và điều đó có nghĩa là trên 90% giá các cổ phiếu niêm yết đều chịu chung xu hướng này. Nhưng nếu so sánh với mức độ sụt giảm chung của thị trường thì tôi thấy cổ phiếu của các doanh nghiệp xuất khẩu ở một số ngành như cao su, thủy sản vẫn giữ giá khá tốt, hay nói cách khác sụt giảm với biên độ thấp hơn các ngành khác. Ngoài ra, diễn biến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp xuất khẩu còn phụ thuộc vào nhiều các yếu tố khác liên quan đến triển vọng của từng ngành chứ không riêng vấn đề tỷ giá... Về nguyên tắc, khi đồng nội tệ giảm giá, sẽ thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Các chuyên gia cho rằng trong ngắn hạn, ngay sau mỗi lần điều chỉnh giảm giá VND, sẽ có tác động tích cực đến việc thu hút dòng vốn đầu tư quốc tế cả trực tiếp lẫn gián tiếp nếu những lần điều chỉnh đó mang tính chủ động và trong tầm kiểm soát của NHNN. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng lợi khi hiệu quả đầu tư tăng lên và họ cũng sẽ phần nào yên tâm ít nhất là trong khoảng thời gian kế tiếp trước khi đợt điều chỉnh tiếp theo diễn ra. Tuy nhiên, nếu việc điều chỉnh tỷ giá mang tính bị động, thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ lo ngại nhiều hơn về những bất ổn kinh tế vĩ mô, nhất là đối với các khoản đầu tư trung và dài hạn. Đơn giản là bởi vì ở vị trí của một nhà đầu tư, họ sẽ phải tính đến cả thời điểm rút vốn khỏi Việt Nam để hoàn tất từng chu kỳ đầu tư. Khi đó, nếu VND bị giảm giá thì họ là những người chịu thiệt hại => Tỷ giá tiếp tục là một trong những rủi ro tiềm ẩn đối triển vọng với kinh tế Việt Nam nhưng yếu tố này cũng ít được quan tâm đến. 2.2.2 Không xem xét diễn biến thị trường, giao dịch vội vàng, tiếc của nên ôm lỗ, mua cổ phiếu giá rẻ, sử dụng công cụ phái sinh tràn lan Lịch sử đã cho thấy, lòng tham khiến thị trường bị đẩy lên quá cao, còn nỗi sợ hãi kéo thị trường xuống quá thấp. Nhiều nhà đầu tư nhanh chân đi trước, biết dừng đúng lúc thì thu được lợi, còn kẻ chậm chân phải chịu nhiều thua thiệt. Hệ quả trong những trường hợp như vậy thường là sự suy giảm niềm tin, sự hạn chế đầu tư hay rời bỏ thị trường. Đó là chưa kể những tác động xấu khác, ví dụ như hạnh phúc, chất lượng sống của những nhà đầu tư thua lỗ giảm sút… Nhà đầu tư lúc thị trường có xu hướng giảm, lại ít chịu xem xét diễn biến của thị trường nên tìm cách “bắt đáy” vội vàng. đồng thời đến khi thời điểm T + 4 chứng khoán về thì lại bán tháo cổ phiếu bằng mọi giá”. Đơn cử như xét thời kỳ huy hoàng chứng khoán Việt Nam cuối năm 2007 đầu năm 2008 thì sau đợt tăng nóng dài thì đã xuất hiện tình trạng giảm liên tục, VN – Index từ 1200 xuống còn 600, trong khoảng thời gian này, các nhà đầu tư cũ đạt được lợi nhuận thì bán ra ngồi chờ nhưng khi thấy thị trường xanh lại thì lại nhảy vào mua, nhà đầu tư vào sau cũng tranh thủ bắt đáy thị trường, nhưng càng lúc càng thua lỗ thêm, tiếp tục găm giữ cổ phiếu đang trên đà rớt giá vì về mặt tâm lý thì rất khó bán những cổ phiếu thua lỗ, đến lúc không thể chịu đựng được nữa thì cũng tranh nhau bán, càng làm cho chứng khoán biến thành “đám mây vẫn đục” trong đầu tư, gợi lên những ý không tốt về chứng khoán, coi nó như trò chơi đánh bạc của nhà nước… Vào đầu năm 2009 cũng xãy ra tình trạng giảm thê thảm, các cổ phiếu về giá thấp hơn giá phát hành, thị trường hoảng loạn theo ảnh hưởng của thế giới, nhà đầu tư cá nhân ào ào bán ra, nhưng sau đó thì chứng khoán tăng lại mang khoản lợi nhuận kếch sù cho người tham gia bắt đáy cuối cùng, nhiều người kẻ cười người khóc cũng chỉ vì thiếu hiểu biết của mình đã làm mất đi cơ hội lợi nhuận, quá vội mua vào và cũng vội bán ra, chỉ làm giàu thêm cho nhà đầu tư tổ chức và tổ chức nước ngoài…. Bán cổ phiếu là một bước đi bắt buộc trong quy trình đầu tư để thu lợi nhuận. Thật đáng tiếc, chúng ta không phải là những chiếc máy tính và khả năng tư duy phân tích của chúng ta có thể làm cho kết quả bán cổ phiếu tốt đẹp hơn hay tồi tệ hơn mức trung bình. Sẽ có không ít lần bạn bán cổ phiếu quá sớm hay bán quá muộn vì chờ giá lên. Điều này cũng là bình thường khi các quyết định của bạn dựa trên kinh nghiệm hay cảm tính. Thậm chí không ít trường hợp mọi thứ sẽ tồi tệ hơn rất nhiều nếu các quyết định bán cổ phiếu bị nỗi sợ hãi của bạn ảnh hưởng. Trên thực tế, rất nhiều nhà đầu tư đã bán cổ phiếu dựa nhiều trên yếu tố cảm xúc và do vậy đã mắc các sai lầm đáng tiếc. Phần lớn các nhà đầu tư mới tham gia thường có những quan niệm và suy nghĩ sai lầm. Giá thấp đồng nghĩa với rẻ. Đây là quan niệm mà hầu hết nhà đầu tư mới tham gia thị trường đều có. Tại sao những nhà đầu tư mới lại thích chọn những cổ phiếu giá rẻ? Nguyên nhân nằm ở tâm lý thích nhiều, với cùng một khoản tiền, họ thích mua những cổ phiếu giá thấp để có số lượng cổ phiếu nhiều trong tài khoản. Kể cả nhà đầu tư có kiến thức nhưng chưa có kinh nghiệm, đôi khi cũng vẫn mắc phải những suy nghĩ này. Thực tế, lợi nhuận thu được khi so sánh đánh giá hiệu quả của một khoản đầu tư được tính theo tỉ lệ phần trăm giữa phần lợi nhuận với số đầu tư ban đầu và so sánh với nhau. Ngoài ra, suy nghĩ phổ biến là cho rằng cổ phiếu giá thấp có cơ hội tăng giá nhiều hơn, và có có khả năng mang lại lợi nhuận lớn nếu tăng bằng hay gần bằng những cổ phiếu có thị giá cao. Thực tế, cổ phiếu có thị giá cao thường là cổ phiếu của các công ty có tình trạng sản xuất kinh doanh tốt, mang lại nhiều lợi nhuận cho cổ đông và có sự tăng trưởng mạnh, hay trong các ngành nghề có tốc độ tăng trưởng cao, nên được nhiều nhà đầu tư quan tâm và chấp nhận với thị giá cao đúng như câu "tiền nào của nấy". Tiếc nên ôm lỗ là tâm trạng mà hầu hết nhà đầu tư mới không quen với suy nghĩ phải thực hiện giảm những khoản đầu tư thua lỗ và tăng khoản đầu tư mang lại lợi nhuận. Khi đầu tư vào một danh mục cổ phiếu, nhà đầu tư mới thường có xu hướng bán những cổ phiếu vừa bắt đầu tăng giá, nhưng lại không chịu bán những cổ phiếu xuống giá do tiếc khoản bị lỗ. Sử dụng công cụ phái sinh tràn lan. Mặt trái cơ bản nhất của các công cụ phái sinh trong giao dịch chứng khoán “được GS.TS Stanley Pliska miêu tả” giống như việc đặt cược về tương lai của một cổ phiếu. Nếu diễn biến thị trường của cổ phiếu giống kỳ vọng của bạn, dĩ nhiên bạn được lợi, nếu cổ phiếu không giống kỳ vọng của bạn, bạn sẽ mất phần đặt cược. Ngoài ra, với thị trường chứng khoán non trẻ như Việt Nam, khi có một công cụ mới trên “sân chơi”, vấn đề được lưu tâm nhất vẫn là mức độ “sẵn sàng” của thị trường.GS. Stanley Pliska chia sẻ: “Tôi không phải là một chuyên gia về thị trường Việt Nam, nhưng kinh nghiệm của tôi cho thấy việc áp dụng một hình thức giao dịch tương tự vào một thị trường mới cũng cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng và cần xây dựng những khuôn khổ pháp lý chuẩn mực cho các hoạt động này. Các bạn cũng có thể nghiên cứu để áp dụng từng bước. Khi các thành viên đã sẵn sàng thì thị trường mới vận hành tốt được”. Rõ ràng là, bên cạnh những mặt tích cực của các công cụ phái sinh, cũng cần chú ý rủi ro có thể có của những công cụ này. Theo ông Thanh Hải, các công cụ tài chính đều có hai mặt, một mặt các nhà đầu tư có thể phòng vệ rủi ro, chẳng hạn mua một hợp đồng tương lai để bảo vệ hàng hóa đang mua, tuy nhiên, nhà đầu tư có thể gặp rủi ro lớn nếu không biết cách đặt lệnh, giới hạn được tổn thất nếu có. 2.2.3 Chưa quan tâm nghiên cứu những cổ phiếu thân quen như có người thân làm trong công ty làm ăn tốt, có hiệu quả được khẳng định bằng những khoản lợi nhuận thuần hằng năm kinh doanh thuần chất, thay vào đó là chơi chứng khoán theo dạng đầu cơ hoàn toàn theo nhóm đội lái. Mang theo quan niệm đầu tư rủi ro cao thì mang lại lợi nhuận nhiều, đơn cử là AGC là một trong những ví dụ tốt về một cổ phiếu có sự hỗ trợ về mặt cơ bản trong quý 2 vừa qua. Trong tháng 7, AGC tăng khoảng 136,7% sau khi tích lũy gần 2 tháng quanh giá 14.000 đồng/cổ phiếu. AGC bắt đầu bị phân phối mạnh từ 25.000 đồng đến khoảng trên 30.000 đồng. Kết quả kinh doanh quý 1/2010 của AGC không có gì ấn tượng với mức lãi sau thuế 0,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu xét kỹ hơn về cơ cấu tài chính, AGC có một lượng hàng tồn kho khổng lồ trị giá tới 318,4 tỷ đồng sau khi đã trừ đi các trích lập dự phòng. Đây là khoản tiền lớn nếu so với mức vốn góp 83 tỷ đồng. AAA là ví dụ kế tiếp. Nhóm đầu cơ có tổ chức đã tung tin Công ty cổ phần An Phát trúng được thầu có giá trị lớn, sau đó cổ phiếu này tăng trần liên tục trong hai tháng từ giá 40.000 lên 92.000 – 94.000 đồng, Sau khi “của thiên trả địa” hết, cổ phiếu nay rơi về giá 52.000 đồng – 54.000 đồng, tương đương điểm xuất phát ban đầu và hiện tượng bắt đáy diễn ra. Tuy nhiên khối lượng kẹp lại quanh đỉnh 90.000 đồng quá lớn và lực bắt đáy không đủ để cản đà rơi. Không ít nhà đầu tư liều mạng đã “chảy máu” khi bắt “con dao” này và giá hiện khoảng 30.000 đồng/cổ phiếu. LTC thậm chí còn “hoàn hảo” hơn: cổ phiếu này tăng 88% trong 17 phiên đầu tháng 9 và rơi sàn liên tục 8 phiên, trả lại khoảng 37% giá tính từ đỉnh. Về ngang điểm xuất phát 60.000 đồng/cổ phiếu LTC được bắt “dao” và trụ được 3 phiên. Hành trình lao dốc lại tiếp tục với 7 phiên sàn nữa và giá còn 35.700 đồng với dư bán sàn gần 200.000 đơn vị mỗi ngày. LTC đã làm “đứt tay” nhiều người với khoảng 522.000 cổ phiếu => Đây là dạng đầu tư rất nguy hiểm, bán không được, thanh khoản mất. 2.2.4 Rất nhiều nhà đầu tư nghe theo lời tư vấn như câu nói “đừng nên bỏ trứng vào một rổ” hay như câu “đa dạng hóa danh mục đầu tư”. Theo các chuyên gia thì khả năng và sự tập trung của mỗi nhà đầu tư là có giới hạn, không thể một lúc theo sát nhiều mã chứng khoán, việc này sẽ làm cho hao tổn tâm trí mà lại không đạt được lợi nhuận như mong muốn. Nhưng lại có rất nhiều nhà đầu tư nghe theo tư vấn của môi giới mà quên mất chính kiến của bản thân, đầu tư tràn lan, không theo một mục tiêu cụ thể nào với quan niệm “mua rải ra càng nhiều càng tốt, tránh được rủi ro khi giảm, khi cổ phiếu này giảm thì cổ phiếu khác tăng” Trong một danh mục có dãy nhiều mã cổ phiếu thì khi thị trường có biến động thì rất khó để kiểm soát và rất khó để ra quyết định giao dịch hoặc là không kịp thời gian giao dịch => Mất công sức nhiều nhưng lợi nhuận không cao. 2.2.5 Quan tâm đến nền kinh tế thế giới chưa sát sao, không thường xuyên cập nhật tin tức thế giới Đó là các yếu tố tin tức kinh tế quốc tế, nó cũng có ảnh hưởng đến TTCK, các tin xấu và tin tốt về vĩ mô quốc tế xuất hiện đan xen nhau, những vấn đề biến động kinh tế thế giới dù có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng việc cập nhật và hiểu những thông tin này trên thực tế không phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Tuy vậy, một số thông tin cơ bản được đăng tải phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại chúng như tivi, báo chí, internet, tạp chí kinh tế … để nhà đầu tư theo dõi và dự đoán xu hướng tăng giảm của TTCK. Ví dụ như khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 có thể làm kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và các nước quốc tế giảm đi thấy rõ, điều đó có nghĩa là cổ phiếu của các công ty xuất khẩu sẽ giảm. Các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới cũng có nhiều nhận định và dự đoán trái chiều. Tình hình kinh tế quốc tế chưa thực sự rõ ràng xu hướng. Hiện nay, những tin tức quốc tế đáng chú ý có thể ảnh hưởng tới chứng khoán: - Tình hình nợ công tăng cao tại một số nước trong liên minh Châu Âu dẫn tới chính sách tiền tệ thắt chặt của các nước khá nhiều nước thuộc liên minh, cùng với nỗi lo về nợ khổng lồ sắp đến ngày đáo hạn phải trả nhưng vẫn chưa tìm ra lối thoát, việc này có thể gây ra mất cân đối tài chính sẽ kéo thị trường chứng khoán thế giới giảm. - Tăng trưởng kinh tế tại một số quốc gia như Mỹ và Đức, Trung Quốc làm cho giới các nhà đầu tư an tâm và nghĩ tới sự phục hồi của nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. - Một số nước lớn đã tiến hành tái cơ cấu nền kinh tế, cắt giảm chi tiêu công, thực thi các chính sách kinh tế hợp lý hơn cũng đã thu được kết quả bước đầu như Hy Lạp giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách quốc gia, Anh giảm bớt ngân sách quốc gia, Trung Quốc thay đổi chiến lược đầu tư ra nước ngoài tận dụng nguồn thặng dư thương mại dồi dào của mình, Mỹ theo đuổi chính sách phát triển năng lượng sạch. . CHƯƠNG 3 NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Năm 2010 và đầu năm 2011, chỉ số chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt Nam biến động có xu thế bất lợi làm nhiều nhà đầu tư chán nản, số NĐT rời bỏ thị trường có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, đầu tư trên thị trường chứng khoán vẫn là một trong những kênh đầu tư phổ biến trên thế giới. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường chứng khoán vẫn còn mới mẻ, tạo ra nhiều cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Không vì sự biến động không thuận lợi mà chán nản rời bỏ thị trường. Khó khăn nguy cơ của người này nhưng lại là thuận lợi cơ hội của người khác. Song, việc nâng cao năng lực đầu tư không phải là việc dễ dàng, có thể mất nhiều thời gian nhưng không thể không làm. Trước mắt, các NĐT cần chú ý một số vấn đề sau: 3.1. Đầu tiên là, trang bị cho bản thân những kiến thức cơ bản không thể thiếu khi đầu tư chứng khoán, đó là: 3.1.1. Kiến thức về chỉ số VN – index, nắm chắc cách thức giao dịch trên thị trường chứng khoán cũng như đăng ký tài khoản giao dịch cùng với thanh toán bù trừ chứng khoán và tiền vốn, hiểu thành gian thanh toán T+4 như thế nào? Thanh toán ra làm sao?.... 3.1.2. Bổ sung kiến thức, thông tin các mã chứng khoán bằng cách đọc thêm trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo đài, internet, báo cáo thường niên. Xem thông tin thị trường, nghiên cứu báo cáo tài chính, bản cáo bạch của công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán mà bản thân ưu tiên, xem công bố thông tin về báo cáo tài chính năm và công bố thông tin bất thường khi lâm vào tình trạng phá sản; có quyết định giải thể; Quyết định hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, góp vốn liên doanh, chuyển đổi công ty; Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; thay đổi tên công ty; tăng hoặc giảm vốn điều lệ; các thông tin bất thường của công ty niêm yết, thông tin trong giờ giao dịch; các thông tin định kỳ trong ngày giao dịch, Tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của người nước ngoài và giới hạn còn được mua đối với từng loại chứng khoán; Giao dịch của 05 cổ phiếu có giá trị niêm yết lớn nhất và 05 cổ phiếu có giá thị trường lớn nhất. Nếu có điều kiện ngoại giao tốt thì nên nắm bắt những thành viên chủ chốt của công ty để đưa ra những quyết định đúng và kịp thời nhất... chẳng hạn như là Khi thấy một cổ đông nội bộ đặt cược lớn cho cổ phiếu của mình, bạn cần phải chú ý và đặt câu hỏi tại sao? Vì cổ đông nội bộ mua vào bởi một lý do duy nhất: họ nghĩ rằng cổ phiếu sắp theo chiều hướng tốt. Trong khi đó, động thái bán cổ phiếu của cổ đông nội bộ thì có nhiều lý do, chẳng hạn như đa dạng hóa danh mục đầu tư. Thông thường thì cổ đông nội bộ bán nhiều hơn mua. Tuy nhiên, cần chú ý những hoạt động mua bán “đặc biệt”, không nên chú ý những hoạt động mua bán bình thường. Ví dụ như xem báo cáo Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) thông báo kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2010. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính quý IV/2010 của REE tăng 50,55% so với cùng kỳ năm 2009. Nhờ giá vốn hang bán thấp Lợi nhuận gộp đạt 188,5 tỷ đồng, tăng 121,56% so với cùng kỳ năm 2009. LNST quý IV/2010 đạt 120,19 tỷ đồng, tăng 27,33% so với cùng kỳ năm 2009. Lũy kế cả năm 2010, REE đạt 343,03 tỷ đồng LNST, giảm 20,92% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng LNTT cả năm 2010 đạt 451,73 tỷ đồng, hoàn thành 88,57% so với kế hoạch 510 tỷ đã được ĐHCĐ thông qua. Chỉ tiêu Q4/2010 Q4/2009 2010 2009 Doanh thu bán hàng 626.83 416.35 1827.78 1182.01 Giá vốn 438.27 329.93 1264.4 765.33 LN gộp 188.5 85.08 562.98 408.88 DT tài chính 67.56 123.6 157.39 212.9 CP tài chính 2.5 99.98 48.34 4.09 CP bán hàng 23.75 19.8 57.65 48.98 CP Quản lý 70.54 -10.43 172.62 90.07 LNST 120.19 94.39 343.03 433.8 Xem phần báo cáo tài chính web: www.reecorp.com.vn ta cần quan tâm đến các chỉ số như doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, các nguồn chi hiện tại và tương lai sử dụng vốn, chia cổ tức, hoạch định tương lai …. Một quyết định thiếu thông tin có thể làm bạn phải trả giá đắt. Bởi vậy, bạn nên đọc Bản cáo bạch một cách kỹ lưỡng và tìm hiểu rõ những may rủi thực sự của công ty trước khi ra quyết định đầu tư. Bạn nên đánh giá cẩn thận những yếu tố cơ bản của công ty đăng ký niêm yết thông qua nghiên cứu các thông tin trong Bản cáo bạch. Mặc dù những đợt chào bán lần đầu ra công chúng thường là cơ hội đầu tư tốt vì chúng thường mang lại lợi nhuận ban đầu cao, do cổ phiếu tăng giá, nhưng rủi ro vẫn tồn tại. Những thông tin cần chú trọng xem như: - Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê sô liệu phát hành / chào bán, số nợ và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành; - Chứng khoán phát hành; - Thông tin về ngành kinh doanh; - Thông tin tài chính; - Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc; - Các đối tác liên quan tới đợt phát hành; - Các nhân tố rủi ro; Các chỉ số ROA, ROE EPS, P/E luôn dễ dàng được tìm thấy trong các Bản tin chứng khoán lưu hành hằng ngày. Việc còn lại là nhà đầu tư chỉ tính toán và ra quyết định đầu tư khi đã có được những số liệu về các chỉ số đánh giá này. Ngoài ra, ta phải theo kịp tình hình nền kinh tế của các nước phát triển trên thế giới, bởi vì chúng ta không hề đi riêng rẻ, bởi vì các nền kinh tế luôn có ảnh hưởng tương hỗ với nhau, một nước mà có nền kinh tế không ổn định thì sẽ ảnh hưởng dây chuyền với các nền kinh tế xung quanh… 3.1.3. Nắm rõ biểu phí giao dịch của từng công ty chứng khoán và thuế thu nhập cá nhân, trong thời điểm hiện nay, các công ty chứng khoán nhiều nên việc chọn một nơi tin cậy để giao dịch cũng khá dễ dàng, thông thường các công ty có các biểu phí gần gần giống nhau, chi khác nhau ở các công cụ phái sinh như vay ứng trước, sử dụng đòn bẩy, …tuy nhiên chọn sàn cũng như để thuận tiện công việc và trao đổi thông tin với nhà đầu tư khác rất quan trọng, nó góp phần quyết định sự đầu tư thắng lợi, Ví dụ như: Cty chứng khoán Thăng Long thì 0.15% - 0.35%, giao dịch càng nhiều phí càng giảm, giao dịch qua Net thì 0.22%, được sử dụng phái sinh Cty chứng khoán Bảo Việt thì phí 0.25% - 0.4%, ít cho sử dụng phái sinh, khách vip thì 0.2% và sử dụng phái sinh Cty chứng khoán KimEng thì phí đồng nhất 0.15%, sử dụng phái sinh… Về thuế chứng khoán thì việc lựa chọn phương pháp kê khai, nộp theo thuế suất toàn phần 20% là thuận tiện cho các nhà đầu tư có danh mục đầu tư gồm nhiều cổ phiếu, giao dịch nhiều lần trong năm, vì chỉ phải tính toán lãi lỗ và quyết toán một lần cho toàn bộ các giao dịch trong cả năm. Trường hợp năm đầu tư bị lỗ hoặc số thuế phải nộp lớn hơn phần kê khai tạm nộp theo mức ấn định 0,1% theo từng lần giao dịch trong suốt cả năm, thì nhà đầu tư có thể thực hiện các thủ tục xin hoàn số thuế đã nộp thừa trong năm. Theo dự án cải cách thủ tục hành chính trong công tác thuế, hồ sơ, thủ tục và thời gian kiểm tra hoàn thuế đang và sẽ được đơn giản hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế được hoàn thuế. Theo nguyên tắc, cổ phiếu thưởng, cổ phiếu nhận thay cổ tức và cổ phiếu khác cùng loại mà nhà đầu tư hiện có, xét về khối lượng trong danh mục đầu tư, là không khác nhau và tương tự như quản lý hàng tồn kho với nhiều lần nhập và giá nhập khác nhau. Tuy nhiên, có lẽ nhằm đạt mục đích tận thu, khi cho rằng cổ phiếu thưởng hoặc cổ phiếu nhận thay cổ tức thường được tính với giá gốc hoặc giá ưu đãi nên chắc chắn khi chuyển nhượng sẽ phát sinh lãi, nên cơ quan thuế muốn tính thuế thu nhập cá nhân trên số cổ phiếu này trước. 3.1.4. Nghiên cứu luật chứng khoán rõ ràng, cổ đông ít vốn nên học luật chơi, trong đó lưu ý 2 điểm chính: cổ đông nhỏ được luật pháp trao cho quyền nhất định để tự bảo vệ mình nhưng cũng đừng quên quyền chỉ giới hạn trong số vốn góp, cổ đông ít vốn chiếm tỷ trọng lớn về số lượng nhưng chỉ nắm giữ khoảng 20 - 30% vốn, trong khi một vài cổ đông nắm giữ vốn lớn, gọi là cổ đông lớn có thể nắm giữ 70 - 80% vốn của công ty. Vì thế, quyền quyết định trong công ty thực chất thuộc về một vài cổ đông lớn. Nhà đầu tư nhỏ trước khi quyết định đầu tư vào công ty nào nên đọc kỹ bản điều lệ của công ty đó để biết rõ về quyền lợi của mình, nên chọn mặt gửi vàng, tránh tình trạng đến khi thua thiệt mới tìm hiểu luật chơi, cổ đông nhỏ phải biết liên kết lại để thực hiện quyền mà luật pháp đã trao cho họ. Chẳng hạn, Luật Doanh nghiệp đã quy định số phiếu đồng ý phải đạt 75% trong đại hội cổ đông, quyền bầu dồn phiếu cử người đại diện vào HĐQT. Khi có người đại diện trong HĐQT, thông tin về hành vi của các thành viên HĐQT có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu như mua bán, cho tặng cổ phiếu, góp vốn đầu tư, thành lập công ty con sẽ được tăng cường minh bạch, công khai. Nhà đầu tư cần biết các hành vi bị cấm như: - Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng khoán hoặc công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trên thị trường. - Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ. - Thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua, bán để thao túng giá chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch khác để thao túng giá chứng khoán. 3.1.5. Cần đọc hiểu các phân tích về những rủi ro có thể ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán và các rủi ro khi tham gia thị trường chứng khoán như: rủi ro thị trường (lãi suất, lạm phát, tỷ giá…), rủi ro cụt vốn khi thị trường giảm, rủi ro thanh khoản, rủi ro thời thế….Hầu hết các loại rủi ro này được các chuyên gia kinh tế phân tích rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, sách báo - tạp chí, internet, báo cáo phân tích…..nên việc tìm tòi và tham khảo tài liệu hiện nay rất dễ dàng. 3.2. Cần phải biết học cách hạn chế cảm xúc đầu tư EQ. Thời gian qua, cái sự điên rồ của công chúng đã khiến nhiều nhà đầu tư Việt Nam trở thành triệu phú nhờ vào việc dám mạo hiểm đầu tư, gần đây nhất là đầu tư vào “dòng họ Sông Đà” trên sàn Hà Nội khi giá tăng gấp đôi, thậm chí gấp 3 - 4 lần. Trong số những người này, dám chắc rằng những ai không ưa mạo hiểm hay quá chú ý đến phân tích cơ bản chỉ đếm trên đầu ngón tay. Dường như nhà đầu tư thất bại thường phạm những sai lầm giống nhau, đó là học đầu tư cổ phiếu nhưng không biết điều khiển cảm xúc, không biết nâng cao EQ bằng những bài học thực tế mà lại quá chú trọng đến việc bổ sung kiến thức, kỹ xảo đầu tư. Bởi khi đó, bạn sẽ có hàng tá lý do để cân nhắc, sau đó là băn khoăn giữa việc bán ra hay mua vào, vì có hàng tá ưu điểm và nhược điểm của cổ phiếu đã được bạn tìm ra. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của bạn, khiến bạn không thể suy nghĩ rõ ràng và khó thể ra quyết định một cách chính xác và dứt khoát. Ví dụ, khi giá cổ phiếu liên tục tăng cao, suy nghĩ lý tính nói với bạn rằng, giá cổ phiếu đã quá cao, khả năng thu lợi sẽ thấp trong khi rủi ro gia tăng, do đó, tốt nhất là không mua cổ phiếu này, và ngược lại. Nếu thực hiện đúng điều này thì khi giá lên cao, nhu cầu giảm bớt (khiến giá hạ), còn khi giá xuống thấp, nhu cầu sẽ gia tăng (khiến giá tăng). Còn một biện pháp trong lúc thị trường lình xình đó là “sống chung với lũ” trong một thế giới mà tính liên thông ngày càng cao giữa các thị trường, dòng vốn quốc tế ngày càng được khơi thông thì chúng ta, những thị trường nhỏ,  không thể nghĩ tới chuyện "đèn nhà ai nấy sáng", "sống chết mặc bay", mà hiệu ứng lan truyền (spill-over effect) sẽ đổ lên chúng ta bất cứ khi nào. Nguy hiểm hơn, bây giờ tâm lý hoảng loạn có tính lan truyền toàn cầu, hoảng loạn tại thị trường Mỹ sẽ có thể nhanh chóng lan sang nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, rồi lan sang nhà đầu tư người Việt, chính vì thế để tránh gặp tình trạng dây chuyền và nghĩ đến lợi ích chung của thị trường chứng khoán ta cần sử dụng biện pháp trên việc này, tất nhiên biện pháp này cần được sự đồng lòng của tất cả các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 3.3 Kế đến là thực hiện những nguyên tắc đầu tư có thể như 3.3.1 Tâm lý cho bản thân khi đầu tư chứng khoán như là: -Tự mình nghiên cứu thị trường, không nên hoàn toàn nghe theo lời khuyên hay quan điểm của người khác vì mỗi người đều có một ý kiến riêng về loại CP nào đó và biết một số tin nóng, bạn nên kiểm tra lại những thông tin này. - Giữ bí mật về những lần giao dịch, đây là những khoản đầu tư của mình nên bạn không thể tiết lộ cho người khác biết. - Không ngừng phân tích thị trường khi tạm rút lui, lúc nào cũng giao dịch trên thị trường không phải là chiến lược khôn ngoan. Rút khỏi thị trường nghĩa là nhà giao dịch đứng ngoài thị trường, họ sẽ giao dịch trở lại khi có cơ hội tốt hơn. Thời gian yên tĩnh khi rút lui khỏi thị trường sẽ giúp họ có thêm cơ hội phân tích thị trường và xu hướng giá. Nguyên tắc phân tích không ngừng trong khi rút lui khỏi thị trường cũng giống như việc luyện tập của những vận động viên hàng đầu trong những kỳ nghỉ. Bạn vẫn đạt phong độ đỉnh cao và chắc chắn rằng mình sẵn sàng chuẩn bị khi thời cơ giao dịch đến. - Không nên đa dạng hóa danh mục mà nên tập trung vào một số cổ phiếu trọng tâm. Tôi tin rằng việc kiếm được nhiều lợi nhuận nhất lại phụ thuộc vào việc bạn giao dịch càng ít loại cổ phiếu càng tốt. Nguyên tắc này nghĩa là tập trung giao dịch một số loại cổ phiếu hàng đầu - những cổ phiếu có nhu cầu lớn nhất tại thời điểm đó và không đầu tư vào những loại cổ phiếu mà bạn không hiểu nhiều về lĩnh vực đó, nguyên tắc này sẽ giúp bạn trở thành người cực kỳ giàu có. Như Gerald Loeb đã từng nói rằng: “An toàn nhất là để tất cả số trứng của bạn vào một cái rổ và quan sát rổ đó”. - Tránh đầu tư vào những công ty được đồn là “sao sáng”, nên đầu tư vào công ty đơn giản càng tốt, Điều quan trọng nhất để đầu tư vào một công ty là tài sản và khả năng tạo ra lợi nhuận của nó. Trước khi đầu tư vào cổ phiếu của bất kỳ công ty nào, hãy tự hỏi và tự đối thoại với bản thân mình trong hai phút: cái gì tạo ra giá trị cho công ty này, và công ty có thể thành công không? Ngoài những nguyên tắc cơ bản như giá trị tài sản, doanh số bán hàng, tỷ số tiềm năng của lợi nhuận trên thị giá, khả năng thanh khoản, quan sát một số dấu hiệu khác để tìm ra những cổ phiếu tốt: người trong công ty có mua cổ phiếu đó không? Công ty có đang mua lại cổ phiếu của mình không? 3.3.2. Nghiên cứu tâm lý thị trường chứng khoán kỹ, điều này khá là khó khăn bởi vì tâm lý thị trường là tâm lý của đám đông, câu “hãy tham lam khi người khác sợ hãi” và “hãy sợ hãi khi người khác tham lam” cho thấy lúc nào cũng đúng, thị trường luôn có những cái lý của nó, không nên ép nó vào suy nghĩ của bản thân, tuy nhiên vẫn có cách để nắm bắt được các diễn biến tâm lý trên thị trường, đó là sử dụng đồ thị phân tích kỹ thuật, bất cứ trang web của công ty chứng khoán nào cũng có. Đơn cử www.fpts.com.vn; www.thanglongsc.com.vn; www.ssi.com.vn; www.dvsc.com.vn; www.vdsc.com.vn; Hình 3.1 Đồ thị kỹ thuật VN – index Chỉ số VN – index là một đường màu xanh, cho thấy xu hướng tăng hoặc giảm, đường màu đỏ và mảng màu xanh là các tiệm cận, khi đường màu xanh lọt nhiều ra ngoài tiệm cận thì nó sẽ quay lại, số liệu cột bên phải là chỉ số VN – index hoặc giá cổ phiếu, số liệu cột bên trái là khối lượng giao dịch. Money flow index là đồ thị cho thấy lưu lượng dòng tiền vào thi trường, nhìn vào đây thấy ngay dòng tiền mạnh hay yếu, điều tiên quyết cho tính thanh khoản của thị trường chúng khoán khi sôi động lúc trầm lắng. Momenturn là đồ thị chỉ tâm lý, tương tự như Money. Chỉ số RSI cho biết xu hướng biến động của cổ phiếu hay chỉ số index, khi xuất hiện các đỉnh màu đỏ nghĩa là thị trường đang nóng, ngược lại là các đáy màu xanh thị trường đang hốt hoảng. Các số liệu cột bên phải là con số kỹ thuật quy ước. Khi đồ thị RSI phân kì so với đồ thị giá cả, sẽ có nhiều khả năng là thị trường sẽ sớm tuân theo đồ thị RSI. Điều này xảy ra khi một điểm phân kì xuất hiện trên đồ thị (phân kì âm, khi chỉ số RSI đi xuống nhưng giá cả lại tăng lên). Khi một loại chứng khoán, hay thường xuyên hơn là một loại hàng hóa chạm đáy mới và bắt đầu đảo chiều đi lên, chỉ sau một giai đoạn tăng ngắn ngủi, động lực đẩy giá đi lên thông thường sẽ mất đi và giá cả sụt giảm trở lại. Nếu giá cả chạm tới một đáy mới mà RSI không vượt qua mức cực tiểu trước đó, lúc này điểm phân kì xuất hiện trên biểu đồ. Nếu giá lại tăng lên và RSI nằm sát trên mức cực đại được hình thành giữa hai điểm cực tiếu, khi đó phân kì sẽ xảy ra và đây cũng chính là dấu hiệu để bắt đầu mua vào. Thông thường RSI sẽ định hướng giá cả đến mức các cổ phần sẽ được giao dịch mua bán tại mức giá gần với đáy hoặc đỉnh của đường xu thế. Khoảng thời gian để phân tích tốt nhất là 21 tuần. Phần lớn những người sử dụng chỉ số RSI đều có xét tới thêm một vài chỉ số nữa. Điều này đặc biệt đúng khi RSI cho thấy các dấu hiệu về sự thay đổi trong xu thế thị trường. Sử dụng đa dạng các chỉ số bên cạnh RSI sẽ khiến cho các dấu hiệu được khẳng định một cách chắc chắn hơn. Không chỉ có RSI mà không có chỉ số nào đơn lẻ được coi là chân lý cho mọi quyết định. Cũng như các chỉ số, các công cụ dự báo khác được sử dụng trong thị trường chứng khoán, RSI cũng chỉ đơn thuần là một công cụ. 3.4. Tiếp tục là, cần phải học tập trau dồi kinh nghiệm đầu tư thường xuyên, kinh nghiệm đầu tư rất quan trọng, các nhà đầu tư cần phải ghi nhớ những kinh nghiệm mình đã tích lũy được khi đối mặt với khó khăn để khi gặp những tình huống tương tự có thể nhanh chóng giải quyết. Điều này đặc biệt đúng trên thị trường chứng khoán vì mô hình cổ phiếu và xu hướng thị trường thường lặp đi lặp lại từ năm này sang năm khác và từ chu kỳ này sang chu kỳ khác. Kinh nghiệm có thể có được bằng cách: 3.4.1. Nghiên cứu cổ phiếu và nhóm cổ phiếu cùng nghành (Bluechip, mid cap – pennychip) Giá nhiều cổ phiếu thời gian qua đã trở về mức của tháng 2-2009, khi VN-Index ở đáy 234 điểm. Nhưng nhà đầu tư vẫn đứng ngoài cuộc. Điều này phản ánh qua sự sụt giảm tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán suốt mấy tháng qua. Giới phân tích cho rằng đây chính là thời điểm cần sự đầu tư thông minh. Nếu chạy theo số đông mà bán tháo cổ phiếu, hay mua bất cứ cổ phiếu nào theo tâm lý thị trường thì dễ “mẻ đầu, sứt trán”. Chẳng hạn như: Phân tích trong nhóm cổ phiếu ngân hàng, VCB, CTG, EIB là các cổ phiếu cần quan tâm, trong đó CTG và VCB có thể được hỗ trợ từ lực cầu ngoại. Lợi nhuận ngân hàng dựa trên các yếu tố sau: khả năng huy động vốn là yếu tố then chốt, nguồn vốn giá rẻ từ thị trường mở có thể bị hạn chế, vay chứng khoán và bất động sản (có lãi suất cao) bị hạn chế, việc tăng cường sử dụng vốn cấp 2 có thể cải thiện chỉ số CAR và ROE của các ngân hàng lớn, cổ phiếu ngành ngân hàng tuy không trở lại vai trò dẫn dắt thị trường nhưng sẽ từng bước hồi phục khi lãi suất giảm và các ngân hàng nhỏ góp đủ vốn điều lệ 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOP Bao cao nang cao hieu qua dau tu chung khoan Viet Nam.doc
Tài liệu liên quan