Tài liệu Đề tài Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ: Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang như một “guồng xoáy” cuốn các nền kinh tế của các quốc gia vào một trật tự kinh tế trong đó việc tìm ra các lợi thế và giải bài toán so sánh để xác lập vị thế trên trường quốc tế luôn là vấn đề đặt ra đối với từng quốc gia. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu.
Như nhiều quốc gia khác, vào những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa đáp ứng các nhu cầu cho thị trường trong nước, ngành dệt may còn tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Đồng thời, vừa là nguồn thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao, ngành dệt may sẽ là nguồn thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế cất cánh.
Với tiềm...
62 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1000 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang như một “guồng xoáy” cuốn các nền kinh tế của các quốc gia vào một trật tự kinh tế trong đó việc tìm ra các lợi thế và giải bài toán so sánh để xác lập vị thế trên trường quốc tế luôn là vấn đề đặt ra đối với từng quốc gia. Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, Việt Nam đang từng bước thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu.
Như nhiều quốc gia khác, vào những giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may Việt Nam từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh việc cung cấp hàng hóa đáp ứng các nhu cầu cho thị trường trong nước, ngành dệt may còn tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Đồng thời, vừa là nguồn thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn hàng xuất khẩu có giá trị cao, ngành dệt may sẽ là nguồn thu hút ngoại tệ góp phần tạo đà cho nền kinh tế cất cánh.
Với tiềm năng của một quốc gia có lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may, vấn đề thâm nhập và phát triển các thị trường mới, có dung lượng tiêu thụ lớn hiện đang đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam những khó khăn và thách thức. Điểm lại một số các thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Đông Âu, có thể thấy hàng dệt may Việt Nam đã có mặt và đang củng cố dần từng bước vị trí của mình. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ trong việc đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu và để tìm được lối ra cho bài toán thị trường tiêu thụ thì hướng cần thiết nhất là khai thác để thâm nhập các thị trường mới, trong đó Mỹ là một thị trường đầy hứa hẹn và có tiềm năng nhất.
Tiềm năng hợp tác kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Mỹ là to lớn. Cùng với việc ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, quan hệ thương mại giữa hai nước đã bước sang trang mới. Vì vậy, việc xem xét khả năng thâm nhập của hàng dệt may vào thị trường Mỹ – một thị trường có dung lượng tiêu thụ vào loại lớn nhất thế giới đã trở nên rất cấp bách. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi sẽ có không ít khó khăn và thách thức, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà còn cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng lắm chông gai này.
Chính vì lý do đó, em đã lựa chọn đề tài: “Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những cơ sở chung của thị trường Mỹ và những vấn đề đặt ra cho hỗ trợ xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Đánh giá thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam nói chung và xuất khẩu vào thị trường Mỹ nói riêng.
Đề xuất các giải pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đứng trên giác độ ngành dệt may xuất khẩu để nghiên cứu trong mối quan hệ với các chế định, chính sách vĩ mô của Nhà nước. Thời gian nghiên cứu từ năm 1995 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp. Bằng cách phân tích lý giải tình hình và những thay đổi trong ngành dệt may cùng những đánh giá và kết luận ban đầu về thị trường xuất khẩu tiềm năng, đề tài luận giải những nội dung cần đề cập.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về hỗ trợ nhập khẩu hàng dệt may
Chương II: Thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện nay
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới
Qua đề tài này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo PGS.TS Nguyễn Duy Bột – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.
Chương I. Những vấn đề chung về hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
1.1-Vị trí của hàng dệt may trong nền kinh tế quốc dân của nước ta
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, thực tế ghi nhận là dệt may thường đóng một vai rất quan trọng tại hầu hết các nước đang phát triển với nguồn lực có hạn và trình độ kỹ thuật còn hạn chế. Công nghiệp dệt may cũng là bước khởi đầu cho các nước này để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế. Công nghệ của ngành dệt may thường được chuyển giao và áp dụng lại từ các nước phát triển đi sau. Chính vì vậy, công nghệ này có thể tiếp cận rộng rãi và thu hút nhiều lao động. Việt Nam cũng nằm trong xu thế dịch chuyển của công nghệ dệt may đã và đang diễn ra.
Dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt Nam, ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết nhiều việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước.
Thật vậy, trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vưc xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm, vượt lên đứng vị trí thứ hai trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Với sự phát triển mạnh mẽ như vậy, ngành dệt may đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của nước ta.
Ngành dệt may tham gia tạo vốn tích luỹ cho quá trình công nghiệp hoá: Đây là ngành không đòi hỏi nhiều vốn, đồng thời có thể thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn để mua máy móc thiết bị hiện đại, góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá trong sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh.
Tăng cường mối quan hệ giữa nước ta và các nước khác: Là ngành xuất khẩu mũi nhọn tại hơn 50 nước trên thế giới, ngành dệt may không chỉ giữ vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá đất nước mà với chiến lược kinh tế mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày càng sâu sắc giữa kinh tế nước ta và các nước khác trên thế giới. Hiện nay, các tổ chức thương mại quốc tế đều có ưu đãi cho ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt may ở các nước đang phát triển, hàng rào mậu dịch đối với sản phẩm thuộc ngành này được dỡ bỏ hay nới lỏng rất nhiều.
Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động: Dệt may là ngành thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp của nền kinh tế. ở Việt Nam, toàn ngành công nghiệp dệt may đã thu hút trên 1 triệu lao động xã hội, đặc biệt là lao động nữ. Ngành dệt may không chỉ phát triển thêm công ăn việc làm trong ngành mà cả trong các ngành liên quan và phụ trợ khác như bao bì, bảo quản, cơ khí, vận tải, kho, cảng..., nhờ đó thu nhập người lao động đã được cải thiện, tăng sức mua, mở rộng thị trường trong nước. Cụ thể, năm 2000, ngành dệt may đã thu hút 1.374.000 lao động, con số này năm 2001 là 2.950.000 người, năm 2002 là 35.000.000 người.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp khác: Sự phát triển của ngành dệt may sẽ tạo điều kiện cho rất nhiều ngành khác phát triển, trong đó có các ngành cung cấp nguyên vật liệu và ngành sử dụng sản phẩm của ngành dệt may. Hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua phát triển sản xuất bông, đay, tơ, tằm, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp.
Đóng góp vào việc cải thiện cán cân thương mại: Với nỗ lực khắc phục điểm yếu kém để vươn lên, ngành công nghiệp dệt may không chỉ giữ vai trò trọng yếu trong xuất khẩu mà còn đóng góp đáng kể vào việc cải thiện cán cân thương mại của nước ta và tăng nhanh đầu tư nước ngoài. Tầm quan trọng này còn được thể hiện càng rõ nét ở tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của hàng dệt may Việt Nam.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Tỉ trọng/tổng số
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
211
350
550
750
1.150
1.349
1.351
1.682
1.892
2.000
2.750
2.581
2.985
4.054
5.200
7.255
8.759
9.361
11.532
14.455
15.100
16.926
8.1%
11.7%
13.6%
14.4%
15.2%
15.4%
14.4%
14.6%
13.08%
13.25%
16.3%
(Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng công ty Dệt May Việt Nam)
Tóm lại, với đường lối mở cửa và hội nhập quốc tế cùng với sư chuyển dịch dòng vốn trên đầu tư và chuyển giao công nghệ đang diễn ra khá sôi động, ngành dệt may nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng đã, đang và sẽ có nhiều đóng góp hiệu quả cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước, xứng đáng là một trong những ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam.
1.2-Nội dung hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
1.2.1-Thực chất của hỗ trợ xuất khẩu
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên làm thế nào để thúc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu luôn được đặt ra đối với cả phía Nhà nước và doanh nghiệp.
Để đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi sự nỗ lực, phối hợp của cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, các biện pháp họ đề ra mang tầm vi mô. Các biện pháp này là để nhằm phục vụ cho chính doanh nghiệp của họ, có thể là tập trung vào quá trình sản xuất, cũng có thể là tập trung vào hoạt động tiêu thụ sản phẩm... Nói một cách ngắn gọn, chính họ đang tự giúp họ để có thể đứng vững trên thương trường quốc tế. Còn về phía Nhà nước, các biện pháp được thực hiện là để nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình, các biện pháp này gọi là các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu.
Như vậy, thực chất của hỗ trợ xuất khẩu là một hệ thống các biện pháp mà Nhà nước thực hiện nhằm tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu không chỉ liên quan tới một hay một số doanh nghiệp nhất định nào đó, mà nó liên quan tới tất cả các doanh nghiệp trong phạm vi biện pháp đó điều chỉnh. Nó giải quyết những vấn đề mà không một doanh nghiệp nào có thể tự mình giải quyết được. Nếu thiếu đi những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu đó của Nhà nước, các doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế với các nước khác.
Đối với những quốc gia xây dựng chiến lược hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu như chúng ta hiện nay, những doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu hàng hoá sẽ được tạo điều kiện phát triển bằng nhiều chính sách hỗ trợ khác nhau như: chính sách xuất khẩu, chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách tài chính – tín dụng, chính sách thuế... Điều này sẽ tạo điều kiện giúp cho doanh nghiệp có thể tăng kim ngạch xuất khẩu.
1.2.2-Những công cụ hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
Trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng thị trường nhằm đạt được mục tiêu đề ra, ngành dệt may gặp phải không ít khó khăn mà chỉ bản thân ngành không thể giải quyết nổi, đó là vấn đề vốn đầu tư, thông tin xuất nhập khẩu và thị trường, các mối quan hệ thương mại quốc tế. Do vậy, ngành dệt may rất cần các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ.
1.2.2.1-Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất
a/ Chính sách đầu tư phát triển
Không chỉ trong ngành dệt may mà trong hoạt động của tất cả các ngành khác luôn luôn cần đến đầu tư. Có đầu tư thì có đổi mới, không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Chính vì vậy, chính sách đầu tư phát triển luôn là một trong những chính sách quan trọng nhất, thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh của nền kinh tế nói chung và của ngành dệt may nói riêng.
Để phát triển nhanh và có hiệu quả, ngành dệt may cần lượng vốn đầu tư vào các mục tiêu sau đây:
Đổi mới công nghệ, trước hết là công nghệ dệt và đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất toàn ngành, khắc phục các khâu yếu nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các trang thiết bị.
Mở rộng quy mô sản xuất trên cơ sở các doanh nghiệp hiện có và xây dựng thêm doanh nghiệp mới.
Phát triển các loại sản xuất phục vụ và phụ trợ cho doanh nghiệp dệt may: tạo vùng nguyên liệu, sản xuất các vật liệu phụ cho công nghiệp dệt (hoá chất, thuốc nhuộm, sản xuất các loại phụ liệu cho công nghiệp may mặc).
Bên cạnh những khoản đầu tư trực tiếp thì còn cần những khoản đầu tư vào các mục tiêu có tính chất gián tiếp khác như phát triển cơ khí dệt may, phát triển và hiện đại hoá hạ tầng kỹ thuật cho công nghiệp dệt may...
Để huy động được nguồn vốn có khả năng đáp ứng được nhu cầu của ngành dệt may, chính sách đầu tư phát triển của Nhà nước tập trung vào 3 nguồn vốn chủ yếu sau:
Nguồn vốn trong nước: đây là nguồn vốn rất quan trọng, giúp chúng ta luôn chủ động được trong các kế hoạch phát triển của mình. Bên cạnh đó, nó làm giảm bớt sự bất ổn định và phụ thuộc vào các nguồn vốn từ các khoản đầu tư của nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mối quan hệ đối ngoại của nước ta với các nuớc khác trên thế giới, các doanh nghiệp và tổ chức nước ngoài đang đầu tư ngày càng nhiều vào các ngành kinh tế của Việt Nam. Nguồn vốn trong nước là quan trọng nhưng không thể là đủ được đối với những chương trình phát triển lớn, do vậy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chính sách đặc biệt quan trọng trong việc phát triển ngành công nghiệp dệt may.
Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế: Hiện nay nguồn vốn này không còn nhiều như trước kia, nhưng nếu có các biệp pháp thu hút tốt, chúng ta có thể nhận được sự giúp đỡ từ các tổ chức này.
b/ Chính sách nguyên phụ liệu
Trong sản xuất dệt may, nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam sử dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay, tơ tằm xơliber khác, các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộm..., trong đó quan trọng nhất là bông xơ và xơ sợi tổng hợp. Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên Nhà nước cần phải có chính sách phát triển nguyên liệu và phụ liệu cho ngành dệt may một cách đúng đắn, hợp lý, đảm bảo cho ngành dệt may Việt Nam phát triển mạnh.
Chính sách về nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may của Nhà nước chủ yếu tập trung vào những vấn đề:
Phát triển các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm và công tác thu hoạch để chế biến.
Hỗ trợ nhập khẩu các loại hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc trợ nhuộm.
Phát triển các công ty sản xuất nguyên phụ liệu trong nước.
c/ Chính sách về khoa học công nghệ
Ngành dệt may, cũng như các ngành kinh tế khác, đều phát triển trên sơ sở khoa học công nghệ. Việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng như đổi mới trang thiết bị sẽ giúp tạo ra được các sản phẩm phù hợp với thị trường và đáp ứng được các đòi hỏi về số lượng, chất lượng, mẫu mã của khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay, khoa học công nghệ nói chung và phát triển công nghệ trong ngành dệt may nói riêng của nước ta chưa thực sự phát triển, điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may của nước ta. Do vậy, trong số các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với ngành công nghiệp dệt may thì luôn phải có chính sách về công nghệ.
Chính sách phát triển khoa học công nghệ trong ngành dệt may chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau:
Hỗ trợ xây dựng và phát triển các Viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trường đào tạo... về dệt may.
Xây dựng các chiến lược nghiên cứu và triển khai các dự án công nghệ dệt may.
Khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới trong dệt may.
d/ Chính sách về lao động và phát triển
Dệt may là ngành công nghiệp sản xuất cần nhiều nhân công, đặc biệt là trong kỹ nghệ may. Để tăng giá trị đóng góp cho sản phẩm, các chủ doanh nghiệp cần gia tăng giá trị công nghiệp bằng cách phát triển các khâu ban đầu như tạo mẫu hay cắt vải và khâu chót như Marketing hay có những liên kết mật thiết với kỹ nghệ dệt để cung cấp nguyên phụ liệu cho kỹ nghệ may. Cả hai khâu quan trọng (đầu và cuối) tạo ra phần lớn giá trị gia tăng cho sản phẩm, phụ thuộc vào yếu tố con người nhiều hơn yếu tố vật chất. Chính vì vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành dệt may luôn là vấn đề được Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Chính sách về lao động và phát triển của Nhà nước đối với ngành dệt may tập trung vào những vấn đề sau:
Các chính sách thu hút, khuyến khích học sinh theo học ngành công nghiệp dệt may
Đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở đào tạo dệt may
Định hướng cho các chương trình đào tạo công nhân, kỹ sư... về dệt may
Chính sách hỗ trợ người lao động để đảm bảo cuộc sống và công việc của họ, thúc đẩy họ cống hiến cho sự phát triển của ngành
e/ Chính sách về tổ chức quản lý
Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào cũng đều cần có sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu bởi vì xuất nhập khẩu là lĩnh vực rất phức tạp, nó không chỉ liên quan đến một nước mà liên quan đến những nước khác có quan hệ thương mại với nhau. Vì vậy, tổ chức quản lý xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu dệt may nói riêng rất được Nhà nước ta coi trọng.
Trong chính sách về tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu dệt may, Nhà nước ta tập trung vào việc tạo ra một môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp dệt may cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Nhà nước còn quan tâm đến việc xây dựng các chương trình, thành lập các tổ chức để có thể quản lý tốt hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may. Bên cạnh đó là chủ trương tổ chức, sắp xếp các doanh nghiệp dệt may trên cả nước theo hướng làm sao để có thể phát huy một cách tốt nhất tiềm năng của mình, thúc đẩy ngành dệt may nước nhà phát triển bền vững.
1.2.2.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a/ Chính sách thuế quan
Thuế quan, gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu là một công cụ quản lý vĩ mô rất quan trọng của Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Một chính sách thuế quan tốt sẽ bảo hộ được sản xuất trong nước và thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường thế giới. Đồng thời, chính sách thuế quan được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành nghề, giữa các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy xuất khẩu.
Chính sách thuế quan hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng tập trung vào việc miễn thuế, giảm thuế và hoàn lại thuế. Để có thể khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước cần phải quy định thật chi tiết, dựa trên những căn cứ rõ ràng, mặt hàng nào được miễn, giảm hoặc hoàn lại thuế. Chính sách thuế quan đối với ngành dệt may không chỉ quy định về thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng dệt may, mà còn đưa ra các quy định về thuế quan đối với các hàng hoá liên quan đến việc sản xuất hàng dệt may như: máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm...
b/ Chính sách thị trường
Hoạt động Marketing đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, văn hoá, xu hướng thời trang. Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Vì vậy, chính sách thị trường của Nhà nước để cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp dệt may là hết sức cần thiết.
Chính sách thị trường tập trung vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong cả nước tiếp cận được với thị trường thế giới, có được những thông tin về thị trường, điều kiện pháp lý, văn hoá... khi xâm nhập vào các thị trường này. Đồng thời, chính sách thị trường phải làm sao để có thể tư vấn tốt nhất cho doanh nghiệp để thâm nhập thành công thị trường nước ngoài.
c/ Chính sách tỷ giá hối đoái
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động thương mại quốc tế là đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai bên nên bất kỳ sự thay đổi tỷ giá trao đổi ngoại tệ nào cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái làm cho hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu đắt hơn hay rẻ hơn đối với nước kia làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Ngoài ra, với mức tỷ giá hối đoái ưu đãi còn có khả năng thu hút vốn đầu tư đổ vào trong nước. Vì vậy, một quốc gia có thể dùng chính sách tỷ giá hối đoái để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư.
Tùy vào tình hình kinh tế của mỗi quốc gia mà các nước thực hiện các chế độ tỷ giá khác nhau để đạt được mục tiêu kinh tế, chính trị. Cụ thể có các chế độ tỷ giá sau:
Tỷ giá hối đoái cố định: Là mức tỷ giá được Chính phủ thông qua Ngân hàng Trung ương đồng ý mua vào hay bán ra lượng đồng tiền nào đó theo yêu cầu của các đối tượng khác nhau để trao đổi lại một mức tỷ giá hối đoái không đổi.
Tỷ giá hối đoái thả nổi: Là tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do không có sự can thiệp nào của Chính phủ của thị trường ngoại hối. Chính phủ không tăng thêm hay giảm bớt lượng dự trữ ngoại hối. Và mối quan hệ giữa cung và cầu ngoại hối hoàn toàn quyết định mức cân bằng tỷ giá hối đoái.
Chế độ đa tỷ giá: Với việc áp dụng chế độ này thì có nhiều tỷ giá hối đoái cùng lúc được áp dụng trong nền kinh tế. Đối với một số mặt hàng thì áp dụng tỷ giá hối đoái cao và ngược lại. Chế độ này có tác dụng như một loại thuế nhập khẩu đặc biệt, làm tiền thưởng xuất khẩu, làm công cụ cho chính sách bảo hộ mậu dịch và trong trường hợp nào đó làm tăng thu nhập ngân sách Nhà nước qua thu thuế bán ngoại hối.
Để có thể hỗ trợ cho ngành dệt may tăng cường hoạt động xuất khẩu, Nhà nước đã luôn nghiên cứu để xây dựng một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với những đặc trưng của ngành công nghiệp này. Sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái nào cho hợp lý là tuỳ thuộc vào những thời điểm nhất định.
d/ Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
Là những ưu đãi tài chính mà Nhà nước dành cho người xuất khẩu khi họ bán được hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của sự trợ cấp xuất khẩu là giúp nhà xuất khẩu tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu: gián tiếp và trực tiếp.
Trợ cấp trực tiếp như: áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nhà xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu... Cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi các đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện, nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu.
Trợ cấp gián tiếp như: dùng ngân sách Nhà nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu. Hoặc Nhà nước giúp đỡ kỹ thuật và đào tạo chuyên gia.
Mức độ trợ cấp phụ thuộc vào:
Chính sách của Nhà nước đối với từng mặt hàng
Mức độ cạnh tranh trên thị trường
Xu hướng chung hiện nay trợ cấp xuất khẩu vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp do sự đấu tranh giữa các Chính phủ có quan hệ buôn bán với nhau. Ngược lại, trợ cấp gián tiếp ngày càng tăng lên và thường được che dấu.
1.3-Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may
Nhìn chung thì có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may, đó là nhóm nhân tố thuộc bản thân ngành dệt may và nhóm nhân tố từ phía Nhà nước.
1.3.1-Các yếu tố thuộc ngành dệt may
a/ Năng lực của ngành dệt may
Nói đến các chính sách hỗ trợ là nói đến những việc mà tự bản thân mình, không một doanh nghiệp nào có thể làm nổi hoặc những việc mà chỉ có cơ quan của Nhà nước mới có thể giải quyết được. Chính vì vậy, nếu ngành có đủ năng lực thì Nhà nước không cần phải hỗ trợ nhiều và ngược lại.
Như vậy, năng lực của ngành dệt may quyết định rất lớn đến các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may. Nếu năng lực của ngành quá yếu thì Nhà nước cần phải làm rất nhiều việc để có thể thúc đẩy ngành này phát triển. Ngược lại, nếu năng lực đủ mạnh thì công việc của Nhà nước sẽ giảm đi rất nhiều.
b/ Tiềm năng phát triển của ngành
Nhà nước không thể đưa ra các chính sách để hỗ trợ xuất khẩu cho một ngành mà bản thân nó không có khả năng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Vì vậy, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu còn phụ thuộc vào tiềm năng phát triển của ngành.
Chúng ta đều biết rằng, dệt may là một trong 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, điều này tác động mạnh đến các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Nghĩa là Nhà nước sẽ quan tâm hỗ trợ nhiều hơn đến hoạt động xuất khẩu của ngành này.
c/ Mục tiêu, chiến lược xuất khẩu của ngành
Nếu ngành dệt may đề ra mục tiêu, chiến lược xuất khẩu cho giai đoạn sắp tới càng cao thì trách nhiệm của Nhà nước nhìn chung sẽ lớn hơn để hỗ trợ cho
ngành đạt được những mục tiêu đó, đặc biệt là khi năng lực của ngành còn thấp.
1.3.2-Các yếu tố từ phía Nhà nước
a/ Chính sách của Nhà nước đối với ngành dệt may
Chính sách của Nhà nước đối với ngành dệt may thể hiện ở chỗ Nhà nước có khuyến khích ngành dệt may phát triển hay không. Nếu ngành dệt may được Nhà nước khuyến khích phát triển thì chắc chắn, Nhà nước sẽ có nhiều các chính sách để hỗ trợ cho ngành này phát triển và ngược lại.
b/ Ngân sách của Nhà nước
Ngân sách của Nhà nước không phải là vô hạn, đặc biệt là ở một nước mà nền kinh tế chưa thực sự phát triển như nước ta. Do vậy, Nhà nước không thể làm được tất cả những gì mà đáng ra cần phải làm để hỗ trợ cho ngành. Điều này có nghĩa là tuỳ vào ngân sách trong từng giai đoạn mà Nhà nước sẽ có những chính sách hỗ trợ phù hợp cho ngành dệt may xuất khẩu.
Chương II. Thực trạng của các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện nay
2.1-Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong thời gian qua
2.1.1-Đặc điểm của thị trường Mỹ có ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
2.1.1.1-Đặc điểm của thị trường hàng dệt may Mỹ
Dung lượng thị trường
Đối với ngành dệt may, những tiêu chuẩn của một thị trường lý tưởng là dân số đông, thu nhập quốc dân cao, xu hướng thời trang phát triển mạnh. Có thể nói, thị trường Hoa Kỳ hội tụ khá đầy đủ các lợi thế này. Với dân số khoảng 279 triệu người, tỷ lệ dân sống ở thành thị cao (trên 75%), thu nhập quốc dân tính trên đầu người trên 30.000 USD/người/năm, Hoa Kỳ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng ổn định trong thập niên 90 càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, đồng thời duy trì tiêu dùng ở mức độ cao.
Mức tiêu thụ hàng dệt may ở Hoa Kỳ trong giai đoạn vừa qua luôn luôn tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước từ 10 – 15%. Người Hoa Kỳ dành khá nhiều thời gian cho việc mua sắm quần áo. Trung bình 1 năm, mỗi người dân Hoa Kỳ sẽ đi mua quần áo khoảng 22 lần. So sánh với Đông Âu – 14 lần, Châu á - 13 lần, Mêhicô - 10 lần và Châu Mỹ la tinh – 8 lần mới thấy hết nhu cầu về may mặc ở Hoa Kỳ đang dẫn đầu thế giới. Tổng chi phí dành cho việc mua sắm quần áo của người Hoa Kỳ trong một năm khoảng 1,044 tỷ USD, đứng thứ tư trên thế giới, sau Đức, Hồng Kông, Anh. Đây được coi là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn là một quốc gia đa chủng tộc với nhiều màu da khác nhau, nhiều phong tục và lối sống đa dạng. Điều này càng khiến thị trường Hoa Kỳ trở thành một trung tâm tiêu thụ lớn nhất trên thế giới.
Đặc điểm tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ
Mức chi tiêu, đặc điểm nhân khẩu học, sự thay đổi thói quen làm việc, gia tăng nhập khẩu là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường Mỹ.
Mức chi tiêu: Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập kỷ 90 đã duy trì tiêu dùng ở mức cao. Tuy trong thời gian gần đây, nền kinh tế Mỹ có những dấu hiệu suy giảm, nhưng mức chi tiêu nói chung và mức chi tiêu cho hàng may mặc nói riêng của người dân Mỹ vẫn ở mức cao. Đây chính là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may.
Đặc điểm nhân khẩu học: Thanh thiếu niên Mỹ ngày nay – thế hệ con cái của những người sinh ra trong thời kỳ bùng nổ dân số 1946 – 1964 đang nhanh chóng trở thành những người tiêu dùng. Trong 10 năm tới, dự đoán số lượng thanh thiếu niên sẽ tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số. Lứa tuổi thanh thiếu niên ngày nay có thu nhập cao hơn và chi tiêu nhiều hơn trước đây, tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo cũng rất lớn. Lứa tuổi này rất chú trọng đến những loại quần áo hợp thời trang và “đồ hiệu”. Đồng thời, họ cũng nhanh chóng thích ứng với hoạt động xúc tiến thương mại trên Internet, tạo ra những cơ hội cho các công ty bán hàng qua Internet.
Lứa tuổi từ 45 trở lên chiếm 34% tổng dân số, dự đoán sẽ tăng lên 38% vào năm 2005 và 41% vào năm 2010. Những người thuộc lứa tuổi này có xu hướng dành tỷ lệ chi tiêu lớn hơn cho mua nhà, chi phí học đại học của con cái và các khoản tiết kiệm. Sự cắt giảm chi tiêu cho quần áo buộc họ phải tìm kiếm những sản phẩm vừa đáp ứng được những giá trị mà họ mong muốn vừa phù hợp với khoản tiền dự định chi tiêu. Mặc dù vậy, họ vẫn là nhóm người chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng mức tiêu thụ quần áo. Sự gia tăng số lượng người ở lứa tuổi 65 trở lên cũng là một dấu hiệu tốt cho nhà sản xuất hàng may mặc. Nhóm người này ít quan tâm đến thời trang và chú ý nhiều hơn đến sự thoải mái và tiện dụng, phù hợp với lối sống và hoạt động của họ.
Thay đổi thói quen làm việc: Một xu hướng đang làm thay đổi nhu cầu về hàng dệt may là người tiêu dùng ít đến cửa hàng hơn trước vì công việc bận rộn và họ thích dành thời gian nghỉ ngơi, ở nhà với gia đình hoặc bạn bè. Xu hướng này sẽ tạo cơ hội cho các nhà sản xuất mặt hàng trang trí nội thất như rèm, thảm... song đó lại là điều bất lợi cho các nhà sản xuất quần áo. Đồng thời, nó cũng khiến cho việc mua quần áo mới không còn quan trọng đối với một số người và làm tăng thị phần của các loại quần áo và hàng trang trí bán qua thư và Internet.
Một yếu tố nữa phải kể đến là sự thay đổi các quy định trong công sở và thói quen làm việc. Ngày càng có nhiều công ty chấp nhận cho nhân viên mặc quần áo tự do thay vì đồng phục. Cùng với sự gia tăng số lượng người làm việc tại nhà cũng tạo ra sự thay đổi trong ngành sản xuất quần áo. Xu hướng mặc quần áo theo phong cách tự do đã làm tăng nhu cầu đối với quần áo thường, sơ mi ngắn tay mặc thường, áo thun. Xu hướng này dự báo là sẽ còn tiếp tục phát triển trong những năm tới.
Gia tăng sản phẩm nhập khẩu: Giá cả và chất lượng là những yếu tố quyết định khi mua quần áo và điều này dẫn đến sức ép về giá đối với ngành dệt may của Mỹ. Giá bán buôn quần áo chỉ tăng 20% trong suốt giai đoạn 1996 – 2001, trong khi đó, giá bán lẻ hạ 3%. Đặc biệt là giá bán lẻ quần áo dành cho nữ giảm rất mạnh. Kết quả làm hàng dệt may nhập khẩu từ các nước có chi phí nhân công thấp tăng lên và làm dịch chuyển sản xuất của các công ty Mỹ ra nước ngoài. Người tiêu dùng có xu hướng mua sắm hàng dệt may nhập khẩu có giá thấp và độ tiện dụng cao.
Dự báo tiêu dùng hàng dệt may trên thị trường Mỹ
Thói quen tiêu dùng: Cũng như các sản phẩm khác, mặt hàng dệt may bao gồm hai thuộc tính: giá trị sử dụng vào giá trị. Vì vậy, chất lượng và giá cả trở thành những vấn đề quan trọng đối với người tiêu dùng khi họ quyết định mua hàng.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sản phẩm chỉ có thể khẳng định vị trí và năng lực cạnh tranh của mình bằng chính chất lượng. Người tiêu dùng sẽ bị thuyết phục không chỉ bởi tên tuổi của các nhà sản xuất nổi tiếng, quan trọng hơn là giá trị và hiệu quả kinh tế do sản phẩm đem lại. Những đặc tính cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng hàng dệt may bao gồm: sự vừa vặn về kích cỡ, độ bền, sự tiện lợi khi sử dụng, kiểu dáng và nhãn mác.
Người dân Hoa Kỳ rất thực tế, họ luôn cân nhắc và tính toán sao cho công việc mình làm đem lại hiệu quả cao nhất. Nói riêng về thị trường dệt may, cho dù người tiêu dùng Hoa Kỳ coi trọng vấn đề nhãn mác, giới trẻ đặc biệt sính dùng “đồ hiệu”, song họ vẫn không đi chệch khỏi quỹ đạo điều chỉnh của hai chữ “kinh tế”. Chúng ta hiểu rằng, người tiêu dùng mong muốn được thoả mãn nhiều nhất với một khoản chi phí thấp nhất. Đó là tâm lý chung của tất cả khách hàng. Song nếu làm một phép so sánh, ta sẽ thấy mức độ coi trọng vấn đề giá cả của khách hàng Hoa Kỳ khá cao. ở Colombia - đất nước Nam Mỹ có mức sống còn thua xa Hoa Kỳ, 84% người tiêu dùng sẵn sàng trả một khoản tiền cao hơn để mua được một sản phẩm may mặc có chất lượng tuyệt hảo hơn. ở Italia, tỷ lệ này là 76%, ở Pháp và Đức cũng khoảng 75%. Trong khi đó, tại thị trường Hoa Kỳ, nơi có trình độ phát triển kinh tế và mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn hẳn, chỉ 60% người tiêu dùng sẵn sàng làm như vậy.
Song điều đó không đồng nghĩa với việc người tiêu dùng Hoa Kỳ thích dùng hàng loại hai với giá rẻ hơn một chút và xem nhẹ vấn đề chất lượng. Theo thói quen mua hàng truyền thống, người tiêu dùng thường đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua thương hiệu, nhãn mác sản phẩm. Đây là điểm khác biệt cơ bản về thói quen tiêu dùng của các nước phát triển và các nước các nước đang phát triển. Thương hiệu nổi tiếng cũng mang ý nghĩa quan trọng để tạo nên sức hấp dẫn của sản phẩm, song ngày nay, người tiêu dùng Hoa Kỳ không quá coi trọng vấn đề này nữa. Chỉ 32% khách hàng luôn chú ý vào nhãn mác sản phẩm trước khi họ quyết định mua hàng. Trong khi đó, ở các thị trường khó tính như EU và Nhật Bản, vấn đề thương hiệu hàng hoá luôn được đặt lên hàng đầu, 69% người tiêu dùng Italia sẽ chú ý ngay tới nhãn mác, ở Nhật Bản – 67% và ở Đức – 62%.
Người tiêu dùng Hoa Kỳ quan tâm tới chất lượng nhiều hơn, 60% người tiêu dùng tìm hiểu kỹ chất lượng sợi trước khi quyết định mua hàng. Chỉ 17% khách hàng thừa nhận họ tôn sùng và sử dụng những sản phẩm may mặc của một hãng sản xuất duy nhất mà họ cho là nổi tiếng thế giới, tất nhiên tỷ lệ này rơi vào các ngôi sao điện ảnh, giới người mẫu hoặc những người nổi tiếng khác. Tuy vậy, xu hướng lựa chọn này cũng khá phức tạp tuỳ theo cơ cấu tuổi và cơ cấu giới tính của khách hàng. Từ độ tuổi 15 – 24, giới trẻ sùng bái nhãn hiệu nổi tiếng hơn và họ sẽ quyết định mua sản phẩm của các hãng có tên tuổi trên thị trường. Sự coi trọng chất lượng sợi và nhãn hiệu nổi tiếng được thể hiện qua tỷ lệ phần trăm như sau: 44%/56%. Nhưng từ 25 – 34 tuổi, tỷ lệ này là 37%/63%; ở nhóm tuổi 35 – 55, tỷ lệ những người sính dùng “đồ hiệu” có xu hướng giảm, chỉ còn 22%. Và cuối cùng, theo điều tra độ tuổi 56 – 70, vấn đề chất lượng được quan tâm nhiều nhất, thị hiếu về sự nổi trội giảm đi theo tỷ lệ 19%/81%.
Tính cách người dân Hoa Kỳ phóng khoáng, điều này cũng ảnh hưởng rất lớn tới sự lựa chọn sản phẩm của họ. Họ mua hàng nhiều khi theo cảm hứng, vì vậy nếu không tìm thấy loại sản phẩm mình ưa chuộng, họ có thể mua một chủng loại khác để thay thế. Tuy nhiên, khả năng thích ứng với các loại sản phẩm khác nhau cũng tuỳ thuộc vào từng lứa tuổi. Giới trẻ có khả năng thích ứng cao nhất với sự đa dạng của các loại hàng hoá khác nhau. Nếu ở lứa tuổi 15 – 19, 34% người tiêu dùng quyết định mua chủng loại sản phẩm khác khi không tìm thấy kiểu sản phẩm mình định mua ban đầu thì với độ tuổi 20 – 24, tỷ lệ này giảm xuống 26% và càng có xu hướng giảm khi tháp tuổi càng cao. Đến lứa tuổi 55 – 60, chỉ 17% khách hàng có thể chấp nhận đổi loại sản phẩm truyền thống mình vẫn dùng bằng một loại khác. Đây là một điểm cần chú ý vì trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ trở thành nước dân số già, tỷ lệ nhóm tuổi 45 và 65 đang có xu hướng tăng lên. Việc tìm hiểu phong cách mua hàng của người tiêu dùng Hoa Kỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà sản xuất và xuất khẩu trong việc đưa ra thị trường loại sản phẩm thích hợp.
Điểm đặc trưng trong xu hướng tiêu dùng Hoa Kỳ là sở thích mua những sản phẩm mang phong cách cổ điển hơn những sản phẩm mốt thời thượng, mặc dù tỷ lệ khách hàng thích dùng sản phẩm mốt thời thượng khá cao, chiếm 20% tổng số người tiêu dùng hàng dệt may, đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ sau Đức (30%), hơn hẳn các trung tâm thời trang lớn như Anh và Italia (tỷ lệ này là 19%), Pháp (17%). Quần áo mang phong cách cổ điển chiếm giữ thị phần đáng kể tại thị trường Hoa Kỳ – khoảng 79%, chứng tỏ thị trường tiềm năng này có nhu cầu rất phong phú, đối tượng phục vụ khá rộng: giới sành điệu và cả những người bình dân. Hoa Kỳ quả là một thị trường vừa dễ tiếp cận nhưng cũng đầy thử thách, khó khăn.
Một thói quen đáng ghi nhớ của người tiêu dùng Hoa Kỳ là họ quyết định mua hàng theo mùa vụ. Bắt đầu mỗi mùa tiêu thụ, họ sẽ đi mua hàng ngay chứ không chờ đến cuối mùa để mua được với mức giá rẻ hơn. Tỷ lệ khách hàng mua đồ vào đầu mùa tiêu thụ ở Hoa Kỳ chiếm khoảng 64%, đứng thứ ba trên thế giới sau Nhật Bản (73%) và Hồng Kông (67%). Vì vậy yếu tố giao hàng đúng thời hạn, bắt kịp thời vụ cũng rất quan trọng trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ.
Sản phẩm cho tương lai: Cơ cấu nhập khẩu hàng may mặc vào thị trường Hoa Kỳ những năm gần đây cho thấy xu hướng và tập quán tiêu dùng của người Hoa Kỳ đang thay đổi từ hàng dệt thoi sang hàng dệt kim vì những ưu điểm mới của sản phẩm dệt kim – thể hiện qua mức tăng nhập khẩu quần áo dệt thoi chỉ 3,8% trong khi hàng dệt kim là 8,7%.
Trước kia, người dân Hoa Kỳ thích dùng những sản phẩm may mặc được sản xuất từ sợi tổng hợp. Nhưng trong những năm gần đây, sử dụng sản phẩm 100% sợi bông đang trở thành một xu hướng. Tỷ lệ bông trong sản phẩm may mặc và đồ gia dụng sản xuất từ sợi bông ngày càng cao và có chiều hướng tăng lên. Năm 2000, tỷ lệ này đạt 59,6%, đến năm 2001 tăng lên 60,1%. Trong đó tỷ lệ bông trong sản phẩm may mặc của nam giới cao nhất, chiếm 75,8% năm 2000 và còn tăng thêm 0,2% vào năm 2001. Đặc biệt, trẻ em Hoa Kỳ đang dần trở thành đối tượng sử dụng quần áo sợi bông ngày càng nhiều với tốc độ gia tăng trung bình đạt 1,3%. Những sản phẩm được sản xuất từ sợi bông có khả năng tiêu thụ mạnh hơn những sản phẩm khác. Doanh số của các sản phẩm 100% sợi bông và sản phẩm có hàm lượng bông từ 60% đến dưới 100% liên tục tăng, trong khi đó doanh thu của các sản phẩm có tỷ lệ bông dưới 60% giảm. Những con số này càng khẳng định vai trò của sợi bông đối với thị trường dệt may Hoa Kỳ, như một kim chỉ nam giúp các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam định hướng sản phẩm.
Tìm hiểu cơ cấu sản phẩm tiêu thụ tại thị trường dệt may Hoa Kỳ, có thể thấy thị trường này phân đoạn khá rõ ràng, trong đó thị phần các sản phẩm may mặc dành cho phụ nữ lớn nhất –48,3%; tiếp đó là thị phần hàng may mặc dành cho nam giới –27,9%; thị phần cho trẻ em chiếm 15,7% và cuối cùng các sản phẩm gia dụng có nguồn gốc từ sợi dệt (thảm trải sàn, rèm cửa...) chiếm 8,1%. Mặc dù nữ giới là đối tượng phục vụ chính cho ngành dệt may Hoa Kỳ, nhưng tốc độ tăng trưởng doanh thu của các sản phẩm dệt may nam giới khá cao và có phần vượt trội hơn cả. Điều này chứng tỏ thị trường dệt may dành cho nam giới ở Hoa Kỳ đang nóng dần lên, một tín hiệu đáng mừng cho các nhà xuất khẩu Việt Nam vì chúng ta đã từng có kinh nghiệm trong việc thực hiện các hợp đồng gia công áo sơ mi nam cho các thị trường EU và Nhật Bản.
Người tiêu dùng Hoa Kỳ thích những bộ trang phục đẹp, chất lượng tốt, nhưng đặc biệt chú ý tới tính tiện lợi. Gần đây, việc thay đổi thói quen làm việc và phong cách ăn mặc nơi công sở đã khiến xu hướng tiêu dùng cuả thị trường Hoa Kỳ có nhiều thay đổi. Tỷ lệ tiêu thụ Vest và Complet giảm mạnh, chiếm khoảng 6% thị phần, thấp hơn Pháp và Đức gần một nửa. ở Italia và Anh, thị phần áo Vest cũng cao gấp 3 lần so với Hoa Kỳ. Quần áo bảo hộ và đồng phục đi làm vẫn duy trì thị phần ở mức 20%. Nhưng chiếm ưu thế nhất phải nói đến hàng “casual” – một loại sản phẩm may mặc được dệt từ loại sợi không cần ủi – bao gồm “casual” phổ thông và “casual” công sở. Sản phẩm “casual” ở thị trường dệt may Hoa Kỳ không bị coi như một sản phẩm không mang tính lịch sự, trái lại, người ta có thể tạo ra những mẫu trang phục công sở từ chất liệu này nhưng không làm mất đi vẻ sang trọng của nó. Nếu so sánh với các nước EU – nơi sản phẩm “casual” rất ít khi được mặc đến công sở: ở Anh, tỷ lệ này thấp nhất chỉ 44%; Pháp: 60%; Italia: 67%, thì ở Hoa Kỳ 71% công chức có thể mặc đồ “casual” đến nơi làm việc ít nhất một lần trong tuần. Doanh số của hàng “casual” ngày càng tăng nhanh.
2.1.1.2-Chính sách của Mỹ đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ
Có thể thấy chỉ sau khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được bãi bỏ thì hàng hoá xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam nói riêng mới có cơ hội và điều kiện thuận lợi hơn để thâm nhập vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam phải chịu sự chi phối bởi các quy định trong chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
Theo các nhà chuyên môn, vấn đề dệt may sẽ được phía Mỹ đề cập trong khuôn khổ đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO như họ đã làm với Trung Quốc. Liên quan đến quá trình đàm phán này cần lưu ý hai nội dung:
+ Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ
+ Các quy định về lao động
Chính sách thuế quan
Mỹ áp dụng thuế quan tính theo % trên cơ sở giá FOB trong khi phần lớn các nước khác tính thuế theo giá CIF. Vì giá FOB thấp hơn giá CIF nên mức độ bảo hộ bằng thuế quan của Mỹ do vậy cũng thấp hơn các nước khác.
Trước đây, khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong xuất khẩu sang thị trường Mỹ là phải chịu thuế suất cao do Việt Nam chưa được hưởng quy chế MFN và giữa hai nước chưa có Hiệp định thương mại song phương. Tuy nhiên, hiện nay hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng đã được hưởng thuế suất MFN, tạo điều kiện thuận lợi để thâm nhập, cạnh tranh và tăng trưởng mạnh trên thị trường Mỹ.
Hệ thống hạn ngạch
Công cụ bảo hộ chính của ngành dệt may Mỹ là hệ thống hạn ngạch áp dụng theo Hiệp định dệt may của WTO (ATC), mặc dù các hạn chế này đang phải xoá bỏ dần.
Hiện nay, Mỹ chưa áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam, nhưng sắp tới, Mỹ sẽ quy định cụ thể hạn ngạch cho hàng dệt may của Việt Nam. Trong giai đoạn này, Mỹ và Việt Nam đang trong quá trình đàm phán đầu tiên, tuy nhiên, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã viết thư kêu gọi Chính phủ Mỹ kéo dài thời gian không áp đặt hạn ngạch dệt may. Đây có lẽ là mong muốn của hầu hết các doanh nghiệp vì thị trường Mỹ đang là thị trường đứng đầu về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn sản phẩm dệt may
ở Mỹ, người ta rất quan tâm tới xuất xứ và nhãn mác của sản phẩm. Đối với tất cả các sản phẩm dệt may, khi được xuất khẩu vào Mỹ phải được ghi nhãn, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước chế tạo, gia công sản phẩm.
Từ 1/7/1996, quy định mới về xuất xứ đối với sản phẩm dệt may của Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Đối với những sản phẩm may mặc cần gia công qua nhiều công đoạn, theo quy định cũ, thì nước xuất xứ là nơi diễn ra công đoạn cắt vải. Theo quy định mới, nước xuất xứ về cơ bản là nơi diễn ra công đoạn may. Đối với sản phẩm dệt, trước tháng 7/1996, xuất xứ được xác định chủ yếu là nơi dệt vải. Tuy nhiên, quy định mới của Mỹ xác định xuất xứ của sản phẩm dệt là nơi tiến hành in, nhuộm vải.
Đối với sản phẩm len, theo luật nhãn hiệu sản phẩm len năm 1939, tất cả các sản phẩm có chứa sợi len nhập khẩu vào Mỹ phải ghi nhãn, trừ thảm, chiếu, nệm ghế. Theo Luật nhãn hiệu sản phẩm da lông thú, tất cả các sản phẩm nhập khẩu có giá thành hay giá bán từ 7 USD trở lên phải ghi nhãn và nước xuất xứ.
Chế độ Visa xuất khẩu
Mỹ buộc một số nước phải ký kết thoả thuận về việc áp dụng chế độ Visa xuất khẩu đối với hàng dệt may. Nước đối tác phải xác nhận (dưới dạng đóng dấu vào hóa đơn hay giấy phép) trước mỗi chuyến hàng. Biện pháp này hiện được sử dụng để quản lý hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Quy định về Visa này áp dụng cho cả sản phẩm chịu hạn ngạch và không chịu hạn ngạch mặc dù các sản phẩm chịu quota đã phải chứng minh xuất xứ của mình khi muốn nhập khẩu vào Mỹ. Sau khi các nước ấn Độ, Pakistan và Hồng Kông kiện Mỹ tại Cơ quan quản lý hàng dệt may của WTO (TMB), đầu năm 1999, Mỹ đã phải bỏ áp dụng chế độ trên đối với các sản phẩm đã hoà nhập theo Hiệp định ATC. Tuy nhiên, đối với phần lớn các sản phẩm chưa hoà nhập theo Hiệp định và đặc biệt là đối với các nước chưa phải là thành viên của WTO, trong đó có Việt Nam, biện pháp trên vẫn mang tính bảo hộ.
Việc nghiên cứu những đặc điểm tiêu dùng hàng dệt may của thị trường Mỹ và các chính sách của Mỹ đối với hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ giúp chúng ta thấy được những vấn đề đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam. Từ đó, Nhà nước sẽ xác định được cần phải làm gì để hỗ trợ cho ngành dệt may trong quá trình xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Những vấn đề đặt ra, cụ thể gồm có:
Để sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ cần một lượng vốn lớn
Thị trường Mỹ là một thị trường rộng lớn, thu nhập cao nên mức chi tiêu cho dệt may rất lớn. Vì vậy, các đơn đặt hàng từ phía Mỹ thường có số lượng lớn. Điều này thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp, đòi hỏi cần có những sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Cần tăng các sản phẩm dệt kim và sản phẩm 100% sợi bông
Xu hướng hiện nay là người tiêu dùng Hoa Kỳ đang chuyển sang tiêu dùng các sản phẩm dệt kim và các sản phẩm 100% sợi bông thay vì các sản phẩm dệt thoi và sợi tổng hợp trước kia. Như vậy, để được thị trường này chấp nhận, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải có cơ cấu sản phẩm phù hợp. Điều này hiện đang là khó khăn đối với Việt Nam khi mà nguyên liệu của nước ta không đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất, đặc biệt là sợi bông.
Quy định về tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm dệt may
Mỹ là nước có quy định về tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm dệt may rất chặt chẽ, tuy nhiên hiện nay, phần lớn nguyên phụ liệu nước ta đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc xuất khẩu trực tiếp sang thị trường này. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách để hỗ trợ cho việc phát triển nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu.
Giao hàng đúng thời hạn
Người Mỹ có thói quen là mua hàng theo thời vụ, họ sẽ mua hàng ngay đầu mùa tiêu thụ chứ không đợi đến cuối mùa để mua với mức giá rẻ. Do đó, Nhà nước ta cần tạo mọi điều kiện để việc xuất khẩu hàng sang thị trường Mỹ được tiến hành nhanh chóng, đặc biệt khoảng cách từ Việt Nam sang Mỹ lại rất xa về mặt địa lý.
Hệ thống hạn ngạch
Công cụ bảo hộ chính của ngành dệt may Mỹ là hệ thống hạn ngạch mặc dù các hạn chế này đang phải xoá bỏ dần. Đối với Việt Nam thì Mỹ mới áp đặt hạn ngạch nên việc xuất khẩu sang thị trường này sẽ gặp nhiều hạn chế. Để có được hạn ngạch phù hợp, thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào quá trình đàm phán của Chính phủ nước ta.
2.1.2-Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ thời gian qua
Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Hàng năm, Mỹ nhập khẩu khoảng 50 – 60 tỷ USD hàng dệt may. Nguồn nhập chủ yếu từ các nước Châu á (chiếm trên 50% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ). Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có tiềm năng của Việt Nam. Từ sau khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam (3/2/1994), các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu mạnh dạn tiếp cận thị trường Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ tuy còn thấp nhưng tốc độ tăng trưởng qua các năm khá cao.
Để có cái nhìn tổng quan về kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, chúng ta sẽ xem xét các biểu số liệu dưới đây:
Bảng2: Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
Kim ngạch xuất khẩu
26,4
37,1
60
51,6
976,3
(Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại)
Qua số liệu trên, ta thấy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ từ con số 26,4 triệu USD năm 1998 đã lên tới 976,3 triệu USD năm 2002. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1998 – 2002 đạt 114,23% (mặc dù tốc độ tăng trưởng không đều qua các năm). Nếu so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân 35,76%/năm của toàn ngành trong cùng giai đoạn thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ những năm qua là con số đáng ghi nhận.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ có xu thế tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nói chung. Đặc biệt, năm 2002, sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng lên đáng kể. Thị trường Mỹ vươn lên trở thành thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam.
Bảng 3: Tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may Việt Nam
(Đơn vị: Triệu USD)
1998
1999
2000
2001
2002
KNXK hàng dệt may sang Mỹ
26,4
37,1
60
51,6
976,3
KNXK toàn ngành dệt may
1.380
1.748
1.900
2.150
2.750
Tỷ trọng (%)
1,91
2,12
3,16
2,4
35,5
(Nguồn: Bộ Thương mại)
Trong khi nhiều thị trường phi hạn ngạch về dệt may của Việt Nam giảm sút mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định mặc dù xuất khẩu sang thị trường này khó khăn hơn nhiều so với các thị trường truyền thống khác của chúng ta. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực tế rằng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ còn quá nhỏ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ năm 2000 là 60 tỷ USD, như vậy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 2000 chỉ chiếm 0.1% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của thị trường này. Trong khi đó, một quốc gia Châu á khác là Trung Quốc, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2000 đã xuất khẩu mặt hàng dệt may vào Mỹ trị giá 2.640 triệu USD, chiếm 4.43% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Rõ ràng, quy mô xuất khẩu của chúng ta thua kém hơn họ rất nhiều. Qua đó để thấy rằng Việt Nam còn phải cố gắng rất nhiều trong quan hệ thương mại song phương cũng như cần có nỗ lực chung của toàn ngành dệt may trong thời gian tới.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ các sản phẩm may mặc và một số sản phẩm gia dụng sản xuất từ sợi dệt như ga, drap, gối, bộ trải nôi baby..., hàng dệt chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Vì đây là thị trường mới, việc tìm hiểu thông tin cũng như thâm nhập còn gặp nhiều khó khăn nên Việt Nam trước hết thử đưa vào Hoa Kỳ các mặt hàng truyền thống của mình. Những sản phẩm này đã được đánh giá cao tại thị trường EU – một thị trường nổi tiếng với những đòi hỏi khắt khe về chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ tập trung vào 8 loại sản phẩm may mặc mang các Cat sau: 338 (sơ mi nam dệt kim vải bông), 340 (sơ mi nam dệt thoi vải bông), 435 (áo choàng nữ vải len), 438 (sơ mi nữ vải len), 444 (comple nữ vải len), 636 (váy nữ), 644 (comple nữ vải tổng hợp) và 331 (găng tay). Mặc dù thị trường Mỹ có nhu cầu về hàng dệt kim lớn nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được hàng dệt kim sang thị trường này.
Trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ những năm gần đây, tỷ trọng sản phẩm dệt thoi vẫn luôn dẫn đầu. Hiện nay, người tiêu dùng Hoa Kỳ có xu hướng thích sử dụng những sản phẩm dệt thủ công mang đặc trưng dân tộc cuả các nước. Đây chính là một lợi thế của Việt Nam nhưng chúng ta còn gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu. Tuy nhiên, thật đáng mừng trước những tiến bộ trong ngành dệt Việt Nam, mặc dù kim ngạch xuất khẩu còn khá khiêm tốn nhưng chúng ta đã xuất khẩu được một số sản phẩm sợi dệt từ đay, cói, lau và một số loại chỉ, tơ nguyên liệu vào thị trường Hoa Kỳ. Trong tương lai, Việt Nam dự định sẽ xuất khẩu một số sản phẩm sợi thô, sợi bông và sợi dệt kim vào Hoa Kỳ để cạnh tranh cùng các đối thủ mạnh khác.
Phương thức xuất khẩu
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam tiến hành xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ thông qua 2 phương thức chủ yếu: xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác gia công.
Xuất khẩu trực tiếp: Phương thức xuất khẩu trực tiếp hay “mua đứt bán đoạn” là phương thức chiến lược của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong tương lai. Từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam đã đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may thông qua phương thức này. Tuy nhiên, do những khó khăn trong vấn đề cung cấp nguyên liệu nên ít doanh nghiệp có thể xuất khẩu trực tiếp. Doanh thu xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Hoa Kỳ theo phương thức này còn thấp, chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng doanh thu xuất khẩu nói chung. Một số công ty may có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường như: May 10, May Thăng Long, Công ty dệt Thắng Lợi... đã xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Hoa Kỳ.
Gia công xuất khẩu: Đây là phương thức xuất khẩu chủ yếu của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam không chỉ đối với thị trường Hoa Kỳ mà còn đối với các thị trường khác. Xuất phát từ nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cũng như màu sắc nên các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu của Hoa Kỳ rồi gia công theo mẫu mã của họ. Những mặt hàng may mặc Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua phần lớn được thực hiện thông qua các công ty nước ngoài hiện đang gia công ở Việt Nam. Tuy nhiên, đấy chỉ là giải pháp tạm thời khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chưa được ký kết. Hiện nay, Hiệp định này đã có hiệu lực, hàng dệt may Việt Nam đã được hưởng thuế suất ưu đãi thì xuất khẩu trực tiếp sẽ trở thành phương thức xuất khẩu chiến lược.
2.2-Những biện pháp hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may Nhà nước đã thực hiện những năm qua
2.2.1-Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất
a/ Chính sách đầu tư phát triển
Thị trường Mỹ là một thị trường có sức tiêu thụ sản phẩm dệt may rất lớn, do vậy cần một nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển. Để làm được điều này, những năm qua, Nhà nước ta đã có chính sách đầu tư để phát triển ngành dệt may nói chung và để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ nói riêng. Cụ thể:
Về thu hút vốn đầu tư
Tạo nguồn vốn trong nước bằng cách cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết ở ngành may và lựa chọn cổ phần hoá một số xí nghiệp dệt. Cổ phần hoá dựa trên nghiên cứu quy mô đầu tư thích hợp với đặc thù của từng doanh nghiệp.
Cùng với thu hút vốn đầu tư trong nước, Nhà nước đã có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức như các doanh nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài.
Đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã ban hành chính sách “khuyến khích các công ty nước ngoài tham gia vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam”. Chính sách này cụ thể như sau: Các công ty nước ngoài tham gia vào sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho hàng dệt may sẽ được hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế với điều kiện 90% sản phẩm sản xuất ra phải được xuất khẩu hoặc làm nguyên liệu cho ngành dệt may xuất khẩu. Thuế nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất và thuế xuất khẩu thành phẩm thấp hơn 30% mức thuế suất thông thường quy định trong biểu thuế xuất nhập khẩu mới của Việt Nam được áp dụng từ 1/1/1999, còn thuế nhập khẩu các dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các trung tâm công nghệ nguồn (Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản) thì thấp hơn 50% mức thuế quy định đối với sản phẩm cùng loại trong biểu thuế. Với chính sách này, Việt Nam có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam. Qua đó, Việt Nam không những thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn, nhập khẩu công nghệ nguồn mà còn nâng cao và tiêu chuẩn hoá chất lượng, cải tiến mẫu mã hàng dệt may xuất khẩu. Chính sách này là một trong những phương pháp tối ưu để Việt Nam cải tiến sản xuất, sử dụng công nghệ của công nghiệp dệt may đạt hiệu quả cao trong điều kiện chúng ta rất thiếu vốn và kinh nghiệm còn hạn chế. Nếu đi vay tiền để nhập công nghệ, chưa chắc các kỹ sư Việt Nam đã vận hành máy móc đạt kết quả mong muốn, hơn nữa, vay tiền thì phải có nguồn để trả. Còn ở đây, vốn của phía nước ngoài đóng góp (dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị...) sẽ trả bằng sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất. Việt Nam sẽ rất có lợi thông qua những dự án như thế này và chính sách trên là biện pháp tốt nhất để Việt Nam đón nhận được “làn sóng di chuyển ngành dệt may sang các nước Nam á và Đông Nam á”.
Thêm vào đó, Nghị định của Chính phủ số 7/1998/NĐ-CP ngày 15/1/1998 đã xác định các dự án đầu tư sản xuất hàng dệt may cũng như sản xuất nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu thuộc danh mục các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư. Theo Nghị định này, các doanh nghiệp sẽ được hưởng ưu đãi về tín dụng đầu tư, được ngân hàng đầu tư và phát triển cùng các ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu và cho vay đầu tư mở rộng cơ sở sản xuất mặt hàng xuất khẩu thay thế nhập khẩu thuộc danh mục các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư, được Nhà nước xem xét trợ giúp thông qua quỹ bình ổn giá trong trường hợp giá thị trường thế giới hoặc trong nước biến động mạnh, gây thua lỗ lớn cho các doanh nghiệp.
Theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi, các ngành nghề sử dụng nhiều lao động trong đó có ngành dệt may cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu được hưởng các ưu đãi:
Được giảm 50% tiền sử dụng đất, được miễn tiền thuế đất từ 3 – 6 năm, được hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 25% so với mức thuế chung là 32%.
Doanh nghiệp dệt may sử dụng nhiều lao động được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong hai năm tiếp theo cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mới mang lại.
Luật đầu tư nước ngoài cũng có nhiều thay đổi có tác dụng khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cho ngành dệt may, đặc biệt là ngành dệt, góp phần giảm chi phí nguyên vật liệu cho ngành may xuất khẩu. Một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm:
Các dự án sản xuất thuốc nhuộm, hoá chất chuyên dùng, tơ sợi, các loại hàng dệt để xuất khẩu nguyên liệu cao cấp để sản xuất quần áo xuất khẩu thuộc danh mục các dự án được khuyến khích đầu tư. Các dự án xuất khẩu 100% sản phẩm thuộc danh mục được khuyến khích đầu tư.
Các dự án đầu tư có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm từ 80% trở lên được cơ quan cấp giấy phép đầu tư quyết định cấp giấy phép đầu tư trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Doanh nghiệp bán sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất cho các doanh nghiệp khác để trực tiếp sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu và thuế doanh thu tương ứng đối với số sản phẩm trên, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp “xuất khẩu gián tiếp” qua các doanh nghiệp xuất khẩu khác.
Mặc dù còn những điều bất cập, những đổi mới trong Luật đầu tư trong nước cũng như Luật đầu tư nước ngoài có tác dụng khuyến khích đầu tư và tháo gỡ phần nào những khó khăn về tài chính cũng như tổ chức triển khai các dự án đầu tư trong ngành dệt may.
Về việc phân bổ vốn đầu tư
Có sự khác nhau trong phân bổ vốn giữa các ngành và các loại hình doanh nghiệp. ở ngành dệt, các xí nghiệp thuộc quốc doanh trung ương vẫn là loại hình có vốn lớn nhất và liên tục tăng qua các năm. Nhờ có vốn lớn, các doanh nghiệp này có thể trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư theo chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như tiếp cận trực tiếp với thị trường xuất khẩu thế giới mà không cần phải thông qua một số khâu trung gian của các thương nhân nước ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà nước địa phương thì lại có xu hướng giảm sút về vốn đầu tư và quy mô nhỏ hơn. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc daonh, phần lớn có số vốn nhỏ. Với số vốn nhỏ, các doanh nghiệp này khó có thể vươn lên vì cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, không thể áp dụng được những kỹ thuật tiên tiến hiện nay trên thế giới. Do đặc điểm của ngành may là không phải đầu tư để đổi mới công nghệ mà chỉ là trang thiết bị, nên ngành này đòi hỏi vốn ít hơn so với ngành dệt. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay thì đầu tư vào các doanh nghiệp may vẫn còn thấp, phần lớn có số vốn dưới 5 tỷ đồng.
b/ Chính sách về nguyên phụ liệu
Để chủ động cung ứng được nguyên liệu chính của ngành dệt với giá cả cạnh tranh, việc đầu tư phát triển cây bông vải đã được Chính phủ rất quan tâm, hỗ trợ. Ngày 17/8/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 168/1999/QĐ-CP về một số chính sách khuyến khích phát triển cây bông. Bên cạnh đó, ngày 15/6/2000, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong các văn bản này, Chính phủ khẳng định bông, dâu tằm có vị thế lâu dài trong cơ cấu nông nghiệp và định hướng phát triển bông sợi ở các vùng có điều kiện, để tiến tới tự túc được một phần quan trọng nhu cầu sợi bông cho ngành dệt, hạn chế nhập khẩu. Bên cạnh đó, cần tiếp tục phát triển dâu tằm gắn với ngành ươm tơ, dệt lụa, tạo thêm công ăn việc làm và gia tăng hàng xuất khẩu.
Những văn bản này đã có tác dụng rất thiết thực trong việc khuyến khích cây bông vải phát triển, cung cấp tốt nguồn nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của nước ta.
c/ Chính sách về khoa học công nghệ
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sự đổi mới khoa học công nghệ trong ngành dệt may. Trước hết là việc Nhà nước hỗ trợ kinh phí để xây dựng, nâng cấp các Viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm cũng như các trường đào tạo công nhân, kỹ sư dệt may. Tuy rằng chưa đạt được kết quả nhiều lắm, nhưng việc hỗ trợ phát triển công nghệ trong ngành dệt may ở nước ta đang giúp cho các dự án mới có khả năng được triển khai. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã đứng ra tổ chức nhiều buổi hội thảo về công nghệ mới để giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt được, từ đó có thể đưa ra được những chiến lược mới, phù hợp với khả năng của mình.
d/ Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực tốt là một sự đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Vì vậy, để đáp ứng nguồn lực có tay nghề cho ngành dệt may từ nay đến năm 2010 là hết sức cần thiết và cấp bách.
Trong Quyết định 55/2001/QĐ-TTg của Chính phủ đã nêu ra 6 điểm để hỗ trợ ngành dệt may phát triển đến năm 2010. Trong đó, điểm 5 của Quyết định cho phép: “Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch dệt may cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức dệt may quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may”. Như vậy, trong chủ trương và trong các chính sách của mình, Nhà nước ta luôn thể hiện sự quan tâm tới việc nâng cao chất lượng của người lao động trong ngành dệt may. Quyết định này sẽ đưa ra một định hướng cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các doanh nghiệp.
Bên cạnh Quyết định này, Nhà nước cũng có nhiều biện pháp hỗ trợ cho việc phát triển nguồn nhân lực dệt may như: hỗ trợ kinh phí đào tạo lực lượng lao động, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho công tác đào tạo... Có thể khẳng định rằng, để ngành dệt may nâng cao khả năng cạnh tranh, đạt được kế hoạch và nhiệm vụ được giao thì cần có những giải pháp có tính lâu dài, được sự hỗ trợ của Nhà nước để có được đội ngũ lao động, lực lượng quản lý đủ năng lực, trình độ được đào tạo tại các trường chuyên ngành, chính qui, có sự tham gia của các chuyên viên nước ngoài với đầy đủ các khâu từ thiết kế, kỹ thuật, điều hành sản xuất, thương mại... chứ không thể trông chờ vào những giải pháp tình thế đã và đang thực hiện như hiện nay.
e/ Chính sách về tổ chức quản lý
Để quản lý tốt hoạt động của ngành dệt may, Chính phủ đã có những quyết định rất đúng đắn và kịp thời. Ngày 29/4/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định thành lập Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VINATEX) trên cơ sở sáp nhập Tổng công ty Dệt và Tổng công ty May trước đây. Tổng công ty Dệt May Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước đối với ngành dệt may. Thêm vào đó, ngày 14/11/1999, Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) ra đời đáp ứng được lòng mong mỏi của các doanh nghiệp. Từ nay, các doanh nghiệp dệt may đã có một tổ chức thống nhất nhằm bảo vệ quyền lợi của họ, tránh tình trạng dẫm chân lên nhau, chèn ép nhau, tự mình làm hại mình như trước đây. Ngoài ra, VITAS còn hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin, về đầu tư, chuyển giao công nghệ, về thị trường và đào tạo nguồn nhân lực...
Với sự ra đời của hai tổ chức này đã tạo ra sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với ngành dệt may, từ đó thúc đẩy sự phối hợp giữa các đơn vị trong ngành thuộc các thành phần kinh tế, các địa phương khác nhau.
2.2.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a/ Chính sách thuế quan
Thông tư 106 của Bộ Tài chính ban hành ngày 23/7/1998 đã cho phép tăng thời gian tạm chưa nộp thuế nhập khẩu đối với nguyên phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu (từ 90 ngày theo quy định cũ) lên 270 ngày. Trong thời hạn này, nếu doanh nghiệp đã xuất khẩu sản phẩm thì không phải nộp thuế nhập khẩu cho số nguyên phụ liệu đã sử dụng, ngoài thời hạn này, doanh nghiệp phải nộp thuế nhập khẩu và được hoàn thuế sau khi đã xuất khẩu sản phẩm. Quy định này đã tháo gỡ được khó khăn nhiều năm nay của các doanh nghiệp sản xuất gia công hàng may do thời hạn 90 ngày theo quy định cũ không đủ để doanh nghiệp triển khai sản xuất lô sản phẩm.
Thông tư số 83/1998/thị trường-BTC quy định về hoàn thuế doanh thu nguyên vật liệu và bán thành phẩm mua của cơ sở sản xuất để sản xuất hàng xuất khẩu, cho phép các doanh nghiệp được hoàn thuế doanh thu với các nguyên vật liệu và bán thành phẩm mua của cơ sở khác để sản xuất hàng xuất khẩu đã khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc sử dụng trong nước tạo điều kiện liên kết giữa lĩnh vực may xuất khẩu tăng “đầu ra” cho ngành dệt tạo cho các doanh nghiệp dệt cơ hội “xuất khẩu gián tiếp”, đồng thời giảm sự lệ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập ngoại của ngành may xuất khẩu.
b/ Chính sách thị trường
Việc thành lập Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương Mại đã góp phần rất quan trọng trong việc hỗ trợ các thông tin về hoạt động xuất nhập khẩu, về thị trường... cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Tuy rằng chưa làm được gì nhiều trong việc hỗ trợ xuất khẩu dệt may sang thị trường Hoa Kỳ, nhưng đây chính là nền tảng quan trọng cho các hoạt động xúc tiến thương mại trong tương lai.
Bên cạnh đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp có được những thông tin đầy đủ về thị trường Mỹ, Chính phủ cũng đã tổ chức và hỗ trợ kinh phí để tổ chức nhiều cuộc hội thảo, trao đổi về việc xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là hàng dệt may sang thị trường này. Tất cả những điều này rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để xâm nhập thành công sang thị trường đầy tiềm năng này.
c/ Chính sách tỷ giá hối đoái
Đối với ngành dệt may, cần khuyến khích xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu máy móc, công nghệ hiện đại, nguyên liệu phục vụ sản xuất. Vì vậy, việc duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý như hiện nay là tối ưu. Với chính sách tỷ giá này, tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do không có sự can thiệp nào của Chính phủ vào thị trường ngoại hối nhưng nền kinh tế thường xuyên điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên cơ sở đánh giá diễn biến của các biến số như tình hình dự trữ và thanh toán.
d/ Chính sách tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thành lập theo Quyết định 195 QĐ/TTG của Thủ tướng Chính phủ có chức năng hỗ trợ về lãi suất, tài chính có thời hạn đối với những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan và thưởng về tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Qua 3 năm triển khai, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã có những đóng góp nhất định cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu tuy rằng quy mô còn quá nhỏ.
Trong thời gian qua, Quỹ hỗ trợ phát triển đã thực hiện hỗ trợ thông qua 3 hình thức: cấp tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Chủ yếu vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển tập trung vào một số ngành sản xuất, chế biến nông lâm sản, thuỷ hải sản, giầy da, cơ khí... và đặc biệt là dệt may.
Các chính sách này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
2.3-Đánh giá các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ hiện nay
2.3.1-Những kết quả đạt được
Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ được xác định là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư phát triển với nhiều chính sách ưu đãi về đầu tư, về tín dụng, về thuế xuất nhập khẩu, cũng như các quy định về quản lý sản xuất, xuất nhập khẩu ban hành trong thời gian qua, đặc biệt là trong năm 1998. Những chính sách này của Nhà nước ta đã có tác dụng thiết thực trong khuyến khích và tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường đầy tiềm năng này. Nhờ những chính sách này, cùng với sự nỗ lực của các doanh nghiệp dệt may, trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ liên tục tăng, đặc biệt là từ sau khi Hiệp định Thương mại được ký kết và có hiệu lực. Tương lai, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này sẽ còn tiếp tục tăng.
2.3.2-Những tồn tại
Bên cạnh những đổi mới đáng kể trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, nhiều chính sách hiện hành vẫn còn những bất cập, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất, xuất nhập khẩu hàng dệt may. Nhiều quy định không còn phù hợp trong điều kiện sản xuất, kinh doanh có nhiều thay đổi như hiện nay.
Thứ nhất: Hàng hoá chỉ được thông quan khi có giấy chứng nhận chất lượng của các cơ quan kiểm tra chất lượng của Nhà nước. Tuy nhiên, do lượng hàng hoá luân chuyển ngày càng lớn và những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan, các cơ quan giám định không đảm bảo được thời hạn giám định hàng hoá để các doanh nghiệp kịp thực hiện hợp đồng.
Thứ hai: Tuy Nhà nước đã có nhiều chính sách để thu hút vốn đầu tư nhưng ngành dệt may vẫn thiếu vốn để tăng tốc đầu tư phát triển. Riêng Tổng công ty Dệt May Việt Nam có nhu cầu vốn 3.500 tỷ đồng, trong đó huy động từ Quỹ hỗ trợ phát triển và đầu tư là 2.900 tỷ đồng nhưng thực tế, nguồn vốn này cũng mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu.
Trong đầu tư cho ngành dệt may hiện nay có một điều đáng lưu ý là có tình trạng đầu tư không hợp lý, thiếu đồng bộ, nơi nhiều, nơi ít dẫn đến có địa phương không sử dụng hết công suất, có nơi lại không được đầu tư. Như vậy, việc phân bổ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước ta vẫn chưa hiệu quả.
Thứ ba: Việc xin được miễn giảm thuế theo giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của Việt Nam gặp rất nhiều phiền phức: ngành thuế quy định doanh nghiệp phải làm “Đơn xin được ưu đãi” hoặc yêu cầu xem lại dự án đầu tư hoặc chỉ được hưởng miễn giảm thuế khi chứng minh việc đầu tư có hiệu quả lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Trong khi thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, quy định này trở thành một trở ngại lớn đối với doanh nghiệp.
Thứ tư: Thuế suất thuế nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất trong nhiều trường hợp vẫn còn cao hơn thuế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh (ví dụ: thuế suất nhập khẩu nguyên liệu vải mộc và vải pha là 40% trong khi vải thành phẩm là 20%) làm cản trở việc thực hiện nội địa hoá sản phẩm.
Bên cạnh đó, quy định doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu phải nộp đủ thuế nhập khẩu theo quy định và làm thủ tục xin hoàn thuế khá phức tạp mất nhiều thời gian và phụ thuộc vào các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ năm: Hiện nay nhà sản xuất vải bán trong nước để may hàng xuất khẩu vẫn chưa được miễn thuế GTGT mặc dù Chính phủ đã đồng ý miễn thuế GTGT với loại hàng này.
Thứ sáu: Ngành dệt may được Chính phủ coi là trọng tâm của công tác xuất khẩu, đã đề nghị thưởng xuất khẩu hàng dệt may theo tỷ lệ 327 đ/1 USD, chủ trương này đã được Chính phủ đồng ý nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn thực hiện. Nếu các khuyến khích này được thực hiện thì sẽ có tác dụng tích cực để đẩy mạnh hàng dệt may Việt Nam nói chung và vào thị trường Mỹ nói riêng.
Thứ bảy: Theo quy định về nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp sản xuất gia công hàng xuất khẩu có sử dụng nhãn hiệu nước ngoài phải xin giấy chứng nhận tại Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam. Giấy chứng nhận này có hiệu lực một tháng nhưng thực tế có khi doanh nghiệp phải mất tới hai tháng mới nhận được.
Thứ tám: Doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ đều vướng mắc về Luật Lao động Việt Nam hiện hành. Luật pháp Mỹ rất chặt chẽ, vì vậy các đối tác Mỹ rất quan tâm tới tiêu chuẩn SA 8000 (chứng chỉ về Hệ thống trách nhiệm xã hội) liên quan đến chế độ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu (quy định số giờ làm thêm...); điều này mâu thuẫn với Lụât Lao động Việt Nam (theo Luật, doanh nghiệp chỉ được sử dụng lao động ngoài giờ không quá 200 giờ/năm). Thực tế này không được sửa đổi sẽ hạn chế xuất khẩu vào Mỹ, sẽ mất các hợp đồng lớn của các hãng có tên tuổi của Mỹ. Ngành dệt may kiến nghị sửa đổi quy định “làm thêm giờ” trong Luật lao động Việt Nam, tăng lên 400 giờ/năm. Đây là vấn đề đang hạn chế nghiêm trọng chiến dịch tăng tốc của ngành dệt may, đặc biệt khi xuất khẩu vào Mỹ.
Bên cạnh đó là những tiêu cực và những thủ tục hành chính phức tạp, chồng chéo gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Đồng thời, các quy định mới được ban hành không được thông tin đầy đủ và kịp thời đến các doanh nghiệp hoặc không có một thời gian đệm hợp lý cho các nhà đầu tư chuẩn bị trước khi các quy định mới có hiệu lực.
2.3.3-Nguyên nhân
Những tồn tại trong các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu sau;
Một là: Nguyên nhân trong quá trình hoạch định chính sách. Khi đưa ra các chính sách để hỗ trợ cho ngành dệt may, Chính phủ đã chưa tính đến tất cả các khía cạnh cần phải hỗ trợ của ngành dệt may. Bên cạnh đó, có những vấn đề đã được chú ý đến nhưng vẫn còn chưa triệt để, chưa giải quyết hết những nhu cầu, những đòi hỏi của ngành dệt may trong quá trình tiến hành xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Hai là: Nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách. Có nhiều những chính sách hỗ trợ cho ngành dệt may xuất khẩu sang Mỹ rất hiệu quả, tuy nhiên cho đến nay các chính sách này vẫn chưa được thực hiện. Một khi các chính sách này được thực hiện thì chắc chắn ngành dệt may sẽ có cơ hội tăng nhanh xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Chính vì những lý do đó, điều chỉnh kịp thời các chính sách của Nhà nước đối với họat động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ là yếu tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới
3.1-Chiến lược xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới
3.1.1-Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ
Có thể nói, Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất và luôn giữ vị trí dẫn đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Giá trị kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này liên tục tăng qua các năm. Ngay từ năm 1995, con số kim ngạch nhập khẩu đã đạt trên 40 tỷ USD, những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ đạt trên 60, gần 70 tỷ USD, trong đó kim ngạch từ Châu á chiếm khoảng 55%, Bắc Mỹ: 17%, Mỹ la tinh: 10%, Tây Âu: 7%, Trung Đông: 2,5%, Châu Phi: 2,5%. Hiện nay, hàng nhập khẩu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng mức tiêu thụ trên thị trường Hoa Kỳ. Trong những năm tới, tỷ trọng hàng nhập khẩu còn lớn hơn và tiếp tục có xu hướng gia tăng.
Với dung lượng và khả năng tiêu thụ rất lớn của thị trường Mỹ, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường Mỹ, một thị trường đang được xem là có mức tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới.
Do tác động của xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Mỹ, ngành dệt may của nước này đang mất dần các lợi thế so sánh. Hàng nhập khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức tiêu thụ trên thị trường Mỹ. Xu hướng gia tăng hàng dệt may nhập khẩu của Mỹ đã và đang mở ra cơ hội to lớn và đầy hấp dẫn đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ, trong đó có Việt Nam.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết đã mở ra nhiều triển vọng mới cho ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn tới. Khi được hưởng thuế suất NTR, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ gia tăng mạnh vì với cơ hội tiếp cận thị trường Mỹ ngang bằng với hầu hết các nước khác, các nhà xuất khẩu hàng dệt may chắc chắn sẽ tìm thấy thị phần riêng của mình. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh xuất khẩu chỉ có thể được duy trì song song với việc đầu tư hiệu quả để đổi mới công nghệ sản xuất và nắm bắt biến động của thị trường.
Theo các chuyên gia thương mại Việt Nam tại Mỹ dự đoán, sau khi Việt Nam được hưởng NTR, nếu chuẩn bị tốt các điều kiện, Việt Nam có thể xuất vào thị trường này lượng hàng dệt may các loại đạt giá trị vài trăm triệu USD ngay từ năm đầu tiên. Bởi, không phải đến bây giới mà ngay sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố bình thường hoá với Việt Nam, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã có hàng vào thị trường Mỹ. Điển hình là Công ty May Thăng Long – doanh nghiệp đầu tiên xuất khẩu sản phẩm dệt may sang Mỹ. Hiện nay, mỗi tháng công ty xuất trên 100.000 sản phẩm bao gồm: sơ mi, quần áo dệt kim các loại. Công ty Dệt Thành Công đến nay đã đầu tư trên 70 tỷ đồng đổi mới thiết bị, mở rộng nhà xưởng, nâng cao năng lực dệt lên 8 lần, nhuộm lên 10 lần so với thời bao cấp. Hàng của Công ty Dệt Thành Công chất lượng không thua kém so với hàng cùng loại của các nước tiên tiến. Sản phẩm của Công ty Thành Công vào thị trường Mỹ là vải thun và quần áo dệt kim – những mặt hàng người Mỹ ưa chuộng.
Tiềm năng của hàng dệt may Việt Nam là rất lớn. Vài năm tới, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may vào Mỹ có thể tăng nhanh chóng.
3.1.2-Định hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ những năm tới
Căn cứ vào năng lực xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam và triển vọng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, chúng ta có thể tin tưởng khả năng tiếp cận và phát triển trên thị trường Hoa Kỳ của sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ trở thành hiện thực trong tương lai không xa. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản vẫn tăng trưởng ổn định qua các năm, đủ sức chứng minh sản phẩm của chúng ta có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để có thể thuyết phục thị trường thế giới tốt hơn nữa, ngành dệt may Việt Nam cần phải nỗ lực khắc phục những mặt còn tồn tại. Nếu thực hiện tốt vấn đề này, triển vọng thâm nhập thị trường dệt may Hoa Kỳ sẽ ngày càng sáng sủa và khả thi hơn, bởi lẽ Hoa Kỳ được nhìn nhận như một khu vực tiêu thụ “không có điểm dừng”.
Với dung lượng nhập khẩu hàng dệt may khoảng 60 tỷ USD/năm, Mỹ là thị trường tiêu thụ có tiềm năng rất lớn. Chỉ cần chiếm thị phần 1% giá trị nhập khẩu hàng dệt may trên thị trường Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành dệt may Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể. Nếu có những bước tiếp cận và thâm nhập thích hợp vào thị trường này thì dự báo kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ có mức tăng khả quan trong những năm tới. Nhất là từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được Quốc hội hai nước thông qua, và một Hiệp định song phương về hàng dệt may được ký kết, hai nước trao cho nhau quy chế thương mại bình thường (NTR), hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi (MFN) thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2005 dự báo đạt 450 triệu USD và năm 2010 đạt 750 – 850 triệu USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 10 – 13,5%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010.
Tuy nhiên, trong những năm tới, hàng dệt may Việt Nam sẽ phải chịu những bất lợi như bị khống chế bằng hạn ngạch và vấn đề xuất xứ. Mặt khác, thị trường Mỹ cũng đòi hỏi phải đáp ứng các quy định chặt chẽ về sản phẩm theo Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, tuân thủ các quy định theo Luật thương mại Mỹ về thủ tục xuất nhập khẩu, về nhãn hiệu hàng hoá và xuất xứ sản phẩm cũng như quy định khắt khe về thời hạn giao hàng. Việc Trung Quốc được công nhận là thành viên của WTO với những lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may cũng như xu hướng tăng buôn bán nội khu vực các nước được hưởng ưu đãi NAFTA của Mỹ trong những năm gần đây cũng gây nhiều khó khăn cho các nước xuất khẩu hàng dệt may Châu á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Mặc dù phải đối mặt với những khó khăn và thách thức nói trên, song theo đánh giá của các nhà chuyên môn, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là khá lớn và nhu cầu của thị trường Mỹ vẫn có xu hướng tăng trong những năm tới.
Trong chiến lược phát triển xuất khẩu 2001 – 2010, với chủ trương tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại, Việt Nam coi Mỹ là thị trường đầy tiềm năng của khu vực Bắc Mỹ và là một thị trường có nhiều điều kiện phát triển. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ ước tính sẽ chiếm tới 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành vào năm 2010.
Tương lai, cùng với sự phát triển và thịnh vượng của nhiều nước, thị trường dệt may sẽ còn tiếp tục tiến triển theo xu thế mở rộng, khối lượng buôn bán không ngừng tăng lên; việc chuyển dịch sản xuất hàng may mặc từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển là quy luật tất yếu. Khi đó, vai trò của các nước trong quan hệ thương mại hàng dệt may cũng có nhiều biến đổi: những nước trước kia chuyên sản xuất nay sẽ trở thành nước nhập khẩu và ngược lại, những nước chuyên nhập khẩu sẽ đóng vai trò cung cấp. Với một chiến lược phát triển đúng đắn, ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng lực cạnh tranh, hơn nữa thị trường Hoa Kỳ đang dần mở rộng với sức tiêu thụ rất lớn. Hai yếu tố khách quan và chủ quan đó đủ để ngành dệt may Việt Nam dám tháy, dám tin vào những triển vọng tốt đẹp trong tương lai.
3.1.3-Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ giai đoạn 2001 – 2010
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là chiến lược xuất khẩu đến năm 2010 của Chính phủ, tiềm năng thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”. Trong chiến lược này đã khẳng định thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng và triển vọng mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần nỗ lực để thâm nhập thành công. Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ giai đoạn 2001 – 2010 được chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 (Từ năm 2001 – 2006): Doanh số xuất khẩu đạt 500 – 600 triệu USD. Hai năm đầu tiên phải tăng tốc độ 6 – 7 lần.
Giai đoạn 2 (Từ năm 2006 – 2010 ): Doanh số xuất khẩu đạt 1,2 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 15%.
3.2-Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ những năm tới
Những kết quả đạt được của ngành dệt may trong những năm qua cho thấy, sự phát triển và những tác động của ngành đã phản ánh trực tiếp kết quả của việc đổi mới một số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Nói cách khác, trên cơ sở xác định rõ vai trò và vai trò của thị trường Mỹ trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, Chính phủ đã có những giải pháp chính sách cụ thể, bảo đảm sự trợ giúp và khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, căn cứ vào năng lực sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may, mục tiêu định hướng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ từ nay đến năm 2010, căn cứ vào triển vọng của thị trường nhập khẩu hàng dệt may Mỹ cũng như những đòi hỏi của thị trường này, Nhà nước cần phải có những đổi mới và có những bước cải tiến tích cực hơn nữa nhằm giúp cho ngành công nghiệp dệt may Việt Nam cất cánh, nhanh chóng hội nhập vào thị trường Mỹ.
3.2.1-Nhóm công cụ hỗ trợ sản xuất
a/ Chính sách đầu tư phát triển
Việc xây dựng và thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư đến năm 2010, ngoài việc đầu tư chiều sâu và mở rộng các doanh nghiệp hiện có, ngành dệt may dự kiến đầu tư xây dựng 10 cụm doanh nghiệp dệt may theo từng vùng là định hướng phát triển mới có tính hiệu quả và khả thi cao. Đối với 10 cụm doanh nghiệp này, Chính phủ chỉ đạo các Tỉnh, Thành phố cấp đất (không thu phí) để xây dựng. Nên khuyến khích các dự án đầu tư mới ngành dệt may vào các cụm công nghiệp tập trung để thuận tiện cho việc xử lý môt trường và liên kết kinh doanh bằng các chính sách ưu đãi đầu tư, cụ thể là:
giảm 50% phí hạ tầng trong 5 năm đầu
Miễn thuế thu nhập (thuế lợi tức) trong 5 năm đầu và được giảm 50% trong 5 năm tiếp theo
Để hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững của ngành dệt may Việt Nam, chính sách thu hút đầu tư và hỗ trợ đầu tư cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Các mục tiêu đầu tư mang tính cấp thiết trước mắt là phát triển và hiện đại hoá ngành sợi dệt, đồng bộ hoá trình độ công nghệ của ngành may. Mục tiêu có tính chất trung hạn và dài hạn là sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt (gồm cả trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, sản xuất sợi hoá học, thuốc nhuộm), sản xuất các phụ liệu cho ngành may, cơ khí dệt may.
Thứ hai: Đối với ngành dệt may xuất khẩu, cần ưu tiên trong việc thành lập các liên doanh may xuất khẩu và thị trường Mỹ và cam kết cấp Quota vào Mỹ (nếu có) tương ứng với số thực xuất trong các năm được hưởng chế độ phi Quota.
Thứ ba: Có sự phân công hợp lý giữa đầu tư Nhà nước và đầu tư nước ngoài. Đầu tư của Nhà nước trực tiếp vào ngành dệt may chủ yếu hướng vào xây dựng mới một số cơ sở hiện đại, đặc biệt là ngành dệt và các cơ sở sản xuất tơ sợi hoá học, hoá chất, thuốc nhuộm, đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Ngành dệt may tuy có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam nhưng lại là ngành sản xuất hàng hoá thông thường, bởi vậy, Nhà nước không cần nắm giữ và khống chế. Việc đa dạng hoá hình thức sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành dệt may cần được coi là hướng tất yếu. Qua đó, Nhà nước có thể thu lại được nguồn vốn lớn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu ưu tiên.
Thứ tư: Để các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước tập trung theo định hướng phát triển ngành dệt may, cần có những kích thích đủ mạnh, tạo sự hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp dệt và sản xuất các nguyên phụ liệu cho ngành công nghiệp dệt may nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng lạc hậu của ngành dệt và may. Định hướng này cần được trợ giúp bằng những khuyến khích mạnh mẽ hơn qua những ưu đãi về thuê đất, về thuế, về tiêu thụ sản phẩm.
Thứ năm: Đổi mới chính sách tín dụng cho đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Trước mắt tập trung vào những nội dung sau:
Mở rộng tín dụng đầu tưu dài hạn với những điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp dệt may đầu tư đổi mới công nghệ. Tình trạng sử dụng tín dụng ngắn hạn vào mục đích đầu tư chắc chắn sẽ gây bất ổn về tài chính cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Phân phối nguồn tài trợ ODA với những điều kiện ưu đãi về thời hạn hoàn vốn và lãi suất cho việc đầu tư đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
áp dụng hình thức thuê mua tài chính cho các doanh nghiệp may xuất khẩu, dần dần mở rộng cho tất cả các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Với hình thức này, ngân hàng thương mại sẽ tham gia trực tiếp hơn vào sự phát triển công nghiệp dệt may và thực sự trở thành người bạn đồng hành với các doanh nghiệp dệt may.
Tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành dệt may, trong đó hướng khuyến khích là ngành công nghiệp dệt bằng việc tạo những khuyến khích mạnh mẽ và đơn giản hoá các thủ tục.
b/ Chính sách về nguyên phụ liệu
Vấn đề nguyên liệu cho ngành may hiện đang là vấn đề lớn của ngành dệt may nước ta. Bên cạnh đó, công nghiệp phụ liệu chưa được quan tâm đúng mức càng làm cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói chung và xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói riêng đạt hiệu quả kinh tế thấp. Để khắc phục tình trạng này, cần có quy hoạch và các chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng phát triển vùng nguyên liệu, đồng thời phải có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc.
Để chủ động cung ứng được nguyên liệu chính của ngành dệt với giá cả cạnh tranh, việc đầu tư phát triển cây bông vải cần được Chính phủ quan tâm, hỗ trợ. Hiện nay, diện tích trồng bông mới đạt 22.600 ha với sản lượng bông xơ 6.700 tấn (đáp ứng 11% nhu cầu của ngành dệt). Dự kiến đến năm 2010, diện tích trồng bông vải cần đạt 150.000 ha với sản lượng bông xơ 95.000 tấn, đáp ứng 70% nhu cầu ngành dệt. Để thực hiện mục tiêu này, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và uỷ ban nhân dân các Tỉnh sớm thực hiện Quyết định số 168/1999/QĐ-CP ngày 17/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển cây bông và Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Trước mắt cần sớm thực hiện những vấn đề sau đây:
Quy hoạch các vùng trồng bông trên cơ sở bố trí lại cơ cấu cây trồng thích hợp để tăng nhanh diện tích trồng bông. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông cho các vùng trồng bông để tăng nhanh diện tích trồng bông.
Hỗ trợ vốn cho Công ty Bông Việt Nam trong công tác quy hoạch vùng trồng bông, nghiên cứu khoa học, khuyến nông, sản xuất hạt giống, chế biến bông để đủ khả năng giữ vai trò chủ đạo của ngành sản xuất bông. Cơ cấu vốn đề nghị hỗ trợ như sau:
Tổng vốn đầu tư cho ngành bông trong 10 năm 2001 – 2010 là 1.505 tỷ đồng, trong đó: Vốn ngân sách cấp là 605 tỷ đồng; Vốn tự huy động là 300 tỷ đồng; Vốn vay tín dụng ưu đãi là 600 tỷ đồng.
Cho phép Công ty Bông Việt Nam thực hiện khoản vay ODA 60 triệu FFR của Chính phủ Pháp (thông qua tổ chức AFD) theo đúng thời hạn 23 năm, 3 năm ân hạn, lãi suất 35 năm như phía Pháp đã ký với Việt Nam.
Cho phép ngành bông vải được sử dụng các quỹ sau:
Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp để giúp cho nông dân trồng bông trong giai đoạn đầu.
Quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đầu tư tín dụng cho nông dân trồng bông.
Quỹ bảo hiểm ngành hàng đối với một số hàng nông sản xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
Bên cạnh chương trình phát triển cây bông vải, cần phải thực hiện đồng bộ cả việc phát triển các cơ sở chế biến. Ngay sau khi thu hoạch, các cơ sở chế biến phải sẵn sàng tiếp nhận để chế biến, tránh trường hợp không có đầu ra cho cây bông.
Nhà nước cũng nên miễn thuế nhập khẩu các loại hoá chất, thuốc nhuộm, thuốc trợ nhuộm trong nước chưa sản xuất được, cho giảm thuế VAT vải sợi xuống 5% và tăng thời gian khấu hao cơ bản các máy sợi, dệt từ 10 năm lên 15 năm nhằm tạo điều kiện giảm giá thành vải cung cấp trong nước, thúc đẩy việc sử dụng vải sợi để may hàng xuất khẩu. Hiện nay mới chỉ có doanh nghiệp dệt FDI được hoàn thuế khi bán vải để tiếp tục may xuất khẩu. Đề nghị cho các doanh nghiệp dệt khác cũng được hưởng quy định này và Bộ Tài chính cho hoàn thuế nhanh để các nhà máy dệt được thuận lợi.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may mặc, Nhà nước nên có nhiều biện pháp ưu tiên để thúc đẩy việc sản xuất mặt hàng này. Phát triển hệ thống công ty sản xuất nguyên phụ liệu trong nước sẽ là một hướng đi đúng nhằm sản xuất một cách đồng bộ tất cả các loại phụ liệu cần thiết. Các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án sản xuất phụ liệu may mặc có công nghệ hiện đại. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước. Dành một tỷ lệ thích đáng quỹ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp may xuất khẩu sử dụng nguyên phụ liệu trong nước và ưu tiên hạn ngạch cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu được sản xuất trong nước với tỷ lệ cao là một biện pháp tốt nhất cho vấn đề này. Trong thời gian chưa thể tự túc phụ liệu, nên kết hợp sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu. Theo ước tính, phụ liệu chiếm khoảng 10 – 15%, có khi đến 25 – 35% giá thành sản phẩm may, vì vậy, nếu chủ động và hạ chi phí bằng cách lựa chọn hợp lý, chính xác nhà cung cấp có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá sản phẩm này.
c/ Chính sách về khoa học công nghệ
Thực hiện chính sách “hai tầng công nghệ”: công nghệ cao, đòi hỏi nhiều vốn nhằm sản xuất các mặt hàng cao cấp, rút ngắn khoảng cách về trình độ công nghệ dệt may với các nước tiên tiến kết hợp với công nghệ ít vốn, sử dụng nhiều lao động và giải quyết việc làm, thích hợp với những cơ sở sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, tạo ra sản phẩm với giá thành hạ, có tính cạnh tranh cao. ưu tiên cho công nghệ may vi tính nhằm nâng cao năng lực sáng tạo mẫu mã. Có chính sách khuyến khích đầu tư với các dự án sản xuất sản phẩm mới theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 14000, ISO 9000. Triển khai và tăng cường hiệu quả của Hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ mới trong khu vực và hợp tác phát triển sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá, phát huy thế mạnh mỗi nước trong hợp tác kinh tế.
Đầu tư công nghệ sản xuất hàng dệt kim cotton OE 100% nhằm phục vụ mục tiêu xuất khẩu sang thị trường Mỹ, phù hợp với yêu cầu về quy trình ráp sản phẩm, chất lượng và kiểu dáng... theo thị hiếu của khách hàng.
Tuy nhiên, nếu đầu tư cho công nghệ mới mà không thể tận dụng được hết các tính năng thì cũng không thể đưa ngành dệt may phát triển được. Vì vậy, công tác đào tạo cán bộ khoa học dệt may cần phải được Chính phủ quan tâm. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có các biện pháp:
Hỗ trợ kinh phí để củng cố, nâng cấp các Viện nghiên cứu; cung cấp, trang bị các thiết bị cần thiết cho các phòng thí nghiệm, các trường đào tạo... để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu và thực hành, là tác nhân thúc đẩy công nghệ của ngành dệt may phát triển. Tăng cường đầu tư nghiên cứu và triển khai các dự án có tính khả thi, luôn đi trước, đón trước những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất mang lại hiệu quả cao.
Có cơ chế đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học nói chung và của ngành dệt may nói riêng để động viên, khuyến khích và giữ gìn lực lượng này để họ yên tâm phục vụ cho sự nghiệp khoa học, tránh tình trạng chảy máu chất xám qua các công ty nước ngoài hay chuyển sang làm các ngành nghề khác.
Ngoài ra, Nhà nước cần khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ về nguyên liệu mới thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ. Nguồn vốn lập quỹ một phần lấy từ Ngân sách Nhà nước, một phần do chính các doanh nghiệp đóng góp. Hiện nay, thế giới đã có nhiều thành tựu lớn trong việc phát triển nguyên vật liệu sản xuất mới. Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, hơn nữa, nhiều nhà khoa học của Việt Nam đang cố gắng nghiên cứu công nghệ tận dụng nguyên liệu tơ làm nguyên liệu kéo sợi nhưng các dự án chưa được triển khai do nguồn tài chính hạn hẹp. Quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ mới của Nhà nước sẽ là một trong những biện pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề này.
d/ Chính sách về lao động và phát triển nguồn nhân lực
Văn hoá thấp, tay nghề thấp – Thiếu hiểu biết về pháp luật, kỹ thuật – Khó nâng cao tay nghề – Năng suất thấp – Làm việc nhiều giờ – Không có thời gian học tập... và hệ quả là văn hoá, tay nghề tiếp tục thấp. Đó là thực trạng của nguồn nhân lực dệt may Việt Nam hiện nay. Do vậy, việc đầu tư cho đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý là hết sức cần thiết và không thể chậm trễ.
Cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học ngành công nghiệp dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng đã xuất hiện và có thể kéo dài trong một vài năm tới. Nhà nước nên cấp kinh phí đào tạo cho các trường dạy nghề để đào tạo miễn phí cho lực lượng lao động ở những vùng nông thôn khó khăn nhưng chấp nhận học nghề may công nghiệp để vào làm việc tại các doanh nghiệp may, dĩ nhiên với nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của ngành. Nhà nước cần chỉ đạo các Bộ ngành liên quan như Bộ Giáo dục, Bộ khoa học và công nghệ... lập chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế.
Về đào tạo đại học: chú trọng tới các loại hình kỹ sư công nghệ, kỹ sư thực hành, cử nhân quản trị kinh doanh. Kỹ sư công nghệ cần có trình độ cả về lý thuyết lẫn thực hành thiết kế, nắm được nguyên tắc vận hành thiết bị công nghệ. Kỹ sư thực hành (cao đẳng kỹ thuật) trực tiếp điều hành sản xuất nên khi đào tạo cần chú trọng vào khâu thực hành. Cử nhân quản trị kinh doanh, ngoài nghiệp vụ chuyên môn, phải am hiểu đặc thù riêng của ngành để có thể đề ra các biện pháp quản lý có hiệu quả. Ngoài ra, cần thiết đào tạo một đội ngũ cán bộ có trình độ trên đại học làm nòng cốt cho công tác nghiên cứu khoa học của ngành. Đặc biệt, phải ưu tiên đào tạo cho các chuyên gia về thiết kế thời trang và Marketing khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kịp thời, đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề bị “hút” sang các công ty liên doanh đang ngày càng trầm trọng hơn trong ngành dệt may.
e/ Chính sách về tổ chức quản lý
Những bất cập trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, các chính sách tài chính, thuế, ưu đãi đầu tư..., những thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư Việt Nam cũng như các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước. Cần phải khắc phục những bất cập này nhằm tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ vào Việt Nam thông qua hệ thống chính sách hợp lý và thông thoáng.
Như hầu hết các nước sản xuất mạnh về dệt may, đều có một tổ chức cấp quốc gia để phối hợp trong việc hoạch định và thực hiện chính sách phát triển, kiến nghị Chính phủ nghiên cứu thành lập văn phòng “Chương trình quốc gia phát triển ngành dệt may” đặt thường trực tại Bộ Công nghiệp với sự tham gia kiêm nhiệm của đại diện một số Bộ tổng hợp khác và Hiệp hội dệt may Việt Nam. Văn phòng có nhiệm vụ tham mưu cho Chính phủ trong việc hoạch định và theo dõi việc thực hiện một cách đồng bộ các chính sách phát triển ngành dệt may Việt Nam.
Bên cạnh đó, tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu. Cụ thể là:
Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành.
Gắn các công trình chế biến, kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu dâu tằm.
Gắn công nghiệp dệt may (là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động) vào các vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện hạ tầng giao thông, dịch vụ, văn hoá, thông tin, vận chuyển...
Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu, sợi, dệt, nhuộm may dịch vụ... giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm, nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nước ngoài.
Trên nguyên tắc trên, dự kiến quy hoạch dệt may thành hai vùng chính:
Vùng quy hoạch chiến lược I: Gồm Thành phố Hồ Chí Minh là trọng tâm và các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa, Long An, Cần Thơ... Đây chính là vùng có năng lực dệt may lớn, dân cư đông, cơ sở hạ tầng, ngành nghề truyền thống mạnh. Vùng này chiếm 25 – 30% năng lực sản xuất của cả nước.
Vùng quy hoạch chiến lược II: Gồm Thành phố Hà Nội là trọng tâm và một số tỉnh trọng điểm thuộc Đồng bằng sông Hồng như Nam Định, Hải Hưng, Vĩnh Phú, Hải Phòng, Thái Bình... và một số tỉnh thuộc khu 4 cũ: Nghệ An, Thanh Hoá. Đây là vùng có mật độ dân cư cao nhất, nhiều làng xã có làng nghề truyền thống. Dự kiến vùng này sẽ chiếm 15 – 20% năng lực sản xuất của cả nước.
3.3.2-Nhóm công cụ hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sản phẩm
a/ Chính sách thuế quan
Nhà nước cần đổi mới chính sách thuế quan theo hướng:
Ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan đến xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, tận dụng nguyên liệu trong nước, xuất khẩu sang thị trường mới.
Giảm bớt mức độ bảo hộ nhằm tăng cường tính sáng tạo, thúc đẩy, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngành dệt may là ngành nhập khẩu hầu hết nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước đã coi ngành dệt may là ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước thì nên áp dụng thuế suất 0% đối với nguyên liệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100711.doc