Đề tài Các giải pháp để phát triển quy luật cạnh tranh

Tài liệu Đề tài Các giải pháp để phát triển quy luật cạnh tranh: BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH aôb TIỂU LUẬN MÔN HỌC KINH TẾ VI MÔ Đề tài: Các giải pháp để phát triển quy luật cạnh tranh GVHD: Lương Mỹ Thuỳ Dương Tp Hồ Chí Minh, thứ năm ngày 30 tháng 06 năm 2011 BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH aôb TIỂU LUẬN MÔN HỌC DANH SÁCH NHÓM 1. Nguyễn Thị Tuyết Mai MSSV: 10081361 2. Nguyễn Thị Cẩm Yến MSSV: 10089191 3. Đặng Thị Mùi MSSV: 10080071 4. Trần Thanh Thảo MSSV: 10083551 5. Nguyễn Minh Tiến MSSV: 10118521 6. Nguyễn Thị Thu Thúy MSSV: 10147311 7. Lê Thị Phúc MSSV: 10079431 8. Nguyễn Thị Kiều Trinh MSSV: 10075921 9. Lê Thị Thùy Trang MSSV: 10075001 10. Trần Văn Mến MSSV: 10080091 11. Phan Ngọc Vân Lam MSSV: 10157451 LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó là khả năng...

doc17 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1008 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các giải pháp để phát triển quy luật cạnh tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH aôb TIỂU LUẬN MÔN HỌC KINH TẾ VI MÔ Đề tài: Các giải pháp để phát triển quy luật cạnh tranh GVHD: Lương Mỹ Thuỳ Dương Tp Hồ Chí Minh, thứ năm ngày 30 tháng 06 năm 2011 BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH aôb TIỂU LUẬN MÔN HỌC DANH SÁCH NHÓM 1. Nguyễn Thị Tuyết Mai MSSV: 10081361 2. Nguyễn Thị Cẩm Yến MSSV: 10089191 3. Đặng Thị Mùi MSSV: 10080071 4. Trần Thanh Thảo MSSV: 10083551 5. Nguyễn Minh Tiến MSSV: 10118521 6. Nguyễn Thị Thu Thúy MSSV: 10147311 7. Lê Thị Phúc MSSV: 10079431 8. Nguyễn Thị Kiều Trinh MSSV: 10075921 9. Lê Thị Thùy Trang MSSV: 10075001 10. Trần Văn Mến MSSV: 10080091 11. Phan Ngọc Vân Lam MSSV: 10157451 LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu kém. Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tuy vẫn có những mặt hạn chế nhưng nó không phải là vấn đề quan trọng. Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới nền kinh tế chúng ta cũng đã áp dụng qui luật này và một số thành tựu đã đến với chúng ta: Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển ổn định… những lợi ích ấy chưa phải là lớn lao nhưng cũng đã giúp chúng ta định hướng cho chính sách phát triển kinh tế. Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty, hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường nhất định. Nguyên nhân dẫn tới độc quyền thường do cạnh tranh không lành mạnh đem lại. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với cạnh tranh và phát triển kinh tế. Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền có hiệu quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng hiện nay của nước ta. Để biết rõ hơn về cạnh tranh nhóm chũng em sẽ nhằm đi sâu vào đề tài “các giải pháp để phát triển quy luật cạnh tranh” với sự hướng dẫn của cô chúng em đã rất thành thạo trong việc tìm kiếm, cập nhật những thông tin liên quan đến trong chủ đề của chúng em. Để sau đó sẽ một phần giúp các bạn hiểu hơn về cạnh tranh là gì?. Các loại cạnh tranh và một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cảu doanh nghiệp như thế nào? NỘI DUNG KHÁI NIỆM CẠNH TRANH Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, phạm vi nghành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia vv..điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở chỗ quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân Cạnh tranh là quy luật bắt buộc của nền kinh tế hàng hoá; biểu hiện sự đối lập giữa những người sản xuất hàng hoá, sự tác động lẫn nhau của nhiều tư bản, chi phối hành động của từng người sản xuất. Có nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại cạnh tranh. Cơ sở khách quan của cạnh tranh là sự khác nhau về lợi ích kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá. Tính bắt buộc của QLCT bắt nguồn từ bắt buộc bên ngoài. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, mỗi thứ hàng hoá chỉ được tiêu hao một lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá đó, bởi vì mỗi người sản xuất đều phải dựa vào giá cả thị trường hàng hoá để bán hàng. Mỗi người sản xuất hàng hoá và những người tham gia thị trường khác đều cố gắng giành được những điều kiện có lợi nhất trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ cũng như trong việc sử dụng tiền vốn. Chỉ có thông qua tác dụng bắt buộc bên ngoài của cạnh tranh mới có thể làm cho tính tất yếu nội tại của QLCT thể hiện ra: thông qua cạnh tranh, từ đó thông qua giá cả hàng hoá, quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá mới được quán triệt, quan điểm thời gian lao động xã hội cần thiết quyết định giá trị của hàng hoá mới trở thành hiện thực. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không phải là hiện tượng đặc trưng của bất cứ một giai đoạn phát triển nào, cũng không phải là hiện tượng riêng biệt của bất cứ một lĩnh vực nào. Tính bắt buộc của nó ở mọi nơi có sản xuất hàng hoá. Quy luật cạnh tranh không phát huy tác dụng một cách riêng rẽ mà theo quy luật giá trị và các quy luật kinh tế khác. Dưới sức ép của cạnh tranh, mọi người phải tích cực tìm cách cải tiến kĩ thuật, đổi mới phương pháp kinh doanh, tìm cách đầu tư thêm. Trên thực tế. Quy luật cạnh tranh thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật và phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng đẩy mạnh sự phân hoá theo hai cực, có lúc gây ra lãng phí tài nguyên xã hội. Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Có nhiều biện pháp cạn tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá...) hoặc phi giá cả (quảng cáo...). Dễ thấy, cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá bởi thực chất nó xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá. Trong sản xuất hàng hoá, sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất, sự phân công lao động XH tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh để giành được những điều kiện thuận lợi hơn như gần nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, gần thị trường tiêu thụ, giao thông vận tải tốt, khoa học kỹ thuật phát triển... nhằm giảm mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động XH cần thiết để thu được nhiều lãi. Khi còn sản xuất hàng hoá, còn phân công lao động thì còn có cạnh trạnh. Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ, kém phát triển. Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác dụng tiêu cực thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm pháp luật (buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại...) hoặc những hành vi cạnh tranh làm phân hoá giàu nghèo, tổn hại môi trường sinh thái. Đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập vào thế giới . Việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã cho phép các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh và mở rộng buôn bán hợp tác với nước ngoài. Đây là một cơ hội nhưng đồng thời cũng là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Giờ đây, các doanh nghiệp phải chấp nhận quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp thực tế; phải có biện pháp quản lý năng động, linh hoạt; phải xây dựng áp dụng những chính sách phù hợp đúng đắn. Mặt khác, để làm được điều này doanh nghiệp phải thực hiện sản xuất – kinh doanh theo hướng thị trường, theo khách hàng và phải ứng dụng hoạt động marketing vào thực tiễn sản xuất kinh doanh trên thị trường, trong đó việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống marketing mix với những chiến lược và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm sẽ là một công cụ canh tranh sắc bén nhất, hiệu quả nhất của doanh nghiệp để đi đến thành công. CÁC LOẠI CẠNH TRANH Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phên ra thành nhiều loại. * Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia thành 3 loại. - Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình với gái cao nhát, còn người mua muốn muc với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên. - Cạnh tranh giứa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lê, người mua phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá hoá mà họ cần. - Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn. * Căn cứ theo phạm vu nghành kinh tế cạnh tranh được phân thành hai loại. - Cạnh tranh trong nội bộ nghành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển. - Cạnh tranh giữa các nghành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giuqã các nghành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. * Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành 3 loại. - Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là đồng thức, tức là không khác nhua về quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh. - Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phảo sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như: Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay. - Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có nột hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. * Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh chia cạnh tranh  thành: - Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã hội và đợc xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng, công bằng và công khai. - Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa bào kẽ hổ của luật pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc, khủng bố. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang có những đóng góp ngày càng quan trọng hơn trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước. Trước sức ép của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và tình hình lạm phát tăng cao, doanh nghiệp hiện nay đang đứng trước những thách thức to lớn, đòi hỏi phải có những chiến lược ổn định, bền vững nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng gay gắt của cơ chế kinh tế thị trường và sức ép hội nhập quốc tế. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới thì cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Về phía cơ quan quản lý nhà nước Thứ nhất: tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước về mặt chính sách đầu tư trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Theo mục tiêu của kế hoạch phát triển DNVVN 2006-2010 là đến năm 2010, các DNVVN tạo thêm được 2, 5 triệu chỗ làm việc mới, xuất khẩu trực tiếp 3-6%. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các DNVVN, cơ chế chính sách của Nhà nước cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và thực sự tạo điều kiện hỗ trợ sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trên thương trường trong và ngoài nước. Trong thời gian gần đây, cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp đã từng bước được hoàn thiện. Ngày 28/5/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hiện tại, chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đang được Bộ Tư pháp xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, để những chính sách hỗ trợ thực sự thiết thực cho doanh nghiệp thì các cơ quan quản lý cần có có nhiều biện pháp cụ thể, đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương để tăng cường sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển năng động và có hiệu quả của doanh nghiệp. Thứ hai: mở rộng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, thiếu vốn là một trong những khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực DNNVV. Ðể giải quyết vấn đề này, một mặt các doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hoá cơ cấu vốn để không phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng. Mặt khác, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tăng cường nguồn lực cho các ngân hàng và cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp về lãi suất, bảo lãnh tín dụng và năng lực xây dựng phương án kinh doanh... tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, Chính phủ chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kế hoạch cắt giảm đầu tư và chi tiêu công và dành một phần nguồn lực tiết kiệm bổ sung cho nguồn tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp. Thứ ba: tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực điều hành kinh tế ở cấp địa phương đồng thời tăng cường năng lực công tác điều tiết và phối hợp vĩ mô của các bộ, ngành trung ương là một yêu cầu quan trọng hiện nay. Cần tập trung hoàn chỉnh sớm và nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển kinh tế ngành và liên kết vùng, tăng cường hệ thống thông tin kinh tế, đào tạo cán bộ để hỗ trợ cho hoạt động điều hành kinh tế của các cơ quan chính quyền, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tại các địa phương trên cả nước phát triển đồng đều.. Thứ tư: hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm. Chính phủ cần thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình thức đa dạng) trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, có thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế. Thứ năm: nâng cao vai trò của các cơ quan quản lý trong việc đánh giá dự báo tác động của thị trường thế giới và thị trường trong nước, giúp doanh nghiệp nắm được những thông tin kịp thời, chính xác để có thể có chiến lược phù hợp với bối cảnh nền kinh tế. Đây là một nội dung quan trọng nhưng ở Việt Nam còn chưa chú trọng. Việc hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin và kiến thức để triển khai tốt công tác này là nhiệm vụ quan trọng của các hiệp hội doanh nghiệp và cả các cơ quan Chính phủ. Chính phủ cần tăng cường công tác nghiên cứu dự báo, bổ sung và hoàn thiện sớm các quy hoạch phát triển ngành, vùng, giúp định hướng cho việc xác định chiến lược của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách tăng cường công tác thông tin cho doanh nghiệp để tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp tiếp cận các thông tin chính thức từ các cơ quan Chính phủ và các cơ quan liên quan. Trong thời gian qua nhiều cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp với các cơ quan chính quyền nhằm trao đổi thông tin, đối thoại về những vấn đề doanh nghiệp quan tâm, đồng thời chia sẻ thông tin từ chính cộng đồng doanh nghiệp đã được tổ chức, góp phần cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời cho doanh nghiệp để định hướng kinh doanh. Về phía doanh nghiệp Thứ nhất: bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo của các chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Đây là yếu tố quyết định lớn thành công trong hoạt động của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, cần có sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp và sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức hữu quan; nhưng sự chủ động, tích cực phấn đấu của bản thân mỗi giám đốc và nhà kinh doanh là nhân tố quyết định. Một số kiến thức và kỹ năng có thể đã có nhưng cần được hệ thống hoá và cập nhật, trong đó, cần đặc biệt chú ý những kỹ năng hữu ích như: Kỹ năng quản trị hiệu quả trong môi trường cạnh tranh; kỹ năng lãnh đạo của nghiệp chủ và giám đốc doanh nghiệp; kỹ năng quản lý sự thay đổi; kỹ năng thuyết trình, đàm phán, giao tiếp và quan hệ công chúng; kỹ năng quản lý thời gian. Những kỹ năng này kết hợp với các kiến thức quản trị có hiệu quả sẽ có tác động quyết định đối với các doanh nhân, các nghiệp chủ và các nhà quản lý doanh nghiệp qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp cần lưu ý về khả năng ngoại ngữ (mặc dù có thể sử dụng người phiên dịch nhưng cần có ngoại ngữ tối thiểu và nên hạn chế sự phụ thuộc hoàn toàn vào phiên dịch). Đây là một điểm yếu rất đáng chú ý đối với các doanh nghiệp ở nước ta, đặc biệt là bộ phận DNVVN thì vấn đề này còn rất yếu. Thời gian gần đây, đã có nhiều doanh nghiệp có những bước tiến lớn nhưng nếu so với trình độ quốc tế thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn tụt hậu một khoảng cách đáng kể. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế thì chính bản thân các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp trước hết cần tăng cường khả năng đó. Đây là đòn bẩy nhân tố con người trong các tổ chức kinh doanh. Điều này các doanh nhân và nhà quản lý trong các doanh nghiệp có thể thực hiện được (bằng chứng là đã có những doanh nhân Việt Nam thành công trên thương trường quốc tế). Tuy nhiên, con số này còn quá ít và phát triển còn mang tính tự phát. Đã đến lúc ở cấp vĩ mô cần quan tâm có tính hệ thống nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Những kinh nghiệm và sự thành công của Hàn Quốc và Đài Loan trong lĩnh vực này rất đáng được chúng ta nghiên cứu và chọn lọc. Thứ hai: phải xây dựng chiến lược cạnh tranh dài hạn: Sự hạn chế về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh là một trong những nguyên nhân của sự thất bại trong phát triển dài hạn. Có doanh nghiệp hoạt động rất thành công ở quy mô nhỏ nhưng thất bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng quy mô. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng khả năng phát triển một cách bền vững, nếu không sẽ khó trụ vững trong cuộc cạnh tranh. Những trường hợp doanh nghiệp phát triển rầm rộ trong một vài năm, sau đó suy yếu nhanh, thậm chí tan vỡ là các minh chứng. Về mặt chiến lược cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam còn rất yếu về liên kết nhóm, đặc biệt là trên phạm vì quốc gia. Vừa cạnh tranh vừa hợp tác, hợp tác để tăng cường khả năng cạnh tranh; nếu các doanh nghiệp chỉ thuần tuý chú ý đến mặt cạnh tranh mà bỏ qua mặt hợp tác thì rất sai lầm. Phải biết hợp tác đi đôi với cạnh tranh để giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ ba: tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và sự đa dạng của dịch vụ cung cấp: Khi nguồn các sản phẩm dịch vụ ngày càng nhiều, thì chất lượng sản phẩm dịch vụ càng được khách hàng quan tâm. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ phải tương xứng với số tiền khách hàng đã bỏ ra. Vì vậy, doanh nghiệp cần phân bổ lại cơ cấu các sản phẩm của mình ở nhiều phân khúc, tập trung sản phẩm vào nhu cầu hiện tại của khách hàng, lấy số lượng bù đắp lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp phải đáp ứng được những tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Ngoài ra, doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một hình tượng tốt đẹp đối với công chúng. Muốn có hình tượng công chúng tốt đẹp, trước hết phải chiếm được lòng tin của khách hàng bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ mình cung cấp, các hoạt động kinh doanh tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi... Đây cũng là phương thức để quảng bá thương hiệu của chính doanh nghiệp. Nếu công tác này được thực hiện tốt sẽ rất thuận lợi cho doanh nghiệp. Thứ tư: Xây dựng bộ phận thông tin thị trường thường xuyên theo dõi cập nhật đầy đủ diễn biến của thị trường và chú trọng công tác tuyển dụng nhân sự  Đây là một công việc không phải là doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện tốt được trong khi thông tin thị trường vẫn còn có sự thiếu minh bạch như hiện nay. Khi chưa có cơ quan nhà nước nào đứng ra tổ chức thu thập phân tích các thông tin thị trường, thì doanh nghiệp nên lựa chọn đơn vị có uy tín (các đơn vị chuyên về cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu và tư vấn chuyên nghiệp) để thoả thuận cung cấp những thông tin phù hợp và cần thiết cho doanh nghiệp của mình. Đồng thời, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng chính sách đãi ngộ như chính sách lương, thưởng hợp lý để giữ ổn định lượng nhân viên của mình, nhất là những nhân viên giỏi. Ngoài ra, doanh nghiệp nên kết hợp với các trường đại học cao đẳng để tuyển dụng những sinh viên giỏi sắp ra trường nhằm xây dựng cho mình đội ngũ nhân viên trẻ, năng động có thể đảm nhiệm các vị trí chuyên môn quan trọng sau này. Thứ năm: Nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật Doanh nghiệp cần xây dựng bộ phận cán bộ pháp chế ngay trong đơn vị để tư vấn pháp lý cho các cấp quản lý và kiêm công tác ngăn ngừa xử lý rủi ro khủng hoảng. Điều này chưa được nhiều doanh nghiệp chú ý do thói quen hoặc do chưa nhận thức được vai trò của tổ chức pháp chế trong doanh nghiệp dẫn đến tình trạng gặp nhiều rủi ro do không có bộ phận tư vấn, thẩm định về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh như hợp đồng, xuất nhập khẩu, …. Về phía các hiệp hội doanh nghiệp Cần phải có sự tăng cường vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ và các tổ chức chuyên môn đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. So với nhiều nước có nền kinh tế phát triển, vai trò của các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ... ở nước ta trong việc giao lưu, xúc tiến thương mại, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn còn hạn chế, mờ nhạt cả về số lượng, quy mô và nội dung hoạt động. Vì vậy cần chú trọng hơn nữa việc tổ chức các buổi trao đổi sinh hoạt, giới thiệu kinh nghiệm trong nước và quốc tế, cập nhật thông tin về ngành và về hoạt động kinh doanh. Những hoạt động đó tuy đơn giản nhưng rất bổ ích, tạo điều kiện phát triển và hoàn thiện năng lực của các giám đốc và cán bộ quản lý kinh doanh. Hiện nay, cả nước có khoảng 300 hiệp hội doanh nghiệp. Ngoài vai trò đại diện cho tiếng nói của doanh nghiệp và xúc tiến thương mại, đầu tư, các hiệp hội doanh nghiệp còn có vai trò quan trọng trong lĩnh vực quan hệ lao động, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trong điều kiện hội nhập, các biện pháp hành chính của Chính phủ sẽ khó có thể thực hiện trực tiếp nhằm yểm trợ cho doanh nghiệp. Những biện pháp hỗ trợ gián tiếp thông qua hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là việc liên kết tự nguyện của doanh nghiệp sẽ là cơ chế phù hợp với các quy định của WTO. Do vậy cần thiết phải sắp xếp và củng cố hệ thống các hiệp hội doanh nghiệp trên cả nước, bảo đảm hiệp hội doanh nghiệp hoạt động một cách thiết thực và hiệu quả để nâng cao năng lực của các hiệp hội doanh nghiệp trong công tác hỗ trợ cho doanh nghiệp. LỜI CẢM ƠN Cảm ơn Cô những ngày qua không ngại về việc giảng giải chỉ dẫn chúng em trong từng lĩnh vực rất cặn kẽ, đã làm cho chúng em từ những bỡ ngỡ về môn kinh tế vi mô nay có thể biết và tìm hiểu thành thạo trong môn kinh tế vi mô nói chung và trong bài tiểu luận chúng em nói riêng. Bên cạnh đó không thiếu sự chỉ dẫn của các anh chị khóa trước đã giúp em trong những thắc mắc nhỏ của một số điểm trong tiểu luận, cảm ơn các thành viên trong nhóm những ngày qua đã cùng phối hợp tìm tài liệu để nhóm chúng mình có thể hoàn tất bài tiểu luận một cách nhanh chóng và thành công. Trong bài viết tiểu luận sẽ không tránh được những lỗi sai những thiếu xót, rất mong cô nhận xét và góp ý cho chúng em để từ đó chúng em mới biết được những cái lỗi sai thiếu xót của mình tự chỉnh và sẽ làm tốt hơn ở lĩnh vực sau này, đây cũng là chính là nền tảng là cơ hội để chúng em thực sự có trách nhiệm chủ động cho trước những công việc cúa mình. Moị sửa chữa xin Cô gơỉ về cho chúng em vơí địa chỉ tuyetmai_2991@yahoo.com Chúng em chân thành cảm ơn! MỤC LỤC THỰC HIỆN BÀI VIẾT: Nguyễn Thị Tuyết Mai TÀI LIỆU: Nguyễn minh Tiến Nguyễn Thị Cẩm Yến Đặng Thị Mùi Trần Thanh Thảo Nguyễn Thị Thu Thúy Lê Thị Phúc Nguyễn Thị Kiều Trinh Lê Thị Thùy Trang Trần Văn Mến Phan Ngọc Vân Lam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockinh_te_vi_mo_9369.doc
Tài liệu liên quan