Tài liệu Đề tài Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc: lời nói đầu
Đối với những nước chậm phát triển, sự đói nghèo của dân cư nói chung và nông thôn nói riêng đang là một trong những vấn đề nan giải, phức tạp có liên quan đến nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đây là vấn đề bức thiết không chỉ ở từng quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế trong những thập kỷ gần đây. Bên cạnh những biện pháp đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế đã tổ chức, nghiên cứu và có những chương trình hành động cụ thể nhằm giảm tình trạng đói nghèo.
ở nước ta, mặc dù trước đây và nhất là từ khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến tình trạng đói nghèo thông qua nhiều chính sách và giải pháp phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo như hỗ trợ việc làm tăng thu nhập, cải thiện vị trí xã hội cho người nghèo nhưng hiệu quả đạt được không cao, còn nhiều vấn đề kinh tế chính trị xã hội đặt ra cần phải giải quyết. Hơn nữa Việt Nam hiện nay vẫn là một trong những nước nghèo, trong đó có t...
50 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Đối với những nước chậm phát triển, sự đói nghèo của dân cư nói chung và nông thôn nói riêng đang là một trong những vấn đề nan giải, phức tạp có liên quan đến nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đây là vấn đề bức thiết không chỉ ở từng quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế trong những thập kỷ gần đây. Bên cạnh những biện pháp đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế đã tổ chức, nghiên cứu và có những chương trình hành động cụ thể nhằm giảm tình trạng đói nghèo.
ở nước ta, mặc dù trước đây và nhất là từ khi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến tình trạng đói nghèo thông qua nhiều chính sách và giải pháp phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo như hỗ trợ việc làm tăng thu nhập, cải thiện vị trí xã hội cho người nghèo nhưng hiệu quả đạt được không cao, còn nhiều vấn đề kinh tế chính trị xã hội đặt ra cần phải giải quyết. Hơn nữa Việt Nam hiện nay vẫn là một trong những nước nghèo, trong đó có tỉnh Đắc Lắk. Xuất phát từ ý nghĩa và yêu cầu đó em chọn đề tài: “Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc” làm đề tài nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu đề tài:
Dựa trên những vấn đề lý luận và phương pháp luận để xem xét đánh giá vấn đề nghèo đói của các hộ nông dân nghèo ở nông thôn, phân tích và đánh giá thực trạng nghèo đói ở vùng nông thôn Đắc Lắc và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo tỉnh Đắc Lắc.
Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu tình hình sản xuất, thu nhập và đời sống của nhóm hộ nông dân nghèo thông qua việc kiểm tra khảo sát các mô hình kinh tế hộ nông dân trong cơ chế quản lý mới.
Về kết cấu:
Ngoài mục lời nói đầu, kết luận, kiến nghị và mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và giải quyết vấn đề nghèo đói.
Chương II: Thực trạng sản xuất và đời sống của cán bộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc.
Chương III: Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo Đắc Lắc.
Chương I
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và giải quyết vấn đề nghèo đói
I-/ Quan niệm về nghèo đói.
1-/ Quan niệm và tiêu chuẩn phân định nghèo đói.
a. Những quan niệm về nghèo đói.
Trong mỗi chế độ xã hội cụ thể nước ngoài luôn luôn tìm mọi cách thúc đẩy sản xuất nâng cao đời sống của dân nhưng mức sống của mỗi thành viên trong xã hội vẫn khác nhau bởi mức sống của mỗi người lệ thuộc vào thu nhập của họ mà mức thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội lại lệ thuộc vào khả năng, nghề nghiệp, vốn, trình độ kỹ thuật, và địa vị của họ trong xã hội, những người làm việc trong những ngành công nghiệp, dịch vụ thường có mức thu nhập cao hơn những người làm việc trong ngành nông nghiệp. Do vậy ở bất cứ chế độ xã hội nào, nước nào vẫn luôn có một nhóm người giàu và tồn tại nhiều hoặc ít số người nghèo.
Trên cơ sở nhất trí với quan điểm xem xét nghèo đói của tổ chức Liên hiệp quốc, ngân hàng Châu á dã đánh giá về thực trạng nghèo đói và cho rằng những người nghèo đói là những người có ít tài sản nhà cửa là túp lều lụp xụp ở tạm đồ dùng trong gia đình không đầy đủ là những loại tài sản không có giá trị cao họ rất ít ruộng đất hoặc là không, về địa vị xã hội họ là những người thấp kém về mọi mặt.
Ngân hàng phát triển Châu á đã đưa ra khái niệm nghèo đói.
- Nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối.
Tiến sỹ MG.Quiria Ngân hàng phát triển Châu á cho rằng nghèo tương đối là tình trạng thu nhập không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì cuộc sống cơ thể con người. Nghèo tuyệt đối là tình trạng thu nhập thấp không có khả năng đạt tới mức sống tối thiểu tại một thời điểm nào đó.
Khái niệm nghèo tuyệt đối có xu hướng đề cập đến những người đang bị thiếu ăn theo nghĩa đen khái niệm nghèo tương đối đề cập đến những người nghèo nhất về phân phối thu nhập ở một nước nào đó.
- Để tránh sự bất đồng ý kiến về khái niệm nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối giữa các nước nói chung, người nghèo và người không nghèo được xác định trang phạm vi của mỗi nước qua việc đưa ra khái niệm mức sống tối thiểu.
- Để đưa ra một khái niệm nghèo đòi hỏi phải xác định các thành phần khácnhau của mức sống và thừa nhận mức tối thiểu của các thành phần cấu thành mức sống tối thiểu.
ở Inđônêxia quan niệm cho rằng những người nghèo có thu nhập dưới 1/3 mức sống bình quân của xã hội thì được coi là nghèo và có qui định cụ thể những ai có mức thu nhập qui ra gạo bình quân đầu người dưới 225 kg/năm được coi là nghèo.
ở Malayxia những người được coi là nghèo là những người có thu nhập thấp hơn 300 USD/năm.
ở Việt Nam có nhiều quan niệm đánh giá đói nghèo khác nhau để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước Bộ Lao động thương binh xã hội đã tổ chức hội thảo toàn quốc để thảo luận và thống nhất một số quan niệm về nghèo đói ở nước ta, đồng thời đưa ra những chỉ tiêu chuẩn mực để đánh giá nghèo đói.
Dựa trên khái niệm do các tổ chức quốc tế đưa ra căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, trung tâm nghiên cứu dân số và lao động Bộ Lao động thương binh và xã hội đã đưa ra định nghĩa để nhận dạng nghèo đói ở nước ta như sau:
- Nghèo có hai loại nghèo: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập thấp không đủ khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cứ có mức thu nhập thấp không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt xã hội ở một thời điểm nào đó.
b. Tiêu chuẩn xác định ranh giới nghèo đói.
Là mức chi phí cần thiết đảm bảo những nhu cầu cơ bản tối thiểu của các thành phần cấu thành mức sống tối thiểu.
- Trong các nhu cầu cơ bản, sức ăn là quan trọng nhất không có ăn hoặc không được ăn đầy đủ sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng, bệnh tật, nạn đói và chết sớm, cách đây gần ba thập kỷ người ta đã đưa ra mức nhu cầu năng lượng cho người trưởng thành (Kcalo/người/ngày) cho các vùng lớn:
- Các nước công nghiệp: Châu Âu 2.570 (Kcalo/người/ngày), Bắc Mỹ (2.640/người/ngày).
- Các nước đang phát triển: Viễn Đông: 2.290 (Kcalo/người/ngày), Cận Đông (2.400/người/ngày), Châu Phi 2.340, Châu á: 2.112 (người/ngày).
ở Việt Nam mức qui định của việc dinh dưỡng về nhu cầu năng lượng khẩu phần bình quân cho người trưởng thành (BQNTT) như sau:
Mức dinh dưỡng
Mức năng lượng bình quân người trưởng thành
Đói
<1.500 Kcalo/ngày
Thức ăn
1.500 - dưới 1.800 Kcalo/ngày
Đe doạ
1.800 - dưới 2.000 Kcalo/ngày
Tạm dư
2.100-dưới 2.400 Kcalo/ngày
Dư ăn
2.400 - dưới 2.700 Kcalo/ngày
Cao
> 2.700 Kcalo/ngày
Đối với những người nghèo cái quan trọng nhất của họ là bữa ăn, càng ở mức thu nhập thấp thì tỷ lệ chi cho ăn trong cơ cấu chi cho tiêu dùng càng lớn tuy nhiên để đảm bảo được nhu cầu tối thiểu cho sự phát triển của con người ta cần phải chi cho nhu cầu ăn mặc, chữa bệnh, giao tiếp.
Ngoài mức chi tiêu, thu nhập bình quân đầu người, tình trạng nghèo khổ các dân cư còn được thể hiện qua tình trạng nhà ở, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện và đối tượng sản xuất, trình độ văn hoá giáo dục, tình trạng sức khoẻ và vị trí chính trị, xã hội của con người.
Từ ngày 1/4/1993 Nhà nước đưa ra mức lương tối thiểu cho người lao động đảm bảo nuôi sống mình cùng với một người ăn theo ở mức tối thiểu là 120.000 đồng/tháng tức là mức bình quân là 60.000đ/người/tháng tương đương với 30kg gạo (giá năm 1993 là 2.000đ/kg).
Theo tính toán của một số nhà khoa học với điều kiện của Việt Nam để bảo đảm đủ dinh dưỡng thì tiêu chuẩn cho người Châu á, mức chi cho ăn bình quân đầu người phải là 20 kg gạo/tháng (13 kg cho lương thực, 7 kg cho thực phẩm) và mức chi cho ăn thường xuyên chiếm 2/3 tổng số chi tiêu. Vậy chi cho nhu cầu cơ bản của người Việt Nam phải là 30 kg gạo/người/tháng, các nhà khoa học đó cho rằng đây là ranh giới cho sự nghèo khổ ở Việt Nam.
Trước mắt Bộ Lao động thương binh và xã hội cùng Tổng cục thống kê đã đưa ra mức ranh giới nghèo đói phục vụ cho phong trào “xoá đói giảm nghèo” đang diễn ra ở các địa phương như sau:
- Nghèo tương đối có mức thu nhập dưới mức ranh giới nghèo khổ <25kg gạo ở thành thị; 20 kg gạo ở nông thôn, đồng bằng và trung du, <15 kg gạo ở miền núi và hải đảo.
- Nghèo tuyệt đối: có mức thu nhập chỉ bảo đảm dưới mức sống tối thiểu từ (12-15kg gạo/người/tháng).
Với mức này chỉ bảo đảm no bụng, dinh dưỡng mới đạt 1.530 Kcalo/ngày/người.
- Diện thiếu đói: có mức thu nhập dưới mức 12kg gạo/người/tháng.
- Đói gay gắt: có thu nhập dưới mức 8kg/người/tháng.
- Nghèo khổ cần được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào những giai đoạn cụ thể.
2-/ Tính chất tương đối của các quan niệm nghèo đói.
- Mức độ giàu nghèo tuỳ thuộc vào sự phát triển sản xuất ở từng nước và mỗi chế độ xã hội, có những người được coi là nghèo khổ, ở chế độ chủ nghĩa tư bản nhưng mức sống, sinh hoạt xã hội lại cao hơn chế độ nô lệ và chế độ phong kiến bởi vì sức sản xuất ở chủ nghĩa tư bản phát triển cao hơn so với chế độ nô lệ và phong kiến.
Những người được coi là nghèo khổ ở những nước kinh tế phát triển lại có mức sống và sinh hoạt xã hội cao hơn những người được gọi là giầu có ở các nước chậm phát triển, nếu đem so sánh mức thu nhập của họ với người dân của các nước Châu Phi và vùng Đông Nam á, người được coi là giầu cũng không thể có mức thu nhập đó được, ngay trong một quốc gia, những người nghèo khổ ở thành thị cũng có đời sống sinh hoạt xã hội bằng hoặc cao hơn những người trung bình hoặc giầu có ở vùng nông thôn, vùng dân tộc ít người.
Là một phạm trù kinh tế xã hội nên khái niệm về sự giầu nghèo cũng mang đặc tính không gian và thời gian, khi xem xét sự giầu nghèo cũng phải đặt nó vào một thời gian và một không gian nhất định.
ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau thìmức phân chia ranh giới nghèo khổ và tỉ lệ người nghèo trên tổng dân số cũng như số lượng người nghèo hoàn toàn khác nhau.
Bảng 1: Mức thu nhập bình quân đầu người giữa các nhóm hộ nông dân ở Việt Nam
Loại nhóm hộ
Năm 1990
Năm 1991
Năm 1992
Mức TNBQ kg gạo/tháng/người
Tỉ lệ %
Mức TNBQ kg gạo/tháng/người
Tỉ lệ %
Mức TNBQ kg gạo/tháng/người
Tỉ lệ %
Giầu
75,44
8,06
84,5
9,7
89,7
15,0
Khá
-
10,34
-
12,7
-
14,6
Trung bình
-
26,54
-
28,2
-
21,0
Nghèo
13,00
45,62
15,00
34,6
15,0
29,8
Nghèo đói
10,33
9,44
11,47
14,8
13,2
19,6
Nguồn: Tổng hợp tài liệu điều tra về giàu nghèo của Bộ NN-CNTP-1993
II-/ Tình hình nghèo đói trên thế giới, giải pháp kinh nghiệm.
1-/ Thực trạng và nguyên nhân.
a. Thực trạng.
Để có chiến lược chống nghèo đói trên toàn cầu năm 1990 tổ chức Liên hiệp quốc đã tiến hành khảo sát tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển.
Qua điều tra thấy rằng số người nghèo trên thế giới còn rất nhiều (1.126 triệu người chiếm gần 1/7 dân số) trong đó số người cực nghèo không phải là ít (633 triệu người, chiếm gần 1/2 số người nghèo đói). Số người nghèo khổ thường tập trung ở các nước Đông Nam á (800 triệu người, chiếm 71,63% tổng số người nghèo), ấn Độ là nước nhiều người nghèo đói nhất trên thế giới (420 triệu người chiếm 37,63% tổng số người nghèo) chỉ số nghèo đó cũng cao nhất thế giới là (55% trong khi đó bình quân của thế giới là 3%) tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi cao nhất thế giới là (199/1000 em, bình quân thế giới là 121/1000), tuổi thọ dân số ấn Độ thấp chỉ cao hơn các nước vùng xa mạc Sahara tuổi thọ bình quân của dân số ấn Độ thấp, trẻ em được đi học thấp nhất (21% trong khi đó bình quân thế giới 83%).
Nơi nghèo thứ 2 trên thế giới là các nước Châu Phi thuộc xa mạc Sahara là (180 triệu người) song số người quá nghèo đói ở đây chiếm tỷ lệ cao nhất thế giới (66% tổng số người nghèo), khoảng cách nghèo khổ rất lớn (11%) số trẻ em bị tử vong dưới năm tuổi cao (196/1000), tuổi thọ bình quân thấp nhất thế giới, số trẻ em được đến lớp còn thấp, chỉ cao hơn ấn Độ.
- Nước thứ ba có số người nghèo cao là Trung Quốc (210 triệu người) chiếm 20% dân số tương tự các chỉ tiêu bao gồm, chỉ số nghèo đói, tử vong của trẻ em dưới năm tuổi cũng vậy, có thể thấy ở biểu II thực trạng nghèo đói của thế giới.
+ Nhận xét: vùng Đông Nam á, Châu Phi, là nơi tập trung đồng người nghèo nhất của thế giới.
Bảng 2: Tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển 1985-2000
Khu vực
Số người nghèo triệu người
Tỷ lệ dân số dưới ngưỡng nghèo (%)
1985
1990
Dự báo 2000
1985
1990
Dự báo 2000
Bình quân chung các nước đang phát triển, trong đó.
1.051
1.933
1.707
30,5
29,7
24,1
Nam á
532
562
511
50,8
49
36,9
Đông á
182
169
73
43,2
11,3
4,2
Châu phi cận Sahara
184
216
304
47,6
47,8
49,7
Trung Đông và Bắc Phi
60
73
89
30,6
33,1
30,6
Đông Âu
5,0
5,0
4
7,1
7,1
5,8
(Châu Mỹ La Tinh và Caribe)
87,0
87,0
126,0
22,7
25,5
24,9
Nguồn: Ravabon, Datt Q chen, 1992
b. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
Nguyên nhân nghèo đói của mỗi quốc gia đó là tiềm năng kinh tế thấp, trình độ văn hoá thấp, nợ nước ngoài nhiều, chi phí cho chiến tranh lớn, tỉ lệ tăng dân số cao đã hạn chế những biện pháp kích cầu, cung của Chính phủ những nước có tỷ lệ nghèo cao thường là:
* Sản xuất chưa phát triển hoặc kém phát triển.
ở những nước có nền kinh tế chưa phát triển, chưa thực hiện việc cơ giới hoá trong quá trình sản xuất, do đó năng suất lao động thấp, thu nhập của các thành viên trong xã hội không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu dẫn đến nghèo nàn khó khăn triền miên, hơn nữa ở những nước đang phát triển hoặc kém phát triển nhu cầu về lao động trong các ngành kinh tế thấp. Trong khi đó tỷ lệ sinh đẻ cao do đó dẫn đến thiếu việc làm trong xã hội, mặt khác lại bị các chính sách của các nước công nghiệp phát triển kìm hãm, cấm vận làm cho nền kinh tế của các nước này đi vào con đường khủng hoảng kinh tế chầm trọng.
Những chính sách kinh tế xã hội của Chính phủ khi xem xét nghèo khổ trên thế giới Liên hiệp quốc đã đề cập đến chính sách đất đai của Chính phủ trong đó có sở hữu ruộng đất của nông dân, kết quả điều tra ở Băng la đét biểu 3 cho thấy.
ở 8 nước sở hữu khác nhau từ thấp đến cao thu nhập bình quân của các gia đình có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ ruộng đất của họ, tỷ lệ người nghèo có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với mức ruộng đất của họ, nhóm gia đình không có ruộng đất thì tỷ lệ người nghèo cao, còn những người nghèo có ruộng đất ít bị nghèo đói hơn.
Vì vậy một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của nông dân là họ không có đất đai để sản xuất, phải thuê mướn đất đai, đây chính là những bất lợi nhất cho người nghèo trong khi đó sự quan tâm của Chính phủ chỉ ở mức độ hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau.
* Nguyên nhân cá nhân của người nghèo.
Theo tổng kết của các nhà kinh tế học của thế giới khi trả lời câu hỏi tại sao trong xã hội lại có những người giầu có, và có những người nghèo khó thì họ cho rằng:
- Sự khác nhau về của cải, tiền vốn, sự chênh lệch lớn nhất trong thu nhập là do sự khác nhau về sở hữu tài sản sau khi bố, mẹ giao thừa kế song chúng ta cũng nên hiểu rằng những người đạt được đỉnh cao của sự giầu sang là do họ khôn ngoan và sáng tạo, trong sản xuất và kinh doanh.
- Sự khác nhau về năng lực cá nhân trong mọi gia đình đó là thể chất và tinh thần trong đó thông minh là biến số quan trọng nhất vì nó ảnh hưởng lớn đến việc tìm kiếm lợi ích của họ trên thị trường. Hơn nữa để được những tố chất đó thời kỳ thơ ấu các gia đình cần phải quan tâm nuôi dưỡng chu đáo nhưng trong đó những gia đình có điều kiện con em của họ tường khoẻ mạnh hơn nhiều so với các gia đình nghèo, do đó Chính phủ các quốc gia cần phải quan tâm hơn nữa, đưa ra những chính sách kinh tế và phi kinh tế thích đáng giúp người nghèo thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
- Sự khác nhau về giáo dục và đào tạo, việc trẻ em không được đi học là một trong những cản trở lớn nhất đối với bình đẳng trong xã hội, vì vậy khi bước vào tuổi lao động do họ không có trình độ văn hoá, trình độ về kỹ thuật thường làm những công việc nặng nhọc, lao động thủ công, bằng chân tay là chủ yếu do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động và thu nhập, đó là mức thu nhập ít ỏi, địa vị hèn kém trong xã hội, do vậy cái nghèo cứ bám theo họ mãi từ đời này đến đời khác.
2-/ Kinh nghiệm giải quyết nghèo khổ của tổ chức Liên hiệp quốc và một số nước vùng Đông Nam á.
a. Kinh nghiệm của tổ chức Liên hiệp quốc.
Khi xác định được nguyên nhân nghèo đói của từng nước, từng vùng và của mỗi thành viên trong xã hội, đó chính là những vấn đề tồn tại cần phải khắc phục. Do đó để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu vấn đề đầu tiên cần phải nghĩ đến là làm gì làm như thế nào để thúc đẩy sản xuất phát triển và tạo ra mọi sự công bằng.
- Kinh nghiệm của các nước phát triển là họ thúc đẩy cạnh tranh trong sản xuất, xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, phát triển nền kinh tế phải dựa vào bàn tay “vô hình” và “hữu hình” của đất nước, tức là dựa vào thị trường và Nhà nước, lợi nhuận là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, cải tiến kỹ thuật, Nhà nước phải tạo ra một môi trường thông thoáng trong khi các chủ thể kinh doanh đang tìm kiếm lợi ích của mình, Nhà nước phải ngăn chặn những khuyết tật do cơ chế thị trường gây ra, thiết lập khuôn khổ pháp luật, điều tiết nền kinh tế thông qua thuế và chi tiêu của Chính phủ.
Chính phủ phải cung cấp hàng hoá phục vụ cho lợi ích công cộng và đặt ra các loại thuế và các mức thu từng loại thuế để điều tiết sản xuất. Nhà nước phải bảo đảm công bằng xã hội, bằng các chính sách phân phối và các chính sách công bằng xã hội, đồng thời Nhà nước phải ổn định nền kinh tế vĩ mô để góp phần giảm bớt sự nghèo đói ở các nước nghèo nàn lạc hậu trên thế giới, các tổ chức quốc tế đã trích ra từ thu nhập quốc dân của các nước phát triển một số tiền thành lập Quĩ hỗ trợ các nước chậm phát triển, quỹ này sẽ được đưa đến các nước nghèo nàn bằng nhiều hình thức, như đào tạo cán bộ, nân cao trình độ tổ chức và quản lý, khoa học kỹ thuật, trợ cấp thiên tai, bảo vệ môi trường, chống suy dinh dưỡng của trẻ em và các hình thức vay ngắn hạn và dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất với mức lãi suất thấp hoặc cho không.
b. Kinh nghiệm giải quyết nghèo đói ở một số nước vùng Đông Nam á.
* Trung quốc:
- Là một nước có 210 triệu người nghèo đói đứng thứ hai thế giới sau ấn Độ, tỷ lệ nghèo đói chiếm 20% dân số. Trong đó có 80 triệu người quá nghèo đói, chiếm 8% dân số, song Trung Quốc là nước quan tâm đến vấn đề phát triển nông nghiệp, để thực hiện phương châm này Trung Quốc đã quốc hữu hoá, tập thể hoá đất đai, tư liệu sản xuất với phong trào thành lập công xã nhân dân nhằm tập trung chuyên môn hoá nền sản xuất với quy mô lớn và họ đã không ít gặp những khó khăn và thách thức trong sản xuất của nông dân, trong 10 năm lại đây Trung Quốc đã chuyển nền kinh tế từ sản xuất tập thể với mô hình công xã nhân dân sang mô hình kinh tế hộ khoảng 100 triệu hộ được giao hơn 10 triệu ha, ruộng đất để sử dụng lâu dài và có quyền chuyển nhượng, qui mô ruộng đất cho mỗi hộ khoảng 0,7ha phần đông các hộ mới chỉ đủ ăn do có chính sách chuyển nhượng đất của Nhà nước, một số hộ đã bỏ vốn ra mua bán chuyển nhượng và tập trung được nhiều ruộng đất hơn hình thành những trại gia đình, họ đã tạo ra khối lượng lớn nông sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường. Cũng thời gian này Chính phủ Trung Quốc đưa ra chương trình mới đối với phát triển nông nghiệp nông thôn đó là đưa khoa học công nghệ vào sản xuất và phát huy mọi năng lực sẵn có ở nông thôn để nâng cao năng suất, và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, với những chủ trương này Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, sản xuất ngày càng phát triển, chi trong thời gian từ 1978-1984 giá trị sản lượng nông nghiệp mỗi năm tăng bình quân 10% và đã giải quyết việc làm cho 20% lao động ở nông thôn.
III-/ Nghèo đói ở nông thôn Việt Nam và chương trình chống nghèo đói ở Việt Nam.
1-/ Thực trạng và nguyên nhân.
a. Thực trạng.
Thực trạng nghèo đói ở nước ta nhất là ở nông thôn những năm gần đây khi nền kinh tế thị trường bước đầu được hình thành, có những đặc điểm kinh tế xã hội đáng chú ý.
- Đói nghèo do hậu quả trực tiếp thường xuyên của thiên tai, mất mùa và những hậu quả chiến tranh ác liệt kéo dài.
- Đói nghèo ở nước ta thuộc những vùng sâu vùng xa khu căn cứ cách mạng trước đây, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống diễn ra gay gắt và thường xuyên.
- Tình trạng đói nghèo ở nước ta phần lớn tập trung ở nông thôn, những gia đình thuần nông, độc canh trong nông nghiệp, tự cung tự cấp, ít tư liệu sản xuất, đông con, thiếu lao động, thiếu việc làm, thu nhập thấp, ngay cả tái sản xuất giản đơn cũng không có điều kiện để tích luỹ.
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa sự nghèo đói ở nông thôn và thành thị còn đi liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội lại đẩy nghèo đói tới mức gay gắt hơn.
Dễ nhìn thất tất cả các cùng nông thôn nước ta nơi quy tụ 80% dân cư cả nước sống bằng nghề nông đều diễn ra hiện tượng đói nghèo, tuy mức sống và tỷ lệ không giống nhau, điểm nóng gay gắt nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng đồng bào các dân tộc ít người, vùng căn cứ kháng chiến cũ.
- Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam hiện nay ở cấp độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng vùng.
- Nghèo tuyệt đối (dưới mức 15/kg gạo/người) ở nông thôn chiếm từ 29,96% đến 35,56%, đô thị 42,87%.
- Nghèo tương đối (dưới mức trung bình tại địa phương) nông thôn 57,56%, đô thị chiếm 42,87%.
- Thiếu đói kinh niên (dưới 12kg/gạo/tháng) ở nông thôn từ 16,3-20,05%, đô thị 4,42%.
+ Phân tích thực trạng nghèo đói qua các số liệu trên ta có thể rút ra một số nhận xét:
Thứ nhất, đặc điểm cơ bản nhất của tình trạng nghèo đói ở nông thôn thường rơi vào các hộ thuần nông, độc canh lúa.
Thứ hai, nghèo đói ở nông thôn nước ta do ảnh hưởng của thiên tai (lũ lụt, hạn hán) kéo dài.
Bảng 3: Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của hộ qua các năm
(Tính theo giá hiện hành)
TNBQ năm 1994 (1.000đ)
TNBQ Năm 1995 (1.000đ)
TNBQ Năm 1996 (1.000đ)
TNBQ Năm 1995 so với 1994 (%)
TNBQ Năm 1996 so với 1995 (%)
Cả nước
168,41
206,10
226,70
422,60
110,00
I. Chia theo khu vực hành chính
- Thành thị
225,07
3.136,6
349,38
122,95
111,41
- Nông thôn
141,14
172,5
187,89
122,22
208,92
II. Chia theo vùng sinh thái
- Vùng núi và trung du phía Bắc
132,36
160,65
173,76
121,37
108,16
- Vùng Đồng bằng sông Hồng
163,34
201,18
223,30
123,17
111,00
- Vùng Bắc Trung Bộ
133,00
160,21
174,05
120,46
108,64
- Vùng Duyên Hải Miền Trung
144,72
176,03
144,66
121,63
110,56
- Tây Nguyên
197,15
241,14
265,60
122,31
110,14
- Nam Bộ
275,34
338,91
378,05
123,09
111,56
- Đồng bằng sông Cửu Long
181,65
221,96
242,31
122,19
109,17
Nguồn: Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và đầu tư - 1997
b. Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo khổ.
Đói nghèo hay nghèo khổ là một hiện tượng kinh tế xã hội, vừa là vấn đề lịch sử để lại, trong quá trình phát triển quốc gia nào cũng vấp phải. Sự nghèo khổ của nông dân không chỉ do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Có thể nhận diện cụ thể thành sáu nhóm nguyên nhân sau:
* Nhóm 1: Nguyên nhân chủ quan:
- Không có kinh nghiệm làm ăn.
- Thiếu vốn để sản xuất.
- Thiếu việc làm.
- Đất đai canh tác ít.
- Đông con ít người làm.
- Rủi ro, đau ốm.
- Ăn tiêu lãng phí lại lười biếng.
* Nhóm 2: Điều kiện tự nhiên.
Đất đai cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó dẫn đến năng suất thấp.
* Nhóm 3: Sự quan tâm của xã hội và sự quản lý của chính quyền địa phương về kinh tế xã hội.
* Nhóm 4: Kết hợp nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan:
- Gặp rủi ro.
- Mắc bệnh hiểm nghèo, chữa chạy tốn kém.
- Lười lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, nghiện hút, cờ bạc.
* Nhóm 5: Nguyên nhân đầu vào và đầu ra.
Thiếu thị trường cung cấp vật tư, nguyên vật liệu tiêu thụ sản phẩm, hoặc xa xôi hẻo lánh, cơ sở hạ tầng kinh tế chưa phát triển, Nhà nước chưa có chính sách thoả đáng.
* Nhóm 6: Thiên tai nặng nề: như lũ lụt, mưa đá,...
2-/ Chương trình chống đói nghèo ở Việt Nam.
So sánh với các nước trong khu vực Châu á Thái Bình Dương, nước ta chỉ có chương trình gián tiếp chống nghèo đói thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội, cũng như các chính sách khuyến khích sản xuất khác, tức là nhằm vào mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, thông qua đó giảm bớt sự nghèo đói và một số chương trình khác có tác động chống đói nghèo, như chương trình giải quyết việc làm, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương. Nhìn khái quát vấn đề này chúng ta có thể rút ra kết luận sau:
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, nhiều địa phương đã có Nghị quyết cơ quan lãnh đạo của Đảng và chính quyền đã thành lập ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ tỉnh đến xã, phường, đã đạt được những kết quả đáng kể.
- Các cơ quan nghiên cứu khoa học cũng quan tâm nhiều về vấn đề này, và đang tích cực điều tra, nghiên cứu, phân tích, đánh giá và kiến nghị các biện pháp xoá đói giảm nghèo.
+ Tuy nhiên hoạt động xoá đói giảm nghèo còn gặp một số vấn đề khó khăn.
- Còn có nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp nhận thức chưa đúng, vấn đề xoá đói giảm nghèo coi đó là vấn đề cơ bản, không phải là công việc cần thiết.
- ở địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức của Nhà nước về các chính sách hỗ trợ như văn hoá, giáo dục, y tế, giao thông.
- Thủ tục cho nông dân nghèo vay vốn quá phức tạp, thời hạn thu hồi vốn quá ngắn cho nên nông dân không tin tưởng vào bản thân và khả năng trả vốn và lãi cho Nhà nước tuy mức độ và lãi suất ưu đãi. Nhiều khi cán bộ ngân hàng còn ngược đãi với dân khi làm thủ tục.
- Nhà nước cấn phải ban hành những chính sách mới đối với người nghèo, như chúng ta biết người nghèo không có hoặc ít tư liệu sản xuất trong khi đó Nhà nước đòi hỏi thế chấp trong vay vốn.
Chương II
Thực trạng sản xuất và đời sống của các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc
I-/ Đặc điểm chung của vùng.
1-/ Đặc điểm tự nhiên:
Đắc Lắc là vùng có điều kiện đất đai, khí hậu thích hợp cho phát triển cây cà phê, cao su, dâu tằm, điều, nhiều rau quả nhiệt đới, á nhiệt đới, và cả ôn đới là vùng có trữ lượng và diện tích rừng lớn nhất trong cả nước.
Cà phê đã trở thành cây hàng hoá chủ lực không chỉ ở Đắc Lắc mà trong cả nước, nhiệt độ trung bình trong năm trên 210C còn chế độ mưa, nắng phân biệt rõ rệt.
Đắc Lắc là vùng có lợi thế so sánh tuyệt đối với các vùng khác về tiềm năng, đây là vùng đất hứa hẹn.
2-/ Đặc điểm kinh tế xã hội.
a. Xã hội.
Đắc Lắc là một địa bàn rộng lớn, mật độ dân số trung bình hiện nay là 54 người/km2 nhưng phân bố không đồng đều giữa nông thôn và thành thị, trong đó dân tộc kinh chiếm 60,1% và các dân tộc ít người 39,9% và các dân tộc khác khoảng 150 ngàn người, đời sống của đồng bào quá thấp, một phần do thủ tục lạc hậu, phần do dân trí thấp. Theo số liệu của Uỷ ban dân tộc miền núi về phân bố theo thu nhập năm 1994 của các đồng bào dân tộc Đắc Lắc.
- Số hộ giàu : 5.000 hộ chiếm 3,1%
- Số hộ khá : 50.000 hộ chiếm 31,8%.
- Số hộ trung bình : 62.000 hộ chiếm 39,5%.
- Số hộ nghèo : 40.000 hộ chiếm 25,6%.
Hiện nay còn 250 xã và 250 buôn làng với 23 nghìn hộ, khoảng 150 ngàn người sống ở các vùng sâu, vùng xa, khoảng 75% số hộ này có thu nhập bình quân dưới 25.000đ/tháng/người.
b. Kinh tế.
Mặc dù Đắc Lắc là vùng có tiềm năng nhưng tiềm năng chưa được khai thác đúng mức, nhìn chung đời sống nông dân Đắc Lắc vẫn còn nghèo, trừ một số nông dân ở vùng có sản xuất hàng hoá tập trung như cà phê, dâu tằm, đậu đỏ có thu nhập bình quân cao, còn đại bộ phận nông dân dựa vào sản xuất nông nghiệp với tập quán canh tác lạc hậu phương thức đốt nương làm rẫy là phổ biến có thu nhập bình quân thấp, thu nhập bình quân đầu người ở Đắc Lắc khoảng 100 USD, về cơ cấu kinh tế của vùng, kinh tế nông lâm nghiệp vẫn chiếm vị trí quan trọng chiếm 71% tổng thu nhập toàn vùng, các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, chế biến nông sản chiếm 13% còn lại là các ngành dịch vụ buôn bán nhỏ và chế biến khoảng 16%.
Tốc độ tăng GDP của Đắc Lắc chỉ đạt 3,8% trong khi đó cả nước đạt trên 8%. Số hộ nghèo ở Đắc Lắc chiếm 32% cao hơn 4,5% so với mức bình quân chung của cả nước, những năm gần đây do chính sách đổi mới nông thôn Đắc Lắc đã có tiến bộ hơn, số hộ nghèo ở nông thôn giảm từ 41% (1991) xuống còn 32% năm (1995) số hộ giầu mỗi năm tăng từ 1,2-1,7%.
Trong tổng số hộ nông dân Đắc Lắc sống ở vùng nông thôn có tới 91% số hộ nông dân thu từ nông lâm nghiệp, 1,7% số hộ tự chế biến nông sản và 7,3% số hộ tự mua bán nhỏ, có thể nói rằng, cơ cấu kinh tế dân số và việc làm ở nông thôn Tây Nguyên chủ yếu vẫn là thuần nông.
* Kết cấu hạ tầng:
- Nông thôn Đắc Lắc có khoảng 6% nhà ở kiên cố, 47% nhà dạng bán kiên cố và 47% nhà tranh, tre, nứa lá có khoảng 35% số nhà của nông dân ở bám theo quốc lộ và đường huyện xã, hầu hết các hộ nông dân ở Đắc Lắc rất đông con, có hộ trên chín người con số hộ có 3-5 con chiếm 50%, 6-8 con chiếm 32% chính vì vậy bình quân diện tích nhà ở rất thấp.
- Điện thắp sáng: mặc dù có trục đường điện cao thế 500Kv chạy qua vùng, tuy nhiên thiếu cơ sở hạ áp và đường dây hạ thế nên tới nay có hơn 45 xã trên 55 xã có điện về đến trung tâm xã nhưng số hộ dùng điện chỉ chiếm 25%.
- Giao thông nông thôn: giao thông nông thôn chủ yếu là đường liên huyện, liên xã, tổng số đường huyện xã có khoảng 3.890 km trong đó có 130 km loại khá 764km đường loại trung bình và 2.086km đường loại xấu và rất xấu, trong 55 xã có 49 xã có đường ô tô vào đến trung tâm xã, còn khoảng hơn 6 xã chỉ có thể đi vào được mùa khô.
- Thuỷ lợi: do điều kiện địa hình phức tạp, cho nên rất khó xây dựng công trình thuỷ lợi, hiện nay toàn vùng có 300 công trình trong đó có 225 hồ đập, trạm bơm lớn số còn lại công trình trạm, diện tích tưới có khoảng 3,6 vạn ha trong đó có 2,6 vạn ha là lúa mầu, 1 vạn ha là cây công nghiệp, việc sử dụng nước ngầm tưới cây công nghiệp đã và đang phát triển ở Đắc Lắc.
- Văn hoá giáo dục: có 100% xã có trường cấp I gần 52% số xã có trường cấp II và rất ít xã có trường mẫu giáo nhà trẻ, trường cấp I, II chủ yếu làm bằng tranh, tre nứa lá hoặc cấp IV, chất lượng trường học và phương tiện giảng dạy thấp.
- Y tế: các bệnh ỉa chảy, bướu cổ, sốt rét vẫn còn phổ biến ở nhiều vùng, có 83% số xã có trạm xá, nhưng trạm xá ở một số xã chỉ là nhà tạm, nhiều trạm xá xuống cấp nghiêm trọng, song vẫn chưa được đầu tư sửa chữa, thuốc chữa bệnh thiếu trầm trọng, số lượng y bác sỹ, y tá thiếu cả số lượng và chất lượng, khoảng cách từ các bản làng đến các trạm xá hoặc trung tâm y tế rất xa, trong khi đó mạng lưới y tế ở nông thôn kém phát triển, do đó số người được chăm sóc sức khoẻ cũng rất hạn chế, toàn vùng mới khám và chữa bệnh được khoảng 25% còn 75% tự chữa bệnh kho ốm đau.
- Vệ sinh nông thôn: hầu như nông thôn sử dụng nước sông suối, ao hồ để phục vụ sinh hoạt, một số nơi là thượng nguồn của các sông suối vẫn còn bị ảnh hưởng chất độc hoá học, vì vậy chất lượng nước không đảm bảo, chỉ có khoảng dưới 10% số hộ gia đình nông dân có công trình vệ sinh đảm bảo chất lượng.
- Môi trường: theo kết quả nghiên cứu điều tra năm 1993 vùng Đắc Lắc hiện còn 2,76 triệu ha rừng với trữ lượng 238,9 triệu m3 gỗ là vùng còn nhiều rừng nhất của cả nước, rừng Đắc Lắc đã và đang suy giảm đáng kể cả diện tích và trữ lượng, trong 15 năm qua, rừng lá rộng vùng Đắc Lắc giảm 15%, tốc độ mất rừng hàng năm là 33 ngàn ha, đường kính khai thác gỗ bình quân ngày càng giảm từ 50-60cm, nay chỉ còn 30-40 cm tình hình thoái hoá đất đai khá phổ biến, hiện nay đất trống đồi núi trọc toàn vùng là 0,9 triệu ha chiếm 15% diện tích tự nhiên. Riêng đất bazan có tới 52% bị thoái hoá, trong đó có 21% bị thoái hoá nặng nề.
* Ngành công nghiệp:
Ngành công nghiệp của Đắc Lắc còn rất nhỏ bé, lao động trong ngành công nghiệp chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng số lao động toàn tỉnh. Giá trị GDP lao động công nghiệp tạo ra 1.97 triệu đồng/người/năm, gấp 2,8 lần trong lao động nông nghiệp nhưng chỉ bằng 31% GDP lao động công nghiệp toàn quốc. Sự kém coi trọng sản xuất công nghiệp, do nhiều nguyên nhân gây ra như đầu tư cho công nghiệp thấp, không có ngành công nghiệp chủ lực, thiết bị, máy móc vật tư cũ lạc hậu, không có công nhân có trình độ tay nghề cao, cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý hoạt động kém hiệu quả do không có trình độ chuyên môn trong quản lý.
* Ngành nông lâm nghiệp:
Nông lâm là ngành kinh tế chủ yếu của vùng, tốc độ phát triển GDP của nông lâm thời kỳ 1990-1992 là 4,32%/năm cao hơn tốc độ phát triển GDP của nông lâm toàn quốc, đạt được tốc độ này là do thế mạnh cây công nghiệp của Đắc Lắc, chủ yếu là cây cà phê.
Nhìn chung ngành nông lâm của tỉnh hiệu quả đạt được vẫn còn thấp, hầu hết các cây trồng vật nuôi đều thấp hơn mức bình quân trong cả nước.
* Ngành dịch vụ:
Ngành dịch vụ của Đắc Lắc còn rất nhỏ bé về qui mô, số lượng, chất lượng, vì vậy doanh thu đạt được còn thấp so với các vùng khác trong cả nước.
3-/ Những thuận lợi và khó khăn đối với việc phát triển sản xuất của các hộ nông dân.
Cơ cấu dân cư và bộ phận dân cư tỉnh Đắc Lắc rất phức tạp, mang nhiều sắc thái kinh tế xã hội đa dạng ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế của tỉnh.
Với các dân tộc thiểu số có trình độ lạc hậu, việc quyết dịnh sản xuất cài gì, như thế nào, cho ai hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, đây chính là nguyên nhân cốt lõi của kìm hãm việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Cũng là nguyên nhân gây ra sự nghèo đói kinh niên.
Địa hình hiểm trở, khí hậu phức tạp khó có thể đưa ra trị số trung bình cho tỉnh và tỉnh không ổn định của dân cư đã gây ra sức ép cho đời sống và việc làm đối với nông dân nghèo.
Kinh tế Đắc Lắc trong mấy năm qua tuy đã phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn đạt ở mức độ thấp, chủ yếu là khai thác tự nhiên kém năng động, chưa chuyển sang sản xuất hàng hoá.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho nhu cầu dân sinh nghèo nàn lạc hậu các ngành công nghiệp dịch vụ kém phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống của các hộ nông dân trong tỉnh.
- Mặc dù tỉnh và chính quyền địa phương đã có nhiều biện pháp giúp đỡ các hộ nông dân nghèo vay vốn, và các hình thức khác song hiệu quả đạt được còn thấp.
II-/ Thực trạng sản xuất và đời sống của các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc.
1-/ Thực trạng sản xuất của các hộ nông dân trong tỉnh.
Qua điều tra ba huyện ở tỉnh Đắc Lắc, sản xuất của các hộ nông dân đang ở giai đoạn phát triển mạnh, đa dạng, mức độ phát triển cũng khác nhau về qui mô, thu nhập, hiệu quả kinh tế, sử dụng lao động.
- Loại hộ du canh du cư sản xuất còn nhiều khó khăn, số hộ này chủ yếu tập trung ở vùng sâu vùng xa, sản xuất mang tính tự cấp tự túc.
- Loại hộ định canh, định cư đã có đất đai canh tác ổn định lâu dài, loại hộ này phần lớn là sản xuất lúa nước, lúa rẫy và từng bước đi vào sản xuất hàng hoá, đời sống vật chất tinh thần ngày càng được nâng cao, nhiều hộ đã mua sắm được ti vi, xe máy phục vụ cho nhu cầu hàng ngày.
- Loại hộ đã định canh định cư, hầu hết cư trú tại thị xã, ven thị xã,... quá trình hình thác các loại hộ này cũng rất khác nhau, họ có mức sống trung bình trở lên. Kinh tế phát triển nhanh, qui mô lớn, sở dĩ kinh tế phát triển mạnh do trình độ dân trí cao nhạy bén với thị trường, có năng lực trong tổ chức sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
2-/ Sự phân hoá mức sống trong các hộ nông dân ở Đắc Lắc.
Mặc dù sản xuất của các hộ nông dân ở tỉnh Đắc Lắc trong thời gian vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng chủ yếu tập trung vào các hộ giàu. Trong khi đó số hộ nghèo chiếm quá ít, Đắc Lắc có tỷ lệ nghèo đói nhiều nhất trong cả nước với mức sống rất thấp.
GDP bình quân đầu người năm 1994 là 142 USD bằng 67% của cả nước, mức sống của các đồng bào dân tộc rất thập cụ thể là:
- Số hộ có thu nhập bình quân trên 80 nghìn đồng/người/tháng chiếm 5%.
- Số hộ có thu nhập bình quân từ 40-60 nghìn đồng/người/tháng chiếm 20%. Số hộ có thu nhập bình quân từ 30-50 nghìn đồng/người/tháng chiếm 55%.
- Số hộ có thu nhập bình quân dưới 20 nghìn đồng/người/tháng chiếm 25%.
* Hiện trạng đói nghèo.
Theo số liệu khảo sát năm 1995 cho thấy toàn tỉnh Đắc Lắc có 250.301 hộ gia đình, 1.251.606 khẩu trong đó có 54.506 hộ đang ở trong tình trạng đói nghèo bao gồm:
- 43.060 hộ nghèo.
- 11.446 hộ thuộc diện đói.
Số hộ nghèo đói được chia theo khu vực như sau:
- Nông thôn 203.870 hộ 1.019.352 khẩu trong đó có 47.965 hộ đói nghèo gồm:
+ 9.958 hộ đói.
+ 38.007 hộ nghèo.
Thành thị: 46.431 hộ, 232.154 khẩu trong đó có 6.041 hộ đói nghèo, gồm:
1.488 hộ đói.
5.053 hộ nghèo.
- Hộ đói trong diện thuộc đối tượng chính sách trong toàn tỉnh có 11.929 hộ, 59.645 khẩu trong đó hộ đói nghèo 8.012 hộ gồm 1.602 hộ đói, 6.410 hộ nghèo. Hộ đói này tập trung ở vùng cao, sâu, xa vùng kinh tế mới đặc biệt là hộ đói nghèo tập trung vào dân tộc thiểu số Êđê, M’mông,...
3-/ Đời sống vật chất, tinh thần của cán hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc.
- Mức tiêu dùng của các hộ nông dân nghèo qua các năm có xu hướng tăng lên song không nhiều và mức tăng chậm hơn so với mức tăng thu nhập, do vậy khoảng cách nghèo khổ này càng có xu hướng nhỏ dần. Trong các khoản chi tiêu, khoản chi tiêu lớn nhất vẫn là ăn uống (chiếm khoảng 75% đến 80%) trong chi tiêu về ăn uống thì chi tiêu cho lương thực lớn hơn từ 68-75%, tuy nhiên các hộ nghèo từng bước chú ý đến thực phẩm cho đời sống gia đình con cái, khoản chi tiêu trên mà các hộ nghèo khó thực hiện nhất là cho học tập con cái của họ, một khoản chi phí bắt buộc tăng lên rất nhanh là y tế.
- Các phương tiện sinh hoạt cho đời sống người nghèo rất thô sơ, nhà ở chật chội, tạm bợ, dột nát, một số hộ vân chưa có nhà ở phải đi ở nhờ, tiện nghi sinh hoạt như đài, ti vi, giường loại tốt chủ yếu ở các gia đình khá, giàu còn các hộ gia đình nghèo hầu như không có, tệ nạn trong xã hội nhiều nơi có xu hướng tăng lên, cờ bạc, rượu chè, mại dân, mê tín dị đoan gây tốn kém, số trẻ em bỏ học, người mù chữ nông thôn tập trung chủ yếu vào các hộ nông dân nghèo do thu nhập của gia đình quá thấp, do động cơ đi học không có.
- Hoạt động y tế mấy năm gần đây có sự tiến bộ, đã khắc phục được một số bệnh lây lan truyền nhiễm, bệnh xã hội. Tuy nhiên Đắc Lắc vẫn còn ít thầy thuốc, cứ 1.000 người dân mới có được 1,4 thầy thuốc. Riêng bác sĩ chưa được 0,3 người trên 1.000 người, cơ sở và trang thiết bị cho y tế quá lạc hậu, chữa bệnh và công tác phòng dịch và vệ sinh môi trường còn yếu kém và thực sự chưa được quan tâm.
4-/ Những chương trình và giải pháp phát triển hộ nghèo đã được thực hiện ở Đắc Lắc.
- Để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo “đạt được hiệu quả cao nhất” chính quyền và nhân dân tỉnh Đắc Lắc đã tiến hành sử dụng nhiều biện pháp.
- Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
* Giáo dục và xoá đói giảm nghèo có quan hệ hữu cơ.
Gần đây ngoài việc dạy chữ, dạy người theo tinh thần giáo dục cộng đồng đã có những chương trình giúp học sinh và người lao động tự cải thiện được đời sống, hoạt động chuyển giao công nghệ được coi trọng từ năm 1993 Đắc Lắc đã tham gia đề án xây dựng mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ ở các huyện miền núi và vùng dân tộc thông qua các nhà trường, mã số 2.03.93 Đắc Lắc triển khai trường phổ thông dân tộc nội trú, ứng dụng và phổ biến qui trình trồng các loại nấm ăn và xây dựng các vườn ươm và thực hành cây cao su, nuôi ong mật, nhân và thử nghiệm giống cây trồng mới, tiếp nhận và sử dụng các chế phẩm sinh học,...
* Về vốn:
Vốn là vấn đề lớn và phức tạp với Đắc Lắc vốn lại phức tạp, hóc búa, nan giải hơn. Đây là một trong những lý do khó biến tài nguyên giàu có của Đắc Lắc thành của cải, để đáp ứng được nhu cầu đó Đắc Lắc đã tiến hành tổ chức tốt các hình thức tận dụng nông thôn để huy động tiền nhàn dỗi ở nông thôn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tiến hành sản xuất kinh doanh trên mọi lĩnh vực để tăng thêm thu nhập cho ngân sách, thực hiện nhiều hình thức để thu hút vốn nước ngoài như ODA, nguồn vốn huy động trực tiếp từ các doanh nghiệp nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau như liên doanh 100% và các hình thức khác đã thu hút được một số lượng vốn đáng kể.
* Về thị trường.
Đây là vấn đề sống còn của sản xuất, vì muốn sản xuất hàng hoá thì phải có thị trường tiêu thụ sản phẩm, ý thức được điều đó trong mấy năm qua Đắc Lắc đã mở rộng được nhiều thị trường trong và ngoài nước, tiến hành mở rộng thị trường nông thôn rộng lớn với nhiều hình thái khác nhau như: cửa hàng, các chợ nông thôn,... mở rộng thị trường ngoài nước để xuất khẩu ổn định các nông sản phẩm hàng hoá, hiện nay nông sản phẩm của Đắc Lắc đã có mặt trên nhiều nước.
* Về chính sách giao đất giao rừng.
Để chấm dứt tệ nạn phá rừng, phủ xanh đất trống, con đường kinh tế và hiệu quả nhất là phải nhanh chóng hoàn thiện giao đất giao rừng cho nông dân, xuất phát từ vấn đề đó Đắc Lắc đã ban hành và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho mỗi lô đất, lô rừng và có giấy hợp đồng giao khoán rừng cho từng hộ để họ an tâm sản xuất kinh doanh.
Đối với các hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện việc giao đất giao rừng gắn liền với việc định canh, định cư phát triển cây công nghiệp gắn liền với chăn nuôi, gắn liền với các chính sách ưu đãi đặc biệt như Nhà nước hỗ trợ vốn,... khi bán sản phẩm khó khăn Nhà nước kịp thời thu mua, Nhà nước cấp kinh phí cho đồng bào đi thăm quan, mở lớp huấn luyện cho già làng về khuyến nông, giới thiệu những mô hình kinh tế mới.
Đối với người nghèo là người Kinh vùng kinh tế mới, vùng nông thôn ngoài đất đã giao khoán, những hộ có khả năng Nhà nước cho mượn đất để canh tác, và vay vốn với mức lãi xuất thấp.
Đối với các hộ công nhân, nông dân các nông lâm trường để khuyến khích sản xuất phát triển kinh tế các hộ nghèo, khoán cho các hộ phải đảm bảo các nguyên tắc khách quan, hợp lý trong việc định giá bán vườn cây, đàn gia xúc, xác định giá trị tài sản hợp lý sát với giá trị thị trường.
5-/ Những thành công và tồn tại trong quá trình thực hiện chương trình, giải pháp phát triển sản xuất của các hộ nông dân tỉnh Đắc Lắc.
Với những biện pháp đã được thực hiện trong thời gian gần đây sản xuất ở Đắc Lắc đã mang lại những thành quả đáng kể, sản xuất phát triển, số hộ nghèo có xu hướng giảm xuống, đời sống vật chất tinh thần của nông dân đã và đang được cải thiện, song bên cạnh đó cũng không thể tránh khỏi những khó khăn và thách thức:
- Vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Do trình độ dân trí quá thấp dẫn đến sản xuất phát triển không đồng đều giữa các hộ.
- Kết cấu hạ tầng ở nông thôn chưa phát triển.
- Sự khắc nghiệt của thời tiết và khí hậu có những năm hạn hán làm thiệt hại hàng tỷ đồng đối với các chủ trang trại.
- Sự quan tâm của Nhà nước đối với các hộ nông dân nghèo chưa đúng mức.
- Cơ chế quản lý đầu vào và đầu ra cho các hộ nông dân nghèo thiếu chặt chẽ, không đúng với thực tế. Sản phẩm làm ra bị ứ đọng, ép giá do vậy Nhà nước cần phải định ra mức trần giá và sàn giá đối với các hộ nông dân nghèo - tư thương.
Chương III
Những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc
I-/ Quan điểm chung.
1-/ Phát triển sản xuất của hộ nông dân nghèo tỉnh Đắc Lắc là nhiệm vụ kinh tế xã hội trước mắt và lâu dài.
- Chỉ có tăng trưởng và phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, mới tạo ra cơ hội cho nông dân nói chung và nông dân nghèo nói riêng từ đó tăng thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
- Như chúng ta đã biết, sản xuất quyết định đời sống, khi sản xuất càng phát triển thì đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, sản xuất lạc hậu, chậm phát triển thì việc thoả mãn nhu cầu sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, mức độ phát triển của sản xuất được biểu hiện bằng tổng thu nhập quốc dân GDP bình quân đầu người, ở các nước phát triển, như Mỹ, Nhật GDP bình quân đầu người cao, còn các nước chậm phát triển thì mức bình quân đầu người thấp. Song bên cạnh đó nghèo đói cũng tác động ngược trở lại với sản xuất, nếu xã hội tồn tại nhiều người nghèo đói, dẫn đến sức mua thấp, hàng hoá sản xuất ra bị ứ đọng hay nói cách khác là cung vượt quá cầu, đây cũng chính là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của sản xuất, ngược lại xã hội nhiều người giàu có thì nhu cầu về hàng hoá dịch vụ lớn, hàng hoá sản xuất ra không bị ứ đọng, do đó kích thích người sản xuất mở rộng quy mô, số lượng chất lượng làm cho nhu cầu con người ngày càng được đáp ứng. Như vậy đói nghèo là một căn bệnh kinh niên, chúng ta phải tìm mọi cách khắc phục nó, giúp các hộ nông dân nghèo có thu nhập cao hơn, khi thu nhập của các hộ nông dân tăng lên, chính nó tạo ra một sức mua lớn hơn thúc đẩy thị trường nội địa mở rộng và tạo điều kiện cho các nhà sản xuất phát triển.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là nhiệm vụ của Nhà nước, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của các thành viên trong xã hội là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, không chỉ Nhà nước mà phải là toàn dân, toàn diện, song trước mắt nhiệm vụ cải thiện đời sống của mọi thành viên trước hết là cho những người nghèo là một yêu cầu cấp bách, Nhà nước cần phải có những biện pháp thích đáng vì nó cũng là một động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển cho nên việc xoá đói giảm nghèo là chiến lược của mọi sự chiến lược, của mỗi người, của mỗi quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế có tác động tới xoá đói giảm nghèo song việc vận dụng nó như thế nào vào thực tiễn là một điều quan trọng trong chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, về lâu dài phải kết hợp giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế làm nhân tố chủ đạo, bởi vì chỉ có tăng trưởng và phát triển kinh tế mới đảm bảo vững chắc cho việc cải thiện đời sống xã hội, hơn nữa Nhà nước phải có những chính sách kích cầu để thúc đẩy sản xuất, vì vậy muốn xoá đói giảm nghèo phải đứng trên cơ sở phát triển sản xuất của hộ nông dân, người nghèo là một bộ phận trong cộng đồng xã hội, chỉ có kinh tế cả cộng đồng phát triển thì kinh tế hộ nông dân mới có điều kiện để phát triển, đối với nước ta nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, do vậy chúng ta phải đặt hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ, và mọi chủ trương và biện pháp của Nhà nước phải chú ý đến lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đưa các hộ nông dân vào sản xuất hàng hoá, Nhà nước hỗ trợ về đầu vào và đầu ra.
2-/ Kết hợp một cách hài hoà sự vận động nội sinh và ngoại lực hỗ trợ để tạo điều kiện cho nông dân nghèo nâng cao thu nhập.
Như phần trên đã nghiên cứu, nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói là do nhiều yếu tố, song tập trung lại chỉ có hai nhân tố chính đó là chủ quan và khách quan.
* Nhân tố chủ quan bao gồm các yếu tố:
- Sức khoẻ, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, kiến thức kinh doanh khả năng về vốn sản xuất,...
* Nhân tố khách quan: điều kiện thiên nhiên bất lợi, tai nạn rủi ro, cơ chế chính sách của Nhà nước, trong đó vai trò của Nhà nước hết sức quan trọng, nếu cơ chế chính sách đó phù hợp với qui luật, phù hợp với lòng dân sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong xã hội cải thiện đời sống, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, những hộ nông dân nghèo muốn vượt qua được ngưỡng cửa nghèo đói chỉ có con đường duy nhất là nâng cao mức thu nhập của mình, nhưng câu hỏi đặt ra là nâng cao bằng cách nào mới hiệu quả nhất, để tăng được thu nhập cho người nghèo thì người nghèo phải có việc làm, và việc làm có thu nhập, trong nền kinh tế thị trường hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, họ có thể ra quyết định sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai, song muốn tiến hành sản xuất trước hết phải có vốn đất đai, biết tổ chức và quản lý sản xuất, và có kinh nghiệm trong kinh doanh, có khả năng tiếp cận với thị trường. Song bên cạnh đó người nghèo lại thiếu và hầu như không có đất đai, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý.
Ngoài việc tổ chức sản xuất của gia đình mình sao cho hiệu quả nhất, người nghèo có thể đi làm thuê cho các doanh nghiệp khác, do không có trình độ về khoa học kỹ thuật cho nên người nghèo chỉ kiếm được những công việc lao động chân tay nặng nhọc, tiền công thấp do vậy rất khó cải thiện được cuộc sống gia đình nếu không có sự giúp đỡ của Chính phủ và cộng đồng xã hội.
Nhà nước cần những chính sách giúp đỡ người nghèo phát triển kinh tế bằng cách cho họ vay vốn, phân phối lại sản phẩm lao động trong xã hội thông qua các chính sách của xã hội, Nhà nước phải thành lập quĩ để trợ cấp cho người nghèo trong giáo dục, văn hoá, học nghề, trợ cấp thất nghiệp, chữa bệnh không mất tiền. Trong quá trình giúp đỡ của Nhà nước phải tính đến qui luật giữa công bằng và hiệu quả, nếu có tính công bằng sẽ làm giảm tính hiệu quả kinh tế xã hội và ngược lại khi chú ý đến mặt hiệu quả sẽ dẫn đến sự mất công bằng xã hội do vậy muốn xoá đi cuộc sống nghèo đói bản thân người nghèo phải tự nỗ lực phấn đấu vươn lên song không thể thiếu sự giúp đỡ của cộng đồng và Nhà nước.
3-/ Phát triển sản xuất phải gắn liền với nâng cao dân trí, sức khoẻ và việc làm lành mạnh xã hội.
Nâng cao thu nhập của các hộ nông dân nghèo là một yêu cầu có tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay và mãi mãi về sau, trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2002 đã nêu rõ phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với xây dựng văn hoá mới, thực hiện những tiến bộ xã hội đặc biệt là giáo dục và đào tạo, coi trọng cả bốn mặt qui mô, số lượng, chất lượng, hiệu quả, chăm sóc sức khoẻ, thu hẹp diện gia đình thiếu đói và vùng thiếu đói, việc thúc đẩy hộ nông dân sản xuất hàng hoá vừa là cơ sở vừa là nền tảng để cải thiện đời sống của hộ nông dân nghèo ở nông thôn.
Trong những năm vừa qua, mặc dù mức đầu tư thâm canh cho trồng trọt và chăn nuôi của các hộ nông dân tương đối cao đã nâng khối lượng lương thực bình quân đầu người từ 293,5 kg/người 1990 lên 370 kg/người (1993) nhưng tình trạng thiếu lương thực vẫn xảy ra từng nơi, từng lúc hàng vạn gia đình vẫn thiếu ăn, thu nhập còn ở mức thấp, sản xuất chưa đạt tới mức dư thừa, tỉnh Đắc Lắc nhiều hộ nông dân vẫn nằm trong tình trạng tự sản xuất tự tiêu dùng, khả năng tích luỹ vốn của hộ nông dân vẫn chưa nhiều, hộ giầu tuy có tăng lên nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hộ nghèo, để tănh nhanh thu nhập của hộ nông dân, chúng ta phải hướng hộ nông dân vào sản xuất hàng hoá, cần phải giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn, đó là phải nâng cao chất lượng của người lao động, cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, vai trò lao động của con người càng trở nên quan trọng,việc đầu tư thêm lao động trong thâm canh chỉ thực sự có ý nghĩa khi yếu tố lao động có chất lượng cao.
Chất lượng của lao động thể hiện ở trình độ văn hoá, đó là cơ sở của mọi sự nhận thức, tiếp đến là kinh nghiệm làm ăn và kiến thức về khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ của người lao động, để tăng thêm vốn, nhân lực phải thông qua nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng, thông qua trao đổi kinh nghiệm sản xuất, tiếp cận với thị trường tiêu thụ, chất lượng lao động hiện nay kể cả hộ giàu vẫn còn thấp, mức độ hiểu biết về thị trường còn rất hạn chế, kiến thức canh tác cơ bản, như cày bừa, gieo cấy, chọn giống bón phân cho cây trồng nhiều hộ gia đình vẫn chưa nắm rõ, điều này diễn ra ở hầu hết các hộ nghèo, tuy nhiên các hộ giàu có điều kiện kinh tế cao hơn có thể nâng lên nhanh chóng còn hộ nghèo hết sức khó khăn.
Không nâng được chất lượng lao động khó phát triển sản xuất theo hướng hàng hoá, do vậy khó nâng cao thu nhập cho hộ nghèo, do vậy chúng ta phải đổi mới mô hình quản lý hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, chuyển sang hợp tác xã kiểu mới, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo để lựa chọn phương án sản xuất.
Mục tiêu của chúng ta là nâng cao thu nhập cho người nghèo, là việc làm thường xuyên, nhưng làm bằng cách nào, đây là câu hỏi đặt ra mà Nhà nước cần phải lựa chọn một cách kỹ lưỡng nhất để hộ nghèo thoát khỏi tình trạng thiếu thốn.
II-/ Phương hướng và mục tiêu phát triển sản xuất của hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc.
1-/ Phương hướng.
Phương hướng chung là không ngừng sản xuất kinh doanh, gắn chương trình xoá đói giảm nghèo, hướng trọng tâm là chuyển đổi cơ cấu kinh tế, gắn với bố trí lao động hợp lý khai thác triệt để tiềm năng đất đai để mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, thay đổi cơ cấu giống cây trồng có năng suất cao hơn, từng bước nâng cao tỷ trọng cây công nghiệp, và ngành nghề dịch vụ nhằm tăng thu nhập cho người lao động nâng cao đời sống vật chất tinh thần, vấn đề quan trọng là khuyến khích mọi nhà, mọi người chăm lo phát triển kinh tế gia đình phải kết hợp hữu cơ giữa vận động cá nhân người nghèo với sự hỗ trợ của cộng đồng và sự tác động của chính sách Nhà nước để họ có điều kiện tự chủ vươn lên khỏi cảnh nghèo đói.
Phương hướng cụ thể dựa trên cơ sở phân tích tỷ lệ nghèo đói, các dạng hộ nghèo và nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói đó, để tìm ra những phương hướng cụ thể.
- Có đủ việc làm cho các hộ nông dân nghèo bằng các hình thức:
+ Cấp thêm ruộng đất cho hộ nghèo có lao động và nguyện vọng sản xuất nông nghiệp.
+ Tạo thêm việc làm bằng định canh, tách hộ, lập và chấm dứt tập quán chăn nuôi thả rông.
+ Tạo thêm việc làm cho người lao động bằng mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ và phát triển tiểu thủ công nghiệp.
- Trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật cho người nghèo bao gồm.
+ Khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp.
+ Kiến thức Marketing.
+ Kiến thức phát triển dân số.
- Đầu tư cho người nghèo một số vốn cần thiết ban đầu bao gồm cả cho vay lãi suất thấp, liên doanh, liên kết đặc biệt là người nghèo gặp nhiều rủi ro, đột xuất cần được cứu trợ kịp thời.
- Ngoài ra phát triển kinh tế hộ nghèo không tách khỏi sự phát triển kinh tế chung của cả vùng cũng như tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí, đổi mới hình thức quản lý nông nghiệp, nông thôn, tăng cường hoạt động các tổ chức xã hội, quần chúng, nghề nghiệp.
- Trang bị kiến thức kinh doanh, khoa học kỹ thuật cho người nghèo, đầu tư thích đáng về vốn và kết cấu hạ tầng.
2-/ Mục tiêu:
Giảm số nghèo khổ tuyệt đối, trong đó nhấn mạnh vào trọng tâm xoá bỏ tình trạng thiếu ăn, suy dinh dưỡng và mù chữ của người nông dân.
- Tăng thu nhập của những hộ nghèo lên 2-3 lần và cao hơn nữa so với hiện nay, phấn đấu từ hộ nghèo lên trung bình và khá, tăng cường hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, giảm tỷ lệ tăng dân số xuống dưới 2% và đưa chỉ tiêu tổng sản phẩm nông nghiệp bình quân đầu người đến năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990.
III-/ Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc.
1-/ Giải pháp về đất đai.
a. Sớm hoàn thành qui hoạch tổng thể đất đai.
Qui hoạch tổng thể là sự sắp xếp, bố trí một cách cụ thể, khoa học có kế hoạch theo cơ sở sản xuất, các điểm dân cư và cơ cấu hạ tầng một cách hợp lý trong không gian và thời gian nhất định nhằm đạt đựoc những mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.
Điều đầu tiên cho ổn định sản xuất của bất cứ vùng kinh tế nào, cũng phải sớm hoàn thành qui hoạch tổng thể đất đai, đó là giải pháp lớn cơ bản. Sản xuất ở Đắc Lắc trước đây là hình thức sản xuất tự cấp tự túc, nên ít có yêu cầu về qui hoạch, ngày nay để phát triển sản xuất nông hộ đặc biệt là hộ nghèo thì sản xuất ở Đắc Lắc phải chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, do vậy cần ổn định đất đai, để giải phóng mọi năng lực sản xuất, nếu chậm trễ hoặc qui hoạch không đồng bộ sẽ cản trở, kìm hãm sản xuất vì qui hoạch tổng thể xác định rõ vị trí khu vực sản xuất trồng cây gì, nuôi con gì, qui hoạch sản xuất nông nghiệp phù hợp với công nghiệp và cơ sở hạ tầng.
b. Hoàn thiện việc giao đất giao rừng, khoán rừng để ổn định sản xuất.
Mặc dù chủ trương giao đất, giao rừng cho cán hộ nông dân ở Đắc Lắc đã được đặt ra từ nhiều năm qua, tuy nhiên việc tổ chức thực hiện ở các địa phương còn rất hạn chế, chỉ đạo chưa được nhất quán thiếu cụ thể, để khắc phục tình trạng đó Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII tiếp tục nhấn mạnh về việc giao đất, giao rừng ngăn chặn tình trạng nông dân không có đất đai để sản xuất, đây là một vấn đề thực tế ở Đắc Lắc.
- Tiếp tục triển khai nhanh việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân.
- Khi chưa có đủ điều kiện cấp giấy cho các hộ nông dân về quyền sử dụng ruộng đất chính thức thì cấp giấy chứng nhận tạm thời để hộ nông dân thực hiện nắm quyền theo luật định, việc giao đất cho các hộ nông dân phải bảo đảm nguyên tắc người làm nông nghiệp phải có đất để sản xuất.
Giữ được mối đoàn kết giữa các dân tộc trong vùng khuyến khích các hộ nhận đất trống đồi trọc để đưa vào sản xuất, thực hiện đúng qui định về hạn điềun thuế sử dụng đất nông nghiệp theo luật định, đồng thời đẩy nhanh tốc độ giao đất cho các vùng cây công nghiệp, cây ăn quả.
2-/ Các giải pháp về vốn:
Để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2002 tỉnh Đắc Lắc có nhu cầu về vốn đầu tư lớn, nếu tính nguồn thu từ ngân sách trên địa bàn, thì chi cho xây dựng cơ bản chỉ đáp ứng được 30-32% khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh cũng chỉ đảm bảo từ 55-60% nhu cầu, phần còn thiếu sẽ giải quyết theo các giải pháp sau:
- Thứ nhất: một trong những giải pháp tạo vốn là đổi mới cơ chế chi tiêu, thực hành tiết kiệm, tiêu xài, mua sắm, tiếp khách,... trong các cơ quan hành chính sự nghiệp Nhà nước, đoàn thể từ tỉnh xuống cơ sở, trong khi nông dân chắt chiu từng đồng tập trung sản xuất tình trạng nhiều công trình hao tốn bạc tỷ nhưng vừa nghiệm thu xong đã xuống cấp phải đại tu, thậm chí đập phá xây dựng lại rất tốn kém, tất cả các nguồn vốn đó lấy từ cà phê, cao su,... do nhân dân đóng góp.
- Ngoài vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, phải có chính sách khuyến khích khả năng tự tích luỹ, thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp và các thành phần kinh tế khác, huy động vốn tự có của nông dân vào thâm canh tăng vụ, chăn nuôi, khai hoang, đồng thời phát triển công nghiệp nông thôn.
Vấn đề nhức nhối không tạo ra nguồn thu, không tập trung được vốn mà còn tác hại đến kinh tế xã hội đó là tệ nạn “số đề”, “hụi”, “vay nóng” kiểu góp vốn ở Đắc Lắc hiện nay là lãi suất quá cao có lúc lên đến 20-30%/tháng để quản lý tình trạng trên Nhà nước phải ban hành chính sách tín dụng hợp lý phù hợp với từng đối tượng, giúp cho những hộ nông dân nghèo có khả năng vay vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh.
Tăng thêm, và tập trung các nguồn vốn hiện có để cho các hộ sản xuất vay, tăng cường các nguồn vốn trung hạn và dài hạn tổ chức thêm các mạng lưới chi nhánh, đại lý ngân hàng rộng khắp để tạo thuận lợi cho các hộ nông dân vay vốn, nhất là đồng bào dân tộc các vùng xa xôi có nhiều kho khăn, mạng lưới ngân hàng không nhất thiết phải là những người trong biên chế, mà phải gắn chặt với chính quyền địa phương các đoàn thể quần chúng đặc biệt là vai trò của già làng, trưởng bản vừa kết hợp với ngân hàng tuyên truyền chính sách của Nhà nước vừa giúp các hộ có nhu cầu được vay vốn nhanh thuận tiện, mặt khác hướng dẫn nông dân tổ chức các hình thức tín dụng truyền thống, mở rộng hình thức tín dụng nhân dân.
- Nhà nước cần phải khuyến khích các thành phần kinh tế liên doanh, liên kết trong phát triển kinh tế dưới nhiều hình thức.
- Liên doanh giữa quốc doanh với tư nhân, hình thức này nên mở rộng theo hướng các doanh nghiệp quốc doanh bằng vốn cho các hộ nông dân và tư nhân trồng mới các loại cây công nghiệp dài ngày theo phương hướng sản xuất của doanh nghiệp, hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc, khai thác và bao tiêu sản phẩm hoặc dưới hình thức hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp và tư nhân, hoặc hình thức trả công cho nhân dân, trên cơ sở đồng bào bỏ ra sức lao động và sản phẩm sản xuất ra giao cho doanh nghiệp từ chính mảnh đất của mình.
- Các tổ hợp tư nhân góp vốn lại được Nhà nước giao quyền sử dụng ổn định, lâu dài sản xuất kinh doanh theo luật định.
- Khuyến khích tư nhân đứng ra lập doanh nghiệp dạng chủ đồn điền, chủ lâm trại trên qui mô lớn, được Nhà nước giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài, được thuê mướn lao động theo yêu cầu sản xuất kinh doanh.
- Trong hoạt động thương mại, dịch vụ cho phép các doanh nghiệp Nhà nước mở rộng mạng lưới hoạt động, tổ chức các đại lý rộng khắp ở các địa bàn, các đại lý có thể là hợp tác xã hộ nông dân, tư nhân.
- Nhà nước phải tạo ra một môi trường thông thoáng về pháp lý để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường các nguồn vốn tín dụng để cho các thành phần kinh tế vay, đáp ứng được nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, đối với những vùng xa xôi khó khăn, đồng bào dân tộc ở vùng cao, Nhà nước có thể áp dụng chính sách ưu đãi cho vay không lấy lãi để sản xuất kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá, dịch vụ kể cả vốn ngắn hạn và dài hạn.
3-/ Mở rộng phạm vi miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các đối tượng.
- Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ nông dân vùng núi cao, các hộ nông dân thuộc dân tộc thiểu số, miễn giảm thuế nông nghiệp cho các đơn vị vũ trang làm nhiệm vụ ở những khu vực xung yếu vừa làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc vừa tham gia sản xuất nông nghiệp, xây dựng những văn bản hướng dẫn về trình tự thủ tục đối với việc thực hiện 5 quyền của người được giao đất sử dụng ổn định lâu dài.
4-/ Xây dựng chính sách trợ giá đối với một số nông sản phẩm hàng hoá cho tất cả các thành phần kinh tế.
“Đặc biệt là các hộ nông dân nghèo” tham gia sản xuất theo định hướng của Nhà nước khi giá cả nông sản đó trên thị trường thấp hơn giá thành, các doanh nghiệp Nhà nước phải có trách nhiệm chính trong việc tiêu thụ hàng hoá của nông dân theo định hướng của Nhà nước.
5-/ Phát triển chương trình y tế giáo dục văn hoá xã hội ở nông thôn.
- Tăng cường đầu tư về mọi phương diện cho công tác y tế và giáo dục, đây là vấn đề mang tính cấp bách vừa lâu dài, đặc biệt là tình trạng dịch bệnh và sự sa xút về giáo dục ở vùng cao đã và đang rất nghiêm trọng.
- Về công tác y tế, ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ thêm để bảo đảm cơ bản thuốc, phương tiện và lực lượng cán bộ, để làm tốt công tác phòng chữa bệnh, trọng tâm là năm bệnh chủ yếu, sốt rét, bướu cổ, dịch hạch, phong và đường ruột phấn đấu trong năm 1995 toàn bộ dân Đắc Lắc được dùng muối iốt, Bộ Y tế phối hợp với Bộ quốc phòng huy động một lực lượng cán bộ dân y và quân y đủ mạnh, thành lập các đội lưu động phòng chống dịch bệnh hoạt động ở vùng trọng điểm, có chính sách ưu đãi và trang bị phương tiện giao thông hợp lý, để bảo đảm khả năng cơ động cũng như hiệu quả hoạt động.
Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, ở vùng cao, vùng dân tộc ít người, lấy buôn làng làm đơn vị cơ sở để xây dựng mạng lưới y tế, củng cố lại các trạm khám đa khoa khu vực, bằng cách tăng cường đội ngũ y tế, bác sĩ, tăng cường thêm phương tiện cần thiết khám và chữa bệnh.
- Công tác văn hoá giáo dục, tăng thêm vốn theo phương châm “Nhà nước và nhân dân” cùng làm để xây dựng thêm và tu bổ các trường lớp hiện có, đảm bảo đủ giáo viên và chỗ học cho con em đồng bào dân tộc, củng cố trường lớp nội trú để nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo đối với vùng dân tộc, đào tạo thêm đội ngũ giáo viên là người dân tộc tại chỗ, để có thể dạy học sinh bằng tiếng phổ thông và dân tộc và dạy được nhiều lớp ở các trình độ khác nhau, gắn dạy văn hoá với việc phổ cập những kiến thức phổ thông cần thiết với đồng bào dân tộc.
- Mở rộng và bảo đảm chất lượng đào tạo các trường đại học Đắc Lắc thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học phục vụ có hiệu quả công cuộc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nâng cao tỷ lệ học sinh là người dân tộc thiểu số bằng việc mở các lớp dự bị dành riêng cho học sinh dân tộc thiểu số để nâng cao chất lượng tuyển sinh và chất lượng đào tạo.
- Tăng cường hệ thống thông tin đại chúng bằng việc mở rộng phạm vi phủ sóng phát thanh truyền hình, tăng thời gian phát sóng bằng cả tiếng phổ thông và tiếng đồng bào dân tộc, cung cấp đầy đủ sách báo, văn hoá phẩm cần thiết nhằm góp phần nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào.
6-/ Xây dựng cơ sở hạ tầng được coi là yếu tố mở đầu thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Trước hết ưu tiên cho đầu tư hệ thống đường giao thông, mở rộng và nâng cấp hệ thống đường giao thông sẵn có, xây dựng thêm một số tuyến đường giao thông mới, tuy nhiên trong quá trình thực hiện cần tiến hành tập trung hoàn thành dứt điểm từng công trình để khai thác sử dụng được ngay, ưu tiên cho những vùng khó khăn chưa có đường ô tô đến các xã và các vùng có nhiều tiềm năng.
- Công tác thuỷ lợi nhằm giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu và đáp ứng cho nhu cầu sản xuất vừa đáp ứng cho nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt của các khu dân cư tập trung.
- Về cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt phải huy động nhiều nguồn vốn cùng tham gia xây dựng mạng lưới tải điện ở những nơi có lưới điện quốc gia đi qua, còn lại cần hỗ trợ đầu tư cho đồng bào xây dựng các trạm thuỷ điện nhỏ phục vụ trước hết cho nhu cầu đời sống.
- Tăng cường hệ thống thông tin liên lạc đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt từ Trung ương đến tỉnh huyện các xã có điều kiện.
7-/ Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, củng cố các tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể từ cơ sở là yếu tố góp phần quyết định vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đắc Lắc.
Trước mắt các ngành có liên quan phải xây dựng được chương trình bồi dưỡng ngắn hạn cho đội ngũ cán bộ phù hợp với đặc điểm của Đắc Lắc, đặc biệt chú trọng các cán bộ cơ sở, cán bộ người dân tộc xây dựng chính sách, chế độ khuyến khích cán bộ công tác ở Đắc Lắc, ưu đãi đối với cán bộ cơ sở và cán bộ công tác ở cơ sở, cán bộ vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh và biên giới, các trí thức và cán bộ người dân tộc có uy tín lớn đối với đồng bào, già làng được coi là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, Nhà nước phải có chế độ thoả đáng cho đối tượng này, tăng cường cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm vận động quần chúng ở các cơ sở yếu kém và những nơi thiếu cán bộ.
Công tác xây dựng Đảng: Trước hết phải dựa vào nguồn đồng bào dân tộc, rèn luyện, bồi dưỡng lựa chọn qua thực hiện các dự án, các chương trình được dân tin cậy, mặt khác chú ý đến các lực lượng cán bộ chiến sỹ có phẩm chất tốt, gắn bó được với đồng bào dân tộc điều chuyển một số cán bộ Đảng viên từ quân đội và hành chính có kinh nghiệm sang làm công tác Đảng ở cơ sở.
Củng cố và xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng đủ mạnh để giúp đỡ các thành viên của mình trong sản xuất và đời sống, đặc biệt quan tâm củng cố hội phụ nữ, hội nông dân ở cơ sở là nhân tố quan trọng ở Đắc Lắc.
8-/ ứng dụng khoa học vào khuyến nông.
Mục đích của công tác là giúp nông dân nghèo hiểu biết là thực hiện những vấn đề cần làm để nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập, đây chính là sự truyền bá kiến thức, khoa học kỹ thuật kinh nghiệm sản xuất, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp. Sau đây là những trọng yếu cần tập trung giải quyết:
- Phổ biến tiến bộ kỹ thuật thâm canh cây trồng vật nuôi, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản phẩm, hàng hoá cho nông dân.
- Sử dụng có hiệu quả phân hoá học và thuốc trừ sâu xét cả về mặt kinh tế xã hội và môi trường.
- Chế biến và tận thu, tận dụng phế phụ phẩm của nông nghiệp.
- Phổ cập kỹ thuật trồng trọt VAC cho kinh tế hộ gia đình, thích hợp với từng địa phương.
- Đối với nông dân nghèo được giao đất, giao rừng nhưng đất và rừng đều suy thoái, trình độ sản xuất thấp, có nơi coi du canh du cư thì nội dung bao gồm:
- Giải pháp về canh tác sao cho bảo đảm sự phát triển bền vững, bảo đảm đa dạng sinh học, chống sói mòn rửa trôi đất đai canh tác.
- Thâm canh tăng vụ cây lương thực ở những vùng đất bằng và ruộng.
- Tổ chức vườn hộ gia đình với mục tiêu là tăng tối đa độ che phủ mặt đất, phát triển tối đa hệ số cây trồng trong đất, và tăng thu nhập nông lâm sản một cách ổn định.
- Vận động và hướng dẫn đồng bào dân tộc lập vườn và chăn nuôi bằng chuồng, đa dạng hoá cây trồng.
9-/ Giải pháp về thị trường.
Mở rộng và quan hệ thị trường và phát triển thị trường nông thôn là giải pháp kinh tế quan trọng cho sự phát triển kinh tế nông hộ ở tỉnh Đắc Lắc, vì sản xuất ra cái gì? như thế nào? cho ai? đều phải xuất phát từ thị trường để thực hiện lợi nhuận. Do vậy, mở rộng thị trường là yếu tố tạo ra sự ổn định lâu dài, có ý nghĩa quyết định cho hiệu quả chuyển dịch kinh tế nông thôn, với dân nghèo ở Đắc Lắc đây là việc mới mẻ, sản xuất con gì? nuôi con gì? không chỉ là nhu cầu cuộc sống cộng đồng gia đình, buôn làng, lễ hội mà trước hết là phải sản xuất cho thị trường.
Do vậy, để sản xuất các hộ nông dân nghèo phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường cần phải:
- Thứ nhất: phải có chính sách giúp đỡ, hướng dẫn nông dân nông thôn đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, các chính sách huy động vốn của Nhà nước phải dựa trên cơ sở hàng tiêu dùng, coi trọng lợi ích của người lao động, nhằm tăng sức mua, phát triển mạnh các loại hình mua bán ở nông thôn, đặc biệt là thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán, phải cắm sâu đến từng cơ sở, từng chợ, thực hiện bán buôn bán lẻ thường xuyên, nông dân mua gì cũng bán, nông dân bán gì cũng mua, ngăn chặn nạn đầu cơ, găm hàng nâng giá khi bán, ép giá, ép cấp khi mua làm thiệt hại đến lợi ích của người lao động, thực hiện mua tận gốc bán tận ngọn, tạo ra sức mua bán lớn ở các thị trường.
- Thứ hai: đi đôi với tăng cường sức mua, bán ở thị trường trong vùng, từng bước vươn ra thị trường bên ngoài như: Duyên Hải Miền Trung, TP. HCM. Do tính chất của hàng hoá có lợi thế xuất khẩu cho nên cần đẩy mạnh tìm kiếm thị trường bên ngoài, vừa bán hàng hoá để mở rộng sản xuất, vừa tiếp thu công nghệ tiên tiến.
- Thứ ba: cần khắc phục nhiều đầu mối xuất nhập khẩu, dẫn đến tranh xuất, tranh nhập, ép giá, ép cấp và nhận hàng không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng. Cần phải xây dựng các Hiệp hội xuất khẩu, trước hết là đối với mặt hàng thiết yếu đưa những Hiệp hội này tham gia Hiệp hội thế giới, phấn đấu giải quyết cho được thị trường tiêu thụ lớn, ổn định lâu dài và trực tiếp cho nông sản phẩm hàng hoá quan trọng như cao su, cà phê,...
- Thứ tư: khuyến khích và cho phép các đơn vị giao dịch trực tiếp, tiếp xúc với thị trường nước ngoài để học tập kinh nghiệm tiếp thị, chọn lọc công nghệ mới để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, từng bước hình thành đồng bộ thị trường vốn, tư liệu sản xuất, lao động,... tạo điều kiện cho kinh tế nông thôn chuyển mạnh theo kinh tế thị trường.
- Thứ năm: Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ, nhất là với nông sản ở những vùng xa trung tâm, dịch vụ, từng bước hình thành các trung tâm dịch vụ tiếp thụ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của từng khu vực gắn liền với các trung tâm thương mại, dịch vụ lớn ở đô thị. Sản xuất quyết định quy mô và dung lượng thị trường đến lượt mình, thị trường cũng tác động trở lại sản xuất, làm cho sản xuất hàng hoá ở Đắc Lắc không ổn định, vì vậy việc hỗ trợ, bảo hiểm giá ở một số mặt hàng mũi nhọn là cần thiết phải dùng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước để nuôi dưỡng sản xuất.
10-/ Tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp.
Mọi thành viên trong xã hội đều lệ thuộc vào tiền vốn và sức lao động của chính bản thân họ, do vậy ngoài khả năng kinh doanh sản xuất ra tạo việc làm cho người lao động nói chung và hộ nông dân nghèo nói riêng, là tạo cho họ cơ hội thoát khỏi sự nghèo đói, bởi vì cái mà người nghèo đói có nhiều nhất chính là sức lao động.
- Những giải pháp cụ thể tạo việc làm cho các hộ nông dân nghèo ở nông thôn là:
a. Đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tập trung phát triển lương thực, phấn đấu tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người, nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến lương thực đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, dự trữ và xuất khẩu.
- Tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, đa dạng hoá sản phẩm chăn nuôi, đặc biệt là coi trọng chế biến, công nghiệp chế biến.
- Tập trung mở rộng diện tích một số cây công nghiệp chủ lực như: dâu tằm, cà phê, chè, cao su, tiêu, điều,... mở rộng diện tích trồng bông, mía, cây ăn quả, đậu đỗ, lạc để cung cấp nguồn dầu, đạm thực vật cho người và vật nuôi.
- Ngành lâm nghiệp phải chú trọng bảo vệ rừng hiện có, bảo vệ và cải tạo, chăm sóc tốt rừng tái sinh đẩy mạnh trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
b. Cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn.
Trên cơ sở xúc tiến công cuộc công nghiệp hoá nói chung, công nghiệp hoá nông thôn nói riêng là chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta, cùng với việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh vững chắc, có hiệu quả công nghiệp, dịch vụ nông thôn tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp trong tổng thu nhập.
Phát triển đa dạng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn, trước hết là công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, khôi phục và phát triển các làng nghề, tranh thủ công nghệ hiện đại, lợi dụng công nghệ truyền thống, chú trọng công nghệ, tạo việc làm, các cơ sở sản xuất cần nhanh chóng áp dụng công nghệ hiện đại để tăng sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường quốc tế, đi đôi với việc tận dụng năng lực sản xuất, công nghệ hiện có, cần tập trung huy động vốn Nhà nước và huy động thêm các nguồn vốn khác để xúc tiến việc xây dựng những cơ sở công nghiệp thiết yếu phục vụ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn.
Đẩy mạnh phát triển dịch vụ nông thôn cung ứng hàng hoá vật tư tiêu dùng, cho vay vốn tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tạo việc làm và tăng thu nhập cho các hộ nông dân nghèo.
c. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
d. Tìm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá:
Hình thành tổ chức dự báo thị trường, mở rộng các hình thức thông tin kinh tế thích hợp để tăng thêm khả năng tiếp thị của các hộ kinh doanh và tổ chức kinh tế, điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Mở rộng sản xuất nông sản duy trì quan hệ với thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thị trường mới điều chỉnh tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt hợp lý, miễn giảm thuế để khuyến khích sản xuất nông sản.
e. Thành lập quỹ tạo việc làm cho các hộ nông dân nghèo ở nông thôn.
Nhà nước dùng quỹ đào tạo việc làm để hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất và tạo việc làm cho những lao động nông nhàn, nông dân nghèo ở nông thôn không có khả năng đi làm thuê có hiệu quả lớn.
f. Cho nông dân nghèo tự do kiếm việc làm ở khu vực công nghiệp, đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới.
Nhà nước có chính sách khuyến khích các hộ nông dân nghèo ở vùng đất chật người đông đi khai hoang các vùng kinh tế mới ở những vùng trung du miền núi bằng cách hỗ trợ vốn để họ tạo dựng được một cơ sở vật chất cần thiết tiến hành sản xuất với mức vốn ưu đãi.
kết luận và kiến nghị
Đấu tranh giảm tình trạng nghèo đói của các hộ nông dân là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng nó mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và đang là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới, bên cạnh các biện pháp tăng trưởng kinh tế, từ ba thập kỷ gần đây Nhà nước đã tăng cường nghiên cứu và có chương trình hành động tác động đến tình trạng đói nghèo ở nông thôn Việt Nam nói chung đặc biệt là tỉnh Đắc Lắc nói riêng. Mấy năm gần đây sự phân hoá giàu nghèo diễn ra khá phổ biến và có xu hướng gia tăng trên cả hai khu vực giữa thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân, nhất là hộ nghèo của tỉnh trong quá trình chuyển đổi cơ chế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, trên cơ sở đó để chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói của một bộ phận nông dân để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất.
+ Chuyên đề đã hoàn thành những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận, phương pháp tiếp cận xem xét và đánh giá tình trạng đói nghèo.
- Những đặc điểm kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến sản xuất của các hộ nông dân ở Đắc Lắc.
- Trình bày thực trạng sản xuất và đời sống của các hộ nông dân nghèo và những vấn đề cần đặt ra để tiếp tục được giải quyết.
- Đưa ra một số quan điểm, phương hướng mục tiêu và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển sản xuất của các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc.
Cùng với sự đổi mới của cơ chế quản lý trong nông nghiệp nông thôn và thực hiện những chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước đã ban hành, chắc chắn rằng sẽ giúp các hộ nông dân nghèo ở Đắc Lắc sớm khắc phục và phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giảm đói nghèo, góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển nền nông nghiệp chuyển nhanh sang nền nông nghiệp hàng hoá, đồng thời đưa ra chiến lược phát triển nông thôn toàn diện của Đảng và Nhà nước.
+ Kiến nghị với Trung ương:
Xây dựng một chương trình hành động quốc gia chống nghèo đói một cách toàn diện và đồng bộ, một số chương trình đặc thù cho một số đối tượng, từng vùng với nội dung riêng biệt để nâng cao hiệu quả của chương trình cần có sự khắc phục và điều hành chung, huy động mọi tổ chức và lực lượng sẵn có vào triển khai thực hiện chương trình, cần thành lập ban chỉ đạo của chương trình dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và sự tham gia của các cơ quan và các thành viên, huy động mọi tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tế.
Tài liệu tham khảo
- Hội thảo xoá đói giảm nghèo ở Đắc Lắc - Viện qui hoạch và thiết kế nông nghiệp 1995.
- Xoá đói giảm nghèo và phát triển nông thôn Việt Nam - Bộ Lao động và thương binh xã hội.
- Thực trạng nông thôn Tây Nguyên - Viện Qui hoạch và thiết kế nông nghiệp.
- Qui hoạch tổng thể kinh tế xã hội ở Đắc Lắc thời kỳ 1994-2000.
- Kiến nghị một số chính sách và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội ở Tây Nguyên - Viện Qui hoạch và thiết kế nông nghiệp.
- Nguyên Hồng - Đảng bộ Đắc Lắc với chương trình xoá đói giảm nghèo - Báo nhân dân 17-3-1997.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16530.DOC