Đề tài Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam

Tài liệu Đề tài Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam: Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề án: Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tá...

doc58 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1093 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề án: Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng trở nên tốt đẹp, đánh dấu bằng những chuyến thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của thủ tướng Việt Nam vào tháng 4 và tháng 12 năm 2003 đã nâng quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản lên một tầm cao mới theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định, lâu dài”. Chuyến thăm này cũng là cơ sở để hình thành Sáng kiến chung Việt - Nhật, trong đó có Kế hoạch hành động gầm 44 hạng mục với những cam kết cụ thể của hai Chính Phủ về những biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam. Được thực hiện thông qua việc rà soát, hoàn thiện các quy định về đầu tư, cải thiện các thể chế liên quan đến đầu tư và cải thiện cơ sở hạ tầng. Đến tháng 10 năm 2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã sang thăm chính thức Nhật Bản. Thủ tưóng hai nước đã ký Tuyên bố chung Việt - Nhật, nâng tầm quan hệ hai nước hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á, cả hai thủ tướng đều nhất trí phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều sẽ đạt 15 tỷ USD vào năm 2015. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới và cũng là một thị trường lớn với dân số vào khoảng 128 triệu, có sức tiêu thụ rất lớn. Trong những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2007 là 621 tỷ USD trong đó nông thuỷ sản, thực phẩm chiếm 51 tỷ USD ( 8,3% tổng kim ngạch xuất khẩu ). Vào năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 6,608 tỷ USD và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Từ số liệu nêu trên có thể thấy Việt Nam mới chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ tại thị trường Nhật Bản ( 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ). Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%, Malaixia 2,8%. Từ thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu thị trường Nhật Bản một cách sâu sắc hơn và đưa ra được những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa giá trị xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đó là nông thuỷ sản, đồ gỗ, hàng dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ. Trong đó thì nông sản đóng một vai trò rất quan trọng. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng đang tạo đựơc uy tín và vị trí tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu còn thấp và còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “ các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này rõ ràng hơn. 2. Mục đích: - Làm rõ xu hướng và đặc điểm nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trên các phương diện: nhu cầu, thị hiếu của thị trường, những rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản. - Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. - Đề xuất những giải pháp nhằm giúp hàng nông sản của Việt Nam có thể thích nghi với các rào cản của thị trường Nhật Bản và đẩy mạnh xuất khẩu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Nghiên cứu về các biện pháp hạn chế xuất khẩu để bảo hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ người tiêu dùng của Nhật Bản cùng với những giải pháp nhằm giúp cho hàng nông sản Việt Nam có thể thích ứng với những rào cản đó. Phạm vi: Giới hạn về mặt nội dung nghiên cứu là mặt hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản với các sản phẩm chính là cà phê, cao su và rau quả. 4. Phương pháp nghiên cứu: So sánh, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, báo cáo thực tiễn. 5. Kết cấu đề án: Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh sách tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương : Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và khả năng thích ứng. Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản 1.1 Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu 1.1.1 Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu. 1.1.1.1 Thuế quan Nhật Bản áp dụng 4 hệ thống thuế như sau : - Thuế suất chung: mức thuế cơ bản căn cứ vào Luật thuế quan hải quan, áp dụng trong một thời gian dài. - Thuế suất tạm thời: là thuế suất trong một thời gian ngắn, thay thế cho thuế suất chung. - Thuế suất ưu đãi phổ cập ( GSP): là mức thuế áp dụng cho các nước đang phát triển hay các khu vực lãnh thổ. Mức thuế có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng cho các nước phát triển. Hệ thống GSP của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực vào từ ngày 1\8\1971. - Thuế suất WTO: là mức thuế căn cứ vào cam kết WTO và các hiệp định quốc tế khác. Về nguyên tắc, mức thuế áp dụng theo thứ tự mức thuế GSP, mức thuế WTO, mức thuế tạm thời và mức thuế chung. Tuy nhiên, mức thuế GSP chỉ được áp dụng trong trường hợp thoả mãn các điều kiện cần thiết mà Nhật Bản đưa ra như : là nước đang phát triển, là thành viên của hiệp ước Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển ( UNCTAD ), là quốc gia mà Nhật Bản cho là thích hợp để hưởng quy chế GSP... Đối với mức thuế WTO, nó chỉ được áp dụng khi thấp hơn cả mức thuế tạm thời và mức thuế chung. Như vậy, mức thuế chung là mức thuế áp dụng cho các nước không phải là thành viên của WTO. Trong trường hợp mức thuế tạm thời thấp hơn các mức thuế trên, nó sẽ được áp dụng. 1.1.1.2 Các biện pháp hạn chế định lượng Hạn ngạch nhập khẩu. Tại Nhật Bản, hạn ngạch nhập khẩu được tính toán trên cơ sở dự đoán các nhu cầu về hàng hóa và khả năng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Vào đầu và giữa năm tài chính ( từ tháng 4 năm trước đến tháng 4 năm tiếp theo), Bộ Công nghiệp và Ngoại Thương ( MITI) Nhật Bản phê chuẩn những mặt hàng nhập khẩu theo quy chế hạn ngạch được ghi rõ trong thông báo nhập khẩu. Trong thông báo hàng năm của MITI có quy định rõ trình tự các bước để xin hạn ngạch cho một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng. Khi nhập khẩu các mặt hàng có quy định hạn ngạch, nhà nhập khẩu phải xin hạn ngạch nhập khẩu trước của MITI, thì mới xin được giấy phép của ngân hàng quản lý ngoại hôi hay của cơ quan quản lý khác. Hạn ngạch được áp dụng với 3 nhóm hàng sau: - Các mặt hàng thương mại thuộc kiểm soát của nhà nước, bao gồm vũ khí, rượu, chất nổ, súng cầm tay và dao, vật liệu hạt nhân, ma tuý và các thực phẩm chịu sự kiểm soát ( như gạo ). - Những mặt hàng hạn chế nhập khẩu - Các loại thực vật và động vật có tên trong Bản phụ lục I của Công ước về thương mại quốc tế về các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng trong hệ thống động thực vật(CITES). Theo các quy định trước đây của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch GATT (nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) thì các nước thành viên của tổ chức này không được sử dụng hạn ngạch để tạo rào cản phi thuế quan cản trở buôn bán với các nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể sử dụng hạn ngạch trong một số trường hợp ngoại lệ như : để bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá và đảm bảo an toàn tạm thời trong trường hợp hàng nhập khẩu có thể làm tổn thương các ngành công nghiệp khác. Hạn ngạch thuế quan Chế độ hạn ngạch thuế là chế độ, trong đó quy định áp dụng mức thuế bằng không (0%) hoặc thấp đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định, nhằm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hoá vượt quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm bảo hài hoà mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ người sản xuất nội địa. Vì vậy, chính phủ phải dựa trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất trong nước để đề ra mức thuế lần một, lần hai và thời gian áp dụng... để không cản trở tự do hoá thương mại. Trong các quy định của GATT/WTO, các nước thành viên không được sử dụng chế dộ hạn ngạch nhập khẩu, nhưng lại thừa nhận chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự phân biệt đối xử với từng nước. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Là một dạng của hạn chế nhập khẩu, là thoả thuận theo đó một nước đồng ý hạn chế xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một mặt hàng xác định, với một mức tối đa. Các thoả thuận này là tự nguyện chỉ ở mức độ nước xuất khẩu muốn tránh một mối đe doạ lớn hơn đối với ngoại thương của mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn. Tuy nhiên, đây là biện pháp tạm thời và không có hiệu quả. Bởi vì biện pháp này có thể giúp làm giảm lượng xuất khẩu của một nước nhưng lại bóp méo quá trình tự do ngoại thương và dẫn đến việc phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia và quốc tế một cách kém hiệu quả. Tại Nhật Bản, vào cuối những năm 50 đã phải thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện đối với các sản phẩm dệt và một số mặt hàng sử dụng nhiều lao động. Giấy phép nhập khẩu Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu vào Nhật Bản không cần giấy phép của Bộ Công Nghiệp và Ngoại thương. Nhưng các mặt hàng sau vẫn cần giấy phép nhập khẩu : - Hàng hoá liệt kê trong thông báo nhập khẩu thực hiện quản lý bằng hạn ngạch. - Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định trong thông báo nhập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu. - Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt. - Hàng hoá cần sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu và phải đáp ứng được các quy định đặc biệt của chính phủ, như các loại vắcxin nghiên cứu. 1.1.1.3 Các biện pháp hành chính kỹ thuật. Đây là nhóm các biện pháp gián tiếp ngăn cản và giám sát hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường Nhật Bản. Các biện pháp hành chính kỹ thuật rất phong phú và đa dạng. Chúng tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tại Nhật Bản, các biện pháp hành chính được áp dụng rât đa dạng và nó đã hình thành nên một rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Trong quan hệ ngoại thương, giá cả thường rất quan trọng. Tuy nhiên, tại thị trường Nhật Bản thì chất lượng của sản phẩm được đặt lên hàng đầu. Ngay cả đối với những mặt hàng rẻ tiền, hạ giá thì người tiêu dùng Nhật Bản cũng rất quan tâm đến chất lượng và độ an toàn của mặt hàng đó. Thực tế là là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn của hàng hoá của Nhật Bản còn cao hơn và chặt chẽ hơn so với yêu cầu thông thường và các tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy nên các sản phẩm của Nhật Bản thường có chất lượng cao và dễ tràn ngập vào các thị truờng các nước khác. Các dấu chứng nhận chất lượng mà Nhật Bản sử dụng có thể kể đến như : Tiêu chuẩn “JIS” Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản “ JIS” là một trong những dấu được sử dụng rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Tiêu chuẩn này dựa trên “luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6 năm 1949. Dấu JIS được áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản, trừ những sản phẩm được áp dụng các tiêu chuẩn chuyên ngành như dược phẩm, phân hoá học, sợi tơ tằm, thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác được quy định trong luật về tiêu chuẩn hoá và dán nhãn các sản phẩm nông lâm sản. Các nhà sản xuất trong nước hay nước ngoài muốn được cấp giấy chứng nhận JIS phải làm đơn xin cấp giấy chứng nhận này. Bộ trưởng bộ Công nghiệp và ngoại thương có phê đuyệt đơn xin phép cấp JIS cho nhà sản xuất hay không dựa vào kết luận của Hội đồng thẩm định. Quyết định của Bộ trưởng sẽ được thông báo cho người nộp đơn. Nếu đơn xin phép được phê duyệt thì sẽ đăng trên Công báo. Thời gian cần thiết kể từ khi nộp đơn cho đến lúc nhận được quyết định và thông báo là 3 tháng. Tiêu chuẩn “JAS” Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản được ban hành vào tháng 5 năm 1970. Luật này quy định các tiêu chuẩn về chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS. Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi Luật JAS bao gồm: đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến. Các tiêu chuẩn JAS bao quát cả sản phẩm được sản xuất trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Tại Nhật Bản việc sử dụng dấu chứng nhận sản phẩm JAS lên nhãn hiệu sản phẩm là tự nguyện và các nhà sản xuất cũng như các nhà bán lẻ không bị bắt buộc phải sản xuất hay kinh doanh các sản phẩm có chất lượng tiêu chuẩn JAS. Tuy nhiên, các quy định về việc ghi nhãn mác sản phẩm là bắt buộc với những sản phẩm do bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp quy định. Người tiêu dùng Nhật Bản rất tin tưởng vào chất lượng của các sản phẩm đã được đóng dấu JAS. Vì vậy, các nhà sản xuất nước ngoài khi xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản có được dấu chứng nhận chất lượng JAS sẽ tạo thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá của mình tại đây. Các dấu chứng nhận chất lượng khác: Ngoài dấu chứng nhận chất lượng JIS và JAS còn có nhiều loại dấu chứng nhận khác được sử dụng ở Nhật Bản. Ví dụ, các dấu chứng nhận sau đang được sử dụng tại Nhật Bản : Bảng 1.1 Một số dấu chất lượng của Nhật Bản Dấu chất lượng Ý nghĩa Phạm vi áp dụng Dấu Q Chất lượng và đo độ đồng nhất của sản phẩm. Các loại sản phẩm dệt, bao gồm quần áo trẻ em, các loại quần áo khác, khăn trải giường. Dấu G Thiết kế, dịch vụ sau khi bán hàng và chất lượng Các sản phẩm như máy ảnh, máy móc, thiết bị, đồ thuỷ tinh, đồ gốm, đồ văn phòng, đồ nội thất Dấu S Độ an toàn (bắt buộc) Hàng hoá dành cho trẻ em, đồ dùng gia dụng, dụng cụ thể thao. Dấu SG Độ an toàn ( bắt buộc) Xe đạp, xe đẩy, nồi áp suất, mũ đi xe đạp, mũ bóng cháy và các hàng hoá khác. Dấu SIF Các hàng may mặc có chất lượng tốt Hàng may mặc như quần áo nam,quần áo nữ, ô, áo khoác, balô và các sản phẩm phục vụ cho thể thao Dấu Len Các hàng may mặc có chất lượng tốt. Sợi len nguyên chất, quần áo len nguyên chất, đồ len đan. Nguồn : Nguyễn Hữu Khải, “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế”, trang 155 – 156. 1.1.1.4 Các biện pháp quản lý khác. Ngoài các tiêu chuẩn chất lượng khắt khe đối với hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, Nhật Bản còn ban hành nhiều văn bản pháp luật cơ bản điều chình các hàng hoá mà có thể gây nguy hại đến sức khoẻ, vệ sinh, đạo đức và sự an toàn chung của người dân Nhật: Tiêu chuẩn môi trường. Vấn đề môi trường cũng rất được quan tâm tại Nhật Bản. Cục môi trường Nhật Bản đang khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm không làm hại sinh thái ( kể cả các sản phẩm trong nước cũng như các sản phẩm nhập khẩu ). Các sản phẩm đạt được ít nhất một trong các tiêu chuẩn dưới đây sẽ được đóng dấu “Ecomark”: 1. Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm tới môi trường hoặc có nhưng ít. 2. Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường. 3. Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại ít. 4. Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường theo các cách khác không được kể đến ở trên. Ecomark được ban hành năm 1989, và được rất nhiều người Nhật biết đến. Ecomark không đưa ra các tiêu chuẩn và cũng không nói lên chất lượng cũng như tính an toàn của sản phẩm. Các công ty nước ngoài có thể xin dấu chứng nhận Ecomark thông qua các nhà nhập khẩu. Luật vệ sinh thực phẩm. Luật vệ sinh thực phẩm ra đời và có hiệu lực từ năm 1947. Luật này áp dụng cho tât cả các hàng hoá liên quan đến thực phẩm, các gia vị, dụng cụ chứa, các máy móc chế biến thực phẩm và đồ chơi trẻ em. Hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu đều phải tuân theo những quy định của Luật như nhau. Bộ Y tế và Phúc lợi sẽ chịu trách nhiệm thực thi và quản lý vệ sinh thực phẩm Khi xuất hàng sang Nhật Bản, các nhà xuất khẩu nước ngoài phải hiểu được các quy định về luật pháp phức tạp liên quan đến vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm. Ví dụ như : theo quy định thực phẩm sản xuất tại nước xuất xứ phải theo phương pháp phù hợp với Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản. Do đó, đồ uống, chân giò, xúc xích, thịt lợn nuôi và thịt bò nuôi đưa vào bán tại thị trường Nhật Bản phải được khử trùng ở nhiệt độ theo quy định sản xuất tại Nhật Bản. Trong nhiều truờng hợp, do thiếu hiểu biết về các quy định vệ sinh, an toàn thực phẩm nên các sản phẩm của các nhà xuất khẩu bị cấm không được đưa vào Nhật Bản. Hàng đã dỡ xuống cầu cảng lại bị gửi trả lại do không đáp ứng được tiêu chuẩn. Điều này đã từng xảy ra với mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam. Do không tìm hiểu các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản nên hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản có dư lượng kháng sinh vượt quá mức cho phép. Nhiều lô hàng đã bị trả lại và các đơn hàng tiếp theo đều chịu sự kiểm soát rất gắt gao của cơ quan quản lý Nhật. Chính vì vậy, đây chính là một rào cản cần nghiên cứu kỹ để tránh những thiệt hại kinh tế lớn có thể xảy ra. Luật kiểm dịch thực vật. Được ban hành nhằm chống lại sự xâm nhập của sâu bệnh và các căn bệnh ở cây trồng. Trong Luật kiểm dịch quy định rõ các mặt hàng cấm nhập khẩu, các đối tượng kiểm tra và tổ chức việc kiểm tra rât cụ thể, chặt chẽ. Nếu khi kiểm tra hàng nhập khẩu mà phát hiện các lô hàng này bị nhiễm bệnh hay sâu hại thì các hàng này bị huỷ bỏ hoặc trả lại nước xuất khẩu. Đồng thời, việc xuất khẩu các rau quả thực vật bị cấm cho tới khi nguồn gốc sâu hại, bệnh tật được tìm ra. Luật chống các bệnh truyền nhiễm Do áp dụng luật này nên Nhật Bản là một trong số ít nước có vật nuôi không mắc bệnh truyền nhiễm, lây lan qua virus. Nhật cũng là một trong ít nước không có bệnh dại. Luật chống các bệnh truyền nhiễm được áp dụng với các đối tượng sau: - Súc vật mong chẻ (gia súc, lợn, cừu, dê…). - Ngựa. - Gia cầm và trứng. - Thỏ và ong mật. - Xương, thịt, mỡ, máu, da thú, lông chim, móng, gân. - Xúc xích, chân giò và thịt muối. Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu được chính phủ Nhật Bản áp dụng có thể tổng hợp lại như sau : Bảng 1.2: Công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản TT Tác động Công cụ Tích cực Hạn chế Áp dụng 1 Thuế quan Bảo hộ cho hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng thu ngân sách Làm tăng giá sản phẩm, người dân ít có cơ hội sử dụng hàng hoá ngoại nhập với giá rẻ. Áp dụng 4 hệ thống thuế như đã trình bày ở trên. 2 Hạn ngạch nhập khẩu Bảo hộ cho nến sản xuất trong nước, ngăn chạn sự xâm nhập của hàng hoá ngoại nhập. Gây cản trở mậu dịch tự do, có thể dẫn đến sự trả đũa của đối phương. Sử dụng trong một số trường hợp như : bảo hộ nông nghiệp, chống bán phá giá, bảo vệ nền sản xuất trong nước 3 Hạn ngạch thuế quan Bảo vệ người tiêu dùng và bảo hộ sản xuất nội địa. Cản trở tự do hoá thương mại. Không phân biệt đối xử với từng quốc gia. 4 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện Bảo hộ sản xuất nội địa. Gây ảnh hưởng tới tự do ngoại thuơng và phân phôi các nguồn tài nguyên Có sự đồng ý của đối phương. 5 Giấy phép nhập khẩu Hạn chế sự xâm nhập của hàng hoá ngoại nhập. Áp dụng với một số mặt hàng đặc thù. 6 Tiêu chuẩn JIS Phân biệt các hàng hoá công nghiệp đã đáp ứng được chất lượng yêu cầu của Nhật. Thời gian xin giấy phép khá lâu, có thể làm mất thời cơ kinh doanh. Áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp và khoáng sản. 7 Tiêu chuẩn JAS Phân biệt các hàng hoá nông nghiệp đã đáp ứng đựoc chất lượng yêu cầu của Nhật Thời gian xin giấy phép khá lâu, có thể làm mất thời cơ kinh doanh. Áp dụng cho đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn và mỡ, các nông, lâm thuỷ sản chế biến. 8 Các dấu chất lượng khác Chứng nhận chất lượng của hàng hoá. Áp dụng với các sản phẩm được liệt kê trong bảng 1.1 9 Tiêu chuẩn môi trường Ngăn chặn các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường. Không mang tính bắt buộc. 10 Luật vệ sinh thực phẩm Bảo vệ sức khoẻ của nguời tiêu dùng. Các quy định rất là phức tạp, có thể gây nhiều thiệt hại nếu không tìm hiểu kỹ. Áp dụng cho các hàng hóa liên quan đến thực phẩm, gia vị… 11 Luật kiểm dịch thực vật Ngăn chặn sự xâm nhập của sâu bệnh và các căn bệnh ở cây trồng Áp dụng cho cây trồng, các mặt hàng nông sản. 12 Luật chống các bệnh truyền nhiễm Ngăn chặn sự xâm nhập của các bệnh truyền nhiễm từ động vật. Áp dụng với các động vật và sản phẩm thực phẩm từ động vật. 1.1.2 Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản. Vào đầu những năm 80, Nhật Bản đã tiến hành mở cửa thị trường trong nước qua việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập khẩu, nới lỏng các biện pháp hạn chế về số lượng, cải thiện hệ thống cấp giấy chứng nhận cho hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn duy trì nhiều biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập khẩu hàng hóa vào thị trường trong nước. Sự hạn chế này được thể hiện trong các chính sách, các quy định và tiêu chuẩn của chính phủ cũng như qua việc tạo ra sự khác biệt trong văn hoá kinh doanh. Trong đó có các vấn đề nổi bật như: - Thiết lập các tiêu chuẩn riêng của Nhật Bản. Các tiêu chuẩn này còn được coi trọng hơn các tiêu chuẩn của thế giới. Hàng hoá muốn nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản cần phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn này. - Đòi hỏi chứng minh kinh nghiệm trong thị trường Nhật Bản, đây chính là một rào cản đối với những nhà xuất khẩu mới muốn xâm nhập được vào thị trường Nhật Bản. - Các hiệp hội sản xuất tuy có số thành viên hạn chế nhưng có ảnh hưởng rất lớn trên thị trường, có khả năng kiểm soát thông tin và hoạt động của thị trường ở mức độ nhất định. - Các quy định chính thức nhằm bảo trợ hàng hoá trong nước và phân biệt đối xử với hàng hoá nhập khẩu. - Tầm quan trọng của các mối quan hệ cá nhân ở Nhật Bản, các doanh nghiệp ưa thích các khách hàng lâu năm và có quen biết. Do đó rất khó để khiến cho đối tác Nhật Bản thay đổi quan hệ kinh doanh. Để vượt qua được rào cản này thì phải phụ thuộc vào ngành hàng, tính cạnh tranh của sản phẩm, uy tín của thương hiệu và sự linh hoạt, nhạy bén và sáng suốt của các doanh nghiệp. Ngoài các biện pháp để quản lý nhập khẩu, Nhật Bản còn áp dụng các biện pháp bảo hộ nông nghiệp đa dạng. Nhà nước can thiệp vào quá trình sản xuất nông nghiệp qua các khâu sản xuất, marketing sản phẩm, phân phối sản phẩm. Những chính sách bảo hộ của Nhật Bản như: - Hạn ngạch sản xuất PQ đối với ngành sữa. - Chính sách ổn định thu nhập ISP đối với ngành rau quả. - Hỗ trợ giá DP, người nông dân được thanh toán một phần hoặc toàn bộ mức chênh lệch giữa giá mục tiêu mà nhà nước để ra với giá cả thực tiễn trên thị trường. - Chương trình chuyển đổi sản xuất lúa gạo RDP. Chương trình này được bắt đầu thực hiện từ những năm 60. Chính phủ sẽ thanh toán các khoản mà người nông dân đã chi để chuyển đổi diện tích trồng lúa sang trồng các loại cây trồng khác tuỳ theo diện tích đất đai chuyển đổi và loại cây trồng. - Chương trình trợ cấp bảo hiểm rủỉ ro GSIP, Chính phủ sẽ trợ cấp một phần hoặc tái bảo hiểm những rủi ro cho người nông dân khi xảy ra dịch bệnh và các rủi ro khác trong trồng trọt, chăn nuôi. - Chất lượng và an toàn thực phẩm FSAQ. Năm 2003, một Uỷ ban thực phẩm cấp Văn phòng chính phủ đã được thành lập nhằm đánh giá và xác định mức độ rủi ro an toàn đối với các sản phẩm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và hoá chất nông nghiệp. 1.2 Đặc điểm của thị trường Nhật Bản 1.2.1 Đặc điểm hệ thống phân phối Chức năng của hệ thống phân phối ở Nhật bản không có gì khác biệt lắm so với các nước khác. Nó giúp cho việc di chuyển hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng. Nó đồng thời đóng vai trò là kênh bán hàng cho nhà sản xuất và kênh mua hàng cho người tiêu dùng. Hệ thống phân phối thường gồm hai cấp đó là bán buôn và bán lẻ. Tuy nhiên, nó còn đóng vai trò quan trọng là lá chắn bảo hộ cho sản xuất trong nước, bài trừ hàng ngoại nhập. Mặc dù thời gian gần đây thì Nhật Bản đã cải cách hệ thống phân phối theo hướng mở hơn, tạo điều kiện cho hàng hóa nhập khẩu; nhưng nó vẫn là một rào cản gây trở ngại cho các nhà sản xuất nước ngoài. Cơ bản, hệ thống này bao gồm 3 kênh chính: - Nhà nhập khẩu-nhà bán buôn-nhà bán lẻ-người tiêu dùng. Giá bán lẻ thường bị đội lên cao gấp 3-4 lần. - Nhà nhập khẩu- nhà bán buôn-người tiêu dùng. Giá bán lẻ thường cao gấp 2-2,5 lần giá FOB. - Nhà nhập khẩu-người tiêu dùng (đặt hàng qua thư hoặc qua internet). Giá có thể gấp đôi giá FOB. Giữa các nhà sản xuất và bán lẻ Nhật Bản có sự liên kết rất chặt chẽ, thể hiện ở chỗ các nhà sản xuất cung cấp vốn cho các nhà bán buôn, các nhà bán buôn lại cung cấp tài chính cho các nhà bán lẻ. Các nhà sản xuất thực hiện chế độ chiết khấu hoa hồng thường xuyên và rộng rãi, sẵn sàng mua lại hàng nếu không bán được, các nhà bán lẻ thường chỉ kinh doanh một số mặt hàng của các nhà sản xuất nhất định trong nước. Mối quan hệ giữa các nhà sản xuất với các nhà phân phối, bán lẻ rất khăng khít, bền vững. Do đó, các nhà phân phối Nhật Bản rất e ngại khi tiếp nhận nguồn hàng từ nước ngoài. Họ không muốn phá vỡ mối quan hệ này, và lo ngại các nhà cung cấp nước ngoài không thể giao hàng đúng hẹn, không có chế độ hậu mãi tốt như các nhà cung cấp trong nước. Đây là một điểm mà các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải chú ý. Cần phải xây dựng được uy tín, xây dựng được thương hiệu của sản phẩm và hệ thống dịch vụ hậu mãi tốt thì mới có thể xâm nhập vào thị trường Nhật Bản. 1.2.2 Các tập đoàn kinh tế “Keiretsu” Keiretsu là một hệ thống kinh tế và tổ chức kinh doanh kiểu Nhật Bản và thường được hiểu là các tổ hợp hay tập đoàn công nghiệp khổng lồ của Nhật Bản. Nó được thành lập vào đầu những năm 60 khi các thị trường chúng khoán của Nhật Bản trở nên yếu kém. Các công ty lâm vào tình trạng có thể bị các đối thủ mạnh khác giành quyền kiểm soát. Theo đó, việc ra đời các tập đoàn này là một biện páhp dối phó hợp lí cho sự tồn tại của họ. Đó là các tập đoàn như : Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo … Các công ty thành viên của mỗi tập đoàn này được liên kết với nhau qua 3 yếu tố, dó là - Nắm chéo các cổ phẩn của nhau. - Các mối quan hệ nhân sự. - Vấn đề tài chính bên trong. Việc nắm giữ cổ phần đan xen, chiếm một số vốn lớn, gần 35% toàn bộ số vốn của nền kinh tế Nhật Bản cùng đội ngũ quản lý, điều hành công việc với mục tiêu tạo lợi nhuận tối đa trong một thời gian dài đã cho phép các tập đoàn này khống chế thị trường trong thời kỳ mở rộng kinh tế, thủ tiêu cạnh tranh trong thời kỳ suy thoái. Keiretsu là một trong những đặc trưng nhất của nền kinh tế Nhật Bản và cũng là một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập vào thị trưòng Nhật Bản của hàng hoá nước ngoài. 1.2.3 Đặc điểm hệ thống bán lẻ Đối với các quốc gia Châu Âu và Mỹ, lượng hàng bán lẻ chủ yếu được phân phối thông qua hệ thống các cửa hàng đại lý lớn, hay hệ thống các siêu thị như WALL-MART, nhưng tại thị trường Nhật Bản thì các cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ lại chiếm vị trí thống trị. Trong những năm gần đây, vị trí của các cửa hàng này có phần giảm đi do sự phát triển của các cửa hàng bách hoá, các siêu thị và chuỗi cửa hàng chuyên dụng. Nhưng nó vẫn hiếm vị trí rất quan trọng trong việc tiêu thụ hàng hoá tại thị trường Nhật Bản. Một nửa lượng mua của người tiêu dùng được thực hiện tại các cửa hàng “Mom and Pob stores”, thông thường thì các cửa hàng này không bán hàng ngoại nhập. Các cửa hàng này có mối liên hệ rất mật thiết với các nhà sản xuất trong nước qua việc nhận ưu đãi về tài chính, tài trợ về cơ sở hạ tầng và sự hậu thuẫn trong marketing. Mặt khác, các cửa hàng này có quy mô và diện tích nhỏ, không thể chứa được lượng hàng lớn, không có đủ năng lực tài chính để dự trữ các mặt hàng đắt tiền hoặc nhập khẩu hàng hoá theo đơn đặt hàng. 1.2.4 Đặc điểm của tập quán kinh doanh Các doanh nghiệp Nhật Bản tương đối khó tính trong việc lựa chọn đối tác làm ăn. Khi chọn đối tác để cung cấp hay nhập khẩu hàng hoá thì họ thường có nhu cầu thẩm định trực tiếp sản phẩm. Chúng ta nên chuẩn bị sản hàng mẫu để có thể giới thiệu tới đối tác Nhật Bản. Người Nhật khá là chi li do đó trong các cuộc đàm phán, họ rất quan tâm đến tất cả các thông tin liên quan như nguyên liệu, quy trình sản xuất, chi phí sản xuất…, vì vậy khi đàm phán với người Nhật thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chuẩn bị và đưa ra được những thông tin này. Ngoài ra, các doanh nghiệp Nhật Bản có thói quen đến tận doanh nghiệp mua hàng để xem cơ sở đối tác, dây chuyền sản xuất cũng như hệ thống phân xưởng. Đối với các mặt hàng sản xuất không tập trung như thủ công mỹ nghệ, sản phẩm thủ công thì nên có các showroom để tạo được sự tin tưởng nơi họ. Trong làm ăn buôn bán với đối tác Nhật Bản thì cần phải chú ý để giữ chữ tín, tạo được sự tin cậy ở họ. Bên cạnh đó, do người Nhật rất coi trọng các nghi thức, các chi tiết nhỏ, cách ứng xử văn hoá của đối tác nên một vấn đề đặt ra đó là cần phải nghiên cứu kỹ về đời sống văn hoá của người Nhật để có cách cư xử thích hợp. 1.2.5 Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản. Người tiêu dùng Nhật Bản đòi hỏi cao về chất lượng, độ bền độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ khá nhạy cảm với vấn đề giá cả. Trong những năm gần đây, do giá cả leo thang nên người Nhật có xu hướng tiêu dùng hàng rẻ. Nhưng chất lượng hàng hoá vẫn là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Họ sẵn sàng trả cho một sản phẩm tuy có giá đắt hơn nhưng chất lượng đảm bảo. Người Nhật Bản rất quan tâm đến an toàn vệ sinh thực phầm, xuất xứ hàng thực phẩm. Họ nhạy cảm với hưong vị của sản phẩm và sẵn sàng trả giá cao cho những hương vị hấp dẫn, họ hiểu biết và có nhiều thông tin về các loại thực phẩm, nhãn mác và thương hiệu sản phẩm. Họ không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà chú trọng cả đến khâu nguyên liệu, bảo quản sau khi thu hoạch đến cả công nghệ chế biến sản phẩm. Do đặc điểm diện tích nhà cửa khá là chặt hẹp và gia đình thường chỉ có ít người nên họ thích mua những lô hàng có số lượng vừa phải, và do mức sống cao nên họ cũng không yêu cầu sản phẩm phải có vòng đời quá cao và có xu hướng thay đổi đồ đạc thường xuyên. Một đặc điểm khá là quan trọng trong thói quen tiêu dùng của người dân Nhật Bản là họ coi trọng các tiêu chuẩn của Nhật Bản như “Tiêu chuẩn nông sản Nhật Bản” JAS, “Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” JIS hơn các tiêu chuẩn quốc tế. Nếu các mặt hàng nhập khẩu mà được dán các dấu tiêu chuẩn này thì sẽ dễ dàng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng Nhật Bản. Tiêu dùng của người dân Nhật Bản mang tính mùa vụ rất rõ rệt. Có những mặt hàng họ chỉ sử dụng cho mùa này mà không sử dụng cho mùa khác và ngược lại. Họ cũng rất quan tâm đến các mặt hàng được chế tạo tinh xảo, được làm thủ công. Một đặc điểm cũng cần phải lưu ý đó là Nhật Bản là một đất nước có dân số già, người tiêu dùng ở tầm tuổi trung niên trở lên chiếm rất đông. Do đó những sản phẩm mang màu sắc đứng đắn, và phù hợp với lứa tuổi của họ sẽ dễ tiêu thụ hơn. 1.3 Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Trong những năm gần đây, quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển với tốc độ cao, bình quân tăng khoảng 17% một năm. Xét về tổng thể thì quy mô thương mại Việt - Nhật chỉ đứng sau quy mô thương mại Việt – Trung và Việt - Mỹ, nhưng nếu xét riêng về xuất khẩu thì Nhật Bản là thị trường lớn thứ 2 của Việt Nam sau Mỹ. Nếu như kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản vào năm 2002 chỉ đạt 4,9 tỷ USD, thì đến năm 2007 con số này đã đạt xấp xỉ 12,2 tỷ USD. Tức là sau 5 năm, kim ngạch thương mại đã gấp 2,5 lần. Và một tín hiệu tốt là cán cân thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản khá là cân bằng, từ năm 2000 đến năm 2004, hàng năm chúng ta nhập siêu khoảng 50 triệu USD/năm, năm 2005-2006 chúng ta xuất siêu 300 - 500 triệu USD và đến năm 2007 chúng ta nhập siêu khoảng 108 triệu USD ( do có sự gia tăng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam, nên gia tăng nhập khẩu máy móc và thiết bị ). Theo số liệu của tổng cục thống kê, giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Nhật Bản trong giai đoạn 2003-2007 được thể hiện như sau: Bảng 1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Nhật Bản (2003-2007) Nguồn : Tổng cục thống kê Đơn vị tính : Triệu USD Các mặt hàng chính mà Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản bao gồm : Hàng dệt may : Đây là một trong những mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam, được xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Mặt hàng này đã góp phần tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động và làm gia tăng giá trị xuất khẩu của hàng Việt Nam tại các thị trường trên thế giới. Tại thị truờng Nhật Bản, hàng dệt may cùng với hàng thuỷ sản là hai mặt hàng lớn nhất của chúng ta xuất khẩu sang thị trường này. Hàng năm Nhật Bản nhập tầm 20 tỷ USD hàng dệt may từ các nước như Trung Quốc, Italia, Việt Nam, Hàn Quốc, Thái Lan. Trong đó thì Việt Nam chiếm 2,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản. Con số này còn rất khiêm tốn nếu so sánh với quốc gia bên cạnh chúng ta là Trung Quốc (chiếm hơn 80% lượng hàng dệt may nhập khẩu vào Nhật Bản) .Năm2007, kim ngạch hàng dệt may của chúng ta xuất sang Nhật Bản đạt khoảng 704 triệu USD, tăng 12,3% so với năm 2006. Các mặt hàng dệt may chính chúng ta xuất khẩu sang Nhật là áo jacket, áo khoác, áo thun, quần áo thể thao, áo sơ mi… trong đó chủ yếu là hàng dệt thoi. Hàng thủ công mỹ nghệ : chủ yếu là mây tre,gỗ khảm dát. Trong 2 năm gần đây thì hàng thủ công mỹ nghệ của chúng ta xuất sang thị trường Nhật Bản có xu hướng chững lại do hàng của chúng ta nghèo nàn về mẫu mã và giá cả kém cạnh tranh hơn so với các nước khác như Thái Lan, Philippin và Trung Quốc. Trong năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bắt đầu khởi sắc trở lại do nhu cầu tiêu dùng của người Nhật tăng và do các doanh nghiệp của chúng ta đã cải thiện khâu thiết kế mẫu, phối hợp nhiều loại nguyên liệu trên một sản phẩm làm tăng giá trị của sản phẩm và phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 121 triệu USD. Đồ gỗ : đồ gỗ xuất khẩu của ta sang Nhật Bản từ năm 2004 đến nay có tôc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 13%. Năm 2004, đồ gỗ của ta đạt 152 triệu USD, đứng thứ 4 trong các nước và lãnh thổ xuất khẩu vào Nhật Bản sau Trung Quốc, Đài Loan, và Thái Lan. Đây là mặt hàng hiện rất có tiềm năng tại thị trường Nhật Bản, dự kiến, xuất khẩu đồ gỗ trong các năm tiếp theo tăng khoảng 10% do sự gia tăng nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam. Thuỷ sản : tôm và mực đang là hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn. Tôm của Việt Nam xuât sang Nhật Bản đang là mặt hàng được người tiêu dùng Nhật bản ưa chuộng và có tốc độ tăng trưởng cao. Nhu cầu nhập khẩu tôm của Nhật Bản rất lớn, khoảng 1,9 tỷ USD/năm. Hàng năm, kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 450 triệu USD, chiếm hơn 23% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản và vươn lên vị trí thứ nhất khi vượt qua đối thủ cạnh tranh lâu nay là Indonesia ( 21,2% ). Hàng năm chúng ta cũng xuất khẩu sang Nhật Bản khoảng 92 triệu USD mực, tốc độ tăng trưởng bình quân 12%/năm, chiếm 7,6% thị phần và đứng thứ 5 trong số các nước xuất khẩu mực vào Nhật Bản. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây thì xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản gặp nhiều khó khăn do vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay, đã có trên 160 lô hàng của trên 82 công ty bị phát hiện vi phạm, có chứa các chất kháng sinh như chloramphenicol, AOZ, semicarbazide. Vì vậy, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản năm 2007 đã giảm sút, chỉ đạt 753 triệu USD. Nông sản : các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản gồm có cà phê, gạo, cao su, chè, hạt điều, tiêu, rau, hoa quả, lạc. Hiện nay Việt Nam chưa được phép xuất khẩu các loại quả tươi có hạt như thanh long, xoài, nhãn, đu đủ… do Việt Nam nằm trong danh sách các nước có dịch bệnh ruồi đục quả và bị cấm xuất khẩu các loại quả tươi có hạt theo Luật bảo vệ thực vật của Nhật Bản. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng để hoàn thành các thủ tục xoá bỏ rào cản kỹ thuật này, và đây hứa hẹn sẽ là một mặt hàng có tiềm năng trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Nhật Bản trong tương lai. Tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là rất lớn. Tuy nhiên, hàng hoá xuất khẩu của chúng ta còn nhiều yếu kém so với các nước khác cả về chất lượng, giá cả lẫn mẫu mã. Trong thời gian tới, chúng ta cần phải cải tiến toàn bộ quá trình sản xuất từ xây dựng vùng nguyên liệu, thu mua, chế biến cũng như những thay đổi trong mẫu mã để có thể tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản cũng như chiếm lĩnh thị phần lớn hơn. Bên cạnh đó cân phải chú ý tới các quy định của Nhật Bản như quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm để có sự thay đổi cho phù hợp, tránh rơi vào thế bị động. Để làm được điều này cần phải có sự nỗ lực và cố gắng từ cả phía Nhà nước cũng như từ phía các doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và khả năng thích ứng 2.1 Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 2.1..1 Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu Nhật Bản là một trong những thị trường nhập khẩu hàng nông sản lớn của thế giới, mức nhập khẩu các sản phẩm này lên tới gần 40 tỷ USD ( năm 2001). Trong khi đó xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang Nhật Bản năm đó chỉ đạt 45,1 triệu USD, hơn 1% nhập khẩu nông sản của Nhật Bản, một tỷ lệ rất là khiếm tốn. Đến năm 2002 thì kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản giảm xuống còn 40,2 triệu USD, có thể lý giải là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế do khủng bố năm 2001 tại Mỹ, khiến cho sức tiêu thụ của thị trường Nhật bị suy giảm. Tuy nhiên đến năm 2003 thì xuất khẩu nông sản sang thị trường này đã có dấu hiệu phục hồi, tăng 57,4% đạt mức kim ngạch 63,4 triệu USD. Năm 2005 xuất khẩu tăng mạnh đạt 131,634 triệu USD tăng gấp đôi năm 2003 và đạt mức cao nhất trong vòng năm năm đầu của thế kỷ mới. Nhưng sang năm 2006 thì xuất khẩu đã chứng lại, chỉ tăng 10,8% so với năm 2005, đạt giá trị 145,874 triệu USD. Về trị giá, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Nhật Bản thời kỳ 1996 – 2006, tăng trung bình hàng năm là 16,3%. Các mặt hàng nông sản chính mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đó là : cà phê, cao su, chè, điều nhân, hạt tiêu, hoa quả, lạc. Thông qua số liệu kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản hằng năm có thể thấy rằng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Nhật Bản biến động rất bất thường từ năm 1996 đến nay và biên độ biến động qua các năm là khá lớn. Trong hai năm 1996, 1997 xuất khẩu nông sản sang thị trường Nhật Bản giảm tương ứng là 14,5 % và 5,3%. Sang năm 1998 thì xuất khẩu tăng đột biến, tăng 35,5% so với năm trước. năm 1999 giảm 13,9%, đến năm 2000 lại tăng 7%. Năm 2001 và 2002 xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Nhật giảm tương ứng 7,9% và 10,7% , và đạt mức tăng cao nhất vào năm 2005 là 86,7%. Sang năm 2006 thì mức tăng chậm lại, chỉ tăng 10,8% so với 2005. Như vậy, chỉ trong vòng có 11 năm, trị giá hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đã không ngừng biến đổi, tăng giảm theo từng năm một. Tình hình xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Nhật Bản trong giai đoạn từ 2000 đến 2006 được phản ánh như sau: Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chính sang Nhật Bản Đơn vị : Giá trị 1.000USD, Khối lượng : tấn Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Cà phê KL 26.345 40.173 34.844 24.687 GT 20.947 17.858 15.594 18.564 22.251 25.939 44.923 Gạo KL 12.085 25.952 5.084 46.722 GT 2.541 4.124 951 8.100 28.762 53.424 43.096 Cao su KL 8.149 8.499 15.440 11.536 GT 5.669 5.229 10.447 11.986 12.231 16.435 23.823 Chè KL 1.859 1.223 2.967 3.547 GT 2.946 1.655 2.988 3.850 2.445 1.235 1.084 Hạt điều KL 824 1.183 1.340 747 GT 4.283 4.847 5.138 2.854 3.291 4.128 3.258 Tiêu KL 173 380 559 259 GT 601 519 635 359 675 793 1.658 Hoa quả GT 11.729 14.527 14.527 16.710 20.863 28.991 27.573 Lạc KL 444 906 858 1.477 GT 241 450 399 944 825 689 459 TổngGT 48.958 45.089 40.242 63.367 91.343 131.634 145.874 % hàng năm 7,01 7,90 10,75 57,46 44,1 86,7 10,8 Nguồn : Tổng cục hải quan Sự biến đổi của kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản cho thấy rằng hàng nông sản của chúng ta vẫn chưa thể tạo dựng được một vị thế vững chắc tại Nhật Bản. Việc sụt giảm của giá trị xuất khẩu trong một vài năm có thể lý giải là do nền kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái những năm 1997, 2001, dẫn đến việc giảm nhu cầu tiêu dùng; do chính sách bảo hộ nông sản của Nhật Bản; do tâm lý chuộng hàng nội của Nhật Bản và đặc biệt là do tâm lý lo ngại về vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân xuất phát từ phía Việt Nam như chất lượng hàng hoá còn kém và bất cập trong chính sách, trong quá trình thực hiện xuất khẩu của Việt Nam. Một số năm gần đây, đặc biệt như năm 2005, xuất khẩu nông sản của Việt Nam tăng mạnh là do các doanh nghiệp gặp khó khăn ở thị trường khác nên chuyển hướng xuất khẩu sang Nhật Bản, nhưng cũng có thể thấy rằng, sản phẩm của Việt Nam cũng đã dần khẳng định được vị trí của mình tại thị trường Nhật Bản. 2.1.2 Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam Năm 2004, trong tổng kim ngạch nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thì ba mặt hàng cà phê, cao su, rau quả chiếm 60,6% ; năm 2005 là 54,2% và năm 2006 là 66%. Có thể nói đây chính là ba mặt hàng chủ lực của hàng nông sản Việt Nam khi xuất khẩu sang Nhật Bản. Riêng mặt hàng cà phê năm 2004 đã chiếm đến 24,4% trong tổng giá trị nông sản xuất khẩu, năm 2005 có giảm xuống 19,7%, tuy nhiên đến năm 2006 đã vươn lên chiếm 30,8%. Tiếp đến là mặt hàng cao su năm 2004, 2005, 2006 chiếm tỷ lệ tương ứng là 13,4%, 12,5%, và 16,3%. Đối với mặt hàng rau quả thì tỷ lệ này lần lượt là 22,8%, 22% và 18,9%. 2.1.2.1 Cà phê Cà phê chiếm một vị trí rất quan trọng trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam, là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực và là mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn thứ hai sau gạo. Khoảng 95% sản lượng cà phê của Việt Nam được dùng cho xuất khẩu. Trong giai đoạn 1991 – 1995, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng cả về khối lượng và kim ngạch nhưng trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến nay thì khối lượng xuất khẩu tăng liên tục nhưng kim ngạch xuất khẩu lại biến động rất thất thường. Nguyên nhân là do sự biến đổi của giá cà phê trên thị trường thế giới, làm giảm tỷ trọng của xuất khẩu cà phê trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu cà phê quan trọng của Việt Nam. Nhưng trong giai đoạn 1997 - 2002, sản lượng xuất khẩu cà phê sang thị trường Nhật Bản giảm liên tục. Nếu như năm 1997, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đạt 19,72 triệu USD, chiếm 3,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam; năm 1998 là 37,92 triệu USD và 6,4% thì giai đoạn sau đó lại là sự suy giảm về giá trị xuất khẩu của cà phê Việt Nam sang Nhật Bản. Trong năm 2002, giá trị xuất khẩu cà phê chỉ đạt 15,59 triệu USD tương ứng với 4,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Bước sang năm 2003, xuất khẩu cà phê sang thị trường Nhật Bản phục hồi trở lại và tăng liên tục đến năm 2006, năm 2003 tăng 19,1% so với năm 2002 đạt giá trị 18,564 triệu USD, chiếm 5,4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Năm 2006, xuất khẩu đạt mức cao nhất tính từ năm 1997, đạt mức kim ngạch 44,9 triệu USD, chiếm 4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Sang năm 2007, do sự biến đổi của nhu cầu của thị truờng và do một ảnh hưởng rất lớn là do Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO nên kim ngạch xuất khẩu cà phể của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản tăng đột biến. Đạt mức giá trị 76,42 triệu USD. Tăng 70,2% so với kim ngạch xuất khẩu của năm 2006. Triển vọng năm 2008 sẽ đạt mức hơn 140 triệu USD, tức là gần gấp đôi kim ngạch năm 2007 (dựa trên thực tế xuất khẩu cà phê sang Nhật trong 9 tháng đầu năm 2008). Kim ngạch xuất khẩu của giai đoạn 1997 - 2008 được thể hiện qua biểu đồ sau: Bảng 2.2 Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang thị truờng Nhật Bản Đơn vị : triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 (9tháng) Kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam 501,5 391,3 322,3 504,8 612,1 956,9 1.121 1.854 1.610,4 Xuất khẩu sang Nhật Bản 20,95 17,86 15,59 18,564 22,3 25,9 44,9 76,42 106,56 Thị phần (%) 4,2 4,6 4,8 5,4 3,6 2,7 4,0 4,1 6,6 Nguồn : Tổng cục thống kê Sự suy giảm của cà phê xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 1997 -2002 là do giá cà phê thế giới trong thời kỳ này giảm mạnh làm giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam giảm và kim ngạch xuất khẩu cũng giảm. Theo tổng cục Hải quan, năm 1997 giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam là 1.270,4 USD/tấn và mức cao nhất là 1.554,9 USD/tấn thì năm 2001 giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam chỉ còn 419,9 USD/tấn, năm 2002 là 448,2 USD/tấn. Năm 2007, xuất khẩu cà phê vào thị trường Nhật Bản đã tăng trở lại mức cao nhất từ năm 1997 đến nay. Nguyên nhân là do giá cà phê trên thị trường thế giới đã phục hồi trở lại, bên cạnh đó Việt Nam cũng đã có những chiến lược xúc tiến phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê trong đó phát triển thị trường Nhật Bản là một trong những thị trường chiến lược. 2.1.2.2 Cao su Nhật Bản là một trong những nước tiêu thụ cao su lớn nhất trên thế giới gồm cả cao su tự nhiên và cao su nhân tạo. Nhưng Nhật Bản không phải là nước sản xuất cao su tự nhiên, nên phần lớn cao su của Nhật Bản là cao su nhập khẩu, chỉ có một phần nhỏ cao su nhân tạo và cao su tái chế là được sản xuất trong nước. Hiện nay, hơn 50% cao su thiên nhiên được sử dụng để sản xuất lốp xe. Các nhà sản xuất lốp xe, lốp máy bay của Nhật Bản đều chuyển sang chế tạo lốp hướng tâm - loại lốp sử dụng nhiều cao su thiên nhiên nhất. Vì vậy, trong những năm tới tiêu thụ các loại sản phẩm cao su như TSR 10, TSR 20, cao su tấm, xông khói ( RSS ) đáp ứng nhu cầu sản xuất săm lốp các loại, các đồ gia dụng sẽ gia tăng tại Nhật Bản. Bảng 2.3: Tiêu thụ, nhập khẩu và nhập khẩu cao su thiên nhiên từ Việt Nam của Nhật Bản Đơn vị : 1000 tấn 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tiêu thụ 751,8 724,4 765,8 783,4 826 812,7 Nhập khẩu 802, 713 772 795 847 825,3 Từ Việt Nam 8,149 8,499 5,446 11,986 12,143 12,698 Nguồn : Nhóm nghiên cứu cao su thế giới IRSG Quan sát số liệu ở bảng trên có thể thấy rất rõ là hiện nay Việt Nam cũng mới chỉ xuất khẩu được một lượng nhỏ cao su sang Nhật Bản. Năm 2000, trong tổng số 802 nghìn tấn cao su nhập khẩu của Nhật Bản thì Việt Nam chỉ xuất khẩu được 8,149 nghìn tấn, chiếm khoảng 1% tổng lượng tiêu thụ cao su của Nhật Bản, đây là một con số rất thấp. Đến 2005, khối lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản tuy có gia tăng nhưng vẫn không đáng kể. Năm 2007, chúng ta xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản 12,1 ngàn tấn cao su, đạt mức giá trị 26,8 triệu USD. Chủ yếu là cao su SVR 3L và cao su ly tâm, nhưng 2 loại cao su này lại là chủng loại tiêu thụ rất ít tại Nhật. Trong khi đó, 2 chủng loại được tiêu thụ nhiều là RSS3 và TSR 20 thì lại được sản xuất rất ít ở Việt Nam. Đến nay, chỉ có một số ít công ty của Việt Nam xuất khẩu được sang thị trường Nhật Bản. Đó là các công ty có sản phẩm chất lượng cao và có uy tín như Công ty cao su Dầu tiếng, Công ty cao su Bà Rịa, Công ty cao su Phước Hoà, Công ty cao su Đồng Phú và Công ty cao su Đồng Nai. Sau đây là bảng so sánh kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và một số thị trường khác trong 9 tháng đầu năm 2008. Bảng 2.4 Xuất khẩu cà phê sang một số thị trường 9 tháng đầu năm 2008 Nguồn : Tổng cục thống kê Đơn vị : triệu USD Tiêu thụ cao su của Nhật Bản có xu hướng giảm là do nhu cầu trong nước đang đình trệ và do sự suy thoái của nền kinh tế. Điều này tác động trực tiếp tới các nước xuất khẩu cao su, đặc biệt là Thái Lan vì Nhật Bản là nước nhập khẩu cao su lớn nhất của Thái Lan. Tuy nhiên, khi các thị trường như vậy bị suy giảm thì những nước xuất khẩu cao su lớn như Thái Lan, Indonesia và Malaysia sẽ chuyển hướng xuất khẩu cao su sang các thị trường truyền thống của Việt Nam do đó xuất khẩu cao su của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. 2.1.2.3 Rau quả Hàng năm Nhật Bản tiêu thụ khoảng 17 triệu tấn rau quả với mức tiêu thụ bình quân đầu người đạt khoảng 100kg, mức tiêu thụ vào laọi cao nhất thế giới. Tiêu thụ các lại rau xanh giàu Vitamin có xu hướng tăng lên trong khi tiêu thụ các loại rau như cải bắp Trung quốc, daikon ( củ cải Nhật Bản ) có xu hướng giảm đi. Tiêu thụ của các hộ gia đình giảm đi trong khi đó tiêu thụ trong công nghiệp ( của các nhà máy chế biến thực phẩm và dịch vụ ăn uống ) tăng lên do những thay đổi trong phong cách sống của người Nhật Bản và sự phát triển của các phương tiện bảo quản, vận chuyển, chế biến. Trong 5 năm 1997 – 2001, nhập khẩu rau tươi và rau đông lạnh vào thị trường Nhật Bản đã tăng từ 1,17 triệu tấn lên 1,70 triệu tấn, Nhập khẩu rau tươi tăng mạnh trong hai năm 1998, 2001 do mưa lớn làm ảnh hưởng đến sản xuất rau nội địa của Nhật Bản. Nhập khẩu rau tươi đã tăng từ 543.283 tấn năm 1997 lên 929.214 tấn trong năm 2001, tăng 5,3% so với năm trước, đạt 90 tỷ Yên. Các loại rau nhập khẩu chủ yếu là hành, bí ngô, cải bắp và bông cải xanh. Ba loại rau này chiếm tới 59,7% tổng lượng rau tươi nhập khẩu năm 2001. Xu hướng này đã làm cho nhập khẩu các loại rau ít quen thuộc với thị trường Nhật Bản như rau diếp, hẹ, tỏi tây, củ cải đường tăng mạnh trong những năm gần đây. Sau năm 2001, nhập khẩu rau tươi vào thị trường Nhật Bản có xu hướng giảm. Năm 2004 lượng nhập khẩu chỉ đạt 887.607 tấn bằng 95,5% so với năm 2001. Năm 2005 lượng nhập khẩu giảm xuống còn 753.082 tấn bằng 84,4% năm 2004. Nguyên nhân là trong những năm gần đây khí hậu thuận lợi, cùng với chính sách “nội địa hoá hàng nông sản” của chính phủ Nhật Bản đã làm cho sản lượng rau tươi nội địa tăng lên đồng thời hạn chế lượng rau nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy nhiên, dù Nhật Bản có nền nông nghiệp trình độ cao nhưng nhiều mặt hàng sản xuất trong nước mới chỉ đap ứng được 10 - 15% nhu cầu. Chính vì vậy, đây chính là sức ép khiến chính phủ Nhật Bản phải mở rộng cửa cho việc nhập khẩu hàng nông sản nói chung và rau tươi nói riêng. Nhật Bản nhập khẩu gần 3 tỷ USD rau quả mỗi năm nhưng Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang Nhật Bản khoảng 7 – 8 triệu USD/năm trong giai đoạn 1997 - 2005. chiếm chưa đầy 0,3% thị phần rau quả trên thị trường Nhật Bản, đây là một con số rất khiêm tốn. Sang năm 2007, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Nhật Bản đã tăng lên mức 26,4 triệu USD, tức là chiếm 8,6% so với kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong năm 2007 (305,6 triệu USD). Từ đó có thể thấy Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu rau quả lớn của chúng ta. Nhưng mức kim ngạch này vẫn còn chưa tương xứng với tiềm lực phát triển của ngành nông sản xuất khẩu. Chín tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu sang Nhật Bản 22,9 triệu USD hàng rau quả. Dự báo năm 2008, giá trị kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường này có thể đạt mức 30 triệu USD. Sau đây là biểu đồ thị phần xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2008. Bảng 2.5 Thị phần xuất khẩu rau quả 9 tháng đầu năm 2008 Tiềm năng xuất khẩu các mặt hàng rau quả rất lớn do người Nhật có nhu cầu cao về hành, cải bắp, gừng, ớt, chuối, cam, dứa, xoài… những loại được trồng phổ biến ở Việt Nam. Rau quả Việt Nam có một số loại đã được chấp nhận tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, chất lượng, thời hạn giao hàng và độ đồng đều của hoa quả Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía Nhật. Ngoài ra, một số loại hoa quả của Việt Nam vẫn chưa được xuất khẩu vào Nhật Bản do Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia có dịch bệnh ruồi đục quả và một số dịch bệnh khác, đây là một điều đáng tiếc cho xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu hoa quả nói riêng của Việt Nam. Hiện nay, bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn đang cố gắng khắc phục những yếu điểm này, để nhiều mặt hàng hoa quả của Việt Nam có thể có mặt tại thị trường Nhật Bản và đây sẽ là những mặt hàng có nhiều tiềm năng trong tương lai. 2.2 Khả năng thích ứng của hàng nông sản Việt Nam Trơng thời gian qua, hàng nông sản Việt Nam vẫn duy trì được thị phần tại thị trưòng Nhật Bản, giá trị xuất khẩu tăng theo từng năm. Điều này cho thấy, hàng nông sản của Việt Nam ngày càng thích nghi tốt hơn với thị trường khá là “khắt khe” này. Các sản phẩm của chúng ta ngày càng được đa dạng hoá về mẫu mã và chủng loại sản phẩm để đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản. Như mặt hàng cao su của Việt Nam, trước đây chúng ta chủ yếu xuất khẩu chủng loại cao su SVR3L. Đây là chủng loại mà Nhật Bản ít có nhu cầu. Chính vì vậy, các công ty cao su của Việt Nam hiện nay đã chuyển đổi cơ cấu sản phẩm sang các chủng loại cao su như SVR10, SVR20, mủ latex, CV để thích nghi hơn với nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, ở một số mặt hàng vẫn còn sự hạn chế về chủng loại. Có những chủng loại sản phẩm mà chúng ta không sản xuất được, điều này dẫn đến sự yếu kém trong khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam so vớí hàng hoá của các đối thủ như Trung Quốc, Thái Lan … và để mất cơ hội gia tăng giá trị xuất khẩu sang Nhật. Các doanh nghiệp của Việt Nam cũng đã có nhiều biện pháp xúc tiến thương mại quảng bá sản phẩm vào thị trường Nhật Bản. Nhưng các doanh nghiệp còn thiếu kỹ năng về marketing đặc biệt là đối với thị trường đặc thù như Nhật Bản nên hiệu quả thu được chưa cao. Bên cạnh đó, chúng ta chưa xây dựng được những thương hiệu vững mạnh cho hàng nông sản. Chúng ta mới chỉ có một vài thương hiệu như cà phê Trung Nguyên, bưởi Năm roi … Thiếu thương hiệu có uy tín, tên tuổi khiến cho hàng hoá của chúng ta khó xâm nhập được vào thị truờng Nhật Bản. Như đã trình bày ở chương 1, các doanh nghiệp Nhật Bản có những tạp quán kinh doanh rất là đặc thù như coi trọng chữ tín trong quan hệ bạn hàng, yêu cầu thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong hợp đồng. Họ cũng nghiên cứu rất kỹ về đối tác trước khi quyết định làm ăn cùng. Người Nhật thuờng đến tận cơ sở của đối tác để xem xét công nghệ sản xuất, điều kiện lao động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng chưa chuẩn bị tốt những điều này để gây thiện cảm với đối tác. Và họ có những nét văn hoá đặc trừng riêng biệt, nếu không chú ý có thể dễ gây mất lòng. Nhưng các doanh nghiệp của chúng ta chưa ý thức được điều này. Đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất là thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản cũng như kinh nghiêm làm ăn với người Nhật. Bởi vậy, mặc dù có nhiều doanh nghiệp khá là thành công đối với thị trường Mỹ hay EU nhưng do không có sự hiểu biết cần thiết nên họ vẫn gặp nhiều khó khăn tại thị trường Nhật, và mất rất nhiều thời gian nhưng vẫn chưa hoàn toàn thích ứng được với thị trường này. Hiện nay, các loại quả tươi có hạt của Việt Nam chưa được xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản do Luật Bảo vệ thực vật của Nhật liệt Việt Nam vào danh sách các nước có dịch bệnh ruồi đục quả. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đang có chương trình hợp tác với Nhật Bản về nâng cao năng lực kiểm dịch ruồi đục quả của Việt Nam, trước mắt thí điểm trên quả thăng long. Đây có thể nói là sự chậm chập trong thích ứng của hoa quả Việt Nam đối với các quy định của Nhật Bản. Chúng ta đã bỏ lỡ một thị trường lớn, và đặc biệt là trong thời gian gần đây, nhu cầu tiêu thụ hoa quả của Nhật Bản. Đặc biệt là các loại quả có hạt đang tăng mạnh. 2.3 Đánh giá 2.3.1 Thành công - Duy trì được thị phần của hàng nông sản Việt Nam tại Nhật Bản : Trong những năm vừa qua, xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản có nhiều biến động, tùy từng thời kỳ mà tăng giảm khác nhau, tuy nhiên trong vòng 4 năm gần đây tăng mạnh hơn. Điều này cho thấy hàng nông sản Việt Nam cơ bản đã duy trì được vị trí trên thị trường Nhật Bản, xứng đáng là mặt hàng tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. - Chất lượng hàng hoá ngày càng được khẳng định : Các sản phẩm nông sản Việt Nam bước đầu đã khẳng định được mình bằng uy tín, chất lượng của sản phẩm. Ngày càng được người tiêu dùng Nhật Bản chấp nhận, điều này chứng tỏ hàng nông sản của chúng ta có thể cạnh tranh cùng các đối thủ khác trên thị trường Nhật Bản. Mặc dù xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản có giảm vào các năm 1997, 1999 và 2002 nhưng nguyên nhân chủ yếu của nó là do yếu tố khách quan bên ngoài : khủng hoảng kinh tế Châu Á, khủng hoảng kinh tế Nhật Bản. Cà phê của Việt Nam được đánh giá rất cao, trở thành một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn vào thị trường Nhật Bản. Nhiều loại rau, hoa quả tươi của Việt Nam cũng rất được người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng. - Tiếp cận tốt hơn với hệ thống kênh phân phối trên thị trường Nhật Bản : Trước đây, do các doanh nghiệp của Việt Nam chưa hiểu biết nhiều về thị trường Nhật Bản và cũng như hạn chế về năng lực nên không thể xuất khẩu trực tiếp hàng hoá sang Nhật Bản mà phải xuất khẩu thông qua trung gian như Singapor, Hong Kong. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất khẩu trực tiếp cho các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam có thể xâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường này thông qua việc mở văn phòng đại diện hay lập chi nhánh tại Nhật. 2.3.2 Hạn chế Chất lượng hàng hóa chưa cao : nếu so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn kém hơn so với các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin. Thực tế là hàng hóa nông sản của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản phần lớn là nguyên liệu thô, chưa qua chế biến nên giá trị còn thấp. Những hàng hoá đã qua chế biến cũng có chất lượng thấp hơn so với các nước khác. Hoàn toàn chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường này. Nguyên nhân là do tình trạng thiếu công nghệ, kỹ thuật trong khâu chế biến và chất lượng đầu vào còn thấp. Giá hàng hóa cao : Cùng một mặt hàng nhưng nếu đem so sánh với những đối thủ cạnh tranh khác thì hàng hoá của Việt Nam có phần cao hơn. Có thể thấy đây là do nguồn nguyên liệu không đảm bảo, năng suất lao động thấp và thiếu quy hoạch trên diện rộng dẫn đến chi phí sản xuất của chúng ta tăng cao. Điều này đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Hoạt động xúc tiến thương mại chậm chập và chưa đem lại hiệu quả : các hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam còn triển khai chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu, hoạt động của các hiệp hội ngành hàng chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, môi trường xã hội và các thể chế hỗ trợ xuất khẩu chậm được cải thiện và thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu cho phù hợp : thực tế quy hoạch vùng nguyên liệu ở nước ta còn nhiều bất cập. Chưa xây dựng được những vùng sản xuất chuyên cho xuất khẩu, chưa lập được những doanh nghiệp có quy mô lớn có thể đầu tư cho cả quá trình sản xuất từ khâu nguyên liệu. Chính vì vậy, việc sản xuất cho xuất khẩu nông sản còn nhỏ lẻ, mang tính tự phát là chính. Điều này khiến cho việc thu mua, đảm bảo nguồn cung cho xuất khẩu rất là khó khăn. Hạn chế tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các nước khác. 2.3.3 Nguyên nhân 2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan - Thị trường Nhật Bản có tính bảo hộ cao, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản. Do đó khi xuất khẩu nông sản sang thị trường Nhật Bản thường gặp rất nhiều trở ngại như hạn ngạch thuế quan, các rào cản về môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm… Các đảng phái chính trị của Nhật Bản cũng đều có xu hướng bảo hộ người nông dân. Vì vậy các chính sách của Nhật Bản đều đi theo xu hướng này. Hiện nay, Nhật Bản vẫn duy trì mức trợ cấp cao đặc biệt là đối với mặt hàng nông sản. Mức trợ cấp nông sản của Nhật Bản là 1,4% so với GDP. - Do suy thoái kinh tế kéo dài trong thời gian qua ảnh hưởng tới mức chi tiêu và tâm lý tiêu dùng của người dân Nhật Bản, nhu cầu đối với các mặt hàng đang thu hẹp, đặc biệt là những mặt hang có chất lượng cao do chi phí cao trong khi suy thoái kinh tế dẫn đến mức thu nhập giảm xuống. - Các thủ tục nhập khẩu của Nhật Bản rất rườm rà và làm tăng chi phí trong quá trình xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài mục đích quản lý ra thì các thủ tục nhập khẩu của Nhật Bản còn có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước. Do đó các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ về các thủ tục nhập khẩu của Nhật Bản, hoặc là xuất khẩu qua các nhà nhập khẩu của Nhật Bản bởi họ là những người nắm rõ về các yêu cầu này. - Các yêu cầu về vệ sinh thực phẩm của Nhật tương đối cao, có thể nói là khắt khe hơn rất nhiều so với các thị trường khác đối với hàng nông sản. Nếu như hàng nhập khẩu không đáp ứng được các tiêu chuẩn về dư lượng kháng sinh, nồng độ các chất độc hại thì cả lô hàng có thể bị trả lại và Nhật Bản sẽ tiến hàng kiểm tra gắt gao với mặt hàng này. Do đó, cần phải đáp ứng tốt các tiêu chuẩn này thì mới có thể xâm nhập thị trường Nhật Bản. - Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Nhật Bản thường không giống như những sản phẩm mà Việt Nam xuất khẩu. Như một số chủng loại cao su và phần lớn các loại rau quả mà Nhật Bản nhập khẩu nhiều thì Việt Nam không có hoặc có rât ít. Chính vì sự khác biệt này nên hàng nông sản Việt Nam rất khó xâm nhập thị trường này do chỉ đáp ứng nhu cầu của một số lưọng nhỏ khách hàng. Ngoài ra, đối với thị trường sản phẩm thô, giá những sản phẩm thô cùng loại của các nước khác như Ấn Độ, Indonesia thường rẻ hơn hàng hoá Việt Nam rất nhiều, do đó tính cạnh tranh của những mặt hàng này của Việt Nam chưa cao. 2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan - Đặc điểm của sản xuất Việt Nam là làm an manh mún, nhỏ lẻ, chưa có các trang trại hay các doanh nghiệp lớn. Hình thức chủ yếu chỉ là các hộ gia đình với diện tích canh tác nhỏ, vốn ít. Giữa các hộ gia đình này còn thiếu sự liên kết chặt chẽ mà còn theo xu hướng tách biệt. Chính vì vậy, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất gặp rất nhiều hạn chế và kết quả đạt được không cao : nguồn nguyên liệu cho sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao và không đồng đều. Hội nhập là xu thế tất yếu, nhưng một cuộc cạnh tranh hoàn toàn không cân sức: Một bên là các hộ tiểu nông Việt Nam với quy mô từ 0,3 – 0,5 ha/hộ chia thành 5-9 mảnh ruộng nhỏ. Bên kia là các hộ sản xuất từ 3 - 5 ha của Thái Lan, từ 30 - 50 ha của châu Âu… với công nghệ và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh hơn, thưa tiến sĩ? Tình trạng sản xuất manh mún, nhất là ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, là một hệ thống sản xuất lạc hậu đã tồn tại hàng nghìn năm... Rõ ràng, mở rộng quy mô sản xuất là nhu cầu bức thiết và sống còn trong tương lai. Đây là việc làm không dễ dàng. Việt Nam đã ban hành chính sách về phát triển kinh tế trang trại, đang khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, khuyến khích chuyện liên kết “4 nhà”, khuyến khích phát triển doanh nghiệp, cho phép thuê, mướn, liên doanh, liên kết dồn điền, đổi thửa để mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, vẫn nên tính đến một quyết sách mạnh mẽ hơn, đủ sức đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng bế tắc mà những nền kinh tế châu Á khác đã không còn cơ hội vượt qua nổi. ( Theo , Trung tâm tư vấn chính sách ) Ai cũng thấy: Hơn 80% sản lượng càphê của VN do các hộ cá thể sản xuất. Đây là đối tượng sản xuất hoàn toàn tự do, chẳng có ai quản lý về quy trình sản xuất, thu hái chế biến. Và vì thế mỗi hộ tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, sở thích mà có cách làm khác nhau. Đa số các hộ dân vào mùa thu hái đều có chung suy nghĩ “xanh nhà hơn già đồng”, vì thế họ tuốt cả cành lúc quả còn xanh. Hái xanh, tuốt cả cành, có lợi về công thu hái, đỡ bị mất cắp, nhưng sẽ làm giảm sản lượng (khoảng 10%) và giảm chất lượng (hương vị càphê sẽ không bảo đảm đúng như bản chất vốn có của nó). Việc phơi phóng sau khi thu hái cũng mỗi hộ mỗi cách, tuỳ theo điều kiện. Có nơi được phơi trên sân ximăng khá sạch sẽ, có nơi phải đổ trên sân đất, gặp năm thời tiết mưa nhiều thì hạt càphê lẫn trong bùn đất. Nên khi thử nếm càphê có mùi đất và cả mùi nấm mốc là điều dễ hiểu. Trong chế biến, các hộ cá thể chỉ biết làm theo cách cổ truyền: Phơi khô, xát vỏ, nên màu sắc không đẹp, nhiều hạt bị giập vỡ. Cũng vì vậy mà chất lượng càphê VN không cao, không đồng đều. - Sản phẩm nông sản của Việt Nam còn phụ thuộc rât nhiều vào điều kiện tự nhiên và phát triển mang tính chất mùa vụ, theo phong trào. Do đó dẫn đến tình trạng nguồn cung hàng nông sản xuất khẩu không được ổn định, khi thừa, khi thiếu, dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực và gây tổn thất không nhỏ cho bà con nông dân. - Khó khăn về vốn, trình độ khoa học và công nghệ trong quá trình sản xuất, thu hoạch, chế biến dẫn đến tình trạng hao hụt trong thu hoạch, chất lượng sản phẩm chế biến có chất lượng kém. Vì vậy, các sản phẩm đã qua chế biến của Việt Nam vẫn còn chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản. - Tình trạng thiếu hụt cán bộ, kỹ sư trong ngành nông nghiệp là rất đáng báo động. Những người tham gia vào sản xuất nông sản xuất khẩu chủ yếu là những người nông dân với trình độ học vẫn thấp và hầu như không được đào tạo cũng như hướng dẫn về các kỹ thuật trồng trọt khoa học. Đội ngũ cán bộ quản lý về hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản còn ít về số lượng và yếu về chuyên môn, hiểu biết về thị trường cùng với những quy định và tiêu chuẩn của thị trưòng Nhật Bản nói riêng và thị trưòng thế giới nói chung còn hạn chế. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong ngành này cũng chưa được quan tâm đúng mức. - Năng lực tiếp cận thị trường còn thấp: Các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa nhanh nhạy trong việc nắm bắt các yêu cầu và biến động của thị trường Nhật Bản. Chính sự thụ động này khiến cho chúng ta không có sự thay đổi kịp thời để nắm bắt các cơ hội. Cũng chính vì chưa đủ năng lực tiếp cận thị trường nên các doanh nghiệp Việt Nam phải xuất khẩu gián tiếp thông qua nước thứ ba. Bản thân các doanh ngiệp cũng phần lớn chỉ ở quy mô vừa và nhỏ có trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và chuyên môn hạn chế, năng lực kém, chưa có chiến lược phát triển kinh doanh lâu dài và ổn định. Chúng ta cũng chưa xây dựng được những thương hiệu nông sản vững mạnh và có uy tín trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng. Vì vậy, làm giảm khả năng xâm nhập của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này. Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 3.1 Dự báo nhập khẩu nông sản của Nhật Bản tới 2010 Để dự đoán xu hướng nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trong thời gian tới chúng ta cần xét tới những yếu tố sau : tăng trưỏng kinh tế, dân số, tập quán tiêu dùng trong đó thì những yếu tố như thu nhập, giá cả và thói quen tiêu thụ là quan trọng nhất. Dân số : đây là yếu tố không thuận lợi đối với việc tăng tiêu thụ hàng hoá tại Nhật Bản, bởi hiện nay dân số Nhật vào khoảng 128 triệu người nhưng tỷ lệ tăng dân số lại ở mức rất thấp. Theo dự báo thì tỷ lệ tăng dân ở nước này trong một vài năm tới vào khoảng 0,10% - 0,15%/năm. Kinh tế : sau cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2001 do ảnh hưởng của khủng bố tại nước Mỹ, đến năm 2003 nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu hồi phục. Trong vài năm gần đây kinh tế Nhật Bản có sự phát triển khá ổn định và có khá nhiều dự báo lạc quan. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ nổ ra thì nó đã ảnh hưỏng rất lớn tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Do đó, kinh tế Nhật Bản trong thời gian qua có sự biến đổi rất phức tạp. Điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa do thu nhập có xu hướng giảm, không ổn định trong thời gian tới. 3.1.1 Cà phê Nhập khẩu cà phê của Nhật bản được dự báo là sẽ tăng với tốc độ tăng truởng dương theo hai phương án đó là 2,5%/năm, và 4%/năm trong thời gian tới cho đến 2010. Dự báo này được lập căn cứ vào tình hình tiêu thụ thực tế cà phê của thị trưòng Nhật Bản trong những năm qua và có triển vọng tăng trong những năm tới do tiêu thụ chưa tới mức bão hoà và tác động ảnh hưởng của các chiến dịch xúc tiến xuất khẩu. Dự báo cụ thể về nhập khẩu cà phê hạt Nhật Bản theo hai phương án như sau: Bảng 3.1: Dự báo nhập khẩu cà phê của Nhật Bản Đơn vị : tấn TT2000 TT2002 TT2005 DB2010 Phương án thấp 2,5%/năm 382.230 427.685 495.926 557.916 Phương án cao 4%/năm 382.230 427.685 495.926 595.111 3.1.2 Cao su Nhập khẩu cao su thiên nhiên dự báo sẽ tăng chậm hơn tốc độ nhập khẩu nông sản chung ở quy mô thế giới. FAQ dự báo nhập khẩu cao su thiên nhiên thế giới đạt 5,5 triệu tấn vào năm 2007 với nhịp độ bình quân 1,7%/năm và năm 2010 mức nhập khẩu sẽ là 5,8 triệu tấn với nhịp độ tăng bình quân 1,8%/năm. Trong đó, nhập khẩu cao su thiên nhiên của các nước phát triển chỉ tăng khoảng 1%/năm. Về nhập khẩu cao su Nhật Bản được nhóm nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG) dự đoán như sau : Bảng 3.2 : Dự báo nhập khẩu cao su của Nhật Bản Đơn vị sản lượng : 1000 tấn 2000 2001 2007 2010 Tính theo sản lượng Thế giới 5.300 4.880 5.502 5.804 Nhật Bản 802 740 825 890 Tính theo % Thế giới 100 100 100 100 Nhật Bản 15,1 15,2 15 15,3 3.1.3 Rau quả Cùng với những đặc điểm của thị trưòng rau quả Nhật Bản và xu hướng phát triển thị trường thời gian tới cùng với sụ tác động của các yếu tố : mở cửa thị trường nông sản theo các cam kết trong khuôn khổ WTO và các hiệp định khu vực thương mại tự do song phương và đa phương khác; trong nước không có khả năng sản xuất các rau quả nhiệt đới; sự phát triển của khoa học kỹ thuật … nhập khẩu rau quả các loại của Nhật Bản dự báo là sẽ tăng với tốc độ tương đương với tốc độ tăng của nhập khẩu nông sản nói chung vào Nhật. Dự báo cụ thể như sau : Bảng 3.3 : Dự báo nhập khẩu rau, hoa quả của Nhật Bản TH2000 TH2001 TH2005 DB2010 Nhập khẩu rau tươi Phương án thấp 2,5%/năm 881.116 929.214 753.082 847.217 Phương án cao 4%/năm 881.116 929.214 753.082 903.698 Nhập khẩu quả các loại Phương án thấp 2,5%/năm 1.592.150 1.526.644 1.667.589 1.887.288 Phương án cao 4%/năm 1.529.150 1.526.644 1.667.589 2.013.107 Đơn vị : tấn 3.2 Những lợi thế và ưu đãi trong quan hệ thương mại với Nhật Bản Trong thời gian tới, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần phải tận dụng tối đa các ưu đãi mà Nhật Bản dành cho Việt Nam trong quan hệ thương mại giữa hai nước thông qua các cam kết, hiệp định ưu đãi thuế quan đã kí kết. Đó là các ưu đãi sau : Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP : đây là hệ thống thuế ưu đãi mà Nhật Bản dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trưòng Nhật Bản. Ưu điểm của GSP là có mức thuế thấp hơn mức thuế xuất nhập khẩu tối huệ quốc MFN và có tính cạnh tranh hơn. Hằng năm, vào tháng 4 thì Bộ tài chính Nhật Bản sẽ công bố danh mục các loại hàng hoá được hưởng GSP. Các doanh nghiệp của Việt Nam nên tận dụng các ưu đãi này bằng cách tham khảo trên trang web của Bộ tài chính Nhật Bản (www.mof.go.jp) để nắm bắt được thông tin và có kế hoặch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản. Thuế quan ưu đãi trong khuôn khổ Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP): Ngày 01/04/2008, Việt Nam chính thức kí hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản. Các nước ASEAN khác cũng đã hoàn thành xong việc kí kết hiệp định này. Trong khuôn khổ của Hiệp định AJCEP, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị thương mại hai chiều Việt - Nhật trong vòng 16 năm. Đổi lại, Việt Nam được hưởng lợi từ ưu đãi của Nhật Bản cam kết dành chung cho ASEAN. Theo cam kết AJCEP, NHật Bản đã loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị thương mại Việt - Nhật trong vờng 10 năm. Những cam kết này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng nông sản nói riêng thâm nhập vào thị truờng Nhật Bản. Những ưu đãi trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam : Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO từ ngày 11/01/2007 với cam kết giảm thuế nhập khẩu hàng hoá từ mức bình quân hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm và mở cửa 11/12 ngành dịch vụ gồm 110 phân ngành theo quy định của WTO, trong đó một số ngành quan trọng như dịch vụ kinh doanh, viễn thông, phân phối, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán …Các doanh nghiệp có thể tận dụng những ưu đãi này để nhập khẩu nguồn nguyên vật liệu và công nghệ của Nhật Bản để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ cao xuất khẩu ngược trở lại Nhật Bản. Ưu đãi thuế suất trong Hiệp định đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (EPA): EPA là hiệp định hợp tác mang tầm chiến lược trên nhiều lĩnh vực gồm thương mại hoá, thương mại dịch vụ, thủ tục hải quan, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh, hợp tác kiểm dịch động thực vật và các nội dung hợp tác kinh tế khác. Nhật Bản yêu cầu phía Việt Nam mở cửa hơn nữa cho sản phẩm công nghiệp của Nhật. Ngược lại, Nhật Bản cũng sẽ mở cửa nhiều hơn cho hàng dệt may, thuỷ sản, nông sản xuất khẩu vào thị trường này. Theo đó, 90% kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ được cắt giảm thuế suất xuống 0% trong quá trình thực hiện Hiệp định. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các quy định của Hiệp định cùng với các bảng biểu kèm theo để có phương án tốt nhất trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Nhật Bản. 3.3 Những giải pháp nhằm tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản 3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước - Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu, quy hoạch vùng sản xuất, nguyên vật liệu : hiện nay, chúng ta còn thiếu các chiến lược xuất khẩu các mặt hàng cụ thể đối với một thị truờng cụ thể, ví dụ : chiến lược xuất khẩu hàng nông sản sang thị trường Nhật Bản. Chính việc thiếu vắng các chiến lược xuất khẩu ngành, sản phẩm cụ thể sang các thị trưòng nhất định là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thời gian qua còn yếu kém. Vì vậy, để đạt được mục tiêu phát triển xuất khẩu sang Nhật Bản thời gian tới, Nhà nước cần chỉ đạo và điều phối việc xây dựng các kế hoạch chiến lược xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần rà soát lại công tác quy hoạch, các định chính xác diện tích đất sử dụng không có hiệu quả, nhanh chóng khắc phục được tình trạng quản lý và sử dụng đất đai ở các nông, lâm trường quốc doanh. Khuyến khích nông dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để thành những thửa ruộng lớn thuận tiện cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp tập trung đầu tư một cách đồng bộ cho các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung nhằm tạo vùng nguyên liệu lớn, ổn định cả về khối lượng và chất lượng, gắn chặt với các cơ sở chế biến và xuất khẩu. - Thực hiện chuyển đổi mô hình sản xuất trong nông nghiệp : để cho sản phẩm nông sản của Việt Nam có chất lượng đồng đều và ổn định, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trưòng thì sản xuất nhỏ lẻ, mô hình hộ gia đình không còn phù hợp. Do đó, việc chuyển đổi sang mô hình tập thể hay kinh tế trang trại là nhu cầu khách quan. Chính phủ cần công khai quy hoạch đất đai, có chính sách đền bù giải phóng mặt bằng rõ ràng và cụ thể, giảm thiểu các chi phi giao dịch và các chi phí không chính thức khác khi doanh ngiệp xin cấp đất sản xuất, kinh doanh. Cho phép chuyển nhượng và chuyển đổi mục đích sử dụng đất hợp lý. Tuy nhiên cần lường trước các khó khăn phát sinh khi các hộ gia đình không thể thích nghi và bị đào thải. Cần có chương trình đào tạo việc làm, hỗ trợ việc làm cho những hộ nông dân này. - Nhà nước thực hiện các chính sách đầu tư và tài chính nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát triển xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Nhật Bản : nhà nước cần thực hiện nhiều dự án đầu tư vào khu vực sản xuất nông sản phục vụ cho xuất khẩu. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp tham gia sản xuất nông sản xuất khẩu như ưu đãi về thuế, cho vay tín dụng, hoặc thông qua việc đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho sản xuất. - Tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp đựoc tiếp cận dễ dàng với các nhân tố sản xuất đầu vào : hiện nay, các nhân tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp Việt Nam yếu cả về chi phí và chất lượng. Điều này dẫn đến kết quả tất yếu là sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng thấp và giá thành cao, giảm tính cạnh tranh với các mặt hàng của các nước khác. Do các ngành công nghiệp phụ trợ nông nghiệp ở Việt Nam chưa phát triển để đáp ứng đủ nhu cầu và có chi phí cao so với thế giới, nên để năng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản, có thể coi việc nhập khẩu các sản phẩm phụ trợ là cần thiết. Bên cạnh việc phát triển các ngành phụ trợ trong nước thì thông qua các chính sách thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp nông sản có được các tư liệu sản xuất cần thiết với giá thành thấp, chất lượng phù hợp. Nhà nước cần phải hỗ trợ tìm kiếm các nguồn máy móc chế biến, máy móc đóng gói phù hợp với quy mô và có chất lượng sản phẩm tốt, danh mục hoá các loại sản phẩm này và khuyến nghị các doanh nghiệp nông sản nhập khẩu để đưa vào quá trình sản xuất và chế biến. Bên cạnh đó, nhà nước hỗ trợ thông qua đào tạo ngắn và trung hạn về các vấn đề then chốt cho phát triển năng lực doanh nhân nông nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể tận dụng thời có từ việc cắt giảm thuế quan để bán sản phẩm sau đó nhập khẩu các công nghệ và thiết bị chế biến nông sản từ các nước ASEAN và Trung Quốc. - Thực hiện liên kết giữa Nhà nước – nông dân – nhà khoa học – doanh nghiệp – ngân hàng và truyền thông : Nhà nước có thể hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp hộ gia đình thông qua Hội nông dân Việt Nam trong các hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ. Nhà nước cũng đảm bảo chất lượng nông sản thông qua các cơ quan quản lý để có thưởng phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó, Nhà nước tiến hành liên kết giữa nhà khoa học và nông dân để tạo điều kiện thuận lợi cho áp dụng công nghệ khoa học vào sản xuất, trồng trọt. Đảm bảo tiêu thụ cho người dân thông qua hệ thống các doanh nghiệp và điều chỉnh thích hợp để ngăn ngừa tình trạng doanh nghiệp ép giá nông dân . Ngoài ra, Nhà nước tạo ra mối liên kết giữa ngân hàng và nông dân, doanh nghiệp để giúp cho các đối tượng này thuận lợi hơn trong quá trình vay vốn phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, cũng như để có thể thay đổi công nghệ, mở rộng sản xuất cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Mặt khác, Nhà nước thông qua hệ thống truyền thông cung cấp thông tin về thị trường, kỹ thuật trồng trọt nhanh chóng, kịp thời cho bà con nông dân và các doanh nghiệp tham gia sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản. - Nâng cao năng lực hoạt động của hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu : Khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì có những việc mà Nhà nước không nên làm hoặc làm không hiệu quả, do đó những công việc này sẽ do hiệp hội ngành hàng nông sản thực hiện. Trước đây, để thu hút khách hàng thì nhiều doanh nghiệp đã hạ giá nông sản, nhưng cách làm này không phải là cách làm hiệu quả. Tương lai, hiệp hội ngành hàng sẽ đóng vai trò liên kết các doanh nghiệp để gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng nông sản nói chung và nông sản xuất khẩu nói riêng thì nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau : + Nhà nước cần sớm nghiên cứu và ban hành luật về hiệp hội, nhằm tạo khung và môt trưòng pháp lý thuận lợi cho việc đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động và quản lý của hiệp hội ngành hàng. Trong khi chờ đợi Luật về hiệp hội, các cấp chính quyền cần có các văn bản quy định riêng về công tác hiệp hội và các hoạt động phối hợp giữa hiệp hội và cơ quan tương ứng để tạo thuận lợi cho hoạt động của các Hiệp hội. + Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước đối với Hiệp hội nhằm bảo đảm quyền tự chủ của các Hiệp hội, tạo điều kiện cho các Hiệp hội hoạt động đúng luật pháp, theo hướng hoạt động “dịch vụ - kinh doanh” nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các Hiệp hội trong việc thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao hiệu quả hoạt động. + Hoàn thiện về tổ chức và nâng cao năng lực chuyên môn của bộ máy điều hành hiệp hội - Đầu tư xây dựng, cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất hàng nông sản; công tác xuất khẩu nói chung và sang Nhật Bản nói riêng : việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn đem lại hiệu quả rất lớn, theo nghiên cứu của World Bank cho thấy, cứ chi 1 tỷ đồng đầu tư cho giao thông nông thôn giúp 270 người thoát nghèo. Tác động này là khác nhau giữa các vùng, khu vực. Những nơi có hệ thống giao thông kém phát triển thì tác động này lớn hơn. Đầu tư vào kết cấu hạ tầng ở nông thôn giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trung gian, các chi phí đầu vào và chi phí giao dịch khác; do đó doanh nghiệp xuât khẩu nông sản sẽ tiết kiệm được chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất. Cần phải đầu tư có trọng điểm, tập trung vào những công trình cơ sở hạ tầng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao như : hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi, các sở giao dịch hàng hoá ở các vùng trọng điểm … Tuy nhiên, đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần nguồn vốn rất lớn, vì vậy vừa tăng đầu tư từ ngân sách thì Nhà nước vừa phải đa dạng hoá các nguồn vốn như thông qua nguồn vốn ODA, nguồn vốn của tư nhân trong và ngoài nước. - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước đối với thị trường Nhật Bản : Cục xúc tiến thương mại ( VIETTRADE ) cần phối hợp chặt chẽ với JETRO của Nhật Bản để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm và thu thập các thông tin cần thiết về thị trường Nhật Bản, các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các sản phẩm tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Bộ thương mại thông qua Website và các ấn phẩm, tạp chí của bộ giới thiệu và cung cấp thông tin về thị trưòng Nhật Bản, các nhà nhập khẩu của họ cùng với những biến động của thị trường, đặc biệt là đối với các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần tổ chức các hội chợ, triển lãm tại Nhật Bản để quảng bá sản phẩm, tạo điều kiện cho sản phẩm của Việt Nam xâm nhập thị trường. Ngoài ra, Nhà nước cần nghiên cứu triển khai xây dựng một số trung tâm thương mại Việt Nam tại Nhật Bản để phục vụ cho việc trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm của Việt Nam cho người Nhật Bản. - Đào tạo nguồn nhân lực cho sản xuất nông sản và cho hoạt động ngoại thương, xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản : Chính phủ cần có những chương trình đào tạo miễn phí hoặc với học phí thấp để nhiều người dân nghèo ở nông thôn có cơ hội học tập. Một phần đào tạo những kỹ thuật, phương pháp khoa học để họ áp dụng vào trồng trọt. Mặt khác, đào tạo tay nghề cho lượng lao động dư thừa để họ có thể vào làm tại các doanh nghiệp. Nhà nước cũng cần hỗ trợ người nông dân trong việc liên hệ việc làm với các doanh nghiệp chế biến nông sản để xuất khẩu; vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao động vừa góp phần giúp doanh nghiệp có được những lao động có tay nghề, đảm bảo cho chất lượng của sản phẩm sản xuất ra. Đối với nguồn lao động tham gia vào hoạt động ngoại thương, Nhà nước cũng cần có biện pháp hỗ trợ đào tạo phù hợp. Như nâng cao chất lượng của các chuyên ngành về kinh tế đối ngoại, kinh tế quốc tế, kinh doanh quốc tế tại các trường đại học. Tạo điều kiện để các em sinh viên có thể tiếp xúc với các thông tin về thị trưòng Nhật Bản. Bên cạnh đó cần hỗ trợ đào tạo tiếng Nhật trên cả nước. Tạo điều kiện hỗ trợ để sinh viên ra trưòng có thể vào làm tại các công ty xuất khẩu nông sản. Các cơ quan Nhà nước cũng cần tổ chức các lớp đào tạo ngăn hay dài hạn, tổ chức các hội nghị,hội thảo khoa học về xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản cho các doanh nghiệp, mời các chuyên gia của Việt Nam và Nhật Bản giảng dạy về vấn đề này. 3.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp - Xây dựng chiến lược kinh doanh xuất khẩu lâu dài sang Nhật Bản : điều này xuất phát từ chính đặc điểm của thị trưòng Nhật Bản, người tiêu dùng khá là khó tính và có tâm lý chuộng hàng nội, thich sử dụng những sản phẩm đã được chứng nhận là an toàn hơn. Đối với các nhà nhập khẩu Nhật Bản thì họ thường xem xét rất kỹ đến nhiều chi tiết và đỏi hỏi công ty đối tác phải có uy tín cao. Chính vì vậy, các công ty xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần phải xây dựng được một chiến lược phát triển kinh doanh cho phù hợp với thị trường này. Trước đây, các công ty của chúng ta thường làm ăn mang tính thời vụ, do đó không có được sự ổn định. Để khắc phục điều này thì cần phải có chiến lược lâu dài, có tầm nhìn xa. Các công ty nếu cỏ đủ năng lực có thể tự mình xây dựng ra chiến lược riêng, hoặc có thể nhờ đến sự giúp đỡ của các công ty tư vấn trong và ngoài nước. - Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả : các doanh nghiệp của chúng ta hiện nay thường có quy mô vừa và nhỏ, với nguồn vốn ít ỏi. Vì vậy, khó có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình cũng như tiến hành thay đổi công nghệ, máy móc cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Trong tương lai, các doanh nghiệp cần phải huy động được nguồn vốn lớn để đổi mới sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng. Doanh nghiệp có thể thực hiện huy động vốn thông qua các phuơng pháp như : + Tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp để phát hành rộng rãi cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán. Qua đó thu hút được lượng vốn nhàn rỗi trên thị trường. + Huy động vốn từ cán bộ, công nhân viên trong nội bộ doanh nghiệp dưới hình thức vay ngắn hạn hoặc dài hạn với lãi suất khuyến khích. Đồng thời, có thể áp dụng một mức thế chấp nhất định đối với lao động vào làm tại doanh nghiệp, biện pháp này cũng gắn trách nhiệm của nguời lao động với kết quả hoạt động của công ty. + Khuyến khích cá nhân, tổ chức, kể cả các ngân hàng trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư dưới hình thức liên doanh liên kết, đóng góp cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể sử dụng chính lợi nhuận của mình. Việc phân bổ lợi nhuận của doanh nghiệp có thẻ dành một phần để tái đầu tư, mở rộng sản xuất. Nguồn vốn có thể huy động cần phải được sử dụng một cách có hiệu quả, tránh gây lãng phí, thất thoát vốn. Cần sử dụng ưu tiên cho đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ cho làm việc và sản xuất, chế biến xuất khẩu. Đầu tư cho các khâu tiêu thụ và tiếp thị một cách hiệu quả. Bên cạnh đó cần phải dành ra một lượng vốn đảm bảo cho thu mua nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, cần có hệ thống kho chứa lượng nguyên liệu dự trữ đảm bảo cho một thời gian sản xuất nhất định, để không bị lúng túng trước sự thay đổi đột ngột của thị trường. - Liên kết và hợp tác mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu sang Nhật Bản : Các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn có thế lực rất lớn trên thương trường quốc tế, đặc biệt trong cạnh tranh, khống chế thị trường xuất khẩu. xuất phát từ thực tế đó, các doanh nghiệp cần phải có sự liên kết để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản rất cần có nguồn cung nguyên liệu đảm bảo từ quốc gia khác, như những nhà máy chế biến cà phê thành phẩm, nhà máy chế biến vầ phân phối rau quả. Điều này mở ra một cơ hội cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể giai nhập các mạng lưới này và đẩy mạnh xuất khẩu thông qua các hợp đồng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Nhật Bản. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể trở thành công ty con của các tập đoàn, công ty đa quốc gia của Nhật Bản, tuy nhiên vẫn được quyền kinh doanh quốc tế và sử dụng nhân lực tại chỗ. Từ đó tiến hành liên kết thêm với các doanh nghiệp trong nước, hình thành mạng lưới kinh doanh kinh tế lớn ở Việt Nam. Nhà nước cũng hỗ trợ cho việc sát nhập, liên kết của các doanh nghiệp trong nước. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để mở rộng sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Phát triển nguồn nhân lực : Yếu tố con người là yếu tố quyết định tất cả, vì vậy đầu tư cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả lao động chính là đảm bảo cho phát triển bền vững cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm và phải xây dựng chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Có thể nói, hiện nay đội ngũ cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn. Do đó, doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp để phát triển nguồn nhân lực của mình như : + Xác định nhu cầu về nhân lực trong tương lai : căn cứ vào sự phát triển của quy mô sản xuất, vào chiến lược phát triển thị trường, vào sự biến đổi của nên kinh tế mà mối công ty cần phải xác định rõ nhu cầu về nguồn nhân lực của công ty mình trong tương lai. Từ đó đề ra kế hoạch tuyển dụng hoặc đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ nhân viên. + Lựa chọn đối tượng để đào tạo : cần chọn ra những nhân sự có năng lực, có trình độ chuyên môn cao và những đức tính thích hợp để đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong công ty. Tiến hành đào tạo, hoặc cử các đối tượng này đi học bồi dưỡng nghiệp vụ để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. + Phương pháp và hình thức đào tạo : cần kết hợp nhiều hình thức đào tạo khác nhau như : đào tạo tại chỗ, đào tạo dài hạn, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa, đào tạo tập trung, không tập trung … để đạt được hiệu quả cao hơn và không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của công ty. + Sử dụng lao động đúng vị trí, đúng nghành nghề, đúng năng lực chuyên môn. Có chế độ đãi ngộ xứng đáng để khích lệ người lao động. Nên chọn mức lương hoặc thưởng theo doanh thu để tạo áp lực phấn đấu cho nhân viên, và là sụ khen thưởng xứng đáng cho những cá nhân cố gắng hoàn thành tốt công việc; nâng cao tính cạnh tranh trong công việc. Bên cạnh đó thì cần phải thường xuyên tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, các chương trình giao lưu để nâng cao tính đoàn kết trong công ty. - Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản xuất khẩu : Thương hiệu của sản phẩm đóng một vai trò rất quan trọng đối với sản phẩm. Bởi vì thương hiệu chính là một “điểm nhớ” để người tiêu dùng nhớ về một sản phẩm. Thực tế là bản thân người tiêu dùng họ chỉ quan tâm đến thương hiệu của sản phẩm mà không mấy khi để ý đến doanh nghiệp. Và một thương hiệu nổi tiếng chính là một sự khẳng định về chất lượng, uy tín của sản phẩm. Đây cũng chính là một điểm yếu của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam nói chung và sản phẩm nông sản xuất khẩu nói riêng. Chúng ta chưa xây dựng được những thương hiệu thực sự lớn, có uy tín trên thế giới. Người tiêu dùng tại nhiều thị trường khác nhau sử dụng sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam nhưng không có thương hiệu họ cũng không biết đấy là hàng Việt Nam. Chính vì vậy, bản thân các doanh nghiệp phải ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu và xây dựng thương hiệu. Các doanh nghiệp nên tiến hành các công việc sau : + Đăng ký, hoàn tất thủ tục về sở hữu công nghiệp và bản quyền nhãn mác hàng hoá tại cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam. + Yêu cầu Cục sở hữu công nghiệp Việt Nam hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ để đăng ký bảo hộ thương hiệu doanh nghiệp tại thị trường Nhật Bản. + Nghiên cứu luật quảng bá sản phẩm của Nhật Bản, từ đó áp dụng các phương thức thích hợp đẻ quảng bá, phát triển thương hiệu của sản phẩm theo đúng các quy định của luật pháp nước này. - Tận dụng các kênh hỗ trợ của Việt Nam và Nhật Bản : Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản, về các nhà nhập khẩu, nhà phân phối tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản cũng như các tập quán kinh doanh của người Nhật thì có thể liên hệ với các cơ quan chuyên trách để nhận được sự hỗ trợ. Vụ Châu Á-Thái Bình Dương, Thương vụ Việt Nam tại Tokyo, Chi nhánh Thương vụ Việt Nam tại Osaka là một trong những cơ quan, kênh hỗ trợ trực tiếp và thuận tiện cho các doanh nghiệp trong tìm kiếm và tiếp xúc với nhà nhập khẩu Nhật Bản. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã được thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản hỗ trợ giao dịch thành công và ký nhiều hợp đồng xuất khẩu sang Nhật Bản. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tranh thủ các cơ quan xúc tiến thương mại trong nước như Cục xúc tiến Thương mại (VIETRADE), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các Hiệp hội ngành hàng, Tổ chức xúc tiến thương mại và Đầu tư Nhật Bản (JETRO), va tham dự các chương trình xúc tiến thương mại để có nhiều cơ hội giao thương, tìm hiểu thị trường. Kết luận Thị trường Nhật Bản là một thị trưòng có sức tiêu thụ rất lớn và có rất có tiềm năng đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nói chung và hàng hóa nông sản nói riêng. Đây lại là một thị trưòng Châu Á, do đó có những nét tương đồng với Việt Nam. Đây là một điểm thuận lợi cho hàng xuất khẩu của chúng ta. Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua quan hệ thương mại và chính trị giữa Việt Nam và Nhật Bản luôn phát triển theo xu hướng tốt đẹp và ngày càng cởi mở hơn nữa. Vì vậy, nếu biết cách khai thác phù hợp thì thị trưòng này sẽ đem lại nguồn lợi rất lớn cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh những tiềm năng có thể thấy rõ từ thị trường Nhật Bản thì không thể không lưu ý tới sự khắt khe và khó xâm nhập của thị trường này. Tư tưởng bảo hộ ngành nông nghiệp của chính phủ Nhật Bản đã thể hiện rất rõ qua chính sách nhập khẩu hàng hoá, cụ thể biểu hiện qua các công cụ và biện pháp mà Nhật Bản áp dụng. Tạo ra một rào cản cho hàng hoá nhập khẩu nước ngoài khi muốn xâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Ngoài ra tâm lý ưa chuộng sử dụng hàng nội địa của người dân Nhật Bản vô hình chung đã góp phần tạo nên sự khó khăn cho các nhà sản xuất nước ngoài khi muốn đưa sản phẩm của mình vào thị trường Nhật Bản. Trong giai đoạn từ 1997 đến nay, hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động; có nhiều năm suy giảm cả về khối lượng và giá trị hàng hoá. Nhưng trong vài năm gần đây, hàng nông sản của Việt Nam xuất sang Nhật Bản đã có sự gia tăng trở lại. Đây thật sự là một dấu hiệu đáng mừng cho hàng nông sản Việt Nam. Hiện nay, hàng nông sản Việt Nam mặc dù chưa chiếm được thị phần lớn tại thị trường Nhật nhưng cũng đã từng bước tạo lập được uy tín và duy trì vị trí tại thị trường này. Bên cạnh những thành công mà hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được, bài viết cũng đã đề cập đến những mặt hạn chế, yếu kém còn tồn tại và những nguyên nhân của nó. Để khắc phục những hạn ché này và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong tương lai thì cần phải có sự cố gắng của cả nhà nước và doanh nghiệp. Về phía nhà nước cần phải tạo được những điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản và cần có nhứng biện pháp hỗ trợ thích hợp để giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự mình tiến hành các giải pháp thích ứng phù hợp, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tạo dựng được thương hiệu và uy tín của hàng nông sản tại thị trường Nhật Bản để nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước khác. Quá trình này đòi hỏi cần phải có thời gian, sự tham gia nhiệt tình và tâm huyết của cả nhà nước và doanh nghiệp để thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam không chỉ sang thị trường Nhật Bản mà còn vươn cao hơn nữa trên thị trường thế giới. Do hạn chế và khả năng thu thập tin tức, hạn chế về kiến thức và năng lực phân tích nên đề án sẽ còn nhiều thiếu sót. Do đó em rất mong nhận được sự góp ý, đánh giá bổ sung từ phía thầy cô. Em cũng xin chân thành cám ơn PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, người thầy đã tận tình giúp đõ em hoàn thành đề án này. Danh mục tài liệu tham khảo Sách : - Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (đồng chủ biên), Giáo trình Kinh tế quốc tê, NXB Lao động-xã hội, 2005. - Trịnh Thị Ái Hoa, “Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam, lý luận và thực tiễn”. NXB Chính trị quốc gia 2007. trang 274-330. - Nguyễn Hữu Khải, “Hàng rào phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế”, NXB Lao động và Xã hội, 2/2005, trang 137 – 165. - Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại, “Thị trường xuất nhập khẩu rau quả”, NXB Thống kê Báo và tập chí Tạp chí Kinh tế đối ngoại, các số 28/08 trang 69-76, 27/07 trang 3-10, 29/08 trang 11-21. Tạp chí Kinh tế và phát triển 125/07 trang 12-15. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 10/07 trang 61-63. Tạp chí Ngoại Thương 4+5, trang 8-9. Tạp chí Thị trường Việt Nam số 7/08, trang 23-26. Tạp chí Thương mại số 47/07 trang 22-23, 12/08 trang 23-25, 29/08 trang 5-6. Các trang thông tin mạng : - www.customs.gov.vn ( Tổng cục hải quan Việt Nam ) - www.dddn.com.vn ( Diễn đàn doanh nghiệp ) www.gso.gov.vn ( Tổng cục thống kê Việt Nam ) - www.kinhtenongthon.com.vn - www.moit.gov.vn ( Bộ công thương Việt Nam ) www.thitruongnuocngoai.vn www.vietnamnet.vn www.vneconomy.vn - www.vietnamshipper.com (website chủ hàng Việt Nam ) www.vjcc.org.vn ( Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam- Nhật Bản) - ( Trang xúc tiến thương mại nông nghiệp) Mục lục Trang Lời mở đầu …………………………………………………………… 1 Chương 1: Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu và đặc điểm thị trường Nhật Bản……………………………………………… 3 1.1 Những vấn đề chung về các biện pháp hạn chế nhập khẩu……....... 3 1.1.1 Các công cụ biện pháp điều tiết nhập khẩu……………………......3 1.1.1.1 Thuế quan …………………………………………………...3 1.1.1.2 Các biện pháp hạn chế định lượng…………………………. .3 1.1.1.3 Các biện pháp hành chính kỹ thuật…………………………. 5 1.1.1.4 Các biện pháp quản lý khác………………………………… 7 1.1.2.Chính sách nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản……………………11 1.2 Đặc điểm của thị trường Nhật Bản…………………………………..12 1.2.1 Đặc điểm hệ thống phân phối……………………………………...12 1.2.2 Các tập đoàn kinh tế “Keiretsu”…………………………………...13 1.2.3 Đặc điểm hệ thống bán lẻ …………………………………..13 1.2.4 Đặc điểm của tập quán kinh doanh……………………………......14 1.2.5 Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản…………………………..14 1.3 Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản……………………........15 Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và khả năng thích ứng…………………………………....19 2.1 Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản…………………………………………………………………….19 2.1..1 Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu……………………………...19 2.1.2 Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam…………………. 21 2.1.2.1 Cà phê………………………………………………………. 21 2.1.2.2 Cao su………………………………………………………. 23 2.1.2.3 Rau quả…………………………………………………….. 24 2.2 Khả năng thích ứng của hàng nông sản Việt Nam…………………. 26 2.3 Đánh giá……………………………………………………………….. 28 2.3.1 Thành công………………………………………………………... 28 2.3.2 Hạn chế……………………………………………………………. 28 2.3.3 Nguyên nhân………………………………………………………. 29 2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan……………………………………. 29 2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan……………………………………… 30 Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản……………33 3.1 Dự báo nhập khẩu nông sản của Nhật Bản tới 2010……………….33 3.1.1 Cà phê……………………………………………………………….33 3.1.2 Cao su…………………………………………………………….....34 3.1.3 Rau quả……………………………………………………………...34 3.2 Những lợi thế và ưu đãi trong quan hệ thương mại với Nhật Bản…………………………………………………………………… 35 3.3 Những giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu hàng nông sản sang Nhật Bản……………………………………………………………………..36 3.2.1 Giải pháp từ phía nhà nước……………………………………….....36 3.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp……………………………………..40 Kết luận……………………………………………………………………...44 Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………46 Danh mục bảng biểu Trang Bảng 1.1 Một số dấu chất lượng của Nhật Bản ……………………………….7 Bảng 1.2 Công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản …………...9 Bảng 1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Nhật Bản (2003-2007)……16 Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chính sang Nhật Bản ……..20 Bảng 2.2 Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang thị trường Nhật Bản……………22 Bảng 2.3 Tiêu thụ và nhập khẩu cao su thiên nhiên từ Việt Nam của Nhật Bản………………………………………………………………………23 Bảng 2.4 Xuất khẩu cà phê sang một số thị trưòng 9 tháng đầu năm 2008…..24 Bảng 2.5 Thị phần xuất khẩu rau quả 9 tháng đầu năm 2008………………...26 Bảng 3.1 Dự báo nhập khẩu cà phê của Nhật Bản …………………………...33 Bảng 3.2 Dự báo nhập khẩu cao su của Nhật Bản……………………………34 Bảng 3.3 Dự báo nhập khẩu rau quả của Nhật Bản…………………………..34 Danh mục chữ viết tắt Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt USD United States Dollar Đồng đô la Mỹ GSP Generalized System of Preferences Hệ thống thuế quan ưu đãi phổ cập WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới UNCTAD United Nation Conference on Trade and Development Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển MITI Ministry of International Trade and Industry Bộ công thương GATT General Agreement on Tariffs and Trade Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch JIS Japanese Industrial Standards Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản JAS Japanese Agricultural Standards Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á AJCEP ASEAN-Japan Closer Economic Partnership Hiệp định đối tác toàn diện ASEAN - Nhật Bản PHỤ LỤC QUY ĐỊNH CỦA NHẬT BẢN VỀ QUY TRÌNH XEM XÉT CẤM KINH DOANH HOẶC NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI HÀNG HÓA VI PHẠM LUẬT VSATTP - BIỆN PHÁP THÁO GỠ (Căn cứ Mục 1, khoản 3, Điều 4 và Mục 1, khoản 2, Điều 9 của Luật An toàn Vệ sinh thực phẩm - VSATTP) I. MỤC ĐÍCH: Theo Luật VSATTP, Bộ trưởng Y tế Lao động qui định các biện pháp xử lý đối với thực phẩm bị phát hiện có thể gây nguy hại đến sức k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6225.DOC
Tài liệu liên quan