Đề tài Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát

Tài liệu Đề tài Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát: Trang 1 CHƯƠNG 1: CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT 1.1 Vàng là dấu hiệu chỉ báo và bảo hiểm chống lại lạm phát. Nghiên cứu này cố gắng điều tra xem liệu vàng hay dầu là chỉ báo tốt hơn về lạm phát và cố gắng tìm ra giữa vàng và dầu, đâu là nhân tố cung cấp hàng rào chống lại lạm phát tốt hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các mối quan hệ lâu dài giữa giá dầu, vàng và tỷ lệ lạm phát đã được điều tra bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng về giá dầu, vàng và tỷ lệ lạm phát. Các dữ liệu bao gồm các giai đoạn từ ngày 10/02/1994 đến ngày 12/02/2008. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng chỉ số CPI hiển thị một mối tương quan cao với cả giá vàng và giá dầu. Kết quả cũng cho thấy vàng là một chỉ số dự báo lạm phát tốt hơn so với dầu. Nghiên cứu kết luận rằng khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của cả vàng và dầu phụ thuộc vào sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài với tỷ lệ lạm phát, với lưu ý rằng vàng và CPI cũng như giá dầu và CPI khôn...

pdf71 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 CHƯƠNG 1: CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT 1.1 Vàng là dấu hiệu chỉ báo và bảo hiểm chống lại lạm phát. Nghiên cứu này cố gắng điều tra xem liệu vàng hay dầu là chỉ báo tốt hơn về lạm phát và cố gắng tìm ra giữa vàng và dầu, đâu là nhân tố cung cấp hàng rào chống lại lạm phát tốt hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các mối quan hệ lâu dài giữa giá dầu, vàng và tỷ lệ lạm phát đã được điều tra bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng về giá dầu, vàng và tỷ lệ lạm phát. Các dữ liệu bao gồm các giai đoạn từ ngày 10/02/1994 đến ngày 12/02/2008. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng chỉ số CPI hiển thị một mối tương quan cao với cả giá vàng và giá dầu. Kết quả cũng cho thấy vàng là một chỉ số dự báo lạm phát tốt hơn so với dầu. Nghiên cứu kết luận rằng khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của cả vàng và dầu phụ thuộc vào sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài với tỷ lệ lạm phát, với lưu ý rằng vàng và CPI cũng như giá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết có nghĩa là không có mối quan hệ lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu. Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods năm 1971, các nhà đầu tư bắt đầu tìm kiếm các loại tiền tệ làm "nơi trú ẩn an toàn". Tuy nhiên các loại tiền tệ an toàn nhất lại có liên quan đến nguy cơ kinh tế và chính trị. Vào thời điểm đó đầu tư vàng hóa ra là một cách để tự bảo hiểm rủi ro. Vàng đóng vai trò tiền tệ trong nhiều thế kỷ và không bao giờ được sử dụng trong quá trình sản xuất do đó nó đã giữ sức mua của nó về lâu dài (Jastram, 1977). Vàng khác với các tài sản khác bởi vì tiềm năng đối với vàng là tính thanh khoản cao và nó phản ứng với những thay đổi giá (Lawrence, 2003). Hơn nữa, không giống như các hàng hóa khác, vàng được sản xuất để tích lũy, tất cả số vàng đã từng được khai thác vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay (Ranson và Wainwright, 2005). Bởi vì vàng không phải là đầu vào ngành công nghiệp chính, giá cả tương đối của nó không thay đổi theo chu kỳ kinh doanh (Ranson và Wainwright, 2005). Trang 2 Hội đồng Vàng Thế giới (2005) tuyên bố vàng là một hàng rào hiệu quả chống lạm phát, có tương quan nghịch với đồng đô la Mỹ và do đó là tiền tệ trú ẩn chống lại lạm phát tốt. Nếu vàng là hàng rào hoàn hảo trong nội bộ một quốc gia thì giá vàng tính theo đồng tiền trong nước đó nên tăng ở mức tương tự như chỉ số giá trong nước. Nếu vàng là hàng rào hoàn hảo bên ngoài một quốc gia thì giá vàng tính theo đồng tiền nước đó nên tăng cùng một tỷ lệ tương tự như tỷ giá của nước đó. Vàng được coi là một hàng rào chống lại lạm phát nếu những thay đổi trong lợi nhuận trên đầu tư vàng có thể bù đắp được những thay đổi trong mức giá chung của một quốc gia cụ thể. Sherman (1986), Jaffe (1989), Chua và cộng sự (1990) đã chứng minh rằng vàng cung cấp lợi ích cho việc đa dạng hoá. Ariovich (1983), Aggarwal và cộng sự (1992), Dooley và cộng sự (1995) chỉ ra rằng vàng là một hàng rào hiệu quả chống lại lạm phát, tình trạng bất ổn chính trị và rủi ro tiền tệ. Laurent (1994) điều tra các mối quan hệ giữa giá vàng và chỉ số giá bán buôn ở Mỹ và kết luận rằng giá vàng và chỉ số giá bán buôn có quan hệ tương ứng chặt chẽ từ năm 1888 đến năm 1992. Tuy nhiên giá vàng được tìm thấy biến động hơn so với chỉ số giá bán buôn trong ngắn hạn. Garner (1995) kiểm tra các tín hiệu bước ngoặt của giá vàng trong giai đoạn 1960-1995 tại Hoa Kỳ để xem giá vàng có phải là chỉ báo tốt về lạm phát. Mahdavi và Zhou (1997) so sánh giá vàng và giá hàng hóa, đâu là chỉ số lạm phát hàng đầu bằng cách áp dụng phương pháp đồng liên kết qua các thời kỳ 1958:Q1-1994:Q4 và 1970:Q1- 1994:Q4. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá vàng có thể là chỉ báo lạm phát tốt phụ thuộc vào khoảng thời gian kiểm tra. Harmston (1998) xây dựng sức mua của các chỉ số vàng bằng cách chia các chỉ số vàng cho các chỉ số giá bán buôn và so sánh các chỉ số này với nhau giữa các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản trong những khoảng thời gian khác nhau. Nghiên cứu của ông khẳng định rằng vàng là nơi trú ẩn hiệu quả chống lại lạm phát lâu dài. Gosh và cộng sự (2002) cũng kết luận rằng có một mối quan hệ lâu dài giữa giá vàng và chỉ số giá bán buôn của Mỹ bằng cách sử dụng dữ liệu hàng tháng 1976-1999 với kỹ thuật Trang 3 đồng liên kết. Ranson và Wainright (2005) áp dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để xem liệu dầu hay giá vàng là chỉ báo tốt hơn về lạm phát và lãi suất không dự kiến trước được. Nghiên cứu kết luận rằng giá vàng tốt hơn so với giá dầu trong vai trò là yếu tố dự báo lạm phát năm tới. Dữ liệu sử dụng trong phân tích được lấy từ tháng 01/1996 đến tháng 02/2008 với 146 quan sát. Dữ liệu bao gồm các quan sát hàng tháng của giá vàng, giá dầu và tỷ lệ lạm phát dựa trên chỉ số giá tiêu dùng thu được từ Istanbul Gold Exchange, Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và Reuters. Để đánh giá độ mạnh của mối quan hệ giữa giá vàng và tỷ lệ lạm phát, dầu và tỷ lệ lạm phát, phương pháp đơn giản nhất là nhìn vào cấu trúc tương quan của các nhân tố được đo bằng hệ số tương quan. Kiểm định nghiệm đơn vị và tiêu chuẩn ADF được áp dụng cho chuỗi số liệu giá vàng, giá dầu và chỉ số giá tiêu dùng để xem xét các thuộc tính tĩnh của chúng. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy CPI có liên quan chặt chẽ với cả giá vàng và giá dầu với thực tế là vàng có tương quan với chỉ số CPI nhiều hơn so với giá dầu. Các khả năng bảo hiểm rủi ro lạm phát của vàng và dầu phụ thuộc vào sự tồn tại của một mối quan hệ ổn định lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu. Tuy nhiên, kiểm định đồng liên kết khẳng định rằng giá vàng và CPI cũng như giá dầu và CPI không có quan hệ đồng liên kết, có nghĩa là không có mối quan hệ lâu dài giữa tỷ lệ lạm phát và giá vàng, giá dầu. 1.2 Lạm phát gây nên sự tăng giá của vàng. Điểm mới của bài nghiên cứu này là tiến hành phân tích về mối quan hệ đồng liên kết và đồng bộ hoá giữa thị trường vàng và dầu giao ngay cũng như giao sau. Tác giả đưa ra khung khái niệm rằng khi giá dầu tăng, tạo sức ép làm tăng lạm phát, điều này thúc giục các nhà đầu tư đầu tư vào vàng để chống lại lạm phát. Bài nghiên cứu cũng kiểm tra mối liên hệ dài hạn giữa giá vàng và giá dầu trên thị trường giao sau ở các kỳ hạn thanh toán khác nhau và chứng cứ làm sáng tỏ mối quan hệ đồng liên kết. Điều này hàm ý rằng: (a) các nhà đầu tư sử dụng thị trường vàng làm công cụ chống lại lạm phát, và (b) thị trường dầu có Trang 4 thể được sử dụng để dự đoán giá thị trường vàng, vì vậy hai thị trường này đều cùng không hiệu quả. Các tài liệu về thị trường vàng, bao gồm cả thị trường vàng giao sau, đã bao phủ một số lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ball và đồng sự (1985) kiểm tra các hành vi giá hội tụ trên thị trường vàng giao sau và họ đã tìm thấy sự tồn tại của hội tụ giá. Bertus và Stanhouse (2001) tìm kiếm bong bóng giá trong giá vàng tương lai và sử dụng phân tích nhân tố năng động, đã không thể tìm thấy chứng cứ của bong bóng đầu cơ hợp lý. Cai và đồng sự (2001) xem xét các yếu tố trong biến động lợi nhuận hằng ngày của các hợp đồng vàng giao sau và thấy rằng trong số 23 thông báo về kinh tế vĩ mô của Mỹ, báo cáo việc làm, GDP, CPI, và thu nhập cá nhân có tác động lớn đến biến động lợi nhuận của vàng. Ciner (2001) xem xét các mối quan hệ dài hạn giữa giá vàng và giá bạc và không tìm thấy mối quan hệ trong dài hạn giữa giá của hai kim loại này. Phát hiện của ông mâu thuẫn với những nghiên cứu trước đó của Adrangi và đồng sự (2002), Wahab và đồng sự (1994), Escribano và Granger (1998), tất cả những người này đều tìm thấy quan hệ đồng liên kết giữa giá vàng và bạc giao sau. Bailey (1998) nghiên cứu tác động của cung tiền đối với sự bất ổn của thị trường vàng và thấy rằng sự biến động của vàng gia tăng khi tốc độ tăng trưởng của cung tiền cao hơn mong đợi. Cùng mạch suy nghĩ, Christie – David và đồng sự (2000) phân tích tác động của các tin tức vĩ mô phát ra đối với giá vàng và giá bạc, và họ thấy rằng giá vàng phản ứng khá mạnh đối với tin CPI. Thị trường vàng đã có sự tăng giá khá vững chắc trong suốt thập kỷ qua. Điển hình trong suốt giai đoạn 2002 – 2008 mức tăng giá của vàng trung bình hàng năm khoảng 18.5%. Cùng trong thời gian đó, giá dầu cũng tăng khá mạnh, ở mức trung bình 53.9%. Điều này đưa ra câu hỏi: phải chăng thị trường dầu đang dẫn dắt thị trường vàng? Nếu điều này xảy ra, có nghĩa là giá dầu có thể được sử dụng để dự đoán giá của thị trường vàng và ngược lại. Điều này cũng có nghĩa là có sự không hiệu quả trong cả hai thị trường. Trang 5 Mối liên hệ giữa thị trường vàng và dầu có thể giải thích tốt nhất thông qua các kênh lạm phát. Khi giá dầu tăng cao thì mức giá chung cũng tăng (xem thêm Hunt, 2006; Hooker, 2002). Khi mức giá chung (hay lạm phát) tăng, giá vàng cũng tăng do vàng cũng là một loại hàng hoá. Điều này mở ra khả năng là vàng có thể được sử dụng để chống lại lạm phát (xem thêm Jaffe, 1989). Melvin và Sultan (1990) cho rằng có một kênh khác để thiết lập mối quan hệ giữa thị trường vàng và dầu. Luận điểm chính của họ là giá dầu tác động tới giá vàng thông qua kênh doanh thu xuất khẩu. Về cơ bản vàng là một phần của kênh đầu tư dự trữ quốc tế của một vài quốc gia bao gồm cả các quốc gia xuất khẩu dầu, họ lập luận rằng nếu có một cú sốc dẫn tới mong đợi việc mua vàng thì dự kiến trong tương lai giá vàng sẽ tăng lên. Khi giá dầu tăng, những nhà xuất khẩu dầu thu lợi từ việc dầu tăng, Melvin và Sultan (1990) lập luận rằng điều này sẽ có thể tác động đến giá vàng, miễn là vàng bao gồm một phần quan trọng trong danh mục đầu tư tài sản của những nhà xuất khẩu dầu (liên quan đến các quốc gia khác) và họ sẽ mua vàng tương ứng với sự giàu có của mình. Điều này sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về vàng và vàng sẽ tăng giá. Do đó giá dầu tăng cao kéo theo sự tăng giá của vàng. Bài nghiên cứu đưa ra ba giả thuyết: Giả thuyết 1: sự tăng giá của dầu gây ra lạm phát Giả thuyết 2: lạm phát gây nên sự tăng giá của vàng Giả thuyết 3: nếu giả thuyết 2 là đúng thì sự tăng giá dầu gây ra sự tăng giá của vàng. Dữ liệu được sử dụng là giá vàng và giá dầu giao ngay hàng năm trong giai đoạn 1963-2008 đối với nước Mỹ. Giá dầu là trung bình giá xăng dầu của thế giới, trong khi giá vàng được đo lường bởi đơn vị tính USD/Oz. Tỷ lệ lạm phát được tính toán từ tốc độ tăng trưởng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Ba dữ liệu này cụ thể là giá vàng, giá dầu trung bình và CPI được lấy từ thống kê tài chính quốc tế, được xuất bản bởi quỹ tiền tệ quốc tế. Trang 6 Đồ thị 1.1: Tốc độ tăng của giá vàng, giá dầu và tỷ lệ lạm phát của Mỹ trong giai đoạn 1963-2008 Các quan sát chính là tốc độ tăng trưởng của giá dầu và giá vàng giao ngay di chuyển rất chặt chẽ với nhau, trong khi lạm phát ổn định mà không có sự chênh lệch đáng kể so với tốc độ tăng của giá vàng và giá dầu. Vì vậy, mối quan hệ giữa lạm phát và giá dầu; lạm phát và giá vàng rõ ràng không phải là đồ hoạ. Tác giả xác nhận điều này dựa vào kinh nghiệm sau đó bằng cách tiếp cận phương pháp bình phương nhỏ nhất. Liên quan đến ba giả thuyết thảo luận ở trên, bài nghiên cứu đưa ra ba mô hình hồi quy tương ứng với từng giả thuyết như sau: Giả thuyết 1: πt = α0 + α1goilt + εt Giả thuyết 2: ggoldt = β0 + β1πt + µt Giả thuyết 3: ggoldt = θ0 + θ1goilt + ωt Trang 7 Trong đó π, goil, ggold là tốc độ tăng trưởng của CPI (lạm phát), bình quân giá dầu, và giá vàng. Số dư của những mô hình này được xác định tương ứng là ε, µ, và ω. Kết quả của phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (OLS) tương ứng với ba giả thuyết như sau: πt = 0.039 + 0.041goilt + εt (10.759) (3.358) ggoldt = -0.064 + 3.119πt + µt (-1.162) (2.870) ggoldt = 0.039 + 0.365goilt + ωt (1.430) (3.842) Kết quả thực nghiệm trong ngắn hạn hỗ trợ cho những giả thuyết thảo luận trên về mối quan hệ giữa giá vàng và giá dầu; nói cách khác, kết quả tìm thấy sự hỗ trợ cho cả ba giả thuyết. Tóm lại: (a) sự gia tăng giá dầu gây ra lạm phát, (b) sự gia tăng lạm phát dẫn đến sự tăng giá của vàng, và (c) sự tăng giá của dầu làm cho vàng tăng giá. Một vài nghiên cứu đã kiểm tra mối quan hệ giữa giá vàng và các biến kinh tế vĩ mô khác, ví dụ như lạm phát cũng được tìm thấy có ý nghĩa thống kê đáng kể và có mối quan hệ cùng chiều với giá vàng. Một nghiên cứu khác của Jaffe (1989) nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và lợi nhuận của vàng sử dụng số liệu hàng tháng trong giai đoạn từ tháng 9/1971 đến tháng 6/1987. Dựa trên phương pháp ước lượng bình quân nhỏ nhất (OLS), ông thấy rằng trung bình chỉ số giá tăng 1% kéo theo giá vàng thay đổi khoảng 2.95%. Kết quả của bài nghiên cứu này cũng tương tự - tác giả tìm thấy sự tác động khoảng 3.1% - mặc dù cỡ mẫu được sử dụng trong hai nghiên cứu khác nhau hoàn toàn. Cỡ mẫu bài nghiên cứu sử dụng là từ năm 1963 – 2008 cũng là cỡ mẫu mới nhất và được xem xét trong giai đoạn gần đây về sự tăng giá đáng kể của giá vàng. Bài nghiên cứu này đóng góp thêm vào nghiên cứu thị trường giao sau bằng cách kiểm tra các mối quan hệ dài hạn giữa giá dầu và giá vàng giao ngay và Trang 8 giao sau ở các kỳ hạn khác nhau. Các lý thuyết động lực cho mối quan hệ này bắt nguồn từ việc các nhà đầu tư sử dụng thị trường vàng để chống lại lạm phát. Sử dụng phương pháp đồng liên kết, nghiên cứu cho thấy thị trường vàng và thị trường dầu giao ngay cũng như là giao sau có sự liên kết chặt chẽ trong kỳ hạn 10 tháng. Phát hiện này hàm ý rằng các nhà đầu tư sử dụng thị trường vàng như một hàng rào chống lại lạm phát. Nó cũng ngụ ý rằng thị trường dầu có thể được sử dụng để dự đoán giá thị trường vàng và ngược lại, do đó cả hai thị trường này cùng không hiệu quả. 1.3 Sự tác động của giá vàng đối với lạm phát Sử dụng dữ liệu của 14 quốc gia trong giai đoạn 1994-2005, nghiên cứu tìm thấy giá vàng đem lại thông tin đáng kể cho việc dự báo lạm phát trong tương lai đối với một số nước, đặc biệt là những nước đã áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu chính thức. Một số chỉ số hàng đầu được theo dõi bởi các ngân hàng trung ương và các cơ quan khác trong nền kinh tế để dự báo tỷ lệ lạm phát. Giá các tài sản tài chính cũng được tìm thấy hữu ích đối với thuộc tính chỉ báo hàng đầu của lạm phát vì tỷ suất sinh lợi của chúng đã tính đến lạm phát kỳ vọng, nhưng sức mạnh dự đoán của các tài sản tài chính chỉ được tìm thấy trong một số giai đoạn và đối với một số nước nhất định, xem thêm khảo sát của Stock và Watson (2003). Trong số tài sản tài chính đó, có thể kế đến giá vàng. Trong thực tế, vàng thường được phân tích với vai trò là hàng hoá, nhưng không giống các hàng hóa thông thường khác, vàng có sự khác biệt lịch sử, vàng đã và đang được sử dụng để bảo tồn giá trị và là nơi trú ẩn để chống lại lạm phát. Nếu xem vàng là một loại tài sản tài chính, vàng có thể được kỳ vọng để xác định là nhân tố dự báo hàng đầu cho lạm phát. Các nghiên cứu gần đây đã kiểm tra các chỉ báo hàng đầu khác nhau cho lạm phát, như là nghiên cứu của Stock và Watson (1999), Cecchetti, Chu và Steindel (2000), Boivin và Ng (2006) và Banerjee và Marcellino (2006) đã không xem là giá vàng như là một ứng cử viên của chỉ báo hàng đầu. Tuy nhiên, với sự đồng thuận chung đang nổi lên từ những nghiên cứu này cho thấy Trang 9 rằng rất khó khăn để tìm một chỉ số hàng đầu cho lạm phát mà có thể thể hiện tốt bước ngẫu nhiên (random walk), nên việc xem xét giá vàng tại thời điểm này có thể là một quyết định đáng giá. Vàng là một tài sản đặc biệt, vì vàng vừa là một loại hàng hóa, ví dụ trong việc sản xuất đồ trang sức và các thiết bị công nghiệp, vừa là tài sản tài chính, nơi nó có thể được sử dụng như để bảo tồn giá trị. Vàng không có đối thủ trong việc làm tài sản để bảo tồn giá trị sau cùng, vì nó có một lợi thế tâm lý hơn các tài sản khác xuất phát từ việc sử dụng nó cho mục đích này bao trùm nhiều thế kỷ qua. Bài nghiên cứu này mong muốn thiết lập được với những chuyển động trong giá vàng, với một mức độ nào đó, có thể dự báo được mức độ lạm phát trong tương lai. Về lý thuyết, sự gia tăng kỳ vọng lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền, do đó, sẽ có tâm lý tìm đến vàng để bảo tồn giá trị. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu vàng, khiến giá vàng tăng cao, do đó, giá vàng càng cao là tín hiệu cho thấy tỷ lệ lạm phát cao hơn trong tương lai. Lưu ý rằng, đối với bất kỳ quốc gia cụ thể, tỷ lệ lạm phát được tính bằng cách sử dụng giá trị đồng nội tệ. Vì là một nơi trú ẩn chống lại lạm phát, các nhà đầu tư phải xem xét tỉ lệ lợi nhuận từ vàng thể hiện bằng đơn vị đồng nội tệ. Bởi vì giá vàng được xác định tại các thị trường thế giới và được định giá bằng USD, nên giá vàng trước hết phải được nhân bởi tỷ giá hối đoái hiện hành trước khi tính toán tỷ suất sinh lợi của nó. Trong nghiên cứu này sử dụng dữ liệu hàng tháng kéo dài trong giai đoạn từ tháng 09/1994 đến tháng 12/2005 của 14 quốc gia. Dữ liệu giá vàng được sử dụng là giá vàng hàng tháng được tính trung bình từ giá hàng ngày với đơn vị tính USD/Oz. Tỷ lệ lạm phát được tính bằng sử dụng chỉ số giá tiêu dùng của các nước. Tỷ giá hối đoái được lấy từ nguồn dữ liệu thống kê tài chính quốc tế của IMF. Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu cho thấy giá vàng có thể dự báo tốt cho lạm phát đối với nhiều nước với khoảng thời gian lên đến hai năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trang 10 - Giá vàng là một chỉ số thống kê đáng kể nhất đối với các nước OECD đã thông qua chính sách lạm phát mục tiêu. Cụ thể nếu giá vàng thế giới tăng 10% thời gian này, tỷ lệ lạm phát tại Canada sẽ tăng 0,25% trong 12 tháng kế tiếp. Tại New Zealand, quốc gia đầu tiên đã thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu, 10% gia tăng của giá vàng thế giới sẽ dẫn đến một sự gia tăng 1,1% trong tỷ lệ lạm phát trong 24 tháng tới, nếu tỷ giá vẫn không đổi. - Đối với các nước OECD không thông qua chính sách lạm phát mục tiêu chính thức, như Nhật Bản và Mỹ, nghiên cứu cho thấy sức mạnh giải thích của vàng đối với lạm phát nói chung là yếu hơn. Vàng là một yếu tố dự báo quan trọng của lạm phát ở Mỹ trong vòng một năm mặc dù mức độ phù hợp của phương trình này là tương đối khiêm tốn. Vàng không cho thấy được yếu tố dự báo đối với lạm phát tại Nhật Bản. - Đối với các nước ngoài nhóm OECD, vàng là dấu hiệu chính xác cho lạm phát tại Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm. Cụ thể vàng tăng giá 10% sẽ kéo theo tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc tăng 1.2% trong 12 tháng tiếp theo; tuy nhiên, chất lượng của các dự báo này có thể bị ảnh hưởng bởi tỷ giá hối đoái của Trung Quốc, được cố định trong suốt phần lớn của mẫu thời gian nghiên cứu. Một so sánh sâu hơn của giá vàng với các chỉ số lạm phát khác cho Canada chứng tỏ vàng vẫn còn ý nghĩa thống kê khi được ghép đôi với các biến khác, chẳng hạn như tiền, khoảng cách sản lượng, lạm phát của Mỹ hoặc giá dầu. 1.4 Tác động của sự thay đổi trong lạm phát kỳ vọng đến giá vàng. Bài nghiên cứu này xem xét những thay đổi trong lạm phát kỳ vọng tác động đến giá vàng giao ngay như thế nào. Các bài báo tài chính thường đề cập đến việc giá vàng chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi trong lạm phát kỳ vọng. Bài nghiên cứu này xem xét và kiểm tra thực nghiệm lý thuyết trên cơ sở mối quan hệ giả thuyết. Nó cũng cho thấy rằng cơ sở lý thuyết cho mối quan hệ này là không rõ ràng. Những người ủng hộ lý thuyết hiệu ứng lạm phát kỳ vọng lập luận rằng nếu lạm phát kỳ vọng tăng lên, các nhà đầu tư sẽ mua vàng để đầu cơ Trang 11 trên sự tăng giá của vàng hoặc để chống lại sự mất giá của đồng tiền pháp định. Dù bằng cách nào các áp lực mua vàng sẽ gây ra một sự gia tăng giá vàng ngay lập tức. Bài nghiên cứu này cũng xem xét tác động của lạm phát đến lãi suất và chi phí của việc giữ vàng. Sự gia tăng trong lạm phát kỳ vọng sẽ làm giá vàng tăng cao hơn, tuy nhiên nó cũng làm cho lãi suất tăng lên và vì vậy làm gia tăng chi phí của việc giữ vàng. Bất kỳ lợi nhuận đầu cơ nào từ việc giữ vàng trong suốt thời kỳ lạm phát sẽ bị triệt tiêu bởi chi phí của việc nắm giữ vàng cao hơn (ví dụ chi phí lãi suất cao hơn). Theo đó, sẽ không có động cơ cho việc mua vàng và vàng vì vậy sẽ không phản ứng với những thay đổi của lạm phát kỳ vọng. Có rất nhiều bài nghiên cứu học thuật cũng như các bài báo tài chính đi sâu nghiên cứu tính hiệu quả của thị trường vàng và phạm vi mà vàng cũng như các tài sản khác có liên quan đến vàng cung cấp cơ hội đa dạng hóa tốt hơn là đầu tư vào cổ phiếu. Một cách mà nhà đầu tư thường đầu tư vào vàng là cố gắng tiên đoán những thay đổi trong lạm phát kỳ vọng và sau đó mua vàng với dự đoán lạm phát kỳ vọng sẽ lên và ngược lại sẽ bán vàng khi dự đoán lạm phát kỳ vọng sẽ giảm xuống. Các bài báo tài chính chỉ ra rằng có những bằng chứng đáng kể cho thấy có một mối quan hệ mạnh mẽ giữa lạm phát kỳ vọng và giá vàng. Các nhà phân tích thị trường thường cho là những thay đổi đáng kể trong giá vàng do tác động của thay đổi trong lạm phát kỳ vọng. Alan Greenspan, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ đã nhận xét rằng vàng là “một chỉ số rất tốt” của lạm phát và rất có ích trong cuộc chiến chống lại lạm phát. Mặc dù có được sự công nhận rộng rãi về mối quan hệ giữa lạm phát và giá vàng, tuy nhiên không có bằng chứng thực nghiệm thuyết phục đễ hỗ trợ nó. Garner (1995) xem xét năm yếu tố dự báo hàng đầu cho lạm phát, trong đó có vàng. Kết quả là ông chỉ tìm thấy sự hỗ trợ yếu duy nhất cho sức mạnh dự đoán của các chỉ số. Mahdavi và Zhou (1997) kiểm tra phạm vi mà giá vàng và giá các loại hàng hóa khác trong việc dự đoán lạm phát, và họ kết luận rằng sự đóng góp của vàng đối với việc dự đoán lạm phát là không có ý nghĩa thống kê. Trang 12 Cecchetti, Chu, và Steindel (2000) cho thấy rằng khi bao gồm vàng trong các chỉ số hàng đầu dự báo lạm phát thì kết quả kiểm định của mô hình có hệ số âm, nghĩa là giá vàng tăng cao hơn có liên quan đến lạm phát thấp hơn – hoàn toàn ngược lại với giả thiết ban đầu. Trong bài nghiên cứu này sử dụng những thay đổi bất ngờ của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) như là đại diện cho những thay đổi bất ngờ của lạm phát kỳ vọng. Bất cứ khi nào có sự thay đổi bất ngờ của chỉ số CPI, giới tài chính cho rằng các nhà phân tích sẽ xem xét lại dự báo của họ về lạm phát trong tương lai. Ví dụ, nếu chỉ số CPI bất ngờ tăng mạnh thì sẽ được hiểu là lạm phát sẽ cao hơn trong tương lai. Do nguồn vốn cần thiết để đầu tư vào vàng đòi hỏi các quỹ phải từ bỏ việc đầu tư vào các tài sản khác, nên chi phí đầu tư vào vàng là chi phí cơ hội đầu tư của các quỹ vào các tài sản khác với cùng mức độ rủi ro. Những nghiên cứu trước đó cho thấy rằng vàng và những tài sản khác liên quan đến vàng (như các công ty khai thác vàng và các quỹ tương hỗ) hoặc là không có tương quan hoặc là tương quan âm và rất yếu với các chỉ số của thị trường. Vì các nghiên cứu cho thấy rằng vàng có hệ số β = 0 (hoặc xoay quanh mức 0), tỷ lệ phi rủi ro là một mức có thể chấp nhận được đối với chi phí của việc nắm giữ vàng. Bài nghiên cứu này xem xét tác động của những thay đổi của lạm phát kỳ vọng với chi phí giữ vàng bằng cách đo lường tác động của những thay đổi bất ngờ của chỉ số CPI với những trái phiếu chính phủ Mỹ đến hạn tại các kỳ hạn 1, 2, 3, 5, 7, 10 năm. Một mối quan hệ dương đáng kể chỉ ra rằng chi phí của việc nắm giữ vàng sẽ tăng lên cùng với mức tăng của lạm phát kỳ vọng. Bài nghiên cứu trình bày hai lý thuyết khác nhau nhưng có cùng mục đích giải thích mối quan hệ giữa lạm phát kỳ vọng và giá vàng. Giả thuyết đầu cơ lập luận rằng những thay đổi của lạm phát kỳ vọng sẽ làm cho giá vàng thay đổi tức thời. Giả thuyết chi phí thực hiện lập luận rằng lạm phát kỳ vọng càng cao sẽ làm cho lãi suất tăng cao hơn (hiệu ứng Fisher). Lãi suất tăng cao sẽ làm cho chi phí của việc nắm giữ đầu tư vào vàng tăng cao hơn và triệt tiêu đi phần nào lợi nhuận nhận được từ việc đầu cơ vàng. Theo đó, giả thuyết chi phí thực hiện dự đoán Trang 13 rằng giá vàng sẽ không thay đổi khi lạm phát kỳ vọng thay đổi. Mối quan hệ này được kiểm tra bằng cách sử dụng những thay đổi bất ngờ của chỉ số CPI như là thước đo của thay đổi trong lạm phát kỳ vọng, Kết quả cho thấy rằng những thay đổi bất ngờ của chỉ số CPI không có tác động đến giá vàng. Những kết luận được rút ra từ bài nghiên cứu: - Giá vàng không thay đổi như là kết quả của những thay đổi trong kỳ vọng về lạm phát trong tương lai. Những bài báo tài chính thường gắn chặt sự thay đổi của giá vàng với những thay đổi trong lạm phát kỳ vọng có thể đã sai lầm. - Thậm chí nếu một nhà đầu tư có tầm nhìn xa hoàn hảo và biết rằng lạm phát trong tương lai sẽ khác biệt đáng kể với kỳ vọng của thị trường, thì nhà đầu tư đó cũng không thể thiết lập được sự đầu cơ có lợi nhuận từ thị trường vàng để được lợi từ những thông tin đó. Tuy nhiên nhà đầu tư có thể tìm kiếm được lợi nhuận đầu cơ từ thị trường trái phiếu, hay nói cách khác, nhà đầu tư nên sử dụng thị trường trái phiếu để đầu cơ trên sự thay đổi của lạm phát kỳ vọng thay vì là sử dụng thị trường vàng. - Cuối cùng, không thể xác định được lạm phát kỳ vọng của thị trường bằng cách xem xét giá vàng giao ngay. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Với những bằng chứng thực nghiệm của những nghiên cứu tiền đề trên thế giới về mối quan hệ giữa giá vàng và lạm phát, có thể cho thấy rằng giá vàng và lạm phát tồn tại một mối quan hệ tác động qua lại và trong một số trường hợp có thể sử dụng giá vàng để làm chỉ số dự báo lạm phát trong tương lai. Trang 14 CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG MÔ HÌNH VÀ KIỂM ĐỊNH MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ VÀNG VÀ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2002-2010 2.1 Các yếu tố tác động đến giá vàng và lạm phát 2.1.1 Các yếu tố tác động đến giá vàng: - Thứ nhất, những thay đổi về chính sách tiền tệ cùng với những biến động chính trị trên thế giới như chiến tranh, khủng bố…làm thay đổi giá trị của USD. - Thứ hai, giá dầu tăng cao, chi phí nhiên liệu cho sản xuất tăng, hàng hóa tăng giá, dẫn tới tình trạng lạm phát, kéo theo đó là sự mất giá của đồng USD. - Thứ ba, sản lượng của các công ty khai thác vàng giảm, ảnh hưởng tới nguồn cung trong lúc nhu cầu sử dụng vàng ngày một tăng nhất là ở các thị trường mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ. - Thứ tư, động thái của giới đầu tư và các quỹ tiền tệ cũng như các quốc gia trên thế giới tăng tỷ lệ dự trữ vàng. 2.1.2 Các yếu tố tác động đến lạm phát: Lạm phát về thực chất là sự mất giá của đồng tiền so với hàng hóa, dịch vụ, với nguyên nhân chung là sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu, mà biểu hiện của nó là mất cân đối tiền – hàng. Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát bao gồm những yếu tố tác động đến hai vế của quan hệ cân đối này, tức là các yếu tố tác động đến tổng cung – hàng hóa và các yếu tố tác động đến tổng cầu – tiền. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp của lạm phát. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP. Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2 lần-một hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi con số tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ. Trang 15 Tình trạng vàng hóa và đô la hóa khá cao cũng gây ra tác động tiêu cực đối với lạm phát trên 4 mặt. - Hút vào thị trường vàng và USD một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền. - Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng lên. - Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ... - Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND. Giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối với lạm phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau. 2.2 Giá vàng và lạm phát trong thời gian từ 2002-2010 Từ năm 2001 đến 2005, giá vàng thế giới liên tục trong xu hướng tăng mạnh, có lúc tăng đột biến. Bắt đầu từ 2001, khi Tổng thống George Bush chính thức lên nắm chính quyền tại Mỹ thì cũng là thời điểm khởi đầu của chu kỳ tăng giá vàng, đặc biệt là từ sau vụ khủng bố 11-9 cho đến nay. Đây là chu kỳ tăng giá dài nhất trong vòng 3 thập kỷ qua. Nếu như mức tăng giá vàng thế giới trong giai đoạn 1991 – 1995 và 1996 – 2000 giảm lần lượt là -1,44% và -29,65% thì giai đoạn 2001 – 2005 tăng mạnh lên 90,04%. Trong giai đoạn này, điều kiện nền kinh tế nước ta nói chung và thị trường vàng nói riêng hội nhập càng sâu rộng với thế giới và trong điều kiện thông tin hiện đại nên giá vàng trong nước theo nguyên tắc “bình thông nhau” với giá vàng thế giới, đồng thời giá vàng ở nước ta cũng phản ánh tức thì, cùng chiều và theo sát giá vàng trên thị trường thế giới. Nếu như mức tăng giá vàng trong nước giai đoạn 1996 – 2000 là -6,16% thì giai đoạn 2001 – 2005 tăng mạnh lên 102,07%. Trang 16 Bước sang năm 2006, thị trường kim loại quý vẫn liên tục lên cơn sốt tăng giá và liên tục lập những kỷ lục mới. Trong phiên giao dịch ngày 12/5/2006, giá vàng đã có lúc tăng lên mức cao kỷ lục 731 USD/ounce – mức cao nhất kể từ tháng 1/1980. Như vậy, so với đầu năm 2006, giá vàng đã tăng khoảng 200 USD/ounce – tương đương 38,1%. Giá vàng trong nước sáng 12/5/2006 đã vượt mức 1,5 triệu đồng/chỉ tại hầu hết các địa phương. Như vậy, giá vàng trong nước tính đến thời điểm (12/5/2006) đã tăng 46% so với đầu năm 2006. Đồ thị 2.1 Diễn biến giá vàng thế giới theo tháng từ tháng 7/1982 – 3/2006 0 100 200 300 400 500 600 700 800 7/ 82 7/ 83 7/ 84 7/ 85 7/ 86 7/ 87 7/ 88 7/ 89 7/ 90 7/ 91 7/ 92 7/ 93 7/ 94 7/ 95 7/ 96 7/ 97 7/ 98 7/ 99 7/ 00 7/ 01 7/ 02 7/ 03 7/ 04 7/ 05 DIỄN BIẾN GIÁ VÀNG THẾ GIỚI THEO THÁNG (giai đoạn từ tháng 7/1982 - 3/2006) 31/12/2005 (tăng 90,04% so 31/12/2000) 31/12/1990 31/12/1995 (giảm 1,44% so 31/12/1990) 31/12/2000 (giảm 29,65% so 31/12/1995) tháng 9/01 USD/ounce Nguồn: Nguyễn Hữu Tú-Phòng PTKT&DB-Vụ CSTT-NHNN, “Những diễn biến bất thường trên thị trường vàng: Nguyên nhân, tác động và giải pháp”, 19/05/2006. Việc giá vàng tăng cao đã gây nên hội chứng tâm lý làm nhiều người dân đổ xô đi mua vàng, một số đã rút tiền tiết kiệm để mua vàng. Tuy nhiên, trước sự trồi sụt thất thường của giá vàng thế giới đã khiến không ít người dân bị thua thiệt nghiêm trọng Trang 17 do đầu tư theo “phong trào” – giá lên thì đổ xô đi mua, giá hạ thì ào ạt bán. Đây cũng là một nguyên nhân kỳ vọng tác động đẩy giá vàng trong nước tăng cao ngoài nguyên nhân chính là do giá vàng thế giới biến động. Nhìn vào đồ thị nhà đầu tư cũng có thể thấy tổng cầu về vàng (cả đồ trang sức và đầu tư lẻ) ở Việt Nam đều tăng lên rõ rệt từ năm 2002 đến 2008 nhu cầu về vàng trên thị trường hiện nay càng ngày càng tăng, giá vàng cao kỉ lục nhưng vẫn được đầu tư mua vào. Hiện tượng này xảy ra đơn giản bởi vì nhà đầu tư tiếp tục kỳ vọng giá vàng sẽ còn cao thêm nữa. Đồ thị 2.2 Nhu cầu về vàng ở Việt Nam 1992 – 2007 (Đvt: Tấn) Nguồn World Gold Council Nhìn qua 3 đồ thị 2.3, 2.4 và 2.5, chúng ta thấy rõ tác động của từng yếu tố đến xu hướng của giá vàng. Cụ thể, trong khi xu hướng của tỷ giá đô la Mỹ và giá dầu là tăng từ năm 1998 đến 2001 giai đoạn này giá vàng tương đối ổn định. Từ năm 2001 đến 2003 giá vàng tăng nhẹ và giá dầu giảm nhẹ trong khi tỷ giá đô la Mỹ tăng cao. Từ năm 2003 đến năm 2007, giá vàng, giá dầu và tỷ giá đô la Mỹ cùng trong xu hướng tăng cao. Đồ thị 2.3 Giá vàng TG và giá vàng Việt Nam từ năm 1998 đến 2007 Trang 18 - 5,000 10,000 15,000 20,000 25,000 30,000 35,000 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Giá vàng TG (đ/lượng) Giá vàng VN (đ/lượng) Nguồn Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh và website www.kitco.com Tỷ giá đô la Mỹ tăng lên hàng năm, giai đoạn từ 2000 đến 2003 tăng cao, sau đó tăng nhẹ từ năm 2004 đến 2007 Đồ thị 2.4 Tỷ giá đô la Mỹ từ năm 1998 đến 2007 12,000 12,500 13,000 13,500 14,000 14,500 15,000 15,500 16,000 16,500 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tỷ giá VNĐ/USD Nguồn Cục Thống kê TP. Hồ Chí Minh Giá dầu thế giới tăng nhẹ từ năm 1998 đến 1999, từ năm 2000 đến 2003 giảm nhẹ và tăng mạnh từ năm 2004 đến 2007. Đồ thị 2.5 Giá dầu thế giới từ năm 1998 đến 2007 Trang 19 0.00 10.00 20.00 30.00 40.00 50.00 60.00 70.00 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Giá dầu thế giới (USD/thùng) Nguồn Reuters Hai nỗi lo trái ngược thống trị trong năm 2008 là lạm phát và giảm phát đã tạo những cơn sóng trồi sụt liên tục cho vàng. Vàng liên tục gia tăng giá trị cùng với sự leo dốc của chỉ số lạm phát trong những tháng đầu năm 2008, tuy nhiên nửa cuối năm còn lại thật sự là quãng thời gian khó khăn cho giá vàng khi nó phải liên tục dò tìm những đáy mới trong bối cảnh nỗi lo suy giảm kinh tế toàn cầu gia tăng. Năm 2008 chứng kiến sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ sự sụp đổ thị trường địa ốc kéo theo một số lượng con nợ lớn chưa từng thấy của thị trường cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Ảnh hưởng của nó đã khiến nhiều nền kinh tế trên thế giới chao đảo và trong bối cảnh lạm phát tăng cao, các nhà đầu tư ồ ạt chuyển vốn sang thị trường vàng - loại hàng hóa an toàn và hấp dẫn trong thời kỳ lạm phát và xu hướng này thực sự đã tạo ra một hậu phương hết sức vững chắc giúp quý kim thẳng tiến chinh phục những đỉnh cao mới. Vào ngày 17/03/2008, thị trường tiền tệ thế giới ghi nhận mức giá kỷ lục trong lịch sử của giá vàng – mức 1.033,90 USD/Oz. Chỉ tính trong quý 1/2008, vàng đã gia tăng được 14% giá trị của nó. Nỗi ám ảnh về lạm phát ngày càng đe dọa toàn cầu, trong đó biểu hiện rõ ràng nhất là việc giá dầu cứ tiếp tục leo lên từng mốc, mốc sau lại cao hơn mốc trước và việc FED liên tục hạ lãi suất để chống đỡ với sự tàn phá của cuộc khủng hoảng tín dụng trong khi các NHTW khác lại cố gắng giữ lãi suất ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát lại càng gây sức ép nặng nề cho đồng USD. Trang 20 Trong khi đó nguồn cung vàng có dấu hiệu giảm sút do việc khai thác vàng ở các nước khó khăn hơn khi phải tìm vàng ở độ sâu khá lớn và trả lương cao cho công nhân, cộng thêm những biến động về chính trị đã chắp cánh cho giá vàng thăng hoa. Việc giá vàng cao ngất ngưởng đã khiến cho một bộ phận các nhà đầu tư tỏ ra e ngại khiến nhu cầu mua vàng giảm 19% trong quý 2 nhưng những diễn biến phức tạp về tình hình lạm phát của toàn cầu cùng với sự hỗ trợ của yếu tố đồng hành lâu năm với vàng là dầu thô, vàng vẫn tiếp tục giữ vững được vị thế của mình. Không ai có thể ngờ dầu thô có thể cán mốc kỷ lục 147,27 USD/thùng vào ngày 11/07/2008 bởi lực hậu thuẫn xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Đồng USD tiếp tục mất giá, xung đột về địa chính trị lên cao, trữ lượng dầu có phần hạn chế, hoạt động đầu cơ trên thị trường, tình hình thời tiết không mấy thuận lợi... Vàng đã tận dụng được lợi thế này và duy trì được phong độ trong một khoảng thời gian khá dài. Tuy nhiên, tính chất hầm tránh bão của vàng trong thời kỳ lạm phát đang giảm dần bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bước sang thời điểm mới: các nền kinh tế dẫn đầu thế giới bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu giảm tốc và nỗi lo suy giảm tăng trưởng kinh tế mà xa hơn là suy thoái kinh tế bắt đầu làm đau đầu các nhà lãnh đạo khu vực Châu Âu, Mỹ , Nhật, Trung Quốc... Nguồn vốn trên thị trường bắt đầu tập trung vào những tài sản có mức bảo toàn vốn cao như trái phiếu chính phủ, tiền mặt... Sự lao dốc đến chóng mặt của thị trường chứng khóan trong thời buổi kinh tế khó khăn khiến các nhà đầu tư nhanh chóng thanh lý hợp đồng vàng - loại hàng hóa có mức thanh khoản cao - để bù đắp những khoản thua lỗ trên các thị trường khác. Đồng USD bất ngờ lại lấy lại được lợi thế của mình khi các nhà đầu tư nhận ra rằng đây vẫn là đồng tiền an tòan nhất và chiếm khối lượng giao dịch lớn nhất trên thị trường ngoại hối. Sự giằng co giữa hai xu hướng: bán vàng bù lỗ, nắm giữ USD mặt và nhu cầu sụt giảm trong bối cảnh suy thoái kinh tế với việc mua vào lọai hàng hóa vốn từ lâu đời có tính an toàn và bảo toàn giá trị khiến vàng có những phiên trồi sụt thất thường và giao động trong biên độ rộng từ 750 – 980 USD/Oz. “Cơn sóng thần” của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra nhiều hậu quả nặng nề: sự thua lỗ, đổ vỡ, quốc hữu hóa, phá sản, vỡ nợ… Chính phủ các nước Trang 21 phải đưa ra các kế hoạch hỗ trợ cho nền kinh tế tuy nhiên những giải pháp này vẫn chưa phát đi những tín hiệu đáng mừng nào cho thị trường. Hơn nữa, nỗi ám ảnh về mối lo giảm phát đã đưa thời kỳ “bong bóng”của thị trường hàng hóa đi vào hồi kết trong đó giảm sâu nhất phải kể đến dầu thô có lúc giảm tới 70% so với đỉnh điểm hồi tháng 7 và liên tục trượt dài đến nay mặc cho những nỗ lực của các nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới như OPEC, Nga, Arab Saudi đã cắt giảm mạnh sản lượng. Vàng và dầu không còn có thể tiếp tục đồng hành cùng nhau: trong khi dầu liên tục trượt dốc không phanh từ tháng 7 đến nay và có lúc giảm chỉ còn 33.87 USD/thùng (19/12); vàng vẫn giữ được phong độ là loại hàng hóa giảm giá ít nhất trong chỉ số Reuters/Jefferies CRB Index của 19 loại hàng hóa (chỉ giảm khỏang 12% giá trị) nhờ những tính chất truyền thống vốn có của nó. Nhu cầu đối với vàng với tư cách là mặt hàng an toàn không mất đi thậm chí cả tình hình kinh tế không mấy sáng sủa, nhất là dư âm từ vụ sụp đổ Lehman Brother và các tổ chức tài chính khổng lồ khác đã đưa giá vàng lên đỉnh cao vào ngày 10/10/2008 ở mức 950USD/Oz, đồng thời với những rắc rối vẫn chưa được tháo gỡ triệt để của các nền kinh tế hàng đầu và việc FED quyết định đưa lãi suất về mức thấp nhất trong lịch sử, cộng thêm những biện pháp bơm USD với khối lượng khổng lồ vào nền kinh tế để chống khủng hoảng đang tạo áp lực mất giá trở lại đối với USD và khiến người ta đặt câu hỏi về sự hình thành của một chu kỳ lạm phát mới sẽ là lực hỗ trợ cho thị trường quý kim tiếp tục ghi điểm. Nguy cơ giảm phát sẽ còn bao trùm nền kinh tế toàn cầu trong năm tới sẽ là một lý do để hạn chế đà tăng giá của giá vàng. Tuy nhiên với những khó khăn hiện tại của nền kinh tế, khi công cụ lãi suất không còn có thể dễ dàng sử dụng (khá nhiều quốc gia đã hạ thấp lãi suất đồng tiền của mình), các quốc gia lớn trên thế giới sẽ buộc phải nghĩ đến việc in thêm tiền ra lưu thông và vay mượn đa quốc gia và chính điều này sẽ lại trở thành động lực tốt cho giá vàng phục hồi. Hơn nữa khi kinh tế toàn cầu lấy lại được mãi lực tăng trưởng, nhu cầu hàng hóa sẽ tăng trở lại cũng là một lý do để giá vàng tiếp tục leo dốc. Trang 22 Năm 2009 chứng kiến sự xuất hiện liên tiếp những mốc giá vàng chưa từng có trong lịch sử, đồng thời cũng ghi nhận những biện pháp can thiệp tích cực nhằm bình ổn thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước. Tăng khá đều đặn trong các quý 1, 2 và 3 rồi bứt phá mạnh trong quý 4 là xu hướng chính của giá vàng thế giới năm 2009. Khởi động năm 2009 với mức giá khoảng 880 USD/Oz, giá vàng giao ngay thị trường thế giới đến ngày 23/12 đóng cửa ở mức gần 1.090 USD/Oz, tăng xấp xỉ 24%. Mức đỉnh cao lịch sử của giá vàng giao ngay đóng cửa tại thị trường New York hiện là mức 1.215,8 USD/Oz thiết lập vào ngày 2/12/2009. Mức giá này đã bỏ xa kỷ lục đóng cửa 1.002,8 USD/Oz của năm 2008. Dưới tác động của giá vàng thế giới, giá vàng trong nước cũng liên tục khiến thị trường đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Năm 2009 là một năm giá tăng khá nhanh và mạnh chưa từng có của vàng trong nước. Ngày lịch sử của thị trường vàng trong nước năm này là 11/11, khi giá vàng lần lượt chinh phục các mốc giá 27, 28, rồi 29 triệu đồng/lượng chỉ trong vòng có vài giờ đồng hồ buổi sáng. Đỉnh cao mọi thời đại của giá vàng trong nước năm 2009 là mốc 29,3 triệu đồng/lượng. Đầu năm 2009, giá vàng trong nước đứng ở mức gần 18 triệu đồng/lượng. Tính tới ngày 24/12, khi giá vàng ở mức 26,5 triệu đồng/lượng, thì giá vàng trong nước đã tăng 8,5 triệu đồng/lượng, tương đương 47%. Điều đáng nói là giá vàng thế giới năm 2009 lập kỷ lục giữa lúc khủng hoảng tài chính không còn căng thẳng như năm 2008, đồng thời rủi ro lạm phát cũng không phải là một mối lo lớn của hầu hết các quốc gia. Tuy không phát huy được tối đa vai trò “hầm trú ẩn an toàn”, giá vàng năm nay lại được hỗ trợ nhiều bởi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng của nước Mỹ. Xu hướng suy yếu của tỷ giá USD do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục là nhân tố nâng đỡ tích cực nhất cho giá vàng trong năm. Thay vì là vàng, kênh đầu tư được xem là “vịnh tránh bão” hàng đầu năm nay trên thị trường thế giới chính là đồng USD. Trong hầu hết thời gian của năm, đồng “bạc xanh” được nâng đỡ mỗi khi có thông tin kinh tế bất lợi xuất hiện, và giảm giá khi có tin tốt. Trang 23 Giảm dự trữ USD và tăng dự trữ vàng là cách đa dạng hóa dự trữ ngoại hối mà ngân hàng trung ương nhiều quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazil..., đang thực hiện. Trong đợt Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) bán 403,3 tấn vàng đang diễn ra, Ấn Độ đã mua 200 tấn, Sri Lanka mua 10 tấn, Maritus mua 2 tấn. Ấn Độ, Trung Quốc và Nga được giới quan sát xem là những khách hàng tiềm năng cho việc mua nốt số vàng còn lại từ IMF trong đợt bán ra này. Thị trường thế giới năm 2009, mà chủ yếu là quý 4, cũng chứng kiến một số sự kiện gây sốc, có tác động mạnh đến giá vàng, trong đó khu vực Trung Đông có “đóng góp” khá tích cực. Đầu tháng 10, thế giới xôn xao trước tin đồn một số nước vùng Vịnh đang âm thầm bàn thảo một kế hoạch nhằm loại đồng USD ra khỏi giao dịch dầu lửa. Thông tin này sau đó đã bị các nước liên quan phủ nhận, nhưng cũng đủ đẩy tỷ giá USD thế giới sụt sâu, giúp giá vàng có những bước tăng tốc mạnh. Sau đó, đến cuối tháng 11, thị trường một lần nữa bất ngờ trước việc tập đoàn Dubai World của Dubai có nguy cơ vỡ nợ. Rủi ro về một cuộc khủng hoảng nợ ở thế giới Arab đã thúc đẩy giới đầu tư quay trở lại với trái phiếu kho bạc Mỹ và USD để tìm kiếm sự an toàn, kéo tỷ giá USD tăng và giá vàng quay đầu đi xuống. Nỗi lo về khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp gia tăng sau khi ba hãng định mức tín nhiệm Fitch, S&P và Moody’s đánh tụt hạng mức tín nhiệm nợ của nước này, cũng gây bất lợi cho giá vàng trong tháng cuối năm. Theo số liệu hãng tin tài chính Bloomberg cung cấp, trong 11 tháng đầu năm 2009, các loại trái phiếu có định mức tín nhiệm thấp trên thế giới đem đến cho giới đầu tư tỷ lệ lợi nhuận 58%, tiếp đó là thị trường hàng hóa với mức lợi nhuận 36%, vàng (34%), chứng khoán (29%), trái phiếu doanh nghiệp (23%), và trái phiếu chính phủ (8%). Năm nay sẽ là năm tăng giá thứ 9 liên tục của vàng thế giới. Trong nước, giá vàng từ đầu năm tới ngày 24/12 đã tăng gần 150%, chỉ số VN-Index tăng 51,8%, còn lãi suất tiết kiệm VND kỳ hạn 1 năm ở thời điểm đầu năm 2009 vào khoảng 8%. Trang 24 Nhìn chung, giá vàng trong nước năm 2009 biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tuy nhiên, do còn chịu tác động từ tình hình cung cầu và biến động tỷ giá USD/VND nên giá vàng trong nước năm này có thời điểm thấp hoặc cao hơn giá vàng thế giới tới cả triệu đồng/lượng. Ở thời điểm giữa quý 1, khi người dân ồ ạt bán vàng để chốt lời ở mức giá 19-20 triệu đồng/lượng, còn doanh nghiệp mạnh tay gom mua để xuất khẩu, giá vàng trong nước có lúc thấp hơn giá vàng thế giới 1,5 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, vào giữa quý 4, khi các nhà đầu tư tranh mua vàng, giá vàng trong nước lại thường xuyên cao hơn giá thế giới. Trong ngày sốt đỉnh điểm 11/11, giá vàng trong nước có lúc cao hơn giá vàng thế giới 3,6 triệu đồng/lượng. Thừa hoặc thiếu cung vàng là lý do chính mà các công ty kim hoàn đưa ra để lý giải cho sự vênh giá trên. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, sự lệch giá này là kết quả của hoạt động ghìm giá hoặc thổi giá của giới đầu cơ. Đồ thị 2.6: Giá vàng TG, giá vàng VN và tỷ giá USD giai đoạn 2008-2010 0 5,000 10,000 15,000 20,000 25,000 30,000 35,000 40,000 01 /20 08 04 /20 08 07 /20 08 10 /20 08 01 /20 09 04 /20 09 07 /20 09 10 /20 09 01 /20 10 04 /20 10 07 /20 10 10 /20 10 Giá vàng trong nước (Ngàn VND/Lượng) Giá vàng thế giới quy đổi (Ngàn VND/Lượng) Tỷ giá USD/VND Nguồn Cục thống kê TP.HCM và website www.kitco.com Sự lên xuống của tỷ giá USD/VND thị trường tự do ở nhiều thời điểm cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến giá vàng trong nước không tăng giảm cùng biên độ với giá vàng thế giới, thậm chí biến động ngược chiều với giá vàng thế giới. Qua đồ thị 2.6 và 2.7, chúng ta thấy xu hướng giá vàng trong nước là cùng chiều giá vàng thế giới và tỷ giá đô la Mỹ nhưng ngược chiều với giá dầu. Trang 25 Đồ thị 2.7 Giá dầu thế giới từ năm 2008 đến tháng 3/2010 91.48 53.56 70.26 0 20 40 60 80 100 2008 2009 2010 Giá dầu TG (USD/thùng) Nguồn website Năm 2009 tiếp tục chứng kiến tâm lý đám đông của các nhà đầu tư vàng nhỏ lẻ ở trong nước. Trong quý 1, người dân tỏ ra sáng suốt khi xếp hàng để bán vàng chốt lãi ở các mức giá 19-20 triệu đồng/lượng. Trong quý 2 và quý 3, do sức hút từ sự phục hồi của thị trường chứng khoán và nhà đất, thị trường vàng trong nước khá trầm lắng mặc dù giá vàng lần lượt chinh phục các mốc 21-22 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, với nhận định rằng giá vàng khó có thể tăng xa hơn, nhiều nhà đầu tư khi đó đã vay vàng để bán, với hy vọng khi nào giá xuống sẽ mua vào để trả nợ. Đến quý 4, khi giá vàng lên 24-25 triệu đồng/lượng, hoạt động đầu tư “đánh xuống” vẫn diễn ra. Đến đầu quý 4, khi giá vàng tiến về 26 triệu đồng/lượng, nhiều người bắt đầu thực sự lo ngại về khoản nợ bằng vàng của mình. Tới lúc này, nhiều người cuống cuồng mua vào để thanh toán số vàng đã vay nhằm cắt lỗ, khiến tình hình nguồn cung vàng trong nước thêm phần căng thẳng giữa lúc hoạt động nhập khẩu vàng chưa được nối lại. Nhiều người không vay vàng cũng mất hết kiên nhẫn khi thấy giá vàng liên tục leo thang nên cũng ồ ạt đi mua. Trước những diễn biến bất thường của thị trường vàng trong nước, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định cho nối lại hoạt động nhập khẩu vàng nhằm hạ nhiệt thị trường. Quyết định được công bố vào chiều ngày 11/11 này được xem như một liều thuốc giải nhiệt hiệu quả và kịp thời đối với cơn sốt vàng đang ở đỉnh điểm. Trước đó, hoạt động nhập khẩu vàng đã bị tạm ngừng hơn 1 năm. Trang 26 Sau khi vấn đề nguồn cung được giải quyết, giá vàng tiếp tục có những biến động mạnh do xu hướng leo thang của tỷ giá USD thị trường tự do. Tuy nhiên, vấn đề này đã được khắc phục sau khi Ngân hàng Nhà nước nâng mạnh tỷ giá USD/VND liên ngân hàng và thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% về +/-3% vào ngày 25/11/2009. Từ thời điểm đó tới nay, với sự ổn định của tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do và nguồn cung vàng không còn khan hiếm, giao dịch trên thị trường vàng diễn ra khá ổn định. Quản lý sàn vàng là một vấn đề lớn được các cơ quan chức năng cân nhắc trong năm 2009. Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ hai phương án về quản lý sàn vàng: một là chấm dứt hoạt động sàn vàng; hai là tiếp tục cho hoạt động thì chỉ cho phép các ngân hàng thương mại được mở sàn, đồng thời mức ký quỹ có thể lên tới mức 100%. Tuy nhiên, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định chấm dứt hoạt động sàn vàng vào ngày 30/03/2010 mục đích chỉnh đốn lại hoạt động này trong thời gian tới. Giá vàng năm 2010 diễn biến theo hình răng cưa với chiều đi lên là chủ đạo và liên tiếp tự phá các kỷ lục mới, cả ở phạm vi trong nước và quốc tế. Ngay trong tháng 01/2010, giá vàng đã tăng 53.89% so với tháng 01/2009 đứng ở mức 26.5 triệu đồng/lượng. Mặc dù NHNN điều chỉnh tỷ giá hối đoái liên ngân hàng tăng trên 3% lên mức 18,544 VND/USD từ ngày 11/02/2010 đi đôi với chính thức tăng giá vốn tín dụng ngân hàng thông qua áp dụng lãi suất thoả thuận cho các khoản vay trung dài hạn từ 26/02/2010 song chỉ số giá vàng tháng 02/2010 lại giảm 2.03% so với tháng trước, và tăng 42.58% so với cùng kỳ năm 2009. Giá vàng trong tháng 02/2010 giảm nguyên nhân là do trong tháng này NHNN đã cấp quota nhập khẩu vàng cho SJC để bán vàng ra bình ổn thị trường. Giá vàng tháng 03/2010 lại tăng 1.21% so với tháng trước nhưng giảm 3.76% so với tháng 12/2009. Chỉ số giá vàng tháng 04/2010 giảm 0.8% so với tháng trước, tuy đã giảm 4.53% so với tháng 12/2009 song vẫn cao hơn 33.89% so với cùng kỳ năm 2009 và xoay quanh mức 26.5 triệu đồng/lượng. Trang 27 Chỉ số giá vàng tháng 05/2010 tăng 1.91% so với tháng trước, tuy giảm 2.71% so với tháng 12/2009 nhưng vẫn tăng tới 35.62% so với cùng kỳ năm 2009 và xoay quanh mức 27.5-28 triệu đồng/lượng trong khi giá vàng thế giới đã liên tiếp lập kỷ lục vượt 1,250 USD/Oz ngày 12/05/2010 và nửa cuối tháng 06/2010. Giá vàng trong nước tháng 06/2010 biến động mạnh theo xu hướng tăng, có thời điểm lên tới 28.6 triệu đồng/lượng. Giá vàng tháng 06/2010 so với tháng trước tăng 3.09%, so với tháng 12/2009 tăng 0.3% và so với cùng kỳ năm trước tăng 32.43%. Diễn biến giá vàng rất phức tạp và phụ thuộc vào diễn biến giá vàng thế giới trong khi giá vàng thề giới đã lập những kỷ lục mới 1,250USD/Oz ngay đầu tháng 05/2010, đã phá vỡ kỷ lục 1,227 USD/Oz của năm 2009, thậm chí có dự báo lên đến 1,300USD/Oz ngay trong tháng 07- 08/2010. Giá vàng tại Việt Nam dao động quanh mốc 28.5 triệu đồng/lượng, có thời điểm lên đến trên 29 triệu đồng/lượng song vẫn còn thấp hơn giá thế giới nên hiện tượng xuất vàng dưới hình thức vàng nữ trang đã xuất hiện, đem về nguồn USD không nhỏ cho đất nước. Giá vàng tháng 07/2010 tiếp tục tăng 2.15% so với tháng trước và dao động quanh mức 28 triệu đồng/lượng. Trong tháng 08/2010 giá vàng giảm 0.88% so với tháng trước, nhưng tuần cuối tháng 8 giá vàng đã tăng vọt lên trên dưới 29 triệu đồng/lượng do giá quốc tế lên khoảng 1,240USD/Oz và NHNN điều chỉnh phá giá VND từ ngày 18/08/2010. Chỉ số giá vàng tháng 09/2010 tăng 3.58% so với tháng trước, tăng 5.19% so với tháng 12/2009 và tăng tới 34.35% so với cùng kỳ năm 2009. Diễn biến giá vàng rất phức tạp và phụ thuộc vào diễn biến giá thế giới trong khi giá vàng thế giới đúng như dự báo của tháng trước đó đã lập kỷ lục mới lên trên 1,300USD/Oz vào cuối tháng 09/2010. Giá vàng tại Việt Nam cuối tháng 09/2010 dao động quanh mốc kỷ lục mới là 31 triệu đồng/lượng, có thời điểm lên tới 31.5 triệu đồng/lượng, cao hơn giá thế giới khoảng 400 – 500 ngàn đồng/lượng nên hiện tượng thu gom USD trên thị trường tự do để nhập lậu vàng đã xuất hiện trong khi NHNN vẫn chưa cấp quota nhập khẩu vàng chính thức. Giá vàng tháng 10/2010 tiếp tục tăng 7.87% so với Trang 28 tháng trước và có thời điểm cao hơn giá thế giới đến gần 1 triệu đồng/lượng. Giá vàng đạt mức kỷ lục trong tháng là 33.5 triệu đồng/lượng trong khi giá thế giới cũng đạt kỷ lục 1,388USD/Oz ngày 14/10/2010. Giá vàng tháng 11/2010 đã tăng tới 8.67% so với tháng 10 và tăng tới 36.24% so với cùng kỳ năm 2009. Thị trường vàng và USD tự do liên tục biến động trong tháng 11/2010, thậm chí giá thay đổi từng giờ trong nhiều ngày. Đầu tháng 11/2010, giá vàng vọt lên đến kỷ lục mọi thời đại là 38.3 triệu đồng/lượng, đồng thời tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do cũng lên tới 21,500, sau đó giá vàng dao động trong khoảng 34.5 – 36.5 triệu đồng/lượng và USD/VND dao động trong khoảng 21,000 – 21,500. Thời gian này, NHNN tuyên bố không thay đổi tỷ giá hối đoái chính thức 18,932 VND/USD (theo đó trần tỷ giá giao dịch chính thức tại các NHTM là 19,500 VND/USD) đến hết tháng 01/2011 lại càng làm cho thị trường ngoại hối căng thẳng do chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do đã lên đến khoảng 2,000 VND/USD. Tháng cuối cùng của năm 2010, vàng tiếp tục tăng 5.43% so với tháng trước và tăng tới 30% so với cuối năm 2009, dao động quanh ngưỡng 36 triệu đồng/lượng trong khi CPI cả năm tăng 11.75% (bình quân tăng 9.19%) còn tỷ giá USD/VND chỉ tăng 9.69% so với cuối năm trước (bình quân tăng 7.63%). Theo báo cáo của Hội đồng vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng vàng nhập khẩu trừ đi lượng vàng xuất khẩu) là khoảng 1,000 tấn, tương đương với 45 tỷ USD. Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt động không chính thức, gây sức ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ và tăng trưởng kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm. Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%. Trang 29 Trong hai năm 2007 và 2008 ta thấy rằng nguyên nhân lạm phát là do nhiều yếu tố bao gồm có chi phí đẩy (chí phí của các nguyên vật liệu tăng lên), lạm phát nhập khẩu từ nước ngoài vào, cộng với cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực tế của nền kinh tế là nguyên nhân gây ra lạm phát cao. Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Đồ thị 2.8: Tốc độ tăng cung tiền và lạm phát 1995-2008 tốc độ tăng cung tiền và lạm phát từ 1995 đến 2008 -10.000% 0.000% 10.000% 20.000% 30.000% 40.000% 50.000% 60.000% 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Lạm phát tốc độ tăng M2 Nguồn: IMF và ADB Các kiểm định thống kê cho thấy ít có mối tương quan chặt chẽ giữa lạm phát và cung tiền ngay trong chính năm đó. Hình dưới cho thấy mối tương quan này ở mức rất thấp (R2 = 0.0264). Những tham số thống kê chỉ ra rằng từ năm 1995 đến 2008, CPI tính theo năm vào cuối kỳ (tháng 12) và tăng trưởng cung tiền M2 trong năm đó gần như không có mối quan hệ nào. Đồ thị 2.9: Đồ thị phân tán của tốc độ tăng M2 và lạm phát Trang 30 Đồ thị phân tán của tốc độ tăng M2 và lạm phát y = -0.0811x + 0.0837 R2 = 0.0264 -5.000% 0.000% 5.000% 10.000% 15.000% 20.000% 25.000% - 0 0 0 0 1 1 Nguồn: IMF và ADB Nguyên nhân là do độ trễ giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát ở Việt Nam thường là 5 - 7 tháng nên số liệu cuối kỳ tính vào cùng một thời điểm sẽ không phản ánh được mối quan hệ này. Đồ thị 2.10: Tăng trưởng tín dụng, cung tiền M2 và CPI từ 1996 đến 2009 Năm 2008, lạm phát tính theo cuối kỳ đã lên tới 19.89%, đây là mức cao nhất kể từ năm 1992 đến nay. Tăng trưởng cung tiền M2 lên đỉnh điểm tháng 10/2007 đến tháng 1/2008 với mức xấp xỉ 50%. Tăng trưởng tín dụng lên mức đỉnh trên 55% vào tháng 1 đến tháng 4 năm 2008 (so với cùng kỳ năm 2007, thời đoạn 12 tháng). Hậu Trang 31 quả CPI cũng lên mức cao nhất từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2008 (quanh mức 28%). Năm 2009, lạm phát ở mức thấp mặc dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền tăng khá mạnh kể từ mức đáy hồi đầu năm. Rõ ràng tăng trưởng tín dụng và cung tiền chưa tác động ngay đến chỉ số giá tiêu dùng nhưng có thể để lại nguy cơ lạm phát cao trong những tháng tới. Vào tháng 8 năm 2009, CPI đã xuống mức thấp nhất 1.97% so với cùng kỳ năm trước, cách đó 8 tháng thì tăng trưởng tín dụng vào cung tiền M2 đều ở mức 20%. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 tháng 8 năm 2009 lần lượt là 37% và 40%. Tăng trưởng tín dụng lên cao nhất được thiết lập hồi tháng 9/2009 với mức 43.61%. Như vậy, tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao không gây ra lạm phát ngay lập tức, thường lạm phát có độ trễ từ 5-7 tháng so với tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2. Ngoài ra, trong thời kỳ suy thoái độ trễ của cung tiền đến lạm phát cũng thường kéo dài hơn. Đồ thị 2.11: Tăng trưởng tín dụng, cung tiền M2 và CPI từ 01/2007 đến 11/2009 Nhìn vào đồ thị diễn biến CPI dưới đây có thể nhận thấy sau khi lạm phát lên đến mức đỉnh điểm vào năm 2008 và suy giảm vào năm 2009 do tác động của suy thoái kinh tế thế giới, thì ngay cuối năm 2009, chỉ số CPI đã bắt đầu gia tăng trở lại; tới đầu năm 2010, xu thế này vẫn tiếp tục và ngày càng rõ nét. Tuy nhiên, cũng phải tính đến tính quy luật của lạm phát trong năm. Quan sát diễn biến CPI trong đồ thị Trang 32 bên dưới có thể thấy, nếu không có gì đột biến, những tháng đầu năm, CPI thường tăng nhưng sau đó sẽ ổn định và giảm dần, rồi lại nhích lên trong những tháng cuối năm. Nói như vậy không có nghĩa là nguy cơ lạm phát cho những tháng tiếp theo của năm 2010 là không đáng lo ngại khi những yếu tố gia tăng lạm phát đang hiển hiện. Năm 2008 là một ví dụ cho thấy những diễn biến bất thường của chỉ số này và rất có thể một kịch bản tương tự sẽ xảy ra nếu không có các biện pháp kiểm soát tốt lạm phát. Đồ thị 2.12: Thay đổi CPI so với cùng kỳ Nguồn: Tổng cục Thống kê Biểu đồ 2.13: Thay đổi CPI so với tháng trước Nguồn: Tổng cục Thống kê Trang 33 ™ Các yếu tố gia tăng lạm phát năm 2010 Sức ép lạm phát cho năm 2010 đến từ nhiều phía: Từ các yếu tố cầu kéo, chi phí đẩy đến các yếu tố tiền tệ và tâm lý. ¾ Yếu tố “cầu kéo” Nền kinh tế phục hồi sau ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới, nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất dần tăng trở lại. Cầu tăng giúp kích thích nền kinh tế nhưng vấn đề đáng lo ngại hơn là nhu cầu giả tạo, làm giá cả tăng cao không cần thiết. Cán cân thương mại Việt Nam chịu thâm hụt lớn kéo dài trong nhiều năm (năm 2007 thâm hụt hơn 12 tỷ USD, năm 2008 mức thâm hụt tăng lên đến trên 17 tỷ USD). Sang năm 2009, khác với các nước khác, mất cân bằng cán cân thương mại thu hẹp lại khi chịu tác động của khủng hoảng, mức thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam có giảm xuống nhưng không đáng kể, nhập siêu vẫn ở mức 12,2 tỷ USD ngang bằng với năm 2007 và cao hơn rất nhiều so với nhiều năm trước đó. Sự nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa theo chương trình kích thích kinh tế đã đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần làm thâm hụt cán cân thương mại lớn quay trở lại. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại triền miên và chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do tạo tâm lý lo ngại Việt Nam đồng mất giá, tạo ra cầu giả tạo, giá cả tăng cao. Tuy nhiên, với những động thái điều chỉnh tý giá gần đây của NHNN nhằm giúp giảm chênh lệch 2 mức tỷ giá để người dân giảm tích trữ hàng hóa, vàng, đô la, hạ thấp nhu cầu giả tạo, góp phần kiểm soát giá cả. ¾ Yếu tố “chi phí đẩy” Bên cạnh đó, năm 2010, giá cả của nhiều yếu tố đầu vào như giá than, giá điện, giá xăng và giá nước đồng loạt được điều chỉnh tăng. Ngoài ra, theo lộ trình, trong năm 2010 sẽ tăng lương, cộng với tình hình kinh tế thế giới ấm lên sẽ làm giá cả các mặt hàng tăng… Tuy nhiên, không phải cứ giá đầu vào tăng bao nhiêu thì giá cả sản phẩm tăng lên bấy nhiêu nếu các doanh nghiệp có các biện pháp quản lý chi phí, tiết kiệm được chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm. Một nhược điểm khác của thị trường Việt Nam là yếu tố tâm lý có tác động một phần khá lớn tới giá cả hàng hóa. Về mặt lý thuyết, tiền lương tăng lên để bù đắp mức tăng của giá cả, giúp đảm bảo Trang 34 và nâng cao đời sống của người dân. Tuy nhiên, trước khi tiền lương được chính thức tăng lên, thì thông tin tăng lương cũng đã đẩy giá các mặt hàng thiết yếu lên cao. ¾ Yếu tố tiền tệ Đằng sau những nguyên nhân trực tiếp trên là vấn đề cố hữu của nền kinh tế trong nhiều năm qua. Sau những năm phát triển kinh tế bị suy giảm cuối giai đoan 90, từ năm 2000, các nhân tố lạm phát bắt đầu được nuôi dưỡng khi giải pháp kích cầu tăng trưởng thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được ưa chuộng để kích thích nền kinh tế. Tuy nhiên, khả năng sản xuất trong nước lại không đáp ứng được sự tăng lên của nhu cầu nội địa. Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến nay. Năm 2009, bội chi ngân sách đã lên cao, chiếm 7% GDP trong khi đó hệ số ICOR tính bình quân 5 năm cho cả 2 giai đoạn 2001 – 2005 (4,6%) và 2006 – 2010 (5,8%) của Việt Nam đều cao gấp đôi so với Malaysia hay Indonesia khi các nước này ở trong cùng giai đoạn giống Việt Nam. Thực tế, chỉ số ICOR cao cũng không phải là điều đáng lo ngại nếu nó được giải thích bởi sự gia tăng cơ sở hạ tầng, xây dựng phát triển đẩy mạnh nền tảng kinh tế nhưng tình hình Việt Nam, tổng chi đầu tư cho kết cấu hạ tầng trên GDP cao nhưng kết cấu hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập. Điều này cho thấy cơ cấu đầu tư của Việt Nam có vấn đề, cơ cấu kinh tế chưa thực sự hợp lý để tạo điều kiện phát triển bền vững cho những năm sau. Việc bơm tiền ra để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, song hệ số ICOR cao, nguy cơ lạm phát là khó tránh khỏi. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009 đã ở mức 38%, gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn nhiều so với mức chênh lệch 3,5 lần giữa tốc độ tăng tín dụng bình quân và tốc độ tăng GDP trong 5 năm trước. Đây là sức ép gây ra lạm phát cho năm 2010. Trong ngắn hạn tín dụng có vai trò nhất định đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng ảnh hưởng của tín dụng đối với lạm phát cũng không nhỏ và ngày càng tăng lên. Xem xét đồ thị tăng trưởng GDP và chỉ số giá tiêu dùng trong mối quan hệ với tín dụng Trang 35 từ những năm 90 cho đến nay có thể thấy tác động của tín dụng lên CPI ở giai đoạn 91-99 yếu hơn (khoảng cách trong tốc độ phát triển của 2 chỉ số xích lại gần nhau hơn ở giai đoạn sau) so với những năm 2000. Đồ thị 2.14: Mối liên hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế và lạm phát Một số nghiên cứu định lượng về vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế và ảnh hưởng của nó đến CPI, cũng đã đưa ra kết luận rằng: cùng với sự phát triển của thị trường vốn, sự giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng thì vai trò của tín dụng ngân hàng đối với tăng trưởng kinh tế sẽ giảm dần. Mặt khác, theo kết quả của mô hình SVAR (“Cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng” của Việt Hà (2006)) đánh giá tác động của cú sốc tín dụng đến sản lượng, lạm phát cho thấy, tín dụng tăng 1,6% sẽ làm tăng mức sản lượng là 0,24%, lạm phát là 0,35% với độ trễ là 24 tháng. Như vậy, có thể thấy vai trò của tín dụng đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam vẫn quan trọng, nhưng đang có xu hướng giảm dần và ảnh hưởng của tín dụng đến lạm phát là lớn hơn đến tăng trưởng. Đây là điều rất đáng lưu tâm khi nhìn vào tình hình tăng trưởng tín dụng hiện nay. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam khá cao. Năm 2009, khi nền kinh tế vừa vượt qua cơn sốc lạm phát, lại tiếp tục đối mặt với cơn suy thoái toàn cầu, mức tăng trưởng tín dụng đã vượt xa kế hoạch 25% đặt ra ban đầu, tăng lên đến gần 38 %. Tăng trưởng tín dụng là một trong những tiêu chí quan trọng để giúp vực dậy nền kinh tế trong ngắn hạn. Tuy nhiên, để tăng trưởng kinh tế bền vững, nhưng không Trang 36 phải trả cái giá quá đắt của lạm phát thì việc đảm bảo chất lượng tăng trưởng tín dụng để tín dụng thực sự góp phần cải thiện và tạo điều kiện phát triển nền tảng kinh tế thực, nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế là hết sức quan trọng. Từ những diễn biến thực tế giá vàng và lạm phát tại Việt Nam trong thời gian qua, tác giả đã xây dựng mô hình kiểm định dựa trên hai giả thuyết sau: 2.3 Giả thuyết 2.3.1 Giả thuyết 1: Giá vàng tác động đến lạm phát Giả thuyết này dựa trên luận điểm cho rằng: Thứ nhất, khi giá vàng biến động kéo theo giá nhiều loại hàng hóa đặc biệt khác biến động theo. Tác động rõ nhất là khi giá vàng tăng thì giá ngoại tệ - đặc biệt là USD trên thị trường cũng tăng. Giá vàng tăng cao ảnh hưởng đến xu hướng tăng của tất cả các loại hàng hóa thiết yếu khác, ở đây có yếu tố tâm lý rất lớn. Trong khi đó, nền kinh tế luôn trong tình trạng nhập siêu, cân đối ngoại tệ liên ngân hàng luôn căng thẳng. Hai yếu tố cộng hưởng này làm cho tâm lý người dân càng bị đẩy lên. Điều này dẫn đến người dân có xu hướng tích trữ các loại hàng hoá, tạo nên sự biến động trong nguồn cầu trong khi nguồn cung chưa kịp thời thay đổi, do đó làm giá các loại hàng hoá này tăng cao. Thứ hai, giá vàng tăng ảnh hưởng đến chỉ số CPI. Mặc dù vàng không được tính vào 572 nhóm hàng hóa và dịch vụ để tính CPI, nhưng khi giá vàng tăng, các nguyên liệu đầu vào phục vụ cho việc sản xuất, chế tác các dòng sản phẩm có liên quan đến vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý sẽ tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với nhóm hàng hóa này. Khi giá bán của các sản phẩm kim loại quý tăng, các sản phẩm này sẽ tác động gián tiếp đến 572 nhóm hàng hoá và dịch vụ chính thức nói trên. Thứ ba, một ảnh hưởng trực tiếp rõ nét khác đó là tác động đến TTTC (thị trường tiền tệ, chứng khoán và thậm chí là bất động sản). Như đã phân tích, khi giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián tiếp đến chỉ số CPI, những dấu hiệu về lạm phát xuất hiện. Nếu tỷ lệ lạm phát không dao động trong vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền kinh tế, NHNN sẽ phải xem xét thực thi một số giải pháp như điều chỉnh lãi Trang 37 suất cơ bản, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và điều tiết tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế để kiềm chế lạm phát. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán và bất động sản được coi là “sản phẩm thay thế” cho vàng của các nhà đầu tư, một khi cơ hội đầu tư tại thị trường vàng tăng cao thì thị trường chứng khoán sẽ ngay lập tức thiếu tính thanh khoản và thị trường bất động sản ít sôi động là đúng quy luật. Giá vàng tăng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời, vốn rút ra lại loanh quanh ở thị trường vàng và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Giá vàng tăng khiến thị trường ngoại tệ tự do bành trướng mạnh mẽ: Tình trạng đô la hoá ở Việt Nam không chỉ biểu hiện bằng tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/Tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng và chênh lệch lớn với giá vàng thế giới làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lớn dẫn đến tỷ giá USD/VND tăng vọt, vượt ngoài tầm kiểm soát của NHNN. Mặc dù vàng không còn đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ thế giới, nhưng giá vàng có thể là một chỉ số dự báo tốt cho lạm phát. Lý do là nếu người ta tin rằng vàng là tài sản để bảo tồn giá trị trước lạm phát thì với sự kỳ vọng lạm phát tăng cao hơn sẽ dẫn đến một số các nhà đầu tư chuyển vốn của họ ra khỏi các tài sản tài chính với lãi suất danh nghĩa cố định thành vàng hoặc đồ trang sức. Do nguồn cung vàng là tương đối cố định, giá vàng có thể tăng mạnh với ngay cả một sự gia tăng nhỏ trong nhu cầu. Trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI – Consumer Price Index) không bao gồm vàng, nên giá vàng tăng không trực tiếp làm tăng lạm phát. Tuy nhiên theo truyền thống, người Việt thường neo giá hàng hóa có giá trị lớn với giá vàng, điển hình là giá bất động sản, do đó giá vàng tăng thì giá hàng hóa tăng theo. Vậy tăng giá vàng làm tăng lạm phát (CPI). 2.3.2 Giả thuyết 2: Lạm phát tác động đến giá vàng Trang 38 Về mặt lý thuyết trong một nền kinh tế có thu nhập, chỉ số giá tăng thì nhiều mặt hàng có khả năng bảo tồn giá trị, trong đó có vàng sẽ tăng giá tức thời. Lý tưởng nhất là giá cả hàng hóa tăng theo cùng một tỷ lệ theo một số mô hình nhập môn kinh tế vĩ mô. Vậy lạm phát tăng thì giá vàng tăng. Ngoài ra, khi có lạm phát, người dân tránh giữ tiền mặt, mua vàng để bảo toàn vốn là một trong số những lựa chọn hiệu quả nhất. Cầu vàng tăng thì giá sẽ tăng và mức tăng sẽ cao hơn mức tăng của lạm phát. Giả thuyết đầu cơ lập luận rằng những thay đổi trong kỳ vọng lạm phát sẽ gây ra những thay đổi ngay lập tức giá vàng . Thực tế ở Việt Nam trong những năm 70, 80 nền kinh tế thời kỳ này là nền kinh tế tập trung, bao cấp không tạo được động lực phát triển, làm suy thoái năng lực sản xuất xã hội, lạm phát gia tăng với tốc độ chóng mặt khiến cho đồng tiền mất giá. Các chủ trương, chính sách không phù hợp như: Đổi tiền, kiểm kê tài sản, kiểm tra hành chính, điều chỉnh giá bán buôn – giá bán lẻ, … khiến cho tâm lý người dân luôn hoang mang, chính vì vậy người dân không tin tưởng vào tiền đồng mà tích trữ vàng, vàng trở thành vật đảm bảo giá trị tiền đồng. Lạm phát của nước ta trong những năm 70, 80 dâng cao, rất nghiêm trọng và nguy hiểm: Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã, đỉnh điểm vào năm 1986 với tỷ lệ lạm phát là 774.7 %. Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980; năm 1987 tăng 124,42 lần so với năm 1985 và năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Không chỉ riêng người dân, ngay cả các đơn vị sản xuất kinh doanh cũng xem vàng là nơi trú ẩn tạm thời tốt nhất cho vốn lưu động khi chưa mua được nguyên liệu. Giá của tất cả các loại hàng hóa đều được người dân nhẩm tính và quy ra vàng. Lúc này, mặc dù Nhà nước không công khai thừa nhận vàng làm chức năng lưu thông, thanh toán nhưng trong thực tế người dân đã trao đổi, mua bán bằng những đơn vị “tiền vàng”. Ví dụ: Mua bán nhà cửa, xe cộ, vào những dịp lễ Tết, …nhu cầu về vàng tăng cao gây sức ép đẩy giá vàng lên. Như vậy, trong giai đoạn này vàng đã đóng vai trò lớn thay tiền đồng trong các giao dịch thanh toán. Việc giá vàng tăng cao đã gây nên hội chứng tâm lý làm nhiều người dân đổ xô đi mua vàng, một số đã rút tiền tiết kiệm để mua vàng. Trang 39 Riêng từ năm 1999 đến năm 2002 nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này đã có nhiều đổi khác, các thành phần kinh tế trong XH được khuyến khích mở rộng hoạt động kinh doanh. Nhiều chính sách kinh tế thông thoáng được ban hành cùng việc thu hút đầu tư từ nhiều nguồn đặc biệt từ các nhà đầu tư nước ngoài, lượng dự trữ ngoại hối. Hành lang pháp lý dần được mở rộng đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư. Tâm lý tích trữ vàng trong dân chúng giảm đáng kể so với thời kỳ trước, người dân đã mạnh dạn đầu tư kinh doanh, mở rộng hoạt động sản xuất. Thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản dần hình thành và phát triển tạo nên các kênh đầu tư hấp dẫn giúp những nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có thêm nhiều lựa chọn cho nguồn vốn đầu tư của mình. Với việc kiềm giữ được tốc độ lạm phát ở mức an toàn, đồng tiền Việt Nam đã không còn bị mất giá như thời kỳ trước, dân chúng đã tin tưởng vào tiền đồng, mặc dù giá vàng trong nước có biến động do ảnh hưởng giá vàng thế giới nhưng không ảnh hưởng nhiều đến thị trường trong nước như trước đây. Như vậy, với thực tế xảy ra có thể thấy rằng lạm phát có tác động đến giá vàng. 2.4 Mô hình kiểm định Chúng ta sử dụng phân tích nhân quả theo phương pháp Granger nhằm xác định mối quan hệ nhân quả giữa biến lạm phát và tốc độ tăng giá vàng. Theo Granger (1969) phương pháp phân tích các mối quan hệ nhân quả thực hiện như sau: Ví dụ, nếu muốn kiểm tra quan hệ nhân quả giữa X và Y, chúng ta kiểm tra cách biểu diễn Y theo X và X theo Y. Tư tưởng như sau: Nếu biến X (Giá vàng) gây ra sự thay đổi của biến Y(lạm phát), thì sự thay đổi của X sẽ có trước sự thay đổi của Y, với hai điều kiện phải có được đó là: - Thứ nhất nếu X giúp cho việc dự đoán Y tức là trong hồi quy của Y đối với các giá trị trễ của Y và những giá trị trễ của X như là các biến độc lập, sẽ đóng góp một cách có ý nghĩa vào khả năng giải thích của hồi quy. - Thứ hai là Y không giúp cho dự đoán của X. Vì rằng nếu X giúp cho dự đoán của Y, và Y lại giúp cho dự đoán X thì điều này dường như là có một số biến khác đang gây ra sự thay đổi của cả X và Y. Trang 40 Cách này phổ biến trong thực tế để xem xét cả hai chiều tác động (X là nguyên nhân của Y, Y nguyên nhân của X). Trong khi quan hệ nhân quả theo Granger chúng ta đặt giả thuyết kiểm định X không là nguyên nhân của Y, và nếu có thể bác bỏ giả thuyết này, nó ngụ ý rằng X là nguyên nhân của Y. Để kiểm định liệu có tồn tại mối quan hệ nhân quả Granger giữa hai chuỗi thời gian Y và X trên Eviews, ta xây dựng hai phương trình sau: (1) tjt m j jit n i it uXYX 1 11 ++= − = − = ∑∑ βα (2) tjt m j jit n i it uXYY 2 11 ++= − = − = ∑∑ δλ Để xem các biến trễ X có giải thích cho Y (X tác động nhân quả Granger lên Y) và các biến trễ của Y có giải thích cho X (Y tác động nhân quả Granger lên X) hay không, ta kiểm định giả thuyết sau đây: Phương trình (1): 0....: 210 ==== iH ααα Phương trình (2): 0....: 210 ==== jH δδδ Để kiểm định các ràng buộc này, ta có thể sử dụng ba cách kiểm định sau: Likelihood Ratio (LR), thống kê F của kiểm định Wald, và Lagrane Multiplier (LM). Ý tưởng cơ bản của ba thủ tục kiểm định này là đánh giá sự khác biệt giữa mô hình giới hạn và mô hình không giới hạn. Nếu các ràng buộc không ảnh hưởng nhiều đến mức độ phù hợp của mô hình, thì chúng ta có thể chấp nhận các ràng buộc đó là hợp lý. Ngược lại nếu mô hình giới hạn không phù hợp bằng mô hình không giới hạn, thì chúng ta có thể bác bỏ giả thuyết H0 (bác bỏ mô hình giới hạn). Ngoài ra, LR thường được sử dụng để kiểm định có nên đưa thêm hay bỏ bớt một hoặc một số biến giải thích vào hoặc ra khỏi mô hình hay không. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đi theo hướng sử dụng kiểm định LR. Cách quyết định quan hệ nhân quả Granger như sau: - Nhân quả Granger một chiều từ X sang Y nếu các biến trễ của X có tác động lên Y, nhưng các biến trễ của Y không tác động lên X. Trang 41 - Nhân quả Granger một chiều từ Y sang X nếu các biến trễ của Y có tác động lên X, nhưng các biến trễ của X không tác động lên Y. - Nhân quả Granger hai chiều giữa X và Y nếu các biến trễ của X tác động lên Y và các biến trễ của Y tác động lên X. - Không có quan hệ nhân quả Granger giữa X và Y nếu các biến trễ của X không có tác động lên Y và các biến trễ của Y không tác động lên X. Với giả định rằng khi các yếu tố khác không đổi thì dữ liệu chuỗi thời gian là chuỗi dữ liệu duy nhất hàm chứa đầy đủ các thông tin thích hợp để giải thích cho những sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các biến. Gujarati (2003,696) cho rằng khi hồi quy chuỗi dữ liệu thời gian thì một vấn đề quan tâm là phải kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến để xem xét trong các biến, biến nào là biến nguyên nhân và biến nào là biến kết quả. Để xem xét mối quan hệ đó, tác giả sử dụng mô hình nhân quả Granger. Theo Granger, ta sẽ tiến hành ước lượng các phương trình hồi quy giữa giá vàng và lạm phát, từ đó kiểm định có tồn tại mối quan hệ nhân quả hay không. Điều kiện cần để có thể thực hiện được kiểm định nhân quả Granger: - Các biến lạm phát, giá vàng phải là các chuỗi dừng và/hoặc đồng liên kết (không có hiện tượng tương quan giả). - Chiều hướng của mối quan hệ nhân quả có thể phụ thuộc vào số biến trong mô hình. Nói cách khác, kết quả kiểm định Granger rất nhạy cảm với việc lựa chọn độ trễ các biến. Nếu độ trễ được chọn bé hơn độ trễ thực sự, thì việc bỏ sót biến trễ thích hợp có thể làm chệch kết quả. Ngược lại, nếu lớn hơn, thì số biến trễ không thích hợp sẽ làm cho các ước lượng không hiệu quả. - Các phần dư không có hiện tượng tự tương quan. Nếu có hiện tượng tương quan cần phải thực hiện việc chuyển sang một dạng mô hình thích hợp hơn. ™ Kiểm định đồng liên kết: Gujarati (1999,460) cho rằng mặc dù các chuỗi thời gian không dừng nhưng rất có thể vẫn còn tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa chúng nếu các chuỗi thời Trang 42 gian đó đồng liên kết – nghĩa là phần dư từ phương trình hồi quy của các chuỗi thời gian không dừng là một chuỗi dừng. Giả sử hồi quy Y theo X: ttt uXY ++= 21 ββ (**) Hay ta có thể viết lại là: ttt XYu 21 ββ −−= (***) Vậy nếu như phần dư của phương trình hồi quy là một chuỗi dừng, thì kết quả hồi quy của phương trình (**) có ý nghĩa, tức không có hiện tượng tương quan giả. Trong trường hợp này, hai biến X và Y được gọi là đồng liên kết và hệ số ước lượng α2 được gọi là hệ số hồi quy đồng liên kết. Nói theo ngôn ngữ kinh tế học, hai biến đồng liên kết khi chúng có mối quan hệ dài hạn, hay ổn định với nhau. Như thế thì nếu ta kiểm định phần dư từ phương trình (**) và nhận thấy phần dư là dừng ( có phân phối chuẩn), thì các kiểm định truyền thống (Kiểm định t và F) vẫn áp dụng được cho chuỗi thời gian không dừng. Theo Granger, kiểm định đồng liên kết như cách kiểm định trên để tránh hiện tượng hồi quy tương quan giả. Mô hình này có thể được mở rộng cho trường hợp mô hình hồi quy có k biến giải thích. Để kiểm định đồng liên kết, người ta sử dụng kiểm định DF hoặc ADF theo các bước sau đây: (1) Hồi quy phương trình dạng như phương trình (**) và có được phần dư ut (2) Thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị cho phần dư ut trên. Nếu giá trị tuyệt đối |τ| tính toán lớn hơn giá trị tuyệt đối |τ| tra bảng thì phần dư là một chuỗi dừng, và vì thế phương trình (**) là phương trình hồi quy đồng liên kết. Lúc này có thể kết luận X và Y thực sự có mối quan hệ dài hạn. Vì giá vàng và lạm phát cùng tăng theo thời gian nên không thể hồi quy trực tiếp giá vàng và chỉ số giá tiêu dùng với nhau để tránh việc mô hình bị hiện tượng hồi quy giả mạo (spurious regression). Từ phần này chúng ta hiểu G là tỷ lệ tăng giá vàng tháng này so với tháng trước, P là CPI tháng đang xét, USD là tỷ lệ tăng tăng giá USD tháng này so với tháng trước. Do Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm khá tương đồng cả về chính sách cũng như tâm lý tích trữ vàng của người dân nên tác giả chọn độ trễ là 6 tháng theo kết Trang 43 quả nghiên cứu của ngân hàng Trung ương Canada (nghiên cứu tiền đề thứ ba) ứng với trường hợp của Trung Quốc. ™ Mô hình kiểm định giá vàng tác động lên lạm phát có dạng 11 66 )(*)(* ε++−+−= ∑∑ == CjGaiPaP n j j n i i (1) Trong đó: C1 là hằng số, ε1 là sai số, P(-i) là lạm phát tháng trước, G(-j) là mức tăng giá vàng của tháng trước ™ Mô hình kiểm định lạm phát tác động lên giá vàng có dạng 22 66 )(*)(* ε++−+−= ∑∑ == CjGbiPbG n j j n i i (2) Trong đó: C2 là hằng số, ε2 là sai số ™ Mô hình kiểm định tác động của tỷ giá USD/VND đối với lạm phát và giá vàng : Do giá vàng thế giới hiện nay chủ yếu được yết giá và giao dịch bằng USD, Việt Nam lại là nước chủ yếu nhập khẩu vàng, nên tiêu tốn một lượng USD không nhỏ, ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc gia. Hiện nay hoạt động nhập khẩu vàng vào Việt Nam đang được quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch từ NHNN. Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm tiền USD và đẩy giá USD lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đẩy giá vàng tăng tương ứng, tạo vòng xoáy giữa vàng và USD. Do đó tác giả sẽ tiến hành kiểm định tác động của tỷ giá USD/VND đối với lạm phát và giá vàng. Khi đưa tỷ giá USD/VND vào hai mô hình trên thì mô hình (1) và (2) trở thành : 11 666 )(*)(*)(* ε++−+−+−= ∑∑∑ === CtUSDajGaiPaP n t t n j j n i i (3) 22 666 )(*)(*)(* ε++−+−+−= ∑∑∑ === CtUSDbjGbiPbG n t t n j j n i i (4) Trang 44 2.5 Dữ liệu 2.5.1 Nguồn dữ liệu : - Tỷ lệ lạm phát được tính toán từ tốc độ tăng trưởng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Số liệu CPI, giá vàng, tỷ giá USD/VND được lấy từ nguồn tổng cục Thống kê, cục thống kê TPHCM. - Theo tác giả thì với việc lấy số liệu tỷ giá USD/VND như trên là điểm hạn chế của đề tài vì giá vàng trong nước thường được quy đổi từ giá vàng thế giới theo tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do. Tuy nhiên, số liệu tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do không thể thu thập đầy đủ trong suốt khoảng thời gian nghiên cứu. 2.5.2 Giai đoạn : Dữ liệu được lấy trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2010. 2.6 Kết quả kiểm định 2.6.1 Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và lạm phát Bảng 2.1: Ma trận hiệp phương sai giữa giá vàng và lạm phát G P G 12.86055 0.412521 P 0.412521 0.797074 Trong lý thuyết xác suất và thống kê, hiệp phương sai đo sự biến thiên cùng nhau của hai biến ngẫu nhiên (khác với phương sai chỉ đo độ biến động của một biến). Ma trận hiệp phương sai ở trên thể hiện mối quan hệ giữa sự biến thiên của hai biến giá vàng và lạm phát. Hiệp phương sai dương có nghĩa độ dao động của hai biến này cùng hướng (tăng hay giảm). 2.6.2 Hệ số tương quan giữa giá vàng và lạm phát Bảng 2.2: Hệ số tương quan giữa giá vàng và lạm phát G P G 1.000000 0.128845 P 0.128845 1.000000 Trang 45 Hệ số tương quan là một chỉ số thống kê đo lường mối liên hệ tương quan giữa hai biến số ngẫu nhiên. Hệ số tương quan giữa giá vàng và lạm phát là 0.128845. 2.6.3 Kiểm định đồng liên kết giữa giá vàng và lạm phát Bảng 2.3: Kiểm định đồng liên kết giữa giá vàng và lạm phát : Sample (adjusted): 6 108 Included observations: 103 after adjustments Trend assumption: Linear deterministic trend Series: P G Lags interval (in first differences): 1 to 4 Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace) Hypothesized Trace 0.05 No. of CE(s) Eigenvalue Statistic Critical Value Prob.** None * 0.194161 33.46860 15.49471 0.0000 At most 1 * 0.103329 11.23383 3.841466 0.0008 Trace test indicates 2 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values Với mức ý nghĩa 5%, ta thấy Trace Statitics > Critical Value nên bác bỏ giả thuyết H0 : không có đồng liên kết giữa giá vàng và lạm phát, nghĩa là giữa giá vàng và lạm phát có tính đồng liên kết và tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa chúng, do đó không tồn tại hiện tượng hồi qui tương quan giả trong mô hình trên, và các kiểm định thống kê truyền thống vẫn áp dụng trong các trường hợp này. 2.6.4 Giả thuyết 1: Giá vàng tác động đến lạm phát 11 66 )(*)(* ε++−+−= ∑∑ == CjGaiPaP n j j n i i ™ Kết quả kiểm định mô hình (1) Bảng 2.4: Kết quả kiểm định giả thuyết giá vàng tác động đến lạm phát Dependent Variable: P Method: Least Squares Trang 46 Sample (adjusted): 7 108 Included observations: 102 after adjustments Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 34.74035 12.25421 2.834973 0.0057 P(-1) 0.411472 0.106559 3.861456 0.0002 P(-2) 0.072747 0.112656 0.645745 0.5201 P(-3) 0.240375 0.112767 2.131601 0.0358 P(-4) -0.095958 0.110734 -0.866561 0.3885 P(-5) 0.040922 0.102024 0.401106 0.6893 P(-6) -0.094443 0.095367 -0.990307 0.3247 G(-1) 0.030682 0.020533 1.494316 0.1386 G(-2) 0.062023 0.021398 2.898519 0.0047 G(-3) -0.002456 0.022774 -0.107862 0.9143 G(-4) 0.018403 0.022487 0.818386 0.4153 G(-5) -0.046703 0.021977 -2.125075 0.0364 G(-6) 0.017419 0.022032 0.790624 0.4313 R-squared 0.462760 Mean dependent var 100.7465 Adjusted R-squared 0.390323 S.D. dependent var 0.891674 S.E. of regression 0.696235 Akaike info criterion 2.232306 Sum squared resid 43.14214 Schwarz criterion 2.566862 Log likelihood -100.8476 F-statistic 6.388469 Durbin-Watson stat 1.987788 Prob(F-statistic) 0.000000 Với giả thuyết giá vàng có tác động đến lạm phát, chúng ta sẽ kiểm định có phải các biến tỷ lệ tăng giá vàng G(-1), G(-2), G(-3), G(-4), G(-5), G(-6) là những biến thừa trong mô hình hay không, nghĩa là chúng ta kiểm định giả thuyết H0: hệ số của các biến G(-1), G(-2), G(-3), G(-4), G(-5), G(-6) đồng thời bằng 0 với mức ý nghĩa α = 5%. Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa giá vàng có tác động đến lạm phát và cần thiết đưa các biến tỷ lệ tăng giá vàng vào mô hình kiểm định. ™ Kết quả kiểm định LR trong Eviews như sau: Bảng 2.5: Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết giá vàng tác động đến lạm phát Redundant Variables: G(-1) G(-2) G(-3) G(-4) G(-5) G(-6) F-statistic 2.746481 Prob. F(6,89) 0.017023 Log likelihood ratio 17.32719 Prob. Chi-Square(6) 0.008153 Trang 47 Test Equation: Dependent Variable: P Method: Least Squares Sample: 7 108 Included observations: 102 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 46.80617 12.31065 3.802088 0.0003 P(-1) 0.476929 0.101920 4.679452 0.0000 P(-2) 0.118787 0.113332 1.048141 0.2972 P(-3) 0.179331 0.113218 1.583948 0.1165 P(-4) -0.145252 0.109671 -1.324433 0.1885 P(-5) 0.031147 0.106118 0.293515 0.7698 P(-6) -0.125454 0.097601 -1.285375 0.2018 R-squared 0.363287 Mean dependent var 100.7465 Adjusted R-squared 0.323074 S.D. dependent var 0.891674 S.E. of regression 0.733629 Akaike info criterion 2.284534 Sum squared resid 51.13016 Schwarz criterion 2.464679 Log likelihood -109.5112 F-statistic 9.033973 Durbin-Watson stat 2.002301 Prob(F-statistic) 0.000000 Kết quả hồi quy trên cho thấy giá trị xác suất Prob. F(6,89) = 1.7023% < α = 5%: bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa là các các biến tỷ lệ tăng giá vàng G(-1), G(-2), G(- 3), G(-4), G(-5), G(-6) không phải là những biến thừa trong mô hình, hay nói cách khác sự tăng giảm của giá vàng có tác động đến lạm phát. Giá vàng tăng 1% thì lạm phát sẽ tăng 0.030682% trong tháng tiếp theo. Adjusted R-squared = 39.0323% có nghĩa là: Mô hình giải thích được 39.03%, còn 60.97% sẽ được giải thích bởi các yếu tố khác ngoài mô hình. 2.6.5 Giả thuyết 2: Lạm phát tác động đến giá vàng 22 66 )(*)(* ε++−+−= ∑∑ == CjGbiPbG n j j n i i ™ Kết quả kiểm định mô hình (2) Bảng 2.6: Kết quả kiểm định giả thuyết lạm phát tác động đến giá vàng Trang 48 Dependent Variable: G Method: Least Squares Sample (adjusted): 7 108 Included observations: 102 after adjustments Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 197.9561 62.74911 3.154724 0.0022 G(-1) 0.222340 0.105141 2.114688 0.0373 G(-2) -0.194583 0.109572 -1.775853 0.0792 G(-3) 0.111098 0.116618 0.952663 0.3433 G(-4) -0.063215 0.115146 -0.548997 0.5844 G(-5) -0.090891 0.112536 -0.807663 0.4214 G(-6) -0.117043 0.112815 -1.037473 0.3023 P(-1) 0.491814 0.545646 0.901342 0.3698 P(-2) -0.615817 0.576866 -1.067523 0.2886 P(-3) 0.546626 0.577437 0.946641 0.3464 P(-4) -0.352880 0.567026 -0.622334 0.5353 P(-5) -0.077518 0.522423 -0.148381 0.8824 P(-6) -0.813309 0.488338 -1.665462 0.0993 R-squared 0.180596 Mean dependent var 101.8355 Adjusted R-squared 0.070115 S.D. dependent var 3.697118 S.E. of regression 3.565152 Akaike info criterion 5.498856 Sum squared resid 1131.217 Schwarz criterion 5.833411 Log likelihood -267.4417 F-statistic 1.634629 Durbin-Watson stat 1.972707 Prob(F-statistic) 0.096189 Với giả thuyết lạm phát có tác động đến giá vàng, chúng ta sẽ kiểm định có phải các biến lạm phát P(-1), P(-2), P(-3), P(-4), P(-5), P(-6) là những biến thừa trong mô hình hay không, nghĩa là chúng ta kiểm định giả thuyết H0: hệ số của các biến P(-1), P(-2), P(-3), P(-4), P(-5), P(-6) đồng thời bằng 0 với mức ý nghĩa α = 5%. Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa lạm phát có tác động đến giá vàng và cần thiết đưa các biến lạm phát vào mô hình kiểm định. ™ Kết quả kiểm định LR trong Eviews như sau: Bảng 2.7: Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết lạm phát tác động đến giá vàng Redundant Variables: P(-1) P(-2) P(-3) P(-4) P(-5) P(-6) Trang 49 F-statistic 1.080210 Prob. F(6,89) 0.380440 Log likelihood ratio 7.169949 Prob. Chi-Square(6) 0.305416 Test Equation: Dependent Variable: G Method: Least Squares Sample: 7 108 Included observations: 102 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 104.1915 22.13291 4.707540 0.0000 G(-1) 0.258184 0.101303 2.548640 0.0124 G(-2) -0.157238 0.105705 -1.487514 0.1402 G(-3) 0.167497 0.107259 1.561613 0.1217 G(-4) -0.060693 0.107346 -0.565396 0.5731 G(-5) -0.064659 0.106641 -0.606326 0.5457 G(-6) -0.166453 0.104376 -1.594744 0.1141 R-squared 0.120925 Mean dependent var 101.8355 Adjusted R-squared 0.065404 S.D. dependent var 3.697118 S.E. of regression 3.574171 Akaike info criterion 5.451502 Sum squared resid 1213.596 Schwarz criterion 5.631648 Log likelihood -271.0266 F-statistic 2.178015 Durbin-Watson stat 1.978606 Prob(F-statistic) 0.051751 Kết quả hồi quy trên cho thấy giá trị xác suất Prob. F(6,89) = 38.0440% > α = 5%: chấp nhận giả thuyết H0, có nghĩa là các biến lạm phát P(-1), P(-2), P(-3), P(-4), P(- 5), P(-6) là những biến thừa trong mô hình, hay nói cách khác lạm phát không tác động đến giá vàng. 2.6.6 Kết quả kiểm định Granger giữa giá vàng và lạm phát Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger giữa giá vàng và lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 01/2002 đến tháng 12/2010 với độ trễ (lag) từ 2 đến 6 tháng như sau: Bảng 2.8: Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả giữa giá vàng và lạm phát Trang 50 Lags Null Hypothesis F-Statistics Probability 2 G does not Granger Cause P 6.65911 0.00192 P does not Granger Cause G 1.73398 0.25779 3 G does not Granger Cause P 4.99909 0.00287 P does not Granger Cause G 0.92989 0.42935 4 G does not Granger Cause P 3.17655 0.01699 P does not Granger Cause G 1.18700 0.32157 5 G does not Granger Cause P 3.36552 0.00775 P does not Granger Cause G 0.96114 0.44587 6 G does not Granger Cause P 2.74648 0.01702 P does not Granger Cause G 1.08021 0.38044 Kết quả hồi quy trên cho thấy: - Với mức ý nghĩa α = 5%: kết quả bác bỏ giả thuyết H0: giá vàng không có quan hệ nguyên nhân kết quả với lạm phát (với độ trễ được xác định từ 2 đến 6 tháng), nghĩa là giá vàng có tác động đến lạm phát. Do hiệp phương sai giữa giá vàng và lạm phát dương nên giữa giá vàng và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều, giá vàng tăng thì lạm phát tăng, giá vàng giảm thì lạm phát giảm. - Với mức ý nghĩa α = 5%: kết quả chấp nhận giả thuyết H0: lạm phát không có tác động đến sự thay đổi của giá vàng (với độ trễ được xác định từ 2 đến 6 tháng). 2.6.7 Sự tác động của tỷ giá USD/VND đến mô hình kiểm định Với những kết quả kiểm định trên có thể thấy giá vàng và lạm phát có quan hệ nhân quả, nhưng rất có thể chúng ta đã bỏ qua một biến quan trọng đó là sự tác động của tỷ giá USD/VND đến cả giá vàng và lạm phát. Khi đưa biến tỷ giá USD/VND vào mô hình và kiểm định, ta có kết quả là tác động của tỷ giá USD/VND đối với lạm phát và giá vàng không có ý nghĩa thống kê. Xin xem kết quả ở bảng dưới: Bảng 2.9: Kiểm định đồng liên kết giữa giá vàng, lạm phát và tỷ giá USD/VND Sample (adjusted): 6 108 Included observations: 103 after adjustments Trang 51 Trend assumption: Linear deterministic trend Series: P G USD Lags interval (in first differences): 1 to 4 Unrestricted Cointegration Rank Test (Trace) Hypothesized Trace 0.05 No. of CE(s) Eigenvalue Statistic Critical Value Prob.** None * 0.211050 51.07773 29.79707 0.0001 At most 1 * 0.166731 26.66129 15.49471 0.0007 At most 2 * 0.073600 7.874264 3.841466 0.0050 Trace test indicates 3 cointegrating eqn(s) at the 0.05 level * denotes rejection of the hypothesis at the 0.05 level **MacKinnon-Haug-Michelis (1999) p-values Với mức ý nghĩa 5%, ta thấy Trace Statitics > Crititcal Value, nên bác bỏ giả thuyết H0, nghĩa là giữa giá vàng, lạm phát và tỷ giá USD/VND có tính đồng liên kết và tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa chúng, do đó không có hiện tượng hồi qui tương quan giả trong phương trình và các kiểm định thống kê truyền thống vẫn áp dụng trong trường hợp này. Bảng 2.10: Kết quả kiểm định giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động đến lạm phát Dependent Variable: P Method: Least Squares Sample (adjusted): 7 108 Included observations: 102 after adjustments Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 79.60627 24.88038 3.199560 0.0020 P(-1) 0.345528 0.110715 3.120862 0.0025 P(-2) 0.073753 0.112900 0.653259 0.5154 P(-3) 0.252742 0.112024 2.256138 0.0267 P(-4) -0.072829 0.111658 -0.652244 0.5160 P(-5) 0.045926 0.102525 0.447952 0.6554 P(-6) -0.081871 0.096265 -0.850480 0.3975 G(-1) 0.029781 0.021185 1.405764 0.1635 G(-2) 0.063668 0.021740 2.928592 0.0044 Trang 52 Với giả thuyết tỷ giá có tác động đến lạm phát, chúng ta sẽ kiểm định có phải các biến tỷ giá USD(-1), USD(-2), USD(-3), USD(-4), USD(-5), USD(-6) là những biến thừa trong mô hình hay không, nghĩa là chúng ta kiểm định giả thuyết H0: hệ số của các biến USD(-1), USD(-2), USD(-3), USD(-4), USD(-5), USD(-6) đồng thời bằng 0 với mức ý nghĩa α = 5%. Nếu kết quả kiểm định bác bỏ giả thuyết H0, có nghĩa tỷ giá có tác động đến lạm phát và cần thiết đưa các biến tỷ giá vào mô hình kiểm định. ™ Kết quả kiểm định LR trong Eviews như sau: Bảng 2.11: Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động đến lạm phát Redundant Variables: USD(-1) USD(-2) USD(-3) USD(-4) USD(-5) USD(-6) F-statistic 1.278037 Prob. F(6,83) 0.276370 Log likelihood ratio 9.013367 Prob. Chi-Square(6) 0.172828 Test Equation: Dependent Variable: P G(-3) 0.003287 0.023192 0.141749 0.8876 G(-4) 0.025010 0.022997 1.087510 0.2800 G(-5) -0.041093 0.023023 -1.784876 0.0779 G(-6) 0.012820 0.022772 0.562968 0.5750 USD(-1) -0.012461 0.091596 -0.136048 0.8921 USD(-2) -0.021473 0.100586 -0.213481 0.8315 USD(-3) -0.079390 0.101327 -0.783500 0.4356 USD(-4) -0.137432 0.102386 -1.342291 0.1832 USD(-5) -0.150920 0.101090 -1.492935 0.1392 USD(-6) -0.048280 0.102163 -0.472582 0.6378 R-squared 0.508197 Mean dependent var 100.7465 Adjusted R-squared 0.401541 S.D. dependent var 0.891674 S.E. of regression 0.689800 Akaike info criterion 2.261587 Sum squared resid 39.49341 Schwarz criterion 2.750553 Log likelihood -96.34094 F-statistic 4.764822 Durbin-Watson stat 1.982402 Prob(F-statistic) 0.000000 Trang 53 Method: Least Squares Sample: 7 108 Included observations: 102 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 34.74035 12.25421 2.834973 0.0057 P(-1) 0.411472 0.106559 3.861456 0.0002 P(-2) 0.072747 0.112656 0.645745 0.5201 P(-3) 0.240375 0.112767 2.131601 0.0358 P(-4) -0.095958 0.110734 -0.866561 0.3885 P(-5) 0.040922 0.102024 0.401106 0.6893 P(-6) -0.094443 0.095367 -0.990307 0.3247 G(-1) 0.030682 0.020533 1.494316 0.1386 G(-2) 0.062023 0.021398 2.898519 0.0047 G(-3) -0.002456 0.022774 -0.107862 0.9143 G(-4) 0.018403 0.022487 0.818386 0.4153 G(-5) -0.046703 0.021977 -2.125075 0.0364 G(-6) 0.017419 0.022032 0.790624 0.4313 R-squared 0.462760 Mean dependent var 100.7465 Adjusted R-squared 0.390323 S.D. dependent var 0.891674 S.E. of regression 0.696235 Akaike info criterion 2.232306 Sum squared resid 43.14214 Schwarz criterion 2.566862 Log likelihood -100.8476 F-statistic 6.388469 Durbin-Watson stat 1.987788 Prob(F-statistic) 0.000000 Kết quả hồi quy trên cho thấy giá trị xác suất Prob. F(6,83) = 27.6370% > α = 5%: chấp nhận giả thuyết H0, có nghĩa là các biến tỷ giá USD(-1), USD(-2), USD(-3), USD(-4), USD(-5), USD(-6) là những biến thừa trong mô hình, hay nói cách khác tỷ giá không tác động đến lạm phát. Tương tự kết quả kiểm định cho thấy tác động của sự thay đổi tỷ giá USD/VND đến sự thay đổi của giá vàng không có ý nghĩa thống kê. Xin xem bảng dưới: Bảng 2.12: Kết quả kiểm định giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động đến sự thay đổi giá vàng Dependent Variable: G Method: Least Squares Sample (adjusted): 7 108 Included observations: 102 after adjustments Trang 54 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 184.3978 129.8587 1.419988 0.1594 G(-1) 0.218836 0.110571 1.979153 0.0511 G(-2) -0.181560 0.113470 -1.600080 0.1134 G(-3) 0.110945 0.121045 0.916566 0.3620 G(-4) -0.076432 0.120030 -0.636769 0.5260 G(-5) -0.061828 0.120165 -0.514522 0.6083 G(-6) -0.145734 0.118853 -1.226170 0.2236 USD(-1) 0.546530 0.478069 1.143202 0.2562 USD(-2) -0.509985 0.524993 -0.971413 0.3342 USD(-3) 0.247706 0.528857 0.468380 0.6407 USD(-4) -0.033458 0.534385 -0.062610 0.9502 USD(-5) -0.591247 0.527620 -1.120592 0.2657 USD(-6) 0.446718 0.533221 0.837774 0.4046 P(-1) 0.391585 0.577860 0.677647 0.4999 P(-2) -0.544205 0.589260 -0.923540 0.3584 P(-3) 0.595711 0.584689 1.018850 0.3112 P(-4) -0.323972 0.582782 -0.555906 0.5798 P(-5) -0.185975 0.535111 -0.347546 0.7291 P(-6) -0.722022 0.502438 -1.437039 0.1545 R-squared 0.220700 Mean dependent var 101.8355 Adjusted R-squared 0.051695 S.D. dependent var 3.697118 S.E. of regression 3.600289 Akaike info criterion 5.566322 Sum squared resid 1075.852 Schwarz criterion 6.055287 Log likelihood -264.8824 F-statistic 1.305880 Durbin-Watson stat 1.996009 Prob(F-statistic) 0.205876 ™ Kết quả kiểm định LR: Bảng 2.13: Kết quả kiểm định LR cho giả thuyết tỷ giá USD/VND tác động đến sự thay đổi giá vàng Redundant Variables: USD(-1) USD(-2) USD(-3) USD(-4) USD(-5) USD(-6) F-statistic 0.711883 Prob. F(6,83) 0.640973 Log likelihood ratio 5.118467 Prob. Chi-Square(6) 0.528711 Trang 55 Test Equation: Dependent Variable: G Method: Least Squares Sample: 7 108 Included observations: 102 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 197.9561 62.74911 3.154724 0.0022 G(-1) 0.222340 0.105141 2.114688 0.0373 G(-2) -0.194583 0.109572 -1.775853 0.0792 G(-3) 0.111098 0.116618 0.952663 0.3433 G(-4) -0.063215 0.115146 -0.548997 0.5844 G(-5) -0.090891 0.112536 -0.807663 0.4214 G(-6) -0.117043 0.112815 -1.037473 0.3023 P(-1) 0.491814 0.545646 0.901342 0.3698 P(-2) -0.615817 0.576866 -1.067523 0.2886 P(-3) 0.546626 0.577437 0.946641 0.3464 P(-4) -0.352880 0.567026 -0.622334 0.5353 P(-5) -0.077518 0.522423 -0.148381 0.8824 P(-6) -0.813309 0.488338 -1.665462 0.0993 R-squared 0.180596 Mean dependent var 101.8355 Adjusted R-squared 0.070115 S.D. dependent var 3.697118 S.E. of regression 3.565152 Akaike info criterion 5.498856 Sum squared resid 1131.217 Schwarz criterion 5.833411 Log likelihood -267.4417 F-statistic 1.634629 Durbin-Watson stat 1.972707 Prob(F-statistic) 0.096189 Về mặt lý thuyết, giá vàng trong nước tăng cao hơn so với giá vàng thế giới là do chúng ta đang chịu sự tác động của tỷ giá USD/VND, nhưng kết quả kiểm định lại cho thấy mối quan hệ giữa giá vàng, lạm phát và tỷ giá USD/VND không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều này có thể là do trong mô hình sử dụng dữ liệu tỷ giá USD/VND do NHNN công bố, trong khi giá vàng giao dịch trên thị trường thường được tính toán theo tỷ giá USD/VND tự do. Tuy nhiên, trong những năm qua tỷ giá USD/VND chính thức cũng thường theo sát xu hướng của tỷ giá USD/VND tự do, nên kết quả có thể được ghi nhận là tỷ giá USD/VND, lạm phát và giá vàng không có quan hệ nhân quả. Trang 56 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Trong phần nghiên cứu này, tác giả đi sâu vào phân tích mối quan hệ nhân quả giữa giá vàng, lạm phát và tỷ giá USD/VND. Dữ liệu được hồi quy dựa trên phương pháp bình phương bé nhất OLS kèm theo các điều kiện ràng buộc kiểm định biến thừa LR trong mô hình. Kiểm định đồng liên kết được thực hiện và dữ liệu cho kết quả giữa giá vàng, lạm phát và tỷ giá USD/VND có tính đồng liên kết và tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa chúng, do đó không có hiện tượng hồi qui tương quan giả trong phương trình và các kiểm định thống kê truyền thống vẫn áp dụng trong trường h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmoi_quan_he_giua_vang_va_lam_phat_tai_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan