Tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế: ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Tài nguyên Đất & Môi trường Nông nghiệp
-----------o0o----------
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
ĐỀ TÀI:
“Bước đầu nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Phương Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Thanh Hải (Nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Hải Hà
3. Lê Thị Hiệp
4. Ngô Đức Phong
5. Nguyễn Thị Ngọc Tú
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế truyền thống mũi nhọn, có thế mạnh của các tỉnh có vùng ven biển và đầm phá ở nước ta. Sự phát triển mạnh ngành NTTS đã góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân. Song song với những lợi ích của các hoạt động NTTS mang đến, nó còn để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên và môi trường vùng ven biển, vùng biển.
Việt Nam là nước có tiềm năng về thủy sản. Với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nước ta có...
43 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Tài nguyên Đất & Môi trường Nông nghiệp
-----------o0o----------
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
ĐỀ TÀI:
“Bước đầu nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Phương Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Thị Thanh Hải (Nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Hải Hà
3. Lê Thị Hiệp
4. Ngô Đức Phong
5. Nguyễn Thị Ngọc Tú
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Nuôi trồng thủy sản là một ngành kinh tế truyền thống mũi nhọn, có thế mạnh của các tỉnh có vùng ven biển và đầm phá ở nước ta. Sự phát triển mạnh ngành NTTS đã góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân. Song song với những lợi ích của các hoạt động NTTS mang đến, nó còn để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên và môi trường vùng ven biển, vùng biển.
Việt Nam là nước có tiềm năng về thủy sản. Với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nước ta có chiều dài đường bờ biển khá lớn 3200 km, cùng với các yếu tố nhiệt độ, môi trường, nguồn thức ăn... là điều kiện lý tưởng để đầu tư phát triển kinh tế thủy sản. Đặc biệt, tỉnh Thừa Thiên Huế là tỉnh có đường bờ biển dài 126 km và hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai lớn nhất Đông Nam Á với diện tích là 21.594 ha, là nơi có điều kiện khá lý tưởng cho sự sinh trưởng các loài thủy sản có giá trị cao, đặc biệt là tôm.
Huyện Quảng Điền là huyện trọng điểm của vùng ven biển đầm phá TTH, có tiềm năng lớn về NTTS, chủ yếu là nuôi tôm. Trong đó, xã Quảng Công là một trong những xã có nghề nuôi tôm phát triển sớm nhất ở huyện Quảng Điền với nhiều hình thức nuôi tôm nhất ở huyện: QCCT, BTC, TC. Sự phát triển ngành nuôi tôm ở xã Quảng Công góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người dân địa phương.
Các mô hình nuôi trồng thuỷ sản nói chung, nuôi tôm nói riêng đã phát triển rất nhanh cùng với quá trình phát triển của ngành. Phương thức nuôi trồng đã chuyển từ nuôi tự nhiên, quảng canh, nuôi phân tán với mật độ thấp... sang nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi công nghiệp với mật độ cao, nhằm tạo ra sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, việc nuôi trồng thủy sản với mật độ cao, năng suất lớn, đã gây nên những tác động môi trường ngày càng nghiêm trọng, nếu không được xử lý triệt để có thể gây ra sự mất cân bằng hệ sinh thái tự nhiên và ảnh hưởng đến việc nuôi trồng thủy sản.
Để thực hiện Quyết định 1690/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 và Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính Phủ về Bảo tồn và Phát triển bền vững của các vùng đất ngập nước, chúng ta cần nghiên cứu đánh giá tính bền vững các hình thức NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng phù hợp với đặc tính sinh thái của từng địa phương.
Đối với ngành Thủy sản, việc xây dựng Bộ chỉ thị đã được FAO thực hiện từ lâu với mục đích là hướng đến các vùng nuôi bền vững. Nhưng việc xây dựng Bộ chỉ thị để đánh giá các hình thức nuôi ở từng địa phương vẫn chưa nhận được sự quan tâm cần thiết.
Dựa vào tính cấp thiết đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Bước đầu nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”
1.2 Mục tiêu.
1.2.1 Mục tiêu chung
Nhằm nâng cao nhận thức cho ngư dân và cộng đồng trong việc sử dụng các hình thức nuôi tôm hợp lý nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ tốt hơn về vấn đề môi trường trong hiện tại cũng như trong tương lai.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Bước đầu xây dựng bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm.
- Đánh giá các ảnh hưởng của các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công đến môi trường.
- Lựa chọn mô hình và hình thức nuôi tôm phù hợp.
- Đề xuất các biện pháp bảo vệ môi trường và quản lý để phát triển nghề nuôi tôm ở xã Quảng Công.
PHẦN II
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU, CÁCH TIẾP CẬN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế với các hình thức nuôi: Thâm canh, bán thâm canh, quảng canh cải tiến.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi thời gian: từ ngày 1/12/2009 đến ngày 1/12/2010.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành ngành nghiên cứu việc xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm của một số hộ dân ở thôn 1, 2, 4 ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành được đề tài này và đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
2.3.1. Phương pháp điều tra
2.3.1.1. Thu thập số liệu:
Các số liệu thu thập được từ những tác giả đi trước, cũng như việc thu thập các tài liệu, số liệu ở các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, Phòng thống kê của Cục thống kê thành phố Huế, Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Điền,… của các đề tài, dự án, các trang web, các báo cáo, các quy định, chỉ thị, tạp chí, báo chí,…
2.3.1.2. Điều tra phỏng vấn và trả lời câu hỏi bằng phiếu điều tra
Người trả lời câu hỏi sẽ trả lời vào phiếu điều tra về 4 lĩnh vực: về QMHN, LP-TC, MT-ST, KT-XH. Chúng tôi chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 2 người đã trực tiếp điều tra ở 21 hộ nuôi tôm tại các thôn: 1, 2, 4.
2.3.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Phương pháp này nhằm mục đích kiểm nghiệm lại việc xây dựng các nhóm chỉ thị đã phù hợp chưa, nếu chưa thì chỉnh sửa hoàn thiện hơn để Bộ chỉ thị được xây dựng đảm bảo tính đại diện cho địa phương.
2.3.3. Phương pháp thống kê
Các số liệu thu thập đều ở dạng rời rạc, do vậy, cần được chọn lọc, thống kê, xâu chuỗi thành một thể thống nhất ngắn gọn nhưng mà phản ánh đầy đủ các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Chúng tôi đã sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2003 và phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu sau khi thu thập được.
2.3.4. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã trao đổi thông tin, hỏi ý kiến các cán bộ có trình độ chuyên môn về nuôi tôm, môi trường, cán bộ và người dân nuôi tôm ở xã Quảng Công, Phòng Nông nghiệp huyện Quảng Điền. Nhằm để xác định các nhóm chỉ thị, các tham số nào cần được xây dựng và xem xét tầm quan trọng của từng chỉ thị để cho điểm chính xác hơn.
2.3.5. Phương pháp so sánh
Các chỉ thị sau khi được xây dựng xong, điều tra, cho điểm, tính điểm cần phải so sánh giữa kết quả lý thuyết với thực tế nhằm điều chỉnh lại các tham số, quy trình xây dựng. Sau đó, đánh giá hình thức nào là bền vững và ở địa phương nào nên áp dụng hình thức phù hợp để cho kết quả tốt.
PHẦN III
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở lý luận
3.1.1. Theo tổ chức FAO
Theo tổ chức FAO (Tổ chức Nông Lương Thế Giới), sự PTBV trong NTTS: “là sự quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và sự định hướng về những thay đổi công nghệ và thể chế theo hướng đảm bảo sự đáp ứng các nhu cầu cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Sự phát triển như vậy đòi hỏi phải bảo vệ đất, nước, các nguồn gen động vật và thực vật, không làm suy thoái môi trường, phải phù hợp về mặt kỹ thuật, vững chắc về mặt kinh tế và được chấp nhận về mặt xã hội ”.
Để thực hiện những vấn đề trên, FAO đã đưa ra mục tiêu PTBV trong NTTS:
Mục tiêu 1: Sử dụng đất và nước thích hợp trong NTTS bền vững.
Mục tiêu 2: Bảo tồn các chức năng của các hệ sinh thái quan trọng và những môi trường nước nhạy cảm.
Mục tiêu 3: Quản lý tốt các nguồn tài nguyên đất và cải tạo đất nhằm giảm thiểu các tác động có hại lên môi trường xung quanh.
Mục tiêu 4: Giảm thiểu các tác động có hại lên các nguồn tài nguyên nước địa phương.
Mục tiêu 5: Tránh việc để các loài nuôi ngoại lai và chuyển ghép gen xâm nhập vào môi trường xung quanh.
Mục tiêu 6: Quản lý tốt việc sử dụng các loại hóa chất có hại cho sức khỏe con người và các hệ sinh thái.
Mục tiêu 7: Gia tăng cao nhất hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên và giảm thiểu thấp nhất lượng chất thải được tạo ra.
Mục tiêu 8: Giảm thiểu sự lệ thuộc vào các nguồn giống tự nhiên ở các trang trại.
Mục tiêu 9: Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho vật nuôi nhằm giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh trong các trang trại (TT) và ngoài tự nhiên.
Mục tiêu 10: Tối ưu hóa các lợi ích KT-XH cho cộng đồng và đất nước.
Mục tiêu 11: Cải tiến các hoạt động ở TT nuôi nhằm giảm thiểu các tác động lên những đối tượng sản xuất xung quanh.
Mục tiêu 12: Đảm bảo quyền và phúc lợi của nhân công làm việc ở các trung tâm.
Trong Chương trình Nghị sự 21, tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ) đã chỉ ra rằng, muốn xây dựng các chỉ thị PTBV cần tập trung vào các vấn đề: Kinh tế, xã hội, môi trường và năng lực thể chế. Đồng thời Uỷ ban LHQ còn kêu gọi mỗi ngành hãy xây cho mình Bộ chỉ thị riêng của ngành đó. Đối với ngành NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng là cần thiết bởi vì đây là ngành gây ra nhiều tác động không chỉ cho môi trường mà còn trong lĩnh vực KT-XH.
Trong Hội nghị bàn về các chỉ thị và chỉ tiêu đánh giá sự bền vững trong NTTS được tổ chức tại Roma-Ý từ ngày 28 đến 30 tháng 4, năm 1998, nhóm chuyên gia kỹ thuật của FAO cũng đã thống nhất đưa ra 4 nhóm chỉ thị cơ bản dựa trên 4 nhóm chỉ thị về PTBV được đề xuất bởi Ủy Ban
* Nhóm chỉ thị về luật pháp thể chế
Hội nghị đã thống nhất các chỉ thị về LP-TC là những chỉ thị về áp lực trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc động lực có tác động đến hệ thống tài nguyên. Ví dụ như số lượng giấy phép được phát hành để trang trại hoặc hộ nuôi hoạt động, hoặc là các chỉ thị về đáp ứng phản ánh những hành động của chính quyền (luật pháp và quy định) hay của ngành (các cam kết và tiêu chí) để giảm thiểu, loại bỏ hay đền bù về những thiệt hại do sự phát triển và quản lý việc NTTS gây ra. Nhóm chuyên gia kỹ thuật cũng đã xét đến các khía cạnh khác nhau của các chỉ thị thuộc nhóm này như: về quy hoạch, về quản lý trang trại,…
* Nhóm chỉ thị về quy mô trang trại (QMTT) hoặc hộ nuôi
Để xem xét đầy đủ các vấn đề liên quan đến QMTT hoặc QMHN là rất khó khăn bởi việc thu thập số liệu, các thông tin liên quan đến tài chính là khó thực hiện. Do vậy, Hội nghị đã thống nhất đưa ra những thông tin để mang lại hiệu quả nuôi cho trang trại hoặc hộ nuôi như: thời gian hoạt động, cơ sở hạ tầng,…
* Nhóm chỉ thị về môi trường
Đây là vấn đề nan giải bởi vì những tác động lên môi trường thường mang tính tiềm tàng. Khi xây dựng chỉ thị, ta nên hạn chế số lượng các chỉ thị và tập trung vào những chỉ thị cho thấy sự bền vững của quốc gia hoặc khu vực sinh thái. Tại Hội nghị đã xem xét và đưa ra các chỉ thị về PTBV trong NTTS liên quan đến MT-ST là: diện tích ao nuôi, sử dụng nguồn nước và chất lượng nước, sử dụng hóa chất, giống và thức ăn, dịch bệnh và xử lý dịch bệnh,…
* Nhóm chỉ thị về kinh tế xã hội
Nhóm chuyên gia kỹ thuật của FAO đưa ra chú ý khi xác định các tham số đặc trưng về nhóm chỉ thị KT-XH là phải đánh giá khả năng tồn tại về mặt kinh tế cũng như sự chấp nhận của xã hội đối với việc NTTS ở hiện tại và tương lai.
Tóm lại, các nhóm chỉ thị trên chỉ nghiên cứu ở cấp độ quốc gia. Mỗi nhóm có thể phù hợp ở một phạm vi nhất định. Các chuyên gia kỹ thuật của FAO khuyến khích nên phát triển các chỉ thị ở cấp độ càng nhỏ thì sẽ dễ đánh giá hơn.
3.1.2. Các hình thức nuôi tôm hiện nay [8]
3.1.2.1. Nuôi quảng canh (Extensive culture)
Là hình thức nuôi phụ thuộc vào tự nhiên là chính, thông qua việc lấy nước qua cửa cống và nhốt giữ trong một thời gian nhất định, ít đầu tư chăm sóc. Mật độ thả giống rất thấp, từ 1-3 con/m2. Năng suất bình quân đạt 180 kg/ha/vụ. Ở vùng đầm phá TTH, nuôi tôm cá CS được xem là nuôi QC. Hình thức này vốn đầu tư phù hợp với dân nghèo nhưng mức độ rủi ro lớn do bị ảnh hưởng trực tiếp của mưa lụt, nhất là lụt tiểu mãn.
3.1.2.2. Nuôi quảng canh cải tiến (Improve extensive)
Là hình thức nuôi cao hơn của QC. Ở hình thức QCCT, tuy phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lấy nước theo thủy triều nhưng được đầu tư chủ động giống, thức ăn ở mật độ nhất định đồng thời có đầu tư biện pháp cải tạo đầm, diệt trừ các đối tượng dịch hại để tăng tỷ lệ sống và năng suất. Quy mô DT dưới 2 ha. Mật độ giống thả từ 4-9 con/m2. NS đạt từ 300-900 kg/ha/vụ. Mực nước sâu 1-1,2 m. Ở vùng đầm phá, nuôi ao hạ triều được xem là nuôi QCCT. Hình thức này phù hợp với vùng có bãi triều rộng hoang hóa, nuôi có hiệu quả nhưng dễ ô nhiễm môi trường vì không xử lý triệt để đáy, nhất là nếu nâng cao mật độ thả giống
3.1.2.3. Nuôi bán thâm canh (Semi-intensive)
Là hình thức nuôi bằng giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp là chủ yếu, đồng thời kết hợp một phần sử dụng thức ăn tự nhiên có trong đầm phá. Hệ thống ao đầm đã được đầu tư một số cơ sở hạ tầng nhất định (điện, cơ khí, thủy lợi,…) để chủ động nguồn nước, xử lý và khống chế môi trường như hệ thống máy bơm, máy sục khí. Diện tích ao từ 0,5-1,5 ha, mật độ thả giống từ 10-15 con/m2, mực nước từ 1,2-1,4 m. Năng suất đạt từ 1-2 tấn/ha/vụ
3.1.2.4. Nuôi thâm canh hay nuôi công nghiệp (Intensive)
Là hình thức nuôi hoàn toàn bằng giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng đầy đủ để có thể khống chế các yếu tố môi trường, chủ động được nguồn nước mặn và ngọt. Diện tích ao từ 0,5-1 ha, độ sâu mực nước từ 1,5-2,0 m. Mật độ giống thả từ 16-30 con/m2 và đạt năng suất từ 2-5 tấn/ha/vụ.
Bảng 3.1: Chỉ tiêu các hình thức nuôi tôm
Chỉ tiêu
QC
QCCT
BTC
TC
Cở ao (ha)
Không xác định
1 - 2
0,5 - 1,5
0,5 - 1,0
Mực nước tối thiểu (m)
Phụ thuộc thủy triều
1,0 - 1,2
0,12 - 1,4
1,5 - 2,0
Mật độ thả giống (con/m2)
1 - 3
4 - 9
10 - 15
6 - 30
Quạt nước sụt khí
Không
Không
Có
Có
Thức ăn
Tự nhiên
Có bổ sung
Thức ăn công nghiệp, một phần thức ăn tự nhiên
Thức ăn công nghiệp
Cung cấp nước
Lấy nước triều qua cống
Lấy nước triều qua cống
Theo yêu cầu kỹ thuật
Theo yêu cầu kỹ thuật
NS (tấn/ha/vụ)
0,05 - 0,3
0,31 - 0,9
1,00 - 2,00
2,00 - 5,00
( Nguồn: Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, 12/2008)
3.1.3. Khái niệm về chỉ thị và việc sử dụng chỉ thị hiện nay [3]
3.1.3.1. Khái niệm chỉ thị
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCED) cho rằng chỉ thị là một sự đo lường phản ánh tình trạng các hệ thống xã hội, kinh tế và môi trường theo thời gian.
Theo Uỷ Ban Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (UNCSD), chỉ thị là những đơn vị thông tin mô tả tình trạng của các hệ thống, là thước đo tổng hợp các thông tin liên quan đến một hiện tượng nhất định. Chỉ thị là dụng cụ, đơn vị đo lường được sử dụng để đánh giá, quan trắc những kết quả đạt được trong suốt quá trình. Mục đích của nó cho thấy được hoạt động của một hệ thống tự nhiên, kinh tế, xã hội đang diễn ra theo chiều hướng như thế nào, tốt hay xấu. Vì vậy, chỉ thị là rất có ích trong việc đánh giá một vấn đề, nó chỉ phù hợp khi xét trong mối tương quan với các mục đích cụ thể, ví dụ mục đích là chỉ thị môi trường. Nó nhằm:
* Cung cấp thông tin cho sự đánh giá
Nó cung cấp thông tin đến các nhà hoach định chính sách và công chúng, đối với mỗi nhóm đối tượng thì chỉ thị sẽ cung cấp sẽ khác nhau.
Đối với các nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý môi trường, chỉ thị cung cấp thông tin về hiện trạng môi trường đang diễn ra và nhận định hiện trạng đó dựa trên xây dựng chỉ thị về môi trường đất, không khí, nước,… rồi đánh giá xem nó đang ở mức độ ô nhiễm nào, hay suy thoái. Tiếp đến, dự báo những diễn biến có thể xảy ra ở mức nào nếu ta tiếp tục gây ra tác động, hoặc hạn chế gây tác động. Sau đó, họ sẽ đưa ra những biện pháp, chính sách trước mắt và lâu dài để làm giảm những vấn đề môi trường và dự đoán những kết quả đạt được khi thực hiện việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Rồi so sánh các chiến lược, chính sách với các địa phương tốt hơn để rút ra bài học kinh nghiệm. Để đạt mục tiêu, ta phải đưa ra những chỉ thị đơn giản, phù hợp với thực tế từng địa phương.
* Phục vụ hoạch định chính sách
Đó là việc đặt ra mục tiêu và chỉ tiêu nhằm phục vụ việc xây dựng chiến lược thực hiện và đánh giá chính sách. Trong giai đoạn này, các chỉ thị được xây dựng cần được lựa chọn sao cho thực thi và đánh giá tốt các chính sách đã đề ra.
* Đối với cộng đồng
Các chỉ thị đưa ra nhằm mục đích là thông tin môi trường dựa vào các chiến dịch, nhờ đó mà thay đổi nhận thức của con người và sự tham gia nhiệt tình trong việc BVMT tốt hơn. Đó là các chỉ thị liên quan đến sức khỏe người dân, việc gây suy thoái môi trường làm cho họ mất đi kế sinh nhai,…
3.1.3.2. Các tiêu chí dùng để chọn lựa các chỉ thị [3]
Để nhằm mang lại hiệu quả cho việc chọn lựa các chỉ thị, Anderson (1991) và Lê Thạc Cán (2005) đã đưa ra các tiêu chí như sau:
1.Tính phù hợp với chính sách: được kiểm nghiệm qua việc xem xét tham khảo các văn bản chính sách, các kế hoạch, luật định ...
2. Khả năng giám sát tiến độ so với mục tiêu đề ra: được kiểm nghiệm thông qua các thông tin trong các văn bản chính sách.
3. Mức độ bao phủ về mặt không gian và thời gian: nhất quán về không gian và xem xét đến địa phương phù hợp đối với một vấn đề môi trường nhất định. Chỉ thị bao phủ một khoảng thời gian đủ để có thể cho thấy xu hướng theo thời gian.
4. Mức độ phù hợp với cấp sử dụng chỉ thị (quốc gia/tỉnh) và mang tính đại diện cho các địa phương nhằm hỗ trợ việc so sánh.
5. Phù hợp với việc so sánh: ví dụ như so sánh giữa các huyện trong một tỉnh. Khi so sánh nếu một huyện vượt trội huyện khác về điểm số thì chứng tỏ có thể học được một số điều từ huyện này.
6. Đơn giản và dễ hiểu nhờ: định nghĩa về các chỉ thị phải rõ ràng và thống nhất và trình bày chỉ thị một cách hợp lý. Không nên có những nội dung mâu thuẫn giữa các chỉ thị với nhau.
7. Phải có cơ sở về mặt khái niệm cũng như phương pháp luận: điều này phải được thể hiện trong các mô tả về phương pháp luận và công thức sử dụng, các tham khảo khoa học cho phương pháp luận và công thức đó. Tất cả những mô tả này cần được đưa vào phần tài liệu hoá của chỉ thị.
8. Được tài liệu hoá đầy đủ và quản lý được chất lượng: điều này được đánh giá bằng cách thực hiện kiểm tra công tác tài liệu hoá đối với chỉ thị và mức độ đều đặn các tài liệu này được cập nhật. Hệ thống quản lý chỉ thị sẽ hỗ trợ các công việc này, hệ thống này sẽ đem lại tính minh bạch và là cơ sở để có thể quản lý tốt hơn quy trình xây dựng và công bố chỉ thị.
9. Tính sẵn có của dữ liệu: các dữ liệu thu thập phục vụ cho chỉ thị phải đảm bảo tính khả thi cả về mặt chuyên môn cũng như tài chính. Các chỉ thị đó phải được xem xét ở các mức độ quan trọng của chỉ thị đem lại phù hợp với chi phí thu thập dữ liệu để phục vụ cho việc lựa chọn chỉ thị trong thời gian dài hoặc ngắn.
3.1.3.3. Một số chỉ thị thông dụng hiện đang được sử dụng [1,3]
Chỉ số phát triển con người: được đánh giá trên thang điểm từ 0 đến 1 là một tập hợp của 3 chỉ thị: tuổi thọ bình quân, tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ người biết chữ và thời gian trung bình đến trường.
Chỉ số Daly-Cobb: là một chỉ thị toàn diện hơn về sự phát triển kinh tế bền vững. Chỉ số này không chỉ phản ảnh mức tiêu thụ trung bình mà còn cho thấy sự công bằng trong phân phối sản phẩm và sự suy thoái môi trường.
Chỉ số tiêu thụ lương thực đầu người: (Per Capital Grain Index) là một thước đo hữu hiệu về kinh tế ở các nước có thu nhập thấp. Chỉ thị này phản ảnh sự thoả mãn của nhu cầu cơ bản con người bởi con người không thể tồn tại nếu mức tiêu thụ lương thực hàng năm dưới 180 kg.
Chỉ số thịnh vượng quốc gia (Wealth of Nations Index, WNI)
Chỉ số thịnh vượng quốc gia do nhóm chuyên gia kinh tế của World Paper và Viện Nghiên cứu các vấn đề tiền tệ Mỹ công bố hằng năm.
WNI được tính dựa trên 3 nhóm chỉ tiêu là kinh tế, xã hội và trao đổi thông tin. Mỗi nhóm chỉ tiêu gồm 21 thông số, các tham số này có trọng số như nhau. Đối với mỗi nhóm chỉ số, các số liệu thô được chuyển đổi thành các chỉ số thay đổi từ thấp nhất 0 điểm đến cao nhất là 100 điểm. Tổng số điểm của mỗi nhóm tham số là 800 điểm, điểm tổng cộng tối đa của WNI là 2.400 điểm.
Về chỉ tiêu kinh tế, Việt Nam đạt 494 điểm, bằng 62% mức cao nhất các nước đang phát triển; về chỉ tiêu xã hội, chúng ta đạt 507 điểm bằng 63,4% mức cao nhất các nước đang phát triển và nhóm chỉ tiêu về trao đổi thông tin chúng ta chỉ đạt 226 điểm bằng 28,3% mức cao nhất của các nước đang phát triển. Tính chung 3 nhóm chỉ tiêu trên, Việt Nam đạt được 1.227 điểm bằng 51,1% mức cao nhất của các nước đang phát triển, đứng thứ 56/70 nước đang phát triển có số liệu so sánh.
Chỉ số thương tổn môi trường (Environmental Vulnerability Index, EVI)
Chỉ số EVI đã được Uỷ ban Khoa học Địa lý ứng dụng Nam Thái Bình Dương (SOPAC) và Tổ chức Phát triển Liên Hợp Quốc(UNDP) triển khai. Chỉ số này được xây dựng dựa trên các chỉ số thương tổn về xã hội, kinh tế để hiểu được các quá trình có thể tác động tiêu cực tới sự PTBV của các quốc gia như thế nào.
Chỉ số EVI gồm 57 chỉ thị thuộc 3 nhóm chỉ số thứ cấp: chỉ số về tai biến, chỉ số về phục hồi sau các tai biến từ tự nhiên hay nhân tạo, chỉ số về sự suy thoái hay tính nguyên vẹn của môi trường.
Chỉ có 6 trong số 57 chỉ thị này có trọng số là 5, các chỉ thị còn lại có trọng số như nhau là 1. Thang điểm của chỉ số EVI dao động từ 1 đến 7. Điểm càng cao thì tính dễ bị thương tổn càng lớn.
Chỉ số phát triển bền vững (Sustainable Development Index, SDI): Trong Chương trình nghị sự 21 của Hội nghị thượng đỉnh Rio năm 1992 về Môi trường và Phát triển khuyến khích việc sử dụng các chỉ thị PTBV để mô tả hiện trạng kinh tế, môi trường và xã hội nhằm đo lường mức độ phát triển toàn diện của một quốc gia.
Chỉ số SDI được xây dựng bao gồm 134 chỉ thị đã được chọn lọc và 22 quốc gia tình nguyện áp dụng thử nghiệm Bộ chỉ thị này. Vào năm 2001, Bộ chỉ thị này đã được chuẩn hoá như là một công cụ đo lường các sự tiến bộ trong PTBV nhằm hỗ trợ cho những người ra quyết định, những nhà hoạch định chính sách phát triển KT-XH của một quốc gia được bền vững lâu dài.
Chỉ số bền vững môi trường (Environmental Sustainability Index, ESI): chỉ ra những việc làm, những khả năng của một quốc gia trong việc BVMT cho tương lai. Chỉ số này được xây dựng bởi 21 chỉ thị bền vững môi trường với 76 tham số, tập trung vào 5 khía cạnh sau:
- Hệ thống môi trường
- Giảm thiểu tác động môi trường
- Giảm thiểu tính thương tổn của con người đối với các áp lực môi trường
- Năng lực xã hội, thể chế trong việc đáp ứng các thách thức môi trường
- Quản lý trái đất
3.2. Cơ sở thực tiễn
3.2.1. Các văn bản pháp luật
Nơi nào có vùng ven đầm phá và biển lớn thì nơi đó có ngành NTTS được phát triển mạnh. NTTS là ngành gắn liền với thiên nhiên, do vậy không tránh khỏi những nguy cơ những tác động tiêu cực do nó gây ra về mặt môi trường: ô nhiễm môi trường, giảm sự đa dạng sinh học, …
Quảng Điền là vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm nói chung và nuôi tôm nói riêng của tỉnh Thừa Thiên Huế, vì lẽ đó hoạt động nuôi tôm tại huyện cũng nằm trong những diễn biến, tình hình của toàn tỉnh. Trước những khó khăn đó, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, huyện Quảng Điền trong những năm qua vẫn đạt được những thành tích đáng kể, góp phần thúc đẩy ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, cùng với ngành thuỷ sản của tỉnh phát triển nhanh trong xu thế hội nhập.
Hiện nay, xã Quảng Công có 3 loại hình nuôi tôm: nuôi cao sản, nuôi ao đất hạ triều, nuôi ao nổi cao triều. Dựa vào những ưu nhược điểm của mỗi loại hình mà có các phương thức phù hợp với chúng. Nuôi ao hạ triều phù hợp với hình thức nuôi QCCT, nuôi ao cao triều phù hợp với hình thức BTC và TC.
Theo Báo cáo Đánh giá thực trạng môi trường của UBND huyện Quảng Điền năm 2008 cho biết việc phát triển NTTS đang làm cho pH của đầm phá thay đổi, biến đổi và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái vùng đầm phá.
Vì vậy, việc xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm là rất cần thiết, nhằm cho phép các nhà quản lý có thể mô tả, đánh giá hình thức nào mang lại tính bền vững cho môi trường, đồng thời cũng thỏa mãn những nhu cầu về KT-XH.
Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà Nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về PTBV đối với mọi hoạt động sản xuất KT-XH, trong đó có hoạt động NTTS. Trên cơ sở chủ trương, định hướng về PTBV và BVMT, trong thời gian qua, Đảng và Nhà Nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan như:
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
- Quyết định 12/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Danh mục phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất
- Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Danh mục chất thải nguy hại
- Quyết định 19/2007/QĐ-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy định về điều kiện và hoạt động dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
- Nghị định 174/2007/NĐ-CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
- Nghị định 120/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý lưu vực sông
3.2.2. Tình hình phát triển nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế
3.2.2.1. Đối với tỉnh Thừa Thiên Huế [9]
Thừa Thiên Huế là tỉnh có bờ biển dài 128 km và hệ đầm phá Tam Giang, Cầu Hai có diện tích 21.594 ha, có rất nhiều bãi ngang hội đủ các điều kiện về thời tiết khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng… phù hợp với NTTS, là nơi có tiềm năng để phát triển nghề nuôi tôm. Nhờ những thuận lợi sẵn có của hệ sinh thái đầm phá, nghề NTTS nước lợ chủ yếu là nuôi tôm sú đã phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế.
Bảng 3.2: Tình hình nuôi tôm sú tỉnh Thừa Thiên Huế qua 3 năm 2007-2009
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
+/-
%
+/-
%
Diện tích
Ha
3464
3024
3632,1
-440
87,3
608,1
120,1
Sản lượng
Tấn
3363
3861
2950,5
498
114,8
-910,5
76,4
Năng suất
Tấn/ha
0,97
1,28
0,81
0,31
1,32
-0,47
63,3
( Nguồn:Theo số liệu thống kê sở thủy sản Thừa Thiên Huế, 2009)
Về diện tích nuôi: Diện tích nuôi tôm trong năm 2009 đã có giảm sút đáng kể, từ 3.464 ha năm 2007 giảm xuống 3.024 ha năm 2008. Nguyên nhân của vấn đề này là: năm 2007 do thời tiết thay đổi phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con tôm; bên cạnh đó dịch bệnh tại các địa phương trên địa bàn tỉnh diễn ra phổ biến, tạo tâm lý hoang mang trong người nuôi tôm. Từ đó, khiến cho diện tích nuôi năm 2008 giảm đáng kể so với năm 2007. Tuy nhiên, năm 2009 diện tích nuôi lại tăng lên khá nhanh, lên tới 3.632,1 ha, tăng 120,1% so với năm 2008.[9]
Về năng suất và sản lượng tôm nuôi: Mặc dù, năm 2008 diện tích nuôi tôm giảm sút đáng kể, nhưng tình hình nuôi trồng diễn ra thuận lợi; thời tiết ổn định, thích hợp với con tôm; dịch bệnh không xuất hiện tạo điều kiện thuận lợi trong việc nuôi trồng, chăm sóc và thu hoạch tôm. Sản lượng tôm nuôi năm 2008 đạt 3.861 tấn, tăng 114,8% so với năm 2007. Tuy nhiên, sự thay đổi thất thường của thời tiết khí hậu, sự dao động mạnh của độ mặn; bên cạnh đó là sự diễn biến phức tạp của dịch bệnh đã làm cho năng suất tôm năm 2009 giảm xuống còn 2.950,5 tấn, tức bằng 76,4% so với năm 2008.[9]
Mặc dù vậy, so với cả nước thì năng suất tôm của Thừa Thiên Huế vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Mục tiêu đặt ra là không ngừng nâng cao năng suất, sản lượng để ngành nuôi trồng nuôi tôm của Thừa Thiên Huế phát triển, phát huy lợi thế so sánh của vùng.
Tình hình nuôi trồng chịu nhiều rủi ro, bị ảnh hưởng rất nhiều bởi điều kiện tự nhiên đã và đang đặt ra cho người nông dân, các cấp chính quyền địa phương, cơ quan liên quan một bài toán hóc búa, cần phải kịp thời đưa ra các giải pháp áp dụng vào nuôi trồng, giúp cho người nông dân tránh và hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
3.2.2.2. Đối với huyện Quảng Điền [5], [6]
Quảng Điền là vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm nói chung và nuôi tôm nói riêng của tỉnh Thừa Thiên Huế, vì lẽ đó hoạt động nuôi tôm tại huyện cũng nằm trong những diễn biến, tình hình của toàn tỉnh. Trước những khó khăn đó, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, huyện Quảng Điền trong những năm qua vẫn đạt được những thành tích đáng kể, góp phần thúc đẩy ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, cùng với ngành thuỷ sản của tỉnh phát triển nhanh trong xu thế hội nhập.
Vùng đầm phá Quảng Điền là một trong những vùng phát triển nghề thuỷ sản của Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản mà chủ yếu là nuôi tôm sú chỉ thật sự phát triển hơn 12 năm trở lại đây ( 1998 - 2010) cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đến nay hầu hết các xã vùng đầm phá của huyện đã phát triển nghề nuôi tôm sú với nhiều hình thức nuôi như chắn sáo mồng, nuôi ao trung triều, hạ triều, cao triều. Nuôi trồng thuỷ sản thật sự trở thành nghề mới của vùng đầm phá Quảng Điền, có sức thu hút nhiều người tham gia. Tình hình nuôi tôm trong những năm gần đây được thể hiện qua bảng.
Bảng 3.3: Tình hình nuôi tôm sú của huyện Quảng Điền qua 3 năm 2007 – 2009
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
So sánh
2008/2007
So sánh
2009/2008
+/-
%
+/-
%
Diện tích
Ha
589,2
606,6
600,0
17,4
102,9
-6,6
99,99
Sản lượng
Tấn
450,0
413,0
398,8
-37
99,91
-14,2
99,97
Năng suất
Tấn/ha
0,76
0,68
0,66
-0,08
99,89
-0,02
99,98
( Nguồn: Theo thồng kê của phòng nông nghiệp huyện Quảng Điên, 2007, 2008, 2009)
3.2.2.3. Đối với xã Quảng Công [10], [11], [12]
Với lợi thế là xã có diện tích tương đối rộng, lại có diện tích mặt nước đầm phá nên Quảng Công rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản xã đã xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn, góp phàn vào sự tăng trưởng kinh tế của xã cũng như tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho nhiều hộ ngư dân.
Xã tồn tại hai loại hình nuôi chính là nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Tuy nhiên tôm sú thường được nuôi ở nước lợ, chỉ có diện tích nuôi chắn sáo được ngư dân tận dụng để xen canh, nuôi ghép nhiều loại như tôm cua, cá để tăng thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh tế. Tình hình nuôi tôm ở xã Quảng Công được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.4: Diện tích, sản lượng nuôi của xã Quảng Công năm 2009
Chỉ tiêu
ĐVT
Kế hoạch
Thực hiện
TH/KH (%)
1. Diện tích
Ha
141,7
137,1
97,0
- Nước lợ
Ha
133,0
126,0
95,0
- Nước ngọt
Ha
8,7
11,1
128,0
2. Sản lượng
Tấn
160,0
176,0
110,0
- Tôm sú
Tấn
95,0
101,0
106,0
- Tôm ráo
Tấn
2,5
2,5
100,0
- Cua, cá nước lợ
Tấn
50,0
55,5
111,0
(Nguồn: báo cáo nuôi trồng thủy sản xã Quảng Công, 2009)
Tôm sú là đối tượng chính mà người dân lựa chọn. Năm 2009 ngư dân đã đưa vào nuôi với diện tích là 126ha, đạt 94,7% so với kế hoạch
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản của xã so với kế hoạch để ra tuy không đúng kế hoạch nhưng tổng diện tích nuôi vẫn đạt 137,1 ha đạt so với kế hoạch là 97%
Sản lượng nuôi trồng trong năm là 176 tấn, cá, tôm các loại, đạt 110% kế hoạch, tăng 26 tấn so với năm trước, tổng giá trị đạt khoảng 7.2 tỷ đồng. Trong đó sản lượng tôm sú thu về là 101 tấn tăng so với kế hoạch là 6%. Đây là nét đáng mừng cho hoạt động nuôi tôm của xã, tạo động lực để phát triển ngành nuôi tôm sú trên địa bàn của xã.
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội [6], [13]
4.1.1. Vị trí địa lý [13]
Xã Quảng Công nằm về phía Đông của huyện Quảng Điền và cách trung tâm huyện 6 km, cách thành phố Huế 12 km và có vị trí địa lý như sau:
- Phía Bắc giáp xã Quảng Ngạn
- Phía Đông giáp Biển Đông
- Phía Tây giáp Phá Tam Giang.
- Phía Nam giáp xã Hải Dương, huyện Hương Trà.
Với tổng diện tích đất tự nhiên là 1261,43 ha.
4.1.2. Điều kiện tự nhiên [6], [13]
4.1.2.1. Địa hình
Xã có địa hình tương đối bằng phẳng, thấp từ Tây sang Đông, phía Đông giáp với Biển Đông Hải, vùng đầm phá làm cho một phần diện tích bị nhiễm mặn và đây cũng là điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
4.1.2.2. Thổ nhưỡng [13]
Xã Quảng Công có tổng số 1261,43 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó có các loại đất chính như sau:
- Đất cát (haplic arenosols): Diện tích 313,5 ha chiếm 27,33% diện tích đất tự nhiên. Loại đất này được phân bố chủ yếu ở địa phận tiếp giáp phá Tam Giang, loại đất này ít có ý nghĩa đối với sản xuất nông nghiệp.
- Đất phù sa (fluvisol): Diện tích 30,4 ha chiếm 2,65% diện tích đất tự nhiên. Đất phù sa có diện tích không lớn và phân bố dọc sông, loại đất này rất có ý nghĩa cho sản xuất nông nghiệp và thực tế đã được người dân khai thác một cách triệt để vào sản xuất hoa màu, lương thực cũng như các cây công nghiệp ngắn ngày hàng năm bởi những đặc điểm khá ưu việt: tỷ lệ đạm, mùn trung bình đến khá, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, dễ thoát nước, địa hình bằng, tập trung.
- Đất biến đổi do trồng lúa (LP): Diện tích 561,5 ha chiếm 48,5% diện tích đất tự nhiên (đất thịt nặng). Đây là đất được hình thành do sản phẩm phong hoá đá mẹ khác nhau, được nhân dân địa phương cải tạo lâu đời nên hình thành các chân ruộng để sản xuất nông nghiệp. Loại đất này được phân bố hầu hết ở các vùng trong xã.
- Đất khác: Bao gồm mặt nước đầm phá, kênh mương, sông hồ và đất chuyên dùng... Tổng diện tích 241,6 ha chiếm 21,1 %.
4.1.2.3. Khí hậu thời tiết [13]
a. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 25oC. Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5,6,7,8. Nhiệt độ cao nhất cao năm: 40,1oC . Nhiệt độ thấp nhất vào các tháng 12 và tháng 1, tháng 2 năm sau. Nhiệt độ thấp nhất: 10,2oC.
b. Lương mưa
Do vị trí ở vùng đồng bằng ven biển nên xã Quảng Công có lượng mưa thấp, số ngày mưa ngắn hơn so với vùng núi của tỉnh, lượng mưa trung bình năm khoảng 2550mm.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 2 năm sau. Đỉnh mưa dịch chuyển trong bốn tháng từ tháng 9 đến tháng 12, riêng tháng 11có lượng mưa nhiều nhất chiếm tới 30% lượng mưa cả năm.
c. Độ ẩm
Độ ẩm tương đối trung bình năm: 85 - 86%. Độ ẩm cao nhất là 89%. Tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 9, tháng 10, tháng 11. Độ ẩm thấp nhất là 76%.
d. Bốc hơi
Lượng nước bốc hơi trung bình hàng năm là 977mm/năm. Lượng bốc hơi nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 8 (tháng 7 là 133mm), tháng có lượng bốc hơi nhiều nhất là tháng 2 cũng đạt 39,6mm.
e. Gió, bão, nắng
- Xã Quảng Công chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính:
+ Gió mùa Tây Nam: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 8, tốc độ gió bình quân từ 2 - 3m/s có khi lên đến 7 - 8m/s. Mùa này gió thường khô nóng, bốc hơi nên khô hạn kéo dài.
+ Gió mùa Đông Bắc: Bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió bình quân từ 4 -6m/s. Gió kèm theo mưa làm khí hậu lạnh ẩm dễ gây lũ lụt, ngập úng ở nhiều nơi.
- Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10. Trong các trường hợp chịu ảnh hưởng của bão, lốc và gió mùa Đông Bắc, tốc độ gió có thể đạt trên 15m/s trong gió mùa Đông Bắc và 30m/s trong khi lốc bão.
- Số giờ nắng trung bình hàng năm: 2075 giờ/năm và số ngày nắng trung bình năm là 196 ngày.
4.1.2.4. Môi trường nước [6]
a. Nước mặt
Quảng Công có hệ thống nước mặt không nhiều, đáng chú ý là sông Bồ, đây là nguồn nước mặt chủ yếu phục vụ sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong xã. Sông này có chiều dài 12 km, đoạn chảy qua xã Quảng Công dài 6 km. Lưu vực của sông này có nhiều hói nước dẫn vào khu vực sản xuất
b. Nước ngầm
Theo quan sát thực tế từ các giếng đào cho thấy, nguồn nước ngầm ở Quảng Công tương đối lớn, độ sâu 4 - 6m có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và cung cấp cho một số cơ sở công nghiệp nhỏ.
Về chất lượng nước cũng đáng quan tâm, đây là vùng ven biển phần lớn bị nhiễm phèn, mặn hoặc nhiễm bẩn do hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân.
4.1.2.5. Tài nguyên sinh học [4]
Quảng Công có trên 7 km bờ ven đầm phá Tam Giang và rộng trên 165 ha, đánh giá tài nguyên đầm phá của xã được xem xét trên hai khía cạnh:
- Tài nguyên thuỷ sản: Được đánh giá là xã có tài nguyên thuỷ sản đa dạng và sản lượng đánh bắt theo số liệu thực tế đến năm 2005 thì tổng sản lượng đánh bắt trên 28 tấn/năm đạt 0,34% so với toàn huyện.
Tài nguyên sinh vật thuỷ sinh đầm phá: Vùng đầm phá của xã có hệ sinh vật thuỷ sinh phong phú, là nguồn thức ăn đa dạng, tốt cho NTTS.
4.1.2.6. Đánh giá về vị trí và điều kiện tự nhiên
* Thuận lợi:
- Có lợi thế về vị trí và điều kiện tự nhiên: Nằm cách trung tâm huyện và thành phố Huế không xa thuận lợi cho xã trong việc trao đổi và tiêu thụ các hàng hóa nông sản, thủy sản, vật tư nông nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển cũng như việc tiếp cận với các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại và thông tin thị trường.
- Điều kiện địa hình địa thế thuận lợi cho phát triển đa dạng nông nghiệp và thủy hải sản
- Trên địa bàn xã có nguồn nước khá dồi dào, không những đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp mà còn phục vụ cho việc nuôi trồng thủy sản của vùng.
* Khó khăn:
- Xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt. Do lượng mưa phân bố không đều trong năm và thường bị hạn hán, úng lụt ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là nuôi trồng thủy hải sản và đời sống nhân dân ở xã.
- Mặc dù đất đai trên địa bàn xã khá đa dạng nhưng trong số đó vẫn còn các loại đất có lợi cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp. Đất cát chiếm tỷ lệ khá cao ít có ý nghĩa đối với sản xuất nông nghiệp và trong quá trình sản xuất nông nghiệp đất bị thoái hóa theo chiều hướng xấu đi rất nhiều.
4.1.3. Điều kiện kinh tế xã hội [13]
4.1.3.1. Dân số và lao động
Toàn xã chia thành 9 cụm dân cư gồm các thôn: Cương Gián, Hải Thành, Tân Thành, An Lộc, Thôn 1, Thôn 2, Thôn 3, Thôn 4, Thôn 14.
Tổng dân số của năm 2009 của xã là 9.430 người với 1520 hộ. Trong đó có 4046 người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Quảng Công là xã không ngừng quan tâm đến việc đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động như: phát triển TTCN, tạo điều kiện để phát triển các ngành nghề dịch vụ và xuất khẩu lao động sang các nước Malaysia, Nhật Bản, Đài Loan và Australia. Và đây cũng chính là nguyên nhân làm cho lao động trong lĩnh vực nông nghiệp giảm đáng kể. Ngoài ra, nông dân đều ý thức được rằng, sản xuất NN vốn mang lại lợi nhuận rất thấp lại mang tính rủi ro cao như thiên tai, hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh...nên việc họ tìm kiếm công việc khác để cải thiện đời sống là điều tất yếu.
Qua phân tích tình hình dân số và lao động của xã, ta thấy rõ tỷ trọng sản xuất nông nghiệp giảm rất đáng kể, lao động phi nông nghiệp tăng lên. Đây là thành tích đạt được của xã, là sự nỗ lực đi lên từ giá trị nông nghiệp sản xuất thấp kém không đủ trang trải cho cuộc sống, để cải thiện đời sống khó khăn cho bà con vươn lên khá giàu, góp phần làm giàu cho bộ mặt của toàn xã.
4.1.3.2. Đặc điểm kinh tế
a. Về sản xuất nông nghiệp
* Về trồng trọt:
Xã Quảng Công là xã chuyên canh sản xuất nông nghiệp, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất NN đặc biệt là chuyên canh sản xuất lúa.
- Tổng diện tích gieo trồng cả năm 2009 là 925 ha. Trong đó:
+ Diện tích canh tác lúa cả năm là 829,4 ha.
+ Diện tích trồng màu là 95,6 ha (gồm: ngô, khoai lang, sắn, đậu, rau).
- Năng suất lúa bình quân đạt 56,7 tạ/hạ/năm.
- Tổng sản lượng lương thực cả năm 2009 đạt 4700 tấn/năm đạt 100,14% so với cùng kỳ năm trước:
- Bình quân lương thực đầu người 492,7 kg/năm 2009 đạt 92,6% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân là do sâu bệnh, đặc biệt chuột phá hoại trên diện rộng, thời tiết vụ Đông Xuân không thuận lợi.
* Về chăn nuôi:
Tổng đàn lợn trong năm 2009 có 4860 con tăng 1260 con so với cùng kỳ năm trước đàn trâu có 288 con tăng 38 con so với cùng kỳ năm trước, đàn bò có 70 con tăng 29 con so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm có 31.590 con. Tuy nhiên, chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa phát triển thành hàng hoá, chủ yếu để cung cấp thực phẩm tại chỗ và tận dụng phân bón cho trồng trọt nên quy mô cũng như chất lượng đàn gia súc còn thấp.
* Về thuỷ sản:
Tổng diện tích nuôi thả năm 2009 là 139 ha. Trong đó, nuôi nước lợ là 128 ha, nuôi nước ngọt là 11 ha.
Tổng sản lượng nuôi trồng năm 2009 là 161 tấn. Trong đó: tôm 70 tấn, cua 16 tấn, cá các loại 75 tấn. Ước thu gần 7 tỷ đồng. Vì thế, nhu cầu vốn cho NTTS là rất lớn.
b. Tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề khác
Tiếp tục chỉ đạo củng cố, khôi phục các ngành nghề truyền thống như: nón lá, mộc, nề dân dụng, giày dép, đàn Guytar... nhằm tăng thu nhập trong nhân dân. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - TTCN theo giá trị thực tế khoảng 2,6 tỷ đồng.
c. Về thương mại dịch vụ
Hoạt động thương mại dịch vụ có mức độ chưa lớn nhưng đây là thị trường đầy tiềm năng, ước tính tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đạt 1,47 tỷ đồng. Dịch vụ bưu chính viễn thông tiếp tục phát triển, đến nay điện thoại đã đến tận các khu dân cư, có bưu điện văn hoá xã, số hộ dùng điện thoại ngày càng tăng.
4.1.3.3. Đánh giá về điều kiện kinh tế xã hội
* Thuận lợi:
- Quảng Điền có lực lượng lao động dồi dào, có trình độ văn hóa. Đây là một lợi thế trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp để đưa sản xuất nông nghiệp của xã theo hướng hàng hóa cũng như xuất khẩu lao động.
- Hệ thống giao thông trên địa bàn khá hoàn chỉnh, đó là thuận lợi cho người dân trong việc vận chuyển các vật tư, cũng như đảm bảo cho khâu thu hoạch được diễn ra một cách thuận lợi hơn về mùa nắng cũng như mùa mưa.
* Khó khăn:
- Hệ thống kênh mương nội đồng tỷ lệ bê tông hóa còn thấp nên tỷ lệ thất thoát nước lớn, vẫn còn nhiều nơi trên địa bàn xã vẫn chưa đưa được nước tưới vào, điều đó đã gây khó khăn rất lớn cho những khu vực không đưa nước vào được khiến họ không thể trồng màu, ảnh hưởng đến việc nâng cao thu nhập để cải thiện tạo cuộc sống của người dân.
- Lao động chủ yếu theo mùa vụ không liên tục gây khó khăn cho các vấn đề xã hội. Mùa nhàn rỗi lao động phải đi nơi khác kiếm việc làm dẫn đến số lao động thì nhiều nhưng số lao động cố định tại địa phương thì ít.
4.2. Mô hình được lựa chọn để xây dựng bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm
Dựa vào CSKH và CSTT của vấn đề NTTS, chúng tôi chọn mô hình D-P-S-I-R để xây dựng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm.
Sự phát triển mô hình DPSIR dựa vào sự tiến hóa các mô hình của UNEP:
- Mở đầu từ mô tả trạng thái, State, gọi tắt là S.
- Tiến sang phân tích trạng thái được mô tả với áp lực đã gây nên trạng thái đó, Pressure, gọi tắt là PS.
- Tiến thêm một bước xem xét các đáp ứng của con người để gây ảnh hưởng tới tình trạng S, đó là các đáp ứng Respone, gọi tắt là PSR.
- Bổ sung xem xét các tác động của vấn đề tồn tại, Impacts, gọi là PSIR.
- Xem xét các đáp ứng R của con người trước tình trạng môi trường đã mô tả, dẫn tới mô hình DPSIR.
Trong đó, D - Driving forces, có thể gọi là lực thúc đẩy nguyên nhân của áp lực, P – Pressures là áp lực, S - State of Environment là trạng thái của môi trường, I –Impacts là tác động, R – Response là đáp ứng.
Quá trình này có thể biểu thị một cách đơn giản như ở hình 3 sau đây:
S
P - S
P - S - R
P - S- I - R
D -P - S - I - R
Hình 4.1: Quá trình phát triển của mô hình DPSIR
Mô hình được chọn được tạo ra bởi các nhân tố: động lực, áp lực, thực trạng môi trường, tác động, đáp ứng; và giữa chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Thông qua mô hình, ta có cái nhìn tổng quan về mọi vấn đề liên quan đến NTTS, và biết được nguyên nhân-hậu quả của những tác động. Các nhân tố đó và mối quan hệ giữa chúng thể hiện ở Hình 4.2
Động lực
Áp lực
Áp lực
Tác động
Tình trạng
Đáp ứng
Hình 4.2:. Mô hình lựa chọn xây dựng chỉ thị trong NTTS
Thực trạng
Thực trạng vật lý:
Lượng nước và dòng chảy
Lưu chuyển, lắng đọng trầm tích,..
Thực trạng hoá học:
Chất ô nhiễm trong nước, đất
Chất hữu cơ, dưỡng chất trong nước
Thực trạng sinh học:
Mất cân bằng sinh thái, tuyệt chủng một số loài, thực trạng động thực vật
Áp lực
Thải các chất gây ô nhiễm vào nước, không khí và đất
Khai thác tài nguyên thiên
nhiên
Những thay đổi trong việc sử dụng đất
Các rủi ro về công nghệ
Động lực
Gia tăng dân số
Số lượng công trình nuôi
Số người sống bằng NTTS
Sản lượng nuôi,…
Tác động
Đa dạng sinh học
Hệ sinh thái
Tài nguyên thiên nhiên
Con người
Nền kinh tế
Đáp ứng
Các hành động giảm thiểu
Các chính sách môi trường nhằm đạt được các mục tiêu quốc gia về môi trường
Các chính sách ngành thuỷ sản
Nhận thức về môi trường
Các biện pháp giảm nghèo cụ thể
Hình 4.3 : Mô hình DPSIR
4.3. Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
4.3.1. Xác định các nhóm chỉ thị và các chỉ thị thứ cấp của từng nhóm chỉ thị [1]
Trên CSKH và CSTT, việc xây dựng Bộ chỉ thị PTBV trong NTTS của FAO, dựa vào mô hình DPSIR, chúng tôi đưa ra 4 nhóm chỉ thị:
4.3.1.1. Nhóm chỉ thị luật pháp thể chế (I.1)
Nhóm chỉ thị này bao gồm 5 chỉ thị thứ cấp được chọn, mô tả những vấn đề về LP-TC liên quan đến hoạt động nuôi tôm. Những vấn đề đó là: lập quy hoạch vùng nuôi, yêu cầu thực hiện ĐGTĐMT hoặc bản ĐKĐTCMT, giấy phép đăng ký kinh doanh, các quy định về việc cấm sử dụng các loại hóa chất độc hại, các quy định về xử lý và phòng ngừa dịch bệnh, chọn lọc nguồn giống và thức ăn để giảm sự rủi ro do hoạt động nuôi tôm của hộ nuôi đến môi trường, kinh tế xã hội.
Trong mô hình DPSIR, chỉ thị này được xem là chỉ thị đáp ứng, nhóm chỉ thị cho ta thấy những động lực có thể xảy từ hoạt động trên. Do đó, nó giúp cho những nhà quản lý có chính sách lâu dài để hạn chế thiệt hại.
Bảng 4.1: Các chỉ thị đặc trưng của nhóm chỉ thị luật pháp và thể chế
STT
Chỉ thị
Ý nghĩa
1
Lập quy hoạch vùng nuôi
Hạn chế xung đột tài nguyên, bảo đảm tính bền vững chung cho toàn khu vực về sử dụng tài nguyên, sức chứa môi trường.
2
Yêu cầu thực hiện ĐGTĐMT và bản ĐKĐTCMT
Căn cứ quản lý môi trường, giảm thiểu các tác động tiêu cực ngay từ ban đầu và đảm bảo trong quá trình hoạt động tuân thủ luật BVMT thông qua các chương trình giám sát.
3
Quy định về sử dụng, cấm sử dụng hóa chất độc hại và kháng sinh trong NTTS
Đảm bảo nguồn nước, các hóa chất độc hại cấm sử dụng hoặc sử dụng quá quy định cho phép
4
Quy định về kiểm tra nguồn giống và thức ăn trước khi vào sử dụng
Đảm bảo đối tượng nuôi không bị ảnh hưởng
sự xâm nhập các loài ngoại lai; nguồn thức ăn đảm bảo chất lượng
5
Quy định về xử lý môi trường, giống, dịch bệnh
Giảm rủi ro đến môi trường, nâng cao năng suất
4.3.1.2. Nhóm chỉ thị quy mô hộ nuôi (I.2)
Nhóm chỉ thị này bao gồm 9 chỉ thị mô tả các tính chất, đặc điểm, quy trình của hộ nuôi tôm. Các chỉ thị cho ta biết được hộ nuôi sẽ nuôi theo hình thức gì, các yêu cầu về việc nuôi tôm theo hình thức này sẽ đáp ứng như thế nào (như diện tích, mật độ, nguồn giống và thức ăn, các thiết bị cơ khí hóa cho hoạt động nuôi tôm,…).
Có thể nói rằng, mọi tác động đến môi trường là do cách thức hoạt động của mỗi hình thức nuôi quyết định nên nhóm chỉ thị này sẽ cho ta thấy những nguyên nhân và hậu quả, áp lực tác động đến môi trường. Đây được xem là chỉ thị động lực - áp lực trong mô hình DPSIR.
Bảng 4.2: Các chỉ thị đặc trưng của nhóm chỉ thị quy mô vùng nuôi
STT
Chỉ thị
Ý nghĩa
1
Hình thức nuôi
Mức độ tác động đến tài nguyên, môi trường
2
Diện tích ao nuôi
Khả năng sử dụng tài nguyên (đất, nước,...)
3
Quyền sử dụng đất đai
Tính ổn định trong sản xuất
4
Ao nuôi xây dựng theo đúng quy trình kỹ thuật
Giảm thiểu tác động; hiệu quả của việc nuôi
5
Nguồn giống được lấy
Phòng ngừa dịch bệnh, chủ động mùa vụ, đảm bảo an toàn sinh học
6
Mật độ thả đối tượng nuôi
Quyết định tính ổn định vùng nuôi
Khả năng sử dụng nguyên vật liệu
7
Số lượng loài nuôi
Hạn chế rủi ro và tác động đến môi trường.
8
Các hạng mục phục vụ cho nuôi tôm (ao xử lý, ao chứa nước,…)
Đảm bảo cho đúng quy trình nuôi tôm, tăng khả năng hạn chế tiêu cực đến môi trường và sự phát triển của tôm
9
Nguồn vốn sản xuất
Chủ động trong sản xuất
4.2.1.3. Nhóm chỉ thị môi trường và sinh thái (I.3)
Nhóm chỉ thị này cho phép ta thấy thực trạng môi trường đất, nước, không khí và hiện trạng các loại tài nguyên hiện nay của khu vực hoạt động nuôi tôm. Nhóm chỉ thị này gồm 8 chỉ thị mô tả các vấn đề về chất thải mức độ xử lý và quản lý chất thải, những tác động của hoạt động này lên khu vực nhạy cảm, việc sử dụng nguồn nước và tình hình dịch bệnh xảy ra.
Trong mô hình DPSIR, nhóm chỉ thị này có liên quan đến thực trạng môi trường. Nhóm chỉ thị này được xây dựng nhằm để đánh giá những tác động làm ảnh hưởng đến sự ổn định của môi trường.
Bảng 4.3: Các chỉ thị đặc trưng của nhóm chỉ thị môi trường và sinh thái
STT
Chỉ thị
Ý nghĩa
1
Mức độ xử lý nước thải trong quá trình nuôi
Tác động đến chất lượng nước xung quanh
Khả năng sử dụng và tái sử dụng nguồn nước
2
Cấm sử dụng các loại hóa chất
Đảm bảo chất lượng sản phẩm, nước thải ra môi trường
3
Nguồn giống và thức ăn được kiểm tra
Bảo đảm những lây lan dịch bệnh, hàm lượng cho ăn đúng giúp cho loài được phát triển tốt
4
Hộ nuôi nằm trong khu vực nhạy cảm (rừng ngập mặn, đất ngập nước…)
Xâm hại đến các vùng cần được bảo vệ, vùng có giá trị về mặt sinh học, lịch sử, khảo cổ,...
5
Cải tạo môi trường sau mỗi vụ nuôi
Duy trì tính ổn định sinh thái của vùng nuôi
Khả năng duy trì cơ sở hạ tầng
6
Nguồn nước sử dụng
Sử dụng tài nguyên và khả năng gây tác động
7
Dịch bệnh và mức độ xử lý các dịch bệnh
Khả năng hạn chế lan truyền, dịch bệnh của hộ nuôi
8
Áp dụng các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh
Cảnh báo sớm các rủi ro đối với vùng nuôi
4.3.1.4. Nhóm chỉ thị kinh tế và xã hội (I.4)
Nhóm chỉ thị này được xây dựng bao gồm 4 chỉ thị, đề cập đến các vấn đề sau: hoạt động nuôi tôm muốn được tồn tại và phát triển tốt thì nó phải mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương không chỉ hiện tại mà còn cả tương lai.
Có như vậy, nó mới được sự chấp nhận của xã hội bằng cách tạo ra công ăn việc làm cho người dân địa phương, tăng thu nhập cho mỗi gia đình, góp phần cải thiện cuộc sống cho người dân.
Ngoài ra, để hoạt động này PTBV thì cần hạn chế những xung đột tranh chấp xảy ra giữa các bên liên quan, góp phần tăng ngân sách cho nhà nước. Trong mô hình DPSIR, nhóm này thuộc nhóm động lực-tác động.
Bảng 4.4: Các chỉ thị đặc trưng của nhóm chỉ thị kinh tế xã hội
STT
Chỉ thị
Ý nghĩa
1
Tạo công việc cho người dân địa phương
Nâng cao mức sống cho người dân địa phương
2
Lợi nhuận của hộ nuôi hàng năm
Xem xét tính hiệu quả, quyết định khả năng gắn bó với nghề nuôi
3
Hoạt động nuôi trồng có ảnh hưởng đến các hoạt động khác trong vùng
Mối liên quan giữa NTTS với các ngành khác
4
Tình trạng kinh tế của hộ nuôi
Nhằm để xem xét tính hiệu quả về kinh tế của hoạt động nuôi tôm
4.3.2 Xây dựng các thang điểm đánh giá
4.3.2.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng thang điểm
Khi xây dựng thang điểm cần phải dựa vào những vấn đề ưu tiên của toàn bộ hệ thống nuôi tôm của hộ nuôi để xây dựng những thang điểm cho phù hợp như:
Những vấn đề liên quan đến quy hoạch vùng ven bờ, quy hoạch NTTS
Những quy định về LP-TC trong việc nuôi trồng
Những tác động đến môi trường (ô nhiễm, suy thoái môi trường,…), kinh tế (việc làm, thu nhập,…), xã hội (tranh chấp quyền lợi, xung đột…)
Việc xây dựng thang điểm đánh giá có thể được biểu diễn qua hình 3.4
Điểm bình quân của các nhóm chỉ thị (SCI)
Điểm của 4 nhóm chỉ thị
Điểm của 26 chỉ thị
Điểm và trọng số
của từng chỉ thị
Hình 4.4: Sơ đồ xây dựng thang điểm đánh giá SCI
4.3.2.2. Nguyên tắc lượng hóa giá trị của mỗi chỉ thị thứ cấp
Các chỉ thị được tiến hành cho điểm theo mức độ lượng hóa thông tin theo chiều từ thấp đến cao. Điểm số của mỗi chỉ thị có giá trị từ 1 đến 3 theo chiều hướng tăng dần của các tác động tiêu cực.
Khi các thông tin thu thập trải đều và được lượng hóa theo mức độ thì chỉ thị có thang điểm tăng dần từ 1- 3.
Đối với các chỉ thị được lượng hóa dựa vào thông tin “có hay không” thì điểm số được tính là 1 hoặc 3. Điểm 1 tác động ít nhất và điểm 3 tác động lớn nhất. Trong một số trường hợp, thông tin chỉ một phần, điểm được tính từ 1 đến 3.
4.3.2.3. Xác định trọng số của các chỉ thị đặc trưng
Với 26 chỉ thị được chọn, dựa vào mức độ quan trọng của chúng, chúng tôi xác định được 7 chỉ thị có trọng số là 3, 4 chỉ thị có trọng số là 2, các chỉ thị còn lại 15 chỉ thị có trọng số là 1.
Trong nhóm chỉ thị LP-TC, vấn đề quy hoạch cần phải đặt lên hàng đầu, vì nếu vùng nuôi tôm nằm trong vùng quy hoạch thì được sự kiểm soát chặt chẽ, hạn chế dịch bệnh và những tác động đến môi trường và tài nguyên.
Đối với nhóm chỉ thị QMHN, hình thức và quy trình nuôi là các chỉ thị quyết định đến các tác động tiêu cực đối với môi trường. Mỗi hình thức nuôi được thực hiện nghiêm ngặt các quy định đã đề ra, dù nó có diện tích rộng lớn thì ảnh hưởng của nó cũng sẽ ít hơn so với các hình thức với quy mô nhỏ, không tuân thủ các yêu cầu đề ra thì tác hại của nó sẽ rất lớn.
Trong các chỉ thị về MT-ST, việc sử dụng nước và xử lý nước, phòng chống và xử lý dịch bệnh là rất quan trọng. Đây chính là nguồn gốc làm suy thoái môi trường, ảnh hưởng đến đa dang sinh học, các hệ sinh thái, cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân địa phương.
Về chỉ thị KT-XH, lợi nhuận được coi là nhân tố hàng đầu trong toàn bộ quá trình sản xuất. Bởi vì, một ngành nghề nào phát triển được thì đảm bảo mang lại thu nhập cho người dân, xóa đói giảm nghèo, đưa đời sống xã hội người dân đi lên.
Trên cơ sở xác định tầm quan trọng của mỗi chỉ thị thứ cấp, chúng tôi tiến hành xác định giá trị của các tham số thứ cấp ở mục 4.2.3
4.3.3. Xác định điểm và trọng số cho từng chỉ thị trong mỗi nhóm chỉ thị
4.3.3.1. Giá trị của các chỉ thị về LP-TC
Các giá trị chỉ thị của nhóm chỉ thị I.1 được thể hiện ở Bảng 4.5
Bảng 4.5: Bảng giá trị của các chỉ thị thuộc nhóm chỉ thị LP-TC
STT
Chỉ thị
Điểm
TP
Trọng
số
Cơ sở dữ liệu thu thập
1
Hộ nuôi có nằm trong vùng quy hoạch hay tự phát
- Quy hoạch
- Tự phát
1
3
2
Quy hoạch tổng thể vùng, ngành
2
Việc thực hiện ĐTM và bản đăng kí đạt TCMT
- Có
- Không
1
3
1
Quyết định, thẩm định báo cáo ĐTM , bản đăng ký đạt TCMT
3
Quy định về việc sử dụng, cấm sử dụng các hóa chất độc hại và kháng sinh trong nuôi tôm.
- Có
- Một phần
- Không
1
2
3
2
Kiểm tra văn bản về các quyết định, quy định sử dụng, cấm sử dụng của hộ nuôi.
4
Quy định về việc kiểm tra nguồn giống và thức ăn trước khi đưa vào sử dụng
- Có
- Một phần
- Không
1
2
3
1
Kiểm tra văn bản về quy định kiểm tra về nguồn giống và nguồn thức ăn của hộ nuôi
5
Quy định về xử lý môi trường, dịch bệnh
- Có
- Một phần
- Không
1
2
3
1
Kiểm tra các văn bản quy định về việc xử lý môi trường và dịch bệnh của hộ nuôi
4.3.3.2. Giá trị của các chỉ thị về QMHN:
Các giá trị chỉ thị của nhóm chỉ thị I.2 được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 4.6: Bảng giá trị của các chỉ thị thuộc nhóm chỉ thị QMHN
STT
Chỉ thị
Điểm
thành
phần
Trọng
số
Cơ sở dữ liệu thu thập
6
Hình thức nuôi
- Thâm canh
- Bán thâm canh
- Quảng canh cải tiến
1
2
3
3
Dựa vào các hình thức đang nuôi của địa phương
7
Diện tích ao nuôi
+ < 1.000 m2
+ 1.000 – 4.000 m2
+ > 4.000 m2
1
2
3
1
Giấy phép hoạt động, quy trình nuôi
8
Quyền sử dụng về đất đai
- Chủ sử dụng
- Thuê
+ Thời gian dài
+ Thời gian ngắn
1
2
3
1
Giấy phép hoạt động
9
Ao nuôi có xây dựng đúng theo quy trình kĩ thuật
- Có
- Một phần
- Không
1
2
3
3
Dựa vào diện tích ao nuôi, ao chứa nước, ao xử lý
10
Nguồn giống nuôi
- Tự nhiên
- Từ các trại giống khác
- Nhập nội
1
2
3
1
Phiếu xét nghiệm giống, nguồn giống
11
Mật độ thả nuôi
- Đúng quy định: 10-15con/m2
- Vượt quá quy định
+ < 40%
+ 41 –100%
1
2
3
1
Số lượng nuôi so với quy định về mật độ nuôi của mỗi hình thức
12
Số lượng loài nuôi
- Nhiều loài
- Hai loài
- Một loài (tôm)
1
2
3
1
Số loài trong một ao nuôi
13
Các hạng mục phục vụ (ao xử lý nước, ao chứa nước, quạt nước,…)
- Đầy đủ
- Một phần
- Không có
1
2
3
2
Dựa vào quy trình nuôi
14
Nguồn vốn sản xuất
- Vốn tự có
-Vốn vay + vốn tự có
- Vốn vay ngân hàng
1
2
3
1
Dựa vào số liệu điều tra, và từ chính quyền địa phương
4.3.3.3. Giá trị của các chỉ thị thuộc về chỉ thị MT - ST
Các giá trị chỉ thị của nhóm chỉ thị I3 được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 4.7: Bảng giá trị của các chỉ thị thuộc nhóm chỉ thị MT-ST
STT
Chỉ thị
Điểm
thành
phần
Trọng
số
Cơ sở dữ liệu thu thập
15
Mức độ xử lý nước trong quá trình nuôi đạt
- Loại A (tốt)
- Loại B (trung bình)
- Loại C (ít xử lý)
1
2
3
3
Dựa vào số liệu đo đạc , báo cáo hiện trạng môi trường, tiêu chuẩn môi trường
16
Cấm sử dụng các loại hóa chất
- Có quy định và tuân thủ không sử dụng
- Có sử dụng một phần
- Không quy định
1
2
3
2
Kiểm tra các loại hóa chất mà hộ nuôi sử dụng
17
Nguồn giống và thức ăn, hóa chất được kiểm tra
- Thường xuyên
- Ít kiểm tra
- Không kiểm tra
1
2
3
1
Phiếu kiểm nghiệm nguồn giống, thức ăn
18
Hộ nuôi có nằm trong khu vực nhạy cảm (đất ngập nước)
- Không
- Sát
- Trong
1
2
3
1
Quy hoạch của vùng, ngành và vị trí địa lý của nơi nghiên cứu
19
Cải tạo môi trường sau môi vụ nuôi
- Hoàn toàn
- Có một phần
- Không cải tạo
1
2
3
3
Kiểm tra các thông số
về môi trường, biện pháp sử dụng cải tạo
20
Nguồn nước sử dụng để nuôi tôm
- Nước mặt
- Nước mặt và nước ngầm
- Nước ngầm
1
3
4
3
Điều tra thực địa
21
Dịch bệnh và xử lý dịch bệnh
- Không có dịch bệnh
- Có dịch xử lý một phần
- Không xử lý
1
2
3
3
Báo cáo tình hình dịch bệnh trong thời gian qua
22
Áp dụng các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh
- Có và tuân thủ
- Có và tuân thủ một phần
- Không có
1
2
3
1
Dựa vào báo cáo tổng kết và kế hoạch cho mỗi năm sau
4.3.3.4. Giá trị của các chỉ thị thuộc chỉ thị KT – XH
Các giá trị chỉ thị của nhóm chỉ thị I4 được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 4.8: Bảng giá trị của các chỉ thị thuộc nhóm chỉ thị KT-XH
STT
Chỉ thị
Điểm
TP
Trọng
số
Cơ sở dữ liệu thu thập
23
Tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương
- Hoàn toàn
- Một phần:
- Không tạo
1
2
3
1
Số lượng lao động tại vùng nuôi
24
Lợi nhuận của việc nuôi tôm
- Tăng lên
- Hoàn vốn
- Lổ vốn
1
2
3
3
Doanh thu hàng năm
25
Hoạt động nuôi có ảnh hưởng đến các hoạt động khác
- Không
- Có
1
2
1
Báo cáo hiện trạng môi trường và các khiếu nại của dân chúng
26
Tình trạng kinh tế của hộ nuôi
- Giàu
- Tạm
- Khó khăn
1
2
3
1
Mức sống của mỗi hộ dân
Số liệu từ chính quyền địa phương
4.3.4. Xác định các cấp độ bền vững của các hình thức nuôi dựa vào chỉ số SCI
Chỉ số này nhằm giúp cho những nhà quản lý và những người dân có thể đánh giá, chọn lựa hình thức nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên, KT-XH của địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng vẫn đảm bảo được bền vững trong môi trường, đời sống nhân dân được nâng cao, bảo đảm trật tự an ninh xã hội.
Dựa vào CSKH và CSTT để xây dựng Bộ chỉ thị trong NTTS, dựa vào việc xác định các chỉ thị và trọng số của nó, dựa vào ý kiến các nhà chuyên môn và dựa vào số liệu điều tra được, chúng tôi xác định được mức độ các hình thức nuôi tôm bền vững dựa vào chỉ số SCI. Chỉ số này dao động từ 1 đến 3, chia thành 4 cấp độ.
Bảng 4.9: Các cấp độ bền vững của các hình thức nuôi tôm ở xã Quảng Công
Giá trị SCI
Cấp độ các hình thức nuôi
Diễn giải
1,00 - 1,35
Hình thức nuôi bền vững
Đây là hình thức nuôi bền vững, có khả năng đáp ứng những yêu cầu.
1,36 - 1,60
Hình thức nuôi khá bền vững
Hình thức nuôi này khá an toàn có thể chấp nhận những tác động xảy ra
1,61 – 1,85
Hình thức nuôi kém bền vững
Hình thức này gây ra tác động lớn, cần phải xem xét tính an toàn
1,86 – 2,30
Hình thức nuôi không bền vững
Hình thức này không an toàn, không bền vững
Khi hình thức nuôi có giá trị nằm trong giới hạn từ 1,00 đến 1,35 nghĩa là hình thức nuôi này bền vững, đảm bảo những vấn đề về môi trường, KT-XH.
Khi hình thức nuôi có giá trị nằm trong giới hạn từ 1,36 đến 1,85 là hình thức bắt đầu có dấu hiệu của sự tác động nhưng những tác động đó có thể bỏ qua và chấp nhận được.
Khi hình thức nuôi có giá trị nằm trong khoảng từ 1,61 đến 1,85 có nghĩa là hình thức này đã và đang gây ra những ra những tác động nghiêm trọng cho môi trường như suy thoái môi trường, ô nhiễm các nguồn nước, đất,… và gây ra dịch bệnh, hiệu quả kinh tế mang lại thấp, ảnh hưởng đến đời sống xã hội.
Còn khi hình thức nuôi có giá trị nằm trong khoảng từ 1,86 đến 2,30 là hình thức không bền vững không đáp ứng được những yêu cầu cần thiết, tác động không thể chấp nhận được, cần phải có sự can thiệp của những bên liên quan.
4.4. Đánh giá các hình thức nuôi tôm dựa theo các chỉ thị
Để đánh giá các hình thức nuôi xem nó bền vững hay không, chúng tôi đã xác định quy trình đánh giá gồm 4 bước:
4.4.1. Điều tra thu thập thông tin số liệu theo phiếu điều tra (Bước 1)
Điều tra thu thập số liệu theo phiếu điều tra để có những thông tin cần thiết cho việc đánh giá. Đây là bước quan trọng, bởi vì ta cần thông tin chính xác, giúp cho sự đánh giá được khách quan. Bước này, chúng tôi tiến hành điều tra ở 20 hộ nuôi thuộc các thôn:1, 2,4. Trong đó, 6 hộ nuôi TC, 9 hộ nuôi BTC, 5 hộ nuôi QCCT.
4.4.2. Cho điểm từng loại chỉ thị (Bước 2)
Sau khi có những thông tin cần thiết cho việc xây dựng chỉ thị, ta xác định điểm cho từng chỉ thị thông qua các giá trị đo đạc được từ phiếu điều tra.
4.4.3. Tính điểm mỗi nhóm chỉ thị, tính SCI (Bước 3)
Tính điểm cho từng chỉ thị bằng số điểm nhân với trọng số của nó. Sau đó, tính tổng điểm của mỗi nhóm chỉ thị và tính SCI được tính theo công thức dưới. Điểm của tất cả chỉ thị sau khi được nhân với trọng số sau đó chia cho 44 (15 chỉ thị có trọng số 1 = 15 + 4 chỉ số có trọng số 2 = 4 + 7 chỉ thị có trọng số 3 = 21)
Công thức tính toán để xác định các hình thức nuôi bền vững
Chỉ số SCI = (´wi)/44 = (I1 + I2 + I3 + I4 )/44
Trong đó: Chỉ số SCI: chỉ số nuôi tôm
I: chỉ thị đặc trưng của từng nhóm chỉ thị
w: trọng số của từng chỉ thị
i: số nhóm chỉ thị 1, 2, 3, 4.
Giá trị SCI càng nhỏ thì hình thức đó càng bền vững
4.4.4. Đánh giá các hình thức nuôi (Bước 4)
Dựa vào giá trị của SCI có được ở các hộ nuôi, ta tiến hành đánh giá xem hình thức nuôi nào bền vững và cho kết quả tốt.
4.5. Đánh giá các hình thức nuôi
4.5.1. Kết quả thu được
Trên cơ sở các số liệu thu thập từ các phiếu điều tra ở 20 hộ nuôi tôm ở 3 thôn 1, thôn 2 và thôn 4 chúng tôi thu được kết quả bước đầu về giá trị SCI đối với các hình thức nuôi. ( Xem phụ lục B)
Nhận xét:
Các hộ nuôi được điều tra ở xã Quảng Công có giá trị SCI nằm ở mức từ không bền vững đến bền vững, nhưng phần lớn là bền vững và khá bền vững,, có 4 hộ nuôi cho kết quả không bền vững, 1 hộ kém bền vững tập trung chủ yếu vào hình thức QCCT, cao nhất là hộ 4 với điểm SCI là 2,26.
4.5.2. Đánh giá tính bền vững và xu thế môi trường đối với các hình thức nuôi
4.5.2.1. Đánh giá tính bền vững của các hình thức nuôi
Nhằm thấy rõ tính bền vững của các hình thức nuôi, chúng tôi tiến hành so sánh khả năng bền vững của các hình thức nuôi, thể hiện ở bảng dưới:
Bảng 4.10: Giá trị trung bình của SCI và các nhóm chỉ thị mỗi hình thức nuôi
Nhóm chỉ thị
Hình thức nuôi
Quảng canh cải tiến
Bán thâm canh
Thâm canh
Pháp luật thể chế
2,34
1,11
1,16
Qui mô hộ nuôi
2,21
1,63
1,49
Sinh thái môi trường
1,68
1,42
1,31
Kinh tế xã hội
1,80
1,53
1,59
SCI
2,03
1,44
1,39
a. Đối với hình thức nuôi QCCT
Giá trị trung bình SCI là 2,03. Cao nhất là nhóm chỉ thị nhóm PL-TC là 2,34; nhóm QMHN là 2,31; đến nhóm KT-XH là 1,80; thấp nhất là nhóm MT- ST là 1,68.
Điều này có nghĩa là trong hình thức này các vấn đề về PL-TC và vấn đề QMHN là những vấn đề quan trọng cần chú ý trong quá trình nuôi tôm.
Ngoài ra, vấn đề về kinh tế cũng đáng quan tâm và việc nuôi tôm theo hình thức này gây cản trở dòng chảy dẫn đến tuần hoàn nước kém nên nguy cơ ô nhiễm nước trên diện rộng là rất lớn vì do sử dụng diện tích nuôi rộng.
Để thấy rõ sự biến động giá trị SCI và các nhóm chỉ thị, ta xem xét bảng sau:
Bảng 4.11: Sự biến động về giá trị SCI và các nhóm chỉ thị của hình thức QCCT
Giá trị
Điểm các nhóm chỉ thị
Giá trị SCI
PL-TC
QMHN
MT-ST
KT-XH
Cao nhất
2,86
2,50
1,88
2,67
2,26
Thấp nhất
1,57
2,07
1,59
1,33
1,81
Trung bình
2,34
2,31
1,68
1,80
2,03
Các hộ nuôi được điều tra có giá trị SCI dao động từ 1,81 đến 2,26, có sự dao động lớn về giá trị SCI. Hộ nuôi có giá trị SCI lớn nhất là 2,26 cũng là hộ nuôi có giá trị cao trong các hộ điều tra; các giá trị của các nhóm chỉ thị có sự biến động lớn và dẫn đến giá trị kém bền vững.
Giá trị nhóm LP-TC có sự biến động lớn từ 1,57 đến 2,86. Như vậy, giữa các hộ nuôi có sự khác biệt trong việc tuân thủ pháp luật.
Qua hình cho thấy giá trị của nhóm chỉ QMHN khá cao và sự chênh lệch ít dao động từ 2,07 đến 2,50.
Nhóm MT-ST có giá trị biến động không lớn từ 1,59 đến 1,88, các hộ nuôi có nhận thức tương đương nhau trong việc xử lý và BVMT vùng nuôi.
Nhóm KT-XH thấp nhất trong các nhóm chỉ thị, các hộ có điểm giá trị tương đương nhau, cao nhất là 2.67 và thấp nhất là 1,33 cho thấy hình thức nuôi trông này hiệu quả kinh tế khá chênh lệch.
b. Đối với hình thức nuôi BTC
Giá trị trung bình SCI của các hộ nuôi là 1,44. Giữa chúng có sự khác biệt không lớn. Nhóm có chỉ số lớn nhất là nhóm QMHN với giá trị trung bình là 1,63 và thấp nhất là nhóm LP-TC là 1,17. Biến thiên giữa các hộ không đáng kể.
Bảng 4.12: Sự biến động về giá trị SCI và các nhóm chỉ thị của hình thức nuôi BTC
Giá trị
Điểm các nhóm chỉ thị
Giá trị SCI
LP-TC
QMHN
MT-ST
KT-XH
Cao nhất
1,43
1,86
1,59
1,83
1,54
Thấp nhất
1,00
1,50
1,35
1,33
1,33
Trung bình
1,17
1,63
1,42
1,53
1,44
Hộ nuôi có giá trị SCI thấp nhất trong hình thức này cũng là hộ nuôi có giá trị thấp nhất trong các hộ nuôi được điều tra. Hầu hết, các hộ nuôi đều nằm trong mức khá bền vững. Qua Bảng và Hình, ta thấy:
Nhóm chỉ thị LP-TC có giá trị SCI từ 1,00-1,43; biến thiên giữa các hộ nuôi là không lớn. Điều này có sự khác biệt trong việc thực hiện các quy định về quy hoạch, yêu cầu ĐGTĐMT, yêu cầu về giấy phép sản xuất cũng như xử lý môi trường, dịch bệnh là rất lớn, tùy thuộc vào nhận thức của mỗi chủ hộ nuôi.
Nhóm chỉ thị QMHN có giá trị SCI dao động từ 1,50 đến 1,86. Các hộ nuôi theo hình thức này có giá trị SCI mức trung bình thấy được cấp độ khá bền vững của các hình thức nuôi. Những vấn đề về quy trình kỹ thuật, kiểm tra con giống, thức ăn được các hộ nuôi thực hiện nghiêm túc.
Nhóm chỉ thị về MT-ST có giá trị trung bình là 1,42; dao động từ 1,35 đến 1,59. Sự dao động này không lớn và các chỉ số này tương đối cao và đang tiến tới sự bền vững.
Nhóm chỉ thị KT-XH có giá trị TB tương đối thấp là 1,53, dao động từ 1,33-1,83.
Do vậy, để hình thức này mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trong quá trình nuôi cần chú ý đến vấn đề QMHN nhiều hơn.
c. Đối với hình thức nuôi TC
Chỉ số SCI có giá trị trung bình là 1,39. Các giá trị trung bình của các nhóm chỉ thị là tương đối thấp, chứng tỏ các hộ nuôi có sự tuân thủ rất nghiêm minh các quy định ban hành. Hình thức này có thể tiến đến sự bền vững trong tương lai nếu chúng ta quan tâm hơn các vấn đề về KT-XH hay nói cách khác là giảm những áp lực đến xã hội do hình thức này gây ra. Xem xét sự biến động về giá trị SCI và các nhóm chỉ thị qua bảng sau:
Bảng 4.13: Sự biến động về giá trị SCI và các nhóm chỉ thị của hình thức nuôi TC
Giá trị
Điểm các nhóm chỉ thị
Giá trị SCI
LP-TC
QMHN
MT-ST
KT-XH
Cao nhất
1,29
1,86
1,53
2,50
1,58
Thấp nhất
1,00
1,36
1,18
1,33
1,25
Trung bình
1,16
1,49
1,31
1,59
1,s39
Sự dao động chỉ số SCI từ 1,25 đến 1.58. Vì vậy, các hộ nuôi đều đạt mức khá bền vững trở lên, đây là hình thức này mang lại kết quả tốt nhưng những yêu cầu của nó rất lớn nên khó thực hiện.
Trong các nhóm chỉ thị, nhóm chỉ thị LP-TC có giá trị trung bình là 1,16 và mức dao động khá lớn từ 1,00-1,29.
Nhóm QMHN giá trị SCI dao động từ 1,36 đến 1,86; nhóm MT-ST có sự dao động từ 1,18 đến 1,53. Nhìn chung, sự dao động này vẫn thấp hơn hai hình thức kia.
Nhóm KT-XH có giá trị SCI trung bình là 1,59; dao động từ 1,33-2,50; sự dao động này lớn.
Đánh giá:
Qua 3 hình thức nuôi trên cho thấy hình thức nuôi TC có giá trị SCI thấp nhất 1,39 và mang tính bền vững cao hơn.
Hình thức nuôi BTC chỉ số SCI tuy cao hơn nhưng không đáng kể 1,44. mặc chỉ số SCI có cao hơn nhưng hình thức này là phổ biến nhất và được áp dụng nhiều nhất cũng như phù hợp với địa phương.
Hình thức nuôi QCCT hiệu quả kinh tế cao tuy nhiên rủi ro khá lớn, ảnh hưởng mạnh đến môi trường nên tính khả thi để áp dụng là không cao.
4.5.2.2 Xu thế môi trường tại xã Quảng Công đối với các hình thức nuôi
* Chất lượng môi trường nước:
Hầu hết, hộ nuôi đều sử dụng nguồn nước mặt, đáng quan tâm là hình thức nuôi tôm QCCT là hình thức sử dụng diện tích mặt nước đầm phá trực tiếp rất lớn. Vì vậy, thời gian tới có thể xảy ra những vấn đề ô nhiễm môi trường nước do các vi sinh gây bệnh, chất dinh dưỡng trong thức ăn, các loại hóa chất sử dụng (mỗi khi dịch bệnh xảy ra, hàng tấn hóa chất và vôi dùng xử lý có chứa hàm lượng mangan hidroxit cao) tại các ao nuôi của hộ nuôi cũng như nguồn nước mặt xung quanh.
Việc mở rộng DT đồng nghĩa với việc sử dụng các hóa chất, thức ăn ngày càng nhiều làm cho nước thải ra càng có nguy cơ gây ô nhiễm. Các hệ thống cấp nước và thoát nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là các kênh mương chứa nước thải nếu không đảm bảo các vấn đề về kĩ thuật tốt thì điều đầu tiên sẽ gây cho môi trường nước, đất xung quanh và có thể thấm xuống nước ngầm. Quan trọng hơn trong những trường hợp nước thải ra bị bệnh chưa xử lý triệt để rồi thải trực tiếp ra đầm phá ảnh hưởng đến nước dùng cho sinh hoạt, trồng lúa (do nước bị nhiễm mặn), giảm sự đa dạng sinh học loài sinh vật thủy sinh đầm phá và đó là nơi tạo điều kiện cho việc lây truyền dịch bệnh.
* Chất lượng môi trường không khí
Nhìn chung chất lượng vẫn tốt, quy mô DT nuôi không lớn, do vậy ảnh hưởng của việc nuôi tôm đến chất lượng không khí không nhiều, chủ yếu là mùi do sau khi thu hoạch các chất đáy ao có mùi thối chưa xử lý kịp thời.
* Chất thải rắn
Chất thải rắn có chủ yếu từ việc nuôi theo hình thức TC và BTC. Trong quá trình nuôi và thu hoạch tôm, các phế thải từ việc nuôi như bao bì, chai lọ vật dụng cộng với lượng rác thải sinh hoạt của hộ nuôi làm gia tăng lượng rác thải. Khối lượng rác thải từ chất bùn đáy ao là rất lớn. Theo thống kê của Viện nghiên cứu NTTS III cho biết, trung bình mỗi ha nuôi tôm BTC ở miền Trung, mỗi năm thải ra từ 1-2,5 tạ vôi và các hóa chất xử lý. Đây là con số không nhỏ nếu tính đến hết năm 2010.
Do người dân chưa có biện pháp thu gom và xử lý các chất thải mà chủ yếu là thải bỏ tự nhiên hoặc thu gom rồi chôn lấp, đặc biệt là các chất bùn đáy chứa đầy vi sinh vật gây bệnh, khi ngấm xuống nước ngầm có thể gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Ngoài ra, đối với hình thức nuôi QCCT, lượng bùn đáy có được là do thức ăn dư thừa tương đối lớn và khó thu gom nên khả năng ảnh hưởng đến môi trường nước là rất lớn.
4.5.3 Đề xuất biện pháp bảo vệ và quản lý việc phát triển nghề nuôi tôm ở xã Quảng Công
4.5.3.1 Quy hoạch phát triển NTTS
Đây là vấn đề hàng đầu quyết định đến sự phát triển nghề NTTS nói chung và nuôi tôm nói riêng của các hộ nuôi xã Quảng Công. Khi một hộ nuôi được nằm trong quy hoạch thì sẽ có được nhiều thuận lợi cho việc phát triển nuôi tôm. Muốn quá trình quy hoạch được thực hiện tốt cần chú đến các vấn đề sau:
a. Quy hoạch về diện tích nuôi tôm
Các hộ nuôi nằm trong quy hoạch, cần bố trí diện tích hợp lý cho từng hộ nuôi, hạn chế những ảnh hưởng đến môi trường xung quanh (tránh xâm nhập lây lan lúc có dịch bệnh xảy ra).
b. Quy hoạch cơ sở hạ tầng
Các hệ thống phục vụ cho nuôi tôm: kênh mương, đê điều, ao chứa nước, ao xử lý nước,… phải được thiết kế hợp lý để lấy nguồn nước sạch, đảm bảo chất lượng không ảnh hưởng đến các hộ nuôi khác và các khu vực xung quanh (trồng lúa, công nghiệp, nước cho sinh hoạt,…)
c. Quy hoạch phương thức, đối tượng nuôi và mùa vụ nuôi tôm
Là nội dung quan trọng trong quy hoạch phát triển nuôi tôm nhằm phát huy được tiềm năng của vùng quy hoạch, đảm bảo hiệu quả sản xuất và ổn định.
4.5.3.2 Quản lý và bảo tồn các nguồn lợi thủy sản và môi trường vùng đầm phá:
Để quản lý và bảo vệ tốt cần thực hiện các biện pháp sau:
* Vấn đề nước cấp và nước thải ra từ các hộ nuôi tôm phải theo Tiêu chuẩn Việt nam (TCVN), quy định của BTS: nước trước khi đưa vào và sau khi thải ra cần phải xử lý đạt TCVN. Hạn chế các nguồn nước bẩn có thể ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
* Các hóa chất và chế phẩm được sử dụng cần phải tuân theo các quy định của BTS. Các chất thải từ việc sử dụng các chất trên tiến hành thu gom và xử lý triệt để nhằm hạn chế ảnh hưởng đến môi trường nước đầm phá xung quanh và hệ sinh thái thủy sinh.
* Quản lý nguồn giống:
Việc sử dụng các nguồn giống phải tuân thủ các quy định của BTS: cần kiểm tra, kiểm định các nguồn giống trước khi thả vào nhằm hạn chế sự lây lan dịch bệnh cho các ao nuôi và các nguồn lợi thủy sản đầm phá. Ngoài ra, mật độ thả nuôi phải hợp lý, đúng quy định để không làm giảm lượng ôxi cung cấp.
* Quản lý thức ăn
Thức ăn đảm bảo đúng chất lượng, khối lượng cho ăn vừa phải và thành phần thức ăn giảm bớt hàm lượng chất dinh dưỡng để làm giảm bớt tiêu hao năng lượng, giảm bớt hiện tượng phú dưỡng và lây lan dịch bệnh cho tôm và các loài thủy sinh đầm phá. Hoặc ta có thể nuôi kết hợp với rong câu hay loài 2 mảnh vỏ có thể vừa tạo ra thức ăn và giảm hàm lượng chất dinh dưỡng.
* Các hộ nuôi phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh xảy ra. Khi có dịch bệnh xảy ra thông báo kịp thời cho các cơ quan chịu trách và kịp thời xử lý triệt để bằng các hóa chất theo quy định của BTS, không được thải nước ra ngoài, đặc biệt thải trực tiếp ra ngoài đầm phá.
4.5.3.3 Phối hợp quản lý liên ngành
Sự phát triển nghề nuôi tôm liên quan đến rất nhiều ngành như thủy lợi, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông,… Do vậy, để đảm bảo cho việc phát triển nuôi tôm thì các cấp chính quyền có liên quan, đặc biệt là ngành thủy sản cần phải liên kết chặt chẽ với các ngành khác nhằm tìm ra giải pháp cho việc phát triển nuôi tôm và khắc phục những ảnh hưởng của nghề nuôi tôm gây ra cho những ngành khác.
4.5.3.4 Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho những người nuôi tôm
Đây là việc làm quan trọng giúp cho những hộ nuôi tôm thấy được những lợi ích và tác hại của ngành nuôi tôm, từ đó tìm ra biện pháp phát triển lâu dài và bền vững.
PHẦN V
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Thông qua CSKH và CSTT trong NTTS và mô hình của FAO, chúng tôi đã xây dựng Bộ chỉ thị gồm 4 nhóm chỉ thị với 26 chỉ thị thứ cấp: nhóm chỉ thị LP-TC gồm 5 chỉ thị thứ cấp; nhóm chỉ thị QMHN gồm 9 chỉ thị thứ cấp; nhóm chỉ thị MT-ST gồm 8 chỉ thị thứ cấp; nhóm chỉ thị KT-XH gồm có 4 chỉ thị thứ cấp.
Tùy vào tầm quan trọng của mỗi chỉ thị mà có trọng số khác nhau, chúng tôi chọn 7 chỉ thị có trọng số là 3, 4 chỉ thị có trọng số là 2, còn lại 15 chỉ thị có trọng số là 1.
Giá trị SCI được phân chia thành 4 cấp:
+ Cấp bền vững (1,00 – 1,35);
+ Cấp khá bền vững (1,36 – 1,60);
+ Cấp kém bền vững (1,61 – 1,85);
+ Cấp không bền vững (1,86 – 2,30).
Hầu hết các hộ nuôi đạt mức khá bền vững trở lên. Mỗi hình thức nuôi có giá trị SCI biến động khác nhau, thấp nhất là TC (1,25-1,58), tiếp đến là BTC (1,33-1,54) và cuối cùng là QCCT (1,81-2,26)
Hình thức nuôi TC lại cho hiệu quả tốt hơn các hình thức khác ở xã Quảng Điền bởi vì nó phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hôi cũng như tiềm năng vốn có của vùng.
Hiện tại, chất lượng môi trường vẫn còn tốt nhưng trong tương lai nếu không thực hiện tốt các quy định thì song song với sự gia tăng diện tích, nó còn xảy ra những nguy cơ tác động rất lớn đến môi trường.
5.2 Kết luận
- Do hạn chế về thời gian và kinh phí, do vậy các chỉ thị được chọn cũng như các điểm số được sử dụng có thể còn nhiều thiếu sót, đề nghị cần đầu tư thêm thời gian và kinh phí để bổ sung hoàn thiện bộ chỉ thị.
- Có thể áp dụng Bộ chỉ thị đánh giá các hình thức nuôi tôm trên phạm vi một huyện, trên cơ sở đó có thể thành lập bản đồ phân loại các hộ nuôi có hình thức nuôi bền vững.
- Cần có sự quan tâm hỗ trợ của các cơ quan ban ngành liên quan về khoa học kỹ thuật và thiết bị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ KHCNMT-Cục Môi Trường,1997. Báo cáo về xây dựng Bộ phiếu chỉ thị môi trường, Hà Nội.
[2]. Chính phủ, 2005. Nghị định số 128/2005/NĐ-CP ngày 11/10/2005 của Thủ thướng Chính phủ Quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Mộng, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Bắc Giang, 2005. Nghiên cứu đánh giá các loại hình kinh tế trang trại ở khu vực duyên hải Miền Trung, thuộc đề tài cấp Nhà nước KC.08.30: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm đề xuất chính sách, giải pháp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế trang trại ở Việt Nam”, Khoa Môi trường, Đại học Khoa học Huế.
[4]. Phòng nông nghiệp huyện Quảng Điền, Số liệu báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2007.
[5]. Phòng nông nghiệp huyện Quảng Điền, Số liệu báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2008.
[6]. Phòng nông nghiệp huyện Quảng Điền, Số liệu báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2009.
[7]. Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, 2007. Tổng kết công tác nuôi trồng thủy sản năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2008.
[8]. Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, 2008. Tổng kết công tác nuôi trồng thủy sản năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2009.
[9]. Sở Thủy sản Thừa Thiên Huế, 2009. Tổng kết công tác nuôi trồng thủy sản năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2010.
[10]. UBND xã Quảng Công, 2007. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2007.
[11]. UBND xã Quảng Công, 2008. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2008.
[12]. UBND xã Quảng Công, 2009. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2009.
[13]. UBND huyện Quảng Điền, 2005. Báo cáo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 xã Quảng Công, huyện Quảng Điền.
Trang web:
[14].
[15].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_bao_cao_nckh_hoan_chinh_149.doc