Tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu Quỹ môi trường địa phương. Đề xuất hình thành Quỹ môi trường quốc gia: phần mở đầu
Môi trường với các chức năng là không gian sống, là nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào cho mọi quá trình sản xuất và là nơi chứa chất thải của mọi hoạt động sống trên Trái đất, có tầm quan trọng rất lớn đối với con người. Trong khoảng thời gian hàng nghìn năm, con người đã sống dựa vào môi trường thiên nhiên mà không nhận biết được rằng, đến một lúc nào đó, mọi nguồn tài nguyên đều có thể cạn kiệt và môi trường có thể bị phá huỷ. Cho đến khi con người nhận thức được điều đó, chất lượng của môi trường đã suy giảm nghiêm trọng. Các vấn đề môi trường không chỉ còn tồn tại ở một địa phương, một quốc gia hay một khu vực, mà với tính chất không biên giới, môi trường đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy, các quốc gia nói riêng và cả thế giới nói chung đang dành sự quan tâm lớn đối với vấn đề môi trường, kết hợp các nỗ lực chung để khôi phục và cải thiện chất lượng môi trường nhằm duy trì cuộc sống bền vững cho con người trên cả hành tinh.
Môi trường nước ta cũng khô...
69 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu Quỹ môi trường địa phương. Đề xuất hình thành Quỹ môi trường quốc gia, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần mở đầu
Môi trường với các chức năng là không gian sống, là nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào cho mọi quá trình sản xuất và là nơi chứa chất thải của mọi hoạt động sống trên Trái đất, có tầm quan trọng rất lớn đối với con người. Trong khoảng thời gian hàng nghìn năm, con người đã sống dựa vào môi trường thiên nhiên mà không nhận biết được rằng, đến một lúc nào đó, mọi nguồn tài nguyên đều có thể cạn kiệt và môi trường có thể bị phá huỷ. Cho đến khi con người nhận thức được điều đó, chất lượng của môi trường đã suy giảm nghiêm trọng. Các vấn đề môi trường không chỉ còn tồn tại ở một địa phương, một quốc gia hay một khu vực, mà với tính chất không biên giới, môi trường đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Vì vậy, các quốc gia nói riêng và cả thế giới nói chung đang dành sự quan tâm lớn đối với vấn đề môi trường, kết hợp các nỗ lực chung để khôi phục và cải thiện chất lượng môi trường nhằm duy trì cuộc sống bền vững cho con người trên cả hành tinh.
Môi trường nước ta cũng không nằm ngoài nguy cơ môi trường chung của cả thế giới. Bảo vệ môi trường nhằm mục đích phát triển bền vững đã trở thành quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu môi trường đã được lồng ghép trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống các công cụ quản lý môi trường cũng đã được nghiên cứu và sử dụng, tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ và chưa mang lại hiệu quả quản lý cao. Với mục đích nghiên cứu mô hình Quỹ môi trường địa phương, từ đó kiến nghị xây dựng mô hình Quỹ môi trường quốc gia - thể chế tài chính nhằm huy động nguồn vốn cho các mục đích môi trường, tôi đã quyết định chọn đề tài tốt nghiệp:
“Bước đầu nghiên cứu Quỹ môi trường địa phương. Đề xuất hình thành Quỹ môi trường quốc gia”.
Trong khuôn khổ nội dung và phạm vi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu của đề tài là:
Khái quát tình hình môi trường toàn cầu và Việt Nam;
Hệ thống hoá các công cụ quản lý môi trường. Đề cập đến công cụ kinh tế và chú trọng cơ chế tài chính Quỹ môi trường;
Nghiên cứu Quỹ môi trường Hà Nội;
Định hướng hình thành mô hình Quỹ môi trường ở Việt Nam.
Với mục tiêu như trên, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích và đưa ra những đề xuất.
nội dung
Chương i
môi trường và các công cụ quản lý môi trường
I. Môi trường và Phát triển bền vững
Môi trường
Khái niệm môi trường
Môi trường là một khái niệm có nội dung rất rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực. Cho đến nay, nhiều khái niệm về môi trường đã ra đời. Có thể nêu ra một số khái niệm phổ biến nhất:
Trong tuyên ngôn của UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là “Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người”.
Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 27/12/1993 định nghĩa môi trường như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”. (Điều 1 - Luật Bảo vệ Môi trường).
Khái niệm chung về môi trường trên đây được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu cụ thể. Đối với con người, môi trường sống là tổng hợp các điều kiện vật lý, hoá học, sinh học, xã hội bao quanh có ảnh hưởng tới sự sống, sự phát triển của từng cá nhân và cả cộng đồng.
1.2. Thực trạng môi trường
1.2.1. Thực trạng môi trường toàn cầu
Hiểm hoạ môi trường
Báo cáo “Tầm nhìn môi trường toàn cầu 2000” của UNEP đã đánh giá tính chất nghiêm trọng của các vấn đề môi trường mà cả thế giới đang phải đối mặt, đó là sự tiêu thụ không bền vững của con người ở tất cả các nước. Đặc biệt là ở các nước phát triển, quá trình phát triển của sự nghiệp BVMT không theo kịp tốc độ phát triển kinh tế xã hội; dân số tăng nhanh gây sức ép ngày càng nghiêm trọng lên môi trường; gia tăng tốc độ đô thị hoá và phát triển các đô thị khổng lồ; thay đổi khí hậu; khủng hoảng nước ngọt và các hậu quả của nó đối với an ninh lương thực, thực phẩm và môi trường; việc khai thác không bền vững làm suy giảm tài nguyên sinh vật, hạn hán và hoang mạc hoá; nạn phá rừng không kiểm soát được, nguy cơ rủi ro sức khoẻ... Những vấn đề trên là những hiểm hoạ môi trường đã và đang đe doạ con người, đòi hỏi có sự nỗ lực chung của tất cả các quốc gia nhằm hạn chế và ngăn chặn tác hại của chúng đối với đời sống con người.
Thay đổi khí hậu
Khí hậu Trái đất đã và đang thay đổi rất nhanh chóng. Trong thế kỷ qua, nhiệt độ Trái đất đã tăng lên từ 0,4 đến 0,80C. Biểu hiện là tình hình phân bố mưa thay đổi, mực nước biển đang dâng lên, các sông băng tan dần, băng ở Bắc Cực mỏng dần, tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan đang tăng lên ở một số khu vực.
Có nhiều nguyên nhân gây nên sự thay đổi của khí hậu Trái đất, nhưng nguyên nhân chính của hiện tượng này là việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch, đốt phá rừng để canh tác nông nghiệp,... làm tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển. Hầu hết các dự báo đều cho thấy nồng độ các khí nhà kính sẽ tăng lên đáng kể trong thế kỷ tới nếu không có các biện pháp hữu hiệu để giảm phát thải. Lượng phát thải CO2 đến cuối thế kỷ 21 có thể tăng tới 35 GTC/năm (Giga tấn cacbon) so với mức phát thải hiện nay là 6,3 GTC/năm. Với mức tăng như vậy, nồng độ CO2 trong khí quyển sẽ tăng từ 365 ppmv (phần triệu đơn vị thể tích) hiện nay lên khoảng 880 - 1000 ppmv vào năm 2100.
Báo cáo Panel quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC) tại Hội nghị Bộ trưởng môi trường các nước lần thứ 6, tháng 11 năm 2000 tại Malmo, Thụy Điển đã kết luận: dưới tác động của sự thay đổi khí hậu toàn cầu, sức khoẻ của con người, các hệ sinh thái của Trái Đất và các hệ thống kinh tế xã hội đều bị tổn hại, nghiêm trọng nhất là chất lượng của các môi trường thành phần nước, đất và tính đa dạng của các hệ sinh thái.
Suy thoái môi trường
Tuyên bố Malmo đã chỉ ra rằng mặc dù nhiều nỗ lực liên tục của cộng đồng quốc tế sau Hội nghị Stockholm có kết quả và đã đạt được một số tiến bộ nhưng môi trường và tài nguyên thiên nhiên của hành tinh chúng ta vẫn tiếp tục bị suy thoái ở mức độ báo động.
Nguyên nhân gây suy thoái môi trường toàn cầu gắn với các vấn đề kinh tế - xã hội như nạn nghèo khó còn quá phổ biến, sản xuất và tiêu thụ không bền vững, bất công trong phân phối của cải và gánh nặng nợ nần...
Như vậy, suy thoái môi trường ở tất cả các thành phần đang đe doạ sự phát triển bền vững của Trái Đất. Nguy cơ này đòi hỏi sự hợp tác và nỗ lực chung của tất cả các quốc gia trên thế giới trong bảo vệ môi trường, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người trên hành tinh.
Thực trạng môi trường Việt Nam
Thực trạng môi trường Việt Nam được phản ánh khá đầy đủ trong Báo cáo hiện trạng môi trường được tiến hành định kỳ hàng năm của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Theo đó, hầu hết các yếu tố tạo thành môi trường đều bị suy thoái và ô nhiễm ở các mức độ khác nhau từ không nghiêm trọng đến nghiêm trọng. Có thể khái quát một số mặt chính về hiện trạng môi trường Việt Nam như sau:
Thay đổi khí hậu
Thay đổi khí hậu thể hiện ở sự thay đổi nhiệt độ không khí và thay đổi lượng mưa. Trong 5 năm gần đây nhiệt độ không khí trung bình năm và nhiệt độ tối thấp trung bình năm tăng trên phạm vi cả nước. Lượng mưa trên cả nước cũng biến động và thay đổi đáng kể. Thay đổi khí hậu đã dẫn đến những hậu quả về thiên tai rất nặng nề trên cả nước. Hạn hán, lũ lụt, bão và áp thấp nhiệt đới xảy ra gây thiệt hại lớn về người và của trong cả nước, đặc biệt là ở miền Trung và miền Nam.
Ô nhiễm không khí
Công nghiệp hoá càng mạnh, đô thị hoá càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều hướng xấu càng lớn. Các áp lực gây ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu là các hoạt động phát triển công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và đun nấu của nhân dân.
Theo các kết quả quan trắc và Báo cáo hiện trạng môi trường của các tỉnh, thành phố, môi trường không khí nước ta đã bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau, đặc biệt là ở các đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng,... Môi trường không khí bị ô nhiễm bởi bụi, các khí SO2, NO2, CO, chì (Pb), ngoài ra còn bởi tiếng ồn trong giao thông, trong nhà xưởng…
Ô nhiễm môi trường nước
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Cho đến nay, nguồn nước mặt đang ở trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, nguồn nước ngầm bị suy giảm về chất lượng và cạn kiệt về số lượng. Hiện tượng xâm nhập mặn nước ngầm đã trở nên khá phổ biến ở các vùng ven biển Việt Nam như Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Tiền Giang, Bến Tre… Nguyên nhân của hiện tượng trên là nạn đốt phá và khai thác rừng bừa bãi làm giảm diện tích rừng che phủ, mất khả năng giữ nước của cây rừng, mất khả năng thẩm thấu của nước mưa; Việc khai thác các nguồn nước một cách quá mức và không đúng kỹ thuật dẫn đến hạ thấp mực nước và suy giảm chất lượng nước; Ngoài ra việc xả các chất thải, nước thải không qua xử lý đã gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng. Cũng cần kể đến vai trò quản lý còn yếu kém của các cơ quan Nhà nước.
Thoái hoá đất
Việt Nam có gần 25 triệu ha đất dốc (chiếm 76% diện tích đất tự nhiên), trong đó có hơn 12,5 triệu ha đất xấu và trên 50% diện tích đồng bằng là “đất có vấn đề”. Cụ thể là 0,82 triệu ha đất phèn, 0,54 triệu ha đất cát, 2,06 triệu ha đất xám bạc màu, 0,5 triệu ha đất xói mòn trơ sỏi đá, 0,24 triệu ha đất ngập mặn, 0,47 ha đất lầy úng, 8,5 triệu ha đất có tầng mặt mỏng ở vùng đồi núi. Các loại đất có nhiều hạn chế nói trên chiếm 14,13 triệu hay 42,8% đất tự nhiên cả nước.
Những quan trắc từ nhiều năm qua cho thấy: Thoái hoá đất đang diễn ra ở nhiều vùng đất rộng lớn, đặc biệt là vùng đồi núi. Mặn hoá, phèn hoá, lầy hoá trên quy mô diện tích hàng triệu ha vùng đồng bằng cũng là nguyên nhân chủ yếu làm giảm hoặc mất khả năng sản xuất của đất. Tại nhiều vùng, suy thoái đất còn kéo theo cả suy thoái về hệ thực vật, động vật và môi trường địa phương đồng thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người giảm xuống.
Đa dạng sinh học suy giảm
Trong những năm qua, suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam diễn ra với tốc độ đáng báo động. Các hệ sinh thái tự nhiên mà điển hình là hệ sinh thái rừng bị tác động xấu bởi quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Rừng nhiệt đới ở nước ta không còn nguyên vẹn nữa vì phần lớn các khu rừng này đã bị biến đổi do hoạt động sản xuất nông nghiệp và định cư của con người.
Số lượng loài và cá thể sinh vật giảm rõ rệt, số loài bị đe doạ và có nguy cơ tuyệt chủng ngày càng tăng. Một số loài sinh vật đã bị diệt vong. Một số loài chỉ còn rất ít về số lượng, có thể bị tuyệt chủng như: hổ, tê giác một sừng, bò xám, bò tót, hươu vàng, hươu xạ, hạc cổ trắng...
Tóm lại, thực trạng môi trường Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang ở trong tình trạng xấu và cần có nỗ lực chung rất lớn để cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường. Các quốc gia và thế giới đều nhận thấy sự cần thiết phải bảo vệ môi trường nhằm mang lại một cuộc sống có chất lượng hơn cho thế hệ con người hiện nay và giữ gìn chất lượng cuộc sống đó cho các thế hệ mai sau.
Phát triển bền vững
2.1. Khái niệm Phát triển bền vững
Trước khi nói đến thuật ngữ “Phát triển bền vững”, cần phải hiểu quá trình phát triển là gì. Có thể nói phát triển là quy luật chung của mọi thời đại, của tất cả các quốc gia. Thuật ngữ “Phát triển” đã được dùng trong các tài liệu khoa học và trong sinh hoạt hàng ngày đến mức quá quen thuộc. Trước hết, cần nhận thức rõ đối tượng, mục tiêu và động lực của sự phát triển. Con người vừa là đối tượng, vừa là động lực của phát triển. Vì thế, mục tiêu của sự phát triển là không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống vật chất, văn hoá, tinh thần của con người. Nói cách khác, Phát triển là tạo điều kiện cho con người sinh sống ở bất kỳ đâu trong một quốc gia hay trên cả hành tinh Trái đất đều được thoả mãn các nhu cầu sống, đều có mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ tốt mà không phải lao động quá cực nhọc, đều có trình độ học vấn cao, đều được hưởng những thành tựu về văn hoá và tinh thần, đều có đủ tài nguyên cho một cuộc sống sung túc, đều được sống trong một môi trường trong lành, đều được hưởng các quyền cơ bản của con người và được bảo đảm an ninh, an toàn, không có bạo lực.
Thông thường, tăng trưởng kinh tế được coi là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của sự phát triển nói chung. Khi kinh tế tăng trưởng, phát triển, người ta dễ dàng đạt được các tiêu chí phát triển khác của sự phát triển nói chung. Tuy nhiên, phát triển kinh tế không phải là mục đích tự thân và cũng không thể là vô hạn. Nó phải phục vụ, thúc đẩy để đạt được các mục tiêu chung của sự phát triển. Quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới đã diễn ra thật mạnh mẽ theo thời gian, nhưng cùng với sự tăng trưởng liên tục đó, chất lượng môi trường thiên nhiên ngày càng suy giảm. Khi các quốc gia nói riêng và cả thế giới nói chung nhận thấy những hậu quả nặng nề đối với môi trường của sự phát triển trong đó chỉ chú trọng vấn đề tăng trưởng kinh tế, những quan điểm phát triển trái ngược nhau ra đời. Đó là thuyết đình chỉ phát triển (tồn tại vào trước những năm 1970) với chủ trương bảo tồn thiên nhiên, con người không được can thiệp vào thiên nhiên để giữ gìn tài nguyên; Và Thuyết phát triển với bất cứ giá nào (tồn tại sau những năm 1970) với quan điểm: Con người muốn sống được thì phải ăn, phải khai thác triệt để từ thiên nhiên mọi nguồn tài nguyên và với bất kỳ giá nào cũng phải thống trị được thiên nhiên.
Với tầm nhìn tổng quát và cách tiếp cận toàn diện hơn, thuyết “Phát triển bền vững” ra đời. Khái niệm “Phát triển bền vững” lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1987 trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Uỷ ban Môi trường và Phát triển thuộc Ngân hàng thế giới (WCED). Theo đó: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những yêu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không gây tổn hại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Một hoạt động được coi là bền vững khi nó có thể được tiếp tục mãi mãi mà vẫn đạt được mục đích đã định. Thực hiện được một hoạt động bền vững ở hiện tại có nghĩa là không được làm phương hại đến hoạt động đó trong tương lai.
Với ý nghĩa không gây tổn hại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau, phát triển bền vững sử dụng tài nguyên thiên nhiên tái tạo được theo cách thức không làm giảm bớt hay suy kiệt các nguồn tài nguyên đó. Các tài nguyên không thể tái tạo được được sử dụng theo cách thức sao cho các thế hệ mai sau vẫn có thể dễ dàng khai thác chúng. Phát triển bền vững cũng đòi hỏi khai thác năng lượng không thể tái tạo với tốc độ đủ chậm để đảm bảo cho xã hội có thể chuyển dần sang sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo lại.
Trong những năm 90 của thế kỷ XX, khái niệm “phát triển bền vững” được sử dụng phổ biến, mặc dù không có được một định nghĩa thống nhất, song bao hàm những yêu cầu về sự phối hợp, lồng ghép ít nhất ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Ba mặt nói trên tác động và quy định lẫn nhau. Sự phát triển lâu dài và ổn định chỉ có thể đạt được dựa trên một sự cân bằng nhất định của ba mặt đó. Trong một thời kỳ cụ thể, người ta có thể đặt một mặt nào đó lên vị trí ưu tiên số một, song mức độ và thời hạn của sự ưu tiên đó là có giới hạn. Gần đây, người ta đã đưa ra thêm một tiêu chí của sự phát triển bền vững, đó là bền vững về công nghệ. Phát triển bền vững là đòi hỏi cải tiến công nghệ sạch mang lại hiệu quả cao hơn không những về kinh tế mà cả về môi trường.
Như vậy, phát triển bền vững là phát triển phải trên cơ sở duy trì và cải thiện môi trường. Đây là quan điểm tiếp cận hiện đại, toàn diện, phù hợp với mong muốn của cả loài người không chỉ được hiểu là yếu tố thời gian mà còn được hiểu là sự tiến bộ chung của toàn nhân loại.
Tiếp cận phát triển bền vững ở Việt Nam
Phát triển bền vững đã trở thành quan điểm phát triển chỉ đạo của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 cũng đã lồng ghép vấn đề môi trường vào chiến lược phát triển chung nhằm mục tiêu phát triển bền vững: “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
Cùng với quan điểm phát triển như vậy, Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững 1991 - 2001, Chiến lược quốc gia BVMT 2001 - 2010 đã được soạn thảo với sự tham gia rộng rãi của các tổ chức phi chính phủ, các đoàn thể xã hội và đại biểu các tầng lớp nhân dân. Theo đó, ba mục tiêu chính được xác định cho thời kỳ 10 năm tới là:
ã Ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm;
ã Bảo vệ, bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học;
ã Cải thiện chất lượng môi trường ở đô thị, các khu công nghiệp và nông thôn.
Các chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược môi trường đã được soạn thảo song song và có tính đến nhau. Mặc dù vậy, con số cộng giản đơn của hai chiến lược này chưa tạo thành một Chiến lược phát triển bền vững của đất nước theo đúng ý nghĩa là sự tổng hợp, lồng ghép và cân đối tất cả các mặt tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ môi trường.
Tháng 8 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Công văn số 3143/VPCP-QHQT ngày 1/8/2000) chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các cơ quan có liên quan xây dựng Chương trình nghị sự 21 về Phát triển Bền vững của Việt Nam (Agenda 21 của Việt Nam).
Mục tiêu và yêu cầu đối với Agenda 21 của Việt Nam là:
ã Agenda 21 phải thể hiện ý chí, tinh thần và tập hợp trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Toàn xã hội phải có trách nhiệm cùng xây dựng và cùng thực hiện các chương trình hành động của Agenda 21.
ã Phát triển bền vững phải trở thành quan điểm chiến lược chung để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và là căn cứ để các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm của đơn vị mình.
ã Với tư cách là một khung chiến lược, định hướng dài hạn cho phát triển bền vững, bên cạnh các quan điểm chung, Agenda 21 của Việt Nam phải bao gồm các phương hướng cụ thể cho từng lĩnh vực trọng điểm về kinh tế, xã hội, môi trường và phải nêu lên được những chương trình hành động cần ưu tiên cao nhất trong các kỳ kế hoạch của Nhà nước, của các bộ, ngành và địa phương.
Theo ý nghĩa đó, Agenda 21 của Việt Nam sẽ là sự rà soát và tổng hợp các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và môi trường hiện có dưới lăng kính của quan điểm phát triển bền vững. Agenda 21 sẽ nhấn mạnh những vấn đề cần được ưu tiên; đề xuất một số chương trình hành động cụ thể, có tác dụng kích thích việc chuyển đổi sự phát triển sang con đường của phát triển bền vững; nêu lên những thách thức của sự chuyển đổi đó nhằm giúp cho các ngành, các cấp xúc tiến xây dựng năng lực cần thiết cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Agenda 21 Việt Nam đang được nghiên cứu soạn thảo, đây sẽ là bước đi đầu tiên trong việc hoạch định chiến lược phát triển quốc gia theo quan điểm bền vững. Chiến lược này sẽ được thường xuyên xem xét để bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cụ thể của các giai đoạn phát triển và tương thích với những kiến thức mới và nhận thức ngày càng được hoàn thiện hơn về con đường phát triển bền vững của Việt Nam. Trong tương lai, các chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược về bảo vệ môi trường sẽ được tích hợp chung trong chiến lược quốc gia về phát triển bền vững.
Với cách tiếp cận mới và toàn diện, quan điểm phát triển bền vững ở Việt Nam đã được đưa vào trong quá trình lập kế hoạch, chính sách và ra quyết định. Tuy nhiên, hiệu quả của nó trong thực tiễn còn chưa rõ ràng, phát triển bền vững chưa đi vào cuộc sống và nhận thức của từng người dân.
II. Quản lý nhà nước về môi trường
1. Khái niệm
Quản lý Nhà nước về môi trường là quá trình Nhà nước sử dụng các cách thức, công cụ và phương tiện khác nhau tác động lên các hoạt động của con người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa môi trường và phát triển sao cho thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người đồng thời đảm bảo được chất lượng của môi trường sống.
Chủ thể quản lý Nhà nước về môi trường là Nhà nước, cụ thể là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đối tượng quản lý là quan hệ giữa con người với con người phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng, tác động lên các thành phần môi trường. Nhà nước sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp quản lý khác nhau, vận dụng nhiều quy luật khác nhau để quản lý môi trường nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra, phù hợp với luật pháp và thông lệ hiện hành.
Quản lý Nhà nước về môi trường là yêu cầu tất yếu khách quan. Có hai lý do cơ bản giải thích cho đòi hỏi tất yếu khách quan này, đó là:
+ Lý do khách quan: Các thành phần môi trường có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống con người. Mọi hoạt động phát triển của xã hội đều dựa trên những nguồn tài nguyên thiên nhiên của môi trường. Trong khi đó, hiện trạng môi trường Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang rất xấu, vì vậy nhu cầu về vốn để tiến hành các hoạt động khôi phục, duy trì chất lượng môi trường là rất lớn. Nhà nước là tổ chức duy nhất có đủ tiềm lực để thực hiện các hoạt động này.
+ Lý do chủ quan: Nhà nước là tổ chức có những sức mạnh riêng có và hoàn toàn đủ khả năng để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về môi trường. Với tiềm lực kinh tế rất lớn, cơ sở xã hội vững mạnh, với công cụ và phương tiện quản lý xã hội hữu hiệu cùng các thiết chế và hệ thống các cơ quan hành chính sự nghiệp, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 quy định Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về môi trường ở Điều 29.
Nội dung quản lý Nhà nước về môi trường được quy định tại Điều 37 Luật Bảo vệ Môi trường 27/12/1993.
Các công cụ quản lý Nhà nước về môi trường
Công cụ quản lý Nhà nước về môi trường là những phương tiện mà thông qua đó, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về môi trường của mình nhằm đạt được các mục tiêu môi trường đã định, mang lại hiệu quả môi trường cao hơn.
Có nhiều cách phân loại công cụ quản lý môi trường, tuy nhiên đứng trên giác độ sự quản lý của Nhà nước đối với môi trường, có thể phân thành ba loại công cụ quản lý môi trường cơ bản:
Chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường;
Công cụ pháp lý;
Công cụ kinh tế.
Chiến lược và chính sách bảo vệ môi trường
Chiến lược về bảo vệ môi trường (BVMT) là những mục tiêu, nhiệm vụ lớn mà Nhà nước đặt ra trong một giai đoạn phát triển nhất định (10-15 năm). Chẳng hạn chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược phủ xanh đất trống đồi núi trọc, Chiến lược bảo vệ đa dạng sinh học... Chiến lược BVMT mang tính định hướng cho các hoạt động BVMT trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách về BVMT là những giải pháp lớn mà Nhà nước đặt ra để thực hiện chiến lược BVMT. Chính sách BVMT nêu lên mục tiêu và các định hướng lớn để thực hiện những mục tiêu đó. Chính sách phải hợp lý, có cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn.
Công cụ pháp lý
Pháp luật là công cụ quản lý môi trường mang tính cưỡng chế của Nhà nước. Quản lý Nhà nước về môi trường bằng công cụ pháp lý là hình thức quản lý mệnh lệnh và kiểm soát, trong đó Nhà nước xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật về BVMT, quy định các tiêu chuẩn hoặc lượng các chất ô nhiễm được phép thải bỏ, quy định thời gian đáp ứng tiêu chuẩn, các thủ tục cấp phép và cưỡng chế thực thi đối với các đối tượng, xác định trách nhiệm pháp lý và hình phạt đối với người vi phạm.
Các công cụ pháp lý được sử dụng để quản lý môi trường bao gồm:
Luật BVMT và các văn bản dưới Luật;
Các loại tiêu chuẩn;
Các loại giấy phép.
2.2.1. Luật BVMT và các văn bản dưới Luật
Pháp luật BVMT là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng, tác động lên các thành phần môi trường. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 có thể được coi là văn bản pháp luật đầu tiên quy định việc BVMT, trong đó Điều 29 quy định cụ thể nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Hệ thống Luật BVMT của nước ta bao gồm hai phần chính:
+ Luật BVMT chung ban hành ngày 27/12/1993; Luật về bảo vệ và sử dụng hợp lý các thành phần môi trường như: Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 12/8/1991, Luật Khoáng sản 20/3/1996, Luật bảo vệ tài nguyên nước 20/5/1998...
+ Các văn bản dưới Luật như: Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 về “Hướng dẫn thi hành Luật BVMT”, Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính về BVMT”, Nghị định 77/CP ngày 29/11/1996 về “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản”, Thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT ngày 29/4/1998 Hướng dẫn lập và thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư...
Từ trên có thể thấy rằng Nhà nước ta rất tích cực xây dựng pháp luật BVMT, vấn đề môi trường và BVMT đã được Nhà nước quan tâm và đánh giá đúng tầm quan trọng. Tuy nhiên, hiệu quả điều chỉnh của Luật BVMT trong thực tế còn rất thấp do nhiều lý do khác nhau.
2.2.2. Các loại tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường (Điều 2 khoản 7 Luật BVMT).
Chuẩn mức và giới hạn cho phép được hiểu là mức độ cao nhất hoặc phạm vi chất ô nhiễm được phép tồn tại trong các thành phần môi trường bao quanh con người đã giới hạn an toàn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi trường trong hiện tại và tương lai.
Tiêu chuẩn môi trường được Nhà nước dùng làm căn cứ để kiểm soát ô nhiễm môi trường; đánh giá hiện trạng môi trường; dự báo tình hình môi trường; xác định trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Đối với người dân và các doanh nghiệp, tiêu chuẩn môi trường cho biết họ đang sống trong điều kiện môi trường như thế nào và họ được quyền tác động đến môi trường đến mức độ nào.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ KHCNMT) phối hợp với Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng ban hành tiêu chuẩn môi trường. Hiện nay, nước ta đã có hệ thống tiêu chuẩn môi trường Việt Nam, viết tắt là TCVN. Có thể kể ra đây một số tiêu chuẩn thường sử dụng:
+ Tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh;
+ Tiêu chuẩn nước thải hoặc khí thải;
+ Tiêu chuẩn về công nghệ;
+ Tiêu chuẩn thải trong vận hành;
+ Tiêu chuẩn sản phẩm;
+ Tiêu chuẩn quy trình;
...
2.2.3. Các loại giấy phép
Giấy phép môi trường là một văn bản pháp lý cho phép cá nhân hay doanh nghiệp khai thác, sử dụng hay xả thải vào nguồn nếu đảm bảo thực hiện hay chi trả cho việc kiểm soát ô nhiễm của cơ sở mình. Việc cấp/thu hồi giấy phép môi trường cũng là một phương pháp quản lý môi trường bằng công cụ pháp lý hữu hiệu để kiểm soát ô nhiễm.
Giấy phép môi trường chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định và có thể gia hạn nếu vẫn đảm bảo thực hiện tốt việc ngăn chặn nguồn gây ô nhiễm. Giấy phép môi trường có thể bị thu hồi hoặc đình chỉ trong các trường hợp:
+ Người được cấp giấy phép vi phạm quy định của pháp luật hay vi phạm nội dung ở trong giấy phép;
+ Tổ chức được cấp giấy phép bị giải thể hoặc phá sản;
+ Giấy phép không sử dụng trong thời hạn 2 năm mà không có lý do chính đáng;
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy phép vì lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia hay vì mục đích an ninh quốc phòng.
Tóm lại, hệ thống pháp luật BVMT của nước ta là tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, tác dụng kiểm soát ô nhiễm bằng pháp luật trong thực tế là chưa cao. Nói khác đi, quản lý Nhà nước về môi trường bằng công cụ pháp lý chưa và không thể mang lại hiệu quả điều chỉnh tốt nhất. Vì thế, Nhà nước ta còn sử dụng một công cụ quản lý môi trường khác linh hoạt hơn, đó là công cụ kinh tế.
Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế là công cụ chính sách được các cơ quan Nhà nước sử dụng để kiểm soát ô nhiễm và nhằm mục tiêu sử dụng lâu bền các nguồn lực của tự nhiên.
Công cụ kinh tế, với lợi thế riêng có của nó, là công cụ đánh vào lợi ích kinh tế cụ thể của từng cá nhân hay tổ chức, luôn mang lại hiệu quả cao và là công cụ quản lý tốt không chỉ trong lĩnh vực BVMT. Bởi vì, nếu được sử dụng đúng mục đích, các công cụ kinh tế sẽ khiến bản thân người gây ô nhiễm môi trường phải quan tâm đến việc giảm thiểu tác hại đối với môi trường vì lợi ích của chính họ. Các công cụ kinh tế sẽ tạo điều kiện hình thành một cơ chế quản lý mềm dẻo hơn vừa đạt được các mục tiêu môi trường vừa tạo điều kiện để các cơ sở có hoạt động ảnh hưởng đến môi trường lựa chọn các phương án bảo vệ môi trường với chi phí thấp nhất. Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái.
Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường được áp dụng dựa trên 2 nguyên tắc cơ bản:
+ Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”: cá nhân hay tổ chức có hoạt động sản xuất gây ô nhiễm môi trường phải chịu mọi chi phí để thực hiện các biện pháp giảm nhẹ và khắc phục ô nhiễm; nộp phí hay chịu phạt nếu không tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường quốc gia và phải chịu bồi thường đối với những thiệt hại do ô nhiễm gây ra.
+ Nguyên tắc “Người hưởng lợi phải trả tiền”: Người được hưởng lợi ích từ việc sử dụng một sản phẩm, một dịch vụ hay hưởng lợi từ môi trường có chất lượng tốt cũng phải chi trả một khoản chi phí trong đó bao gồm chi phí môi trường và chi phí cơ hội của việc các thế hệ tương lai không được sử dụng tài nguyên sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ đó.
Có rất nhiều loại công cụ kinh tế quản lý môi trường. Trong đó có ba loại công cụ kinh tế cơ bản đang được sử dụng, đó là:
+ Ngân sách BVMT (Quỹ BVMT);
+ Các loại thuế;
+ Các loại phí, lệ phí.
Ngân sách BVMT (Quỹ BVMT)
Nhu cầu vốn cần thiết cho sự phát triển bền vững đòi hỏi phải dành ra khoảng 15 - 20% GDP để đầu tư cho nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, giáo dục và cải tạo môi trường. Như vậy, nhu cầu vốn chỉ tính riêng cho bảo vệ môi trường cũng là khá lớn. Vì vậy, việc giảm chi phí quân sự, huy động vốn trong nước và các khoản quyên góp ủng hộ tự nguyện, các khoản vốn viện trợ, vốn vay ngân hàng thế giới để hình thành ngân sách quốc gia cho công tác BVMT là rất quan trọng. Cho đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng và tăng cường Quỹ BVMT, áp dụng các biện pháp quản lý sử dụng quỹ có hiệu quả, bảo toàn và phát triển quỹ qua các năm. Quỹ BVMT sẽ là nguồn cung cấp vốn cho những hoạt động khôi phục và cải thiện chất lượng môi trường, cho việc đổi mới công nghệ thân môi trường, là nguồn tài chính dự trữ cho những thiên tai, hiểm hoạ môi trường có thể xảy ra và kịp thời khắc phục hậu quả. Quỹ BVMT là công cụ kinh tế quản lý môi trường mang tính khuyến khích.
Các loại thuế
Thuế là nguồn thu chủ yếu cho công tác bảo vệ, khắc phục, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường. Có hai loại thuế: thuế tài nguyên và thuế môi trường.
Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên được sử dụng để xác lập mức tối đa về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hạn chế nhu cầu tài nguyên cho những mục đích không quan trọng. Thuế tài nguyên là công cụ kinh tế có tác dụng khuyến khích các tổ chức/doanh nghiệp sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm duy trì nguồn lực này cho sự phát triển bền vững. Đồng thời, thuế tài nguyên là nguồn thu đóng góp vào ngân sách Nhà nước để thực hiện các biện pháp bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm và thăm dò các nguồn tài nguyên của đất nước.
Thuế tài nguyên gồm các sắc thuế chủ yếu: Thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng.
Thuế môi trường
Thuế môi trường là loại thuế đánh vào những hoạt động gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức/doanh nghiệp. Công cụ này có tác dụng khuyến khích bảo vệ và nâng cao hiệu suất sử dụng các yếu tố môi trường, hạn chế và ngăn chặn việc gây ra ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn quy định.
Các sắc thuế môi trường chủ yếu: Thuế ô nhiễm bầu không khí, thuế ô nhiễm tiếng ồn, thuế ô nhiễm các nguồn nước.
Các loại phí, lệ phí
Phí, lệ phí môi trường là khoản phí mà các cá nhân hoặc doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm phải trả để bù đắp lại những tổn hại mà họ đã gây ra cho môi trường. Các khoản phí và lệ phí thường được dùng để chi trả cho các hoạt động bảo vệ môi trường như thu gom phế thải, nghiên cứu các công nghệ mới, đầu tư cho các công trình chống ô nhiễm, ngăn ngừa, hạn chế sự xuống cấp, suy thoái môi trường.
Ngoài ba loại công cụ kinh tế nói trên, có thể kể ra một số công cụ kinh tế quản lý môi trường khác:
+ Thu tiền ký quỹ và tiền cam kết;
+ Hệ thống đặt cọc - hoàn trả;
+ Giấy phép phát thải;
...
Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các Công cụ kinh tế và Quỹ môi trường:
đóng góp
tự nguyện
phạt hành chính và chế Tài
các công cụ
kinh tế
các nguồn
địa phương
(địa phương, vùng hoặc khu vực)
các nguồn đóng góp bên trong khác
ng/tắc người gây ô nhiễm trả tiền
quỹ môi trường địa phương
các nguồn lực bên ngoài
trong nước
quốc tế
các công cụ khuyến khích cái thiện môi trường
III. Quỹ Môi trường
Khái niệm - Phân loại
Quỹ BVMT (sau đây gọi là Quỹ Môi trường - QMT) là một cơ chế tài chính được lập ra để hỗ trợ cho quá trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
Có ba cách phân loại QMT dựa vào các tiêu chí khác nhau:
Căn cứ vào phạm vi tiếp cận: QMT được phân loại thành QMT tổng hợp và QMT cụ thể.
+ QMT tổng hợp là quỹ có thể cung cấp hỗ trợ tài chính cho nhiều đối tượng, nhiều loại dự án hoặc hoạt động khác nhau. QMT tổng hợp có thể tập trung kiểm soát ô nhiễm không khí, kiểm soát ô nhiễm nước, ô nhiễm đất hoặc tiếng ồn, có thể hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục, đào tạo môi trường, cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, cho đầu tư cơ bản hay bất kỳ dự án hoặc hoạt động nào nhằm cải thiện chất lượng môi trường.
+ QMT cụ thể là quỹ cung cấp hỗ trợ cho một tập hợp các dự án hoặc hoạt động đã được quyết định trước; quỹ có thể chỉ mở cho một nhóm mục tiêu xác định được tiếp cận (ví dụ, ngành công nghiệp); quỹ có thể chỉ tập trung vào một hình thức ô nhiễm cụ thể (chẳng hạn ô nhiễm nước); có thể chỉ hỗ trợ một số dạng dự án, hoạt động cụ thể hoặc dự án chỉ tiến hành trong một thời gian nhất định.
Căn cứ vào hình thức sử dụng vốn: QMT được phân loại thành Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ giảm dần và Quỹ quay vòng.
+ Quỹ bảo toàn vốn là loại quỹ chỉ sử dụng phần lời thu được từ các khoản đầu tư vốn để hỗ trợ tài chính cho các hoạt động.
+ Quỹ giảm dần là quỹ được thiết kế cho một mục đích rất cụ thể và sẽ giải ngân toàn bộ vốn của mình trong một thời hạn cố định để đạt mục đích đó.
+ Quỹ quay vòng là quỹ được thiết lập nhằm nhận các khoản vốn mới trên cơ sở ít nhiều mang tính thường xuyên, có thể là từ các nguồn trong nước (chẳng hạn từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu phí và lệ phí môi trường), hoặc các nguồn bên ngoài (chẳng hạn viện trợ từ các tổ chức quốc tế và hợp tác song phương).
Căn cứ vào vùng địa lý và phân cấp quản lý: QMT được phân thành QMT toàn cầu, quốc gia, khu vực và địa phương.
+ QMT toàn cầu hỗ trợ thực hiện các dự án mà không quan tâm đến vị trí địa lý của dự án đó. Quỹ này chủ yếu giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, chẳng hạn như sự nóng lên toàn cầu, suy thoái tầng ôzôn hay mất đa dạng sinh học.
+ QMT quốc gia tập trung hỗ trợ tài chính cho các dự án hoặc hoạt động với mục đích cải thiện hoặc chống lại sự suy thoái về chất lượng môi trường của quốc gia.
+ QMT khu vực có mục tiêu hỗ trợ tương tự QMT quốc gia nhưng ở phạm vi địa lý nhỏ hơn, chẳng hạn một tỉnh. Tuy nhiên, sự phân định về ranh giới địa lý của một quỹ khu vực cũng không nhất thiết phải xem xét tương ứng với các ranh giới chính trị hành chính. Một quỹ khu vực có thể sử dụng các lưu vực nước để xác định ranh giới can thiệp. Và, với phạm vi này, nó có thể bao gồm hoặc tập trung không chỉ vào một quốc gia.
+ QMT địa phương có phạm vi can thiệp hẹp hơn nhiều so với ba loại quỹ trên. Thông thường, chính quyền địa phương sẽ xác định phạm vi can thiệp của QMT địa phương.
Tuỳ thuộc vào các mục tiêu cụ thể của từng dự án hay hoạt động, dựa vào ba cách phân loại trên, chúng ta sẽ xác định được dạng QMT phù hợp.
Nguồn hình thành QMT
Về mặt lý thuyết, vốn của QMT có thể hình thành từ các nguồn sau:
Ngân sách (cả trung ương lẫn địa phương);
Các khoản phạt, phí, lệ phí môi trường;
Đóng góp tự nguyện của các cá nhân hoặc doanh nghiệp;
Phát hành trái phiếu môi trường;
Các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài;
Các khoản huy động khác.
Ngân sách Nhà nước là nguồn đầu vào rất quan trọng của Quỹ. Tuy nhiên, nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn cấp từ ngân sách thì không thể đủ. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, việc chuyển giao các nguồn vốn từ ngân sách sang các QMT thường phức tạp và không kịp thời. Hơn nữa, việc ỷ vào các nguồn vốn từ ngân sách sẽ không khuyến khích áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Để bổ sung cho vốn ngân sách, các khoản đóng góp từ các doanh nghiệp (tự nguyện hoặc không tự nguyện) sẽ bảo đảm cho quỹ có các nguồn thu đa dạng và ổn định hơn. Hơn nữa, việc phải có những đóng góp vào QMT sẽ giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm và mức độ quan tâm đến sự nghiệp BVMT từ phía các doanh nghiệp.
Các nguồn hỗ trợ tài chính từ bên ngoài như từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức hợp tác song phương, đa phương cũng là một nguồn hình thành quỹ quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt đối với những quốc gia đang phát triển.
Cuối cùng là các nguồn có được từ việc áp dụng các công cụ kinh tế như thuế, phí, lệ phí môi trường. Một trong những lợi thế của việc áp dụng các công cụ này là ở chỗ chúng cho phép áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Trong trường hợp quỹ được thiết kế và vận hành tốt sẽ đem lại bài học kinh nghiệm thực tế về các phương pháp quy trách nhiệm tài chính cho các đối tượng gây ô nhiễm môi trường.
Chức năng và nhiệm vụ của QMT
Với mục đích tạo lập nguồn vốn sử dụng cho các mục đích môi trường, QMT có chức năng và nhiệm vụ:
+ QMT được thành lập nhằm thu hút các nguồn vốn của cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước theo quy định pháp luật;
+ QMT thực hiện chức năng cấp trợ giá cho các hoạt động môi trường. Các khoản trợ giá này có thể là các chương trình cấp kinh phí không thu hồi hoặc thu hồi một phần với lãi suất ưu tiên.
+ QMT hỗ trợ việc thực hiện các chính sách và biện pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường.
Cơ chế giải ngân
QMT được giải ngân dưới các hình thức sau:
+ Hỗ trợ không hoàn lại;
+ Hỗ trợ lãi suất;
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi.
Mỗi cơ chế giải ngân QMT đều có những ưu nhược điểm riêng của nó. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, hình thức hỗ trợ không hoàn lại thường không mang lại hiệu quả kinh tế và không đạt được mục đích đề ra. Hỗ trợ không hoàn lại gây tính ỷ lại, không tạo lập ý thức bảo vệ môi trường. Hơn nữa, do nguồn vốn hạn hẹp, hỗ trợ không hoàn lại sẽ ảnh hưởng tới sự bền vững của Quỹ. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, để thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia bảo vệ môi trường cần có những chính sách, biện pháp khuyến khích mà cụ thể là hỗ trợ đầu tư thông qua hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi. Cho vay ưu đãi không những khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho giảm thiểu ô nhiễm môi trường mà còn tạo vốn luân chuyển để cho vay các dự án khác, hoạt động luân chuyển của Quỹ sẽ được duy trì bền vững hơn. Ngoài ra do phải trả lãi cho các khoản vay, các doanh nghiệp buộc phải có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ môi trường.
Một số bài học kinh nghiệm
Hình thức huy động vốn để hình thành QMT hoạt động vì mục đích môi trường đã tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hầu hết các nước phát triển đều đã có QMT quốc gia, các nước đang phát triển như Brazil, Chilê,... cũng đã xây dựng và áp dụng mô hình QMT quốc gia, QMT của các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Bulgari, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Slovakia) cũng đã được thành lập từ cách đây khá lâu. Dưới đây là dẫn chứng về một số mô hình QMT quốc gia và địa phương đã đi vào hoạt động và đem lại hiệu quả cải thiện môi trường trong thực tiễn.
* Kinh nghiệm quốc tế về QMT: Quỹ môi trường quốc gia Trung Quốc.
Từ năm 1994, với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu á, cơ quan bảo vệ môi trường quốc gia Trung Quốc đã tập hợp nhiều chuyên gia để bàn luận và nghiên cứu chuẩn bị cho sự thành lập của QMT quốc gia. Cơ cấu tổ chức sơ bộ đã được hình thành, nhưng phải rất lâu sau đó, QMT quốc gia Trung Quốc mới thực sự ra đời.
Mục đích của Quỹ: QMT quốc gia (National Environmental Fund - NEF) có thể nhận vốn từ các nguồn khác nhau nhằm phát triển một thị trường vốn cho việc bảo vệ môi trường và trợ giúp cho các dự án về môi trường. Mục đích lâu dài của Quỹ là được tổ chức và hoạt động tương tự như một Quỹ đầu tư hoặc ngân hàng tham gia trực tiếp đầu tư môi trường với nền tảng là công cuộc thay đổi chính sách kinh tế, xây dựng thể chế và thành lập thị trường các dự án kiểm soát và xử lý ô nhiễm.
Các nguồn của Quỹ: QMT quốc gia Trung Quốc được hình thành từ các nguồn chính: Đóng góp của Chính phủ; Hỗ trợ và quyên góp song phương, đa phương và Đầu tư thương mại.
Cơ chế hoạt động của Quỹ: QMT quốc gia Trung Quốc xem xét các yếu tố như nhu cầu đầu tư, hiệu lực kinh tế của quỹ, thủ tục giải ngân quỹ, chính sách quốc gia liên quan đến sự vận hành của quỹ và đảm bảo quỹ có thể tồn tại lâu dài.
Quản lý: Cơ cấu tổ chức của QMT quốc gia Trung Quốc được thành lập theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Thành lập các cơ quan điều hành QMT quốc gia. Thành lập Ban giám đốc hoặc hội đồng điều hành Quỹ chịu trách nhiệm giám sát và quản lý hoạt động của Quỹ. Hội đồng điều hành bao gồm đại diện của các tổ chức khác nhau như Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính và Hội đồng cải tổ hệ thống kinh tế Nhà nước với cơ quan BVMT quốc gia đóng vai trò chính. Hội đồng sẽ chịu trách nhiệm xác định mục tiêu và chiến lược phát triển của NEF, xác định các quy chế, luật lệ và kế hoạch hoạt động, đưa ra những quyết định về nhân sự. Cả trung tâm quản lý và văn phòng trù bị của Quỹ quốc gia đều là các tổ chức chuyển đổi. Sau một hoặc hai năm hoạt động, phải thành lập công ty đầu tư môi trường quốc gia.
Giai đoạn 2: Công ty đầu tư môi trường quốc gia (NEIC) được thành lập. Bộ máy hành chính của NEIC như một công ty sẽ được xác định theo luật và các quy chế về công ty. Bộ máy hành chính của công ty sẽ bao gồm một Ban giám đốc, một Chủ tịch, một Ban giám sát và một vài đơn vị kinh doanh.
* Kinh nghiệm thực tiễn trong nước về QMT: Quỹ Hỗ trợ giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp TP. Hồ Chí Minh.
Quỹ Hỗ trợ giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp TP. Hồ Chí Minh (gọi tắt là Quỹ giảm thiểu ô nhiễm) được thành lập theo quyết định số 5289/QĐ-UB-KT của UBND thành phố ngày 14/9/1999. Tên gọi của quỹ là “Quỹ hỗ trợ giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh”. Quỹ được lồng ghép vào nội dung hoạt động của “Chương trình giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh năm 2000”.
Quản lý: Quỹ giảm thiểu ô nhiễm được Hội đồng Quản lý quỹ quản lý. Thành phần của Hội đồng Quản lý bao gồm:
+ Giám đốc Sở KHCNMT - Chủ tịch Hội đồng;
+ Phó Giám đốc Sở Tài chính Vật giá - Phó Chủ tịch Hội đồng;
+ Phó Giám đốc Quỹ đầu tư phát triển đô thị - Phó Chủ tịch Hội đồng;
+ Phó Giám đốc Sở Công nghiệp - Uỷ viên Hội đồng;
+ Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư - Uỷ viên Hội đồng;
+ Trưởng phòng quản lý môi trường, Sở KHCNMT - Uỷ viên thường trực;
+ Đại diện của UBND 22 quận, huyện của thành phố - Uỷ viên.
Mục đích của Quỹ: Giúp đỡ các doanh nghiệp tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp, dần tiến tới áp dụng ISO 14000 và ISO 9000, chuẩn bị từng bước cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Mục đích cụ thể của quỹ là hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp giải quyết tình trạng ô nhiễm do sản xuất gây ra thông qua biện pháp cơ bản là hỗ trợ áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn để ngăn ngừa ô nhiễm, giảm thiểu ô nhiễm trước khi nó phát sinh.
Các nguồn của Quỹ: Quỹ giảm thiểu ô nhiễm có vốn ban đầu từ 2 nguồn khác nhau: nguồn thứ nhất là số tiền bồi hoàn sự cố môi trường của TP. Hồ Chí Minh (1 triệu USD); và nguồn thứ 2 là nguồn tiền Nhà nước vay của Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) với tổng trị giá là 2,5 triệu USD. Như vậy, tổng số vốn ban đầu của quỹ là 3,5 triệu USD. Nguồn vốn này được uỷ thác cho Quỹ đầu tư phát triển đô thị (HIFU). Vốn của quỹ có thể được bổ sung thêm từ các nguồn ngân sách của Trung ương và địa phương, nếu quỹ chứng tỏ được hiệu quả hoạt động của mình. Đồng thời, nếu được sự phê chuẩn của UBND thành phố, Quỹ có thể được tiếp nhận các nguồn vốn từ bên ngoài.
Cơ chế hoạt động: Theo quy chế đã được thành phố phê duyệt, Quỹ hoạt động theo nguyên tắc quay vòng, tự bù đắp chi phí hoạt động, bảo toàn và phát triển vốn.
Hình thức giải ngân: Cho vay ưu đãi là hình thức giải ngân chủ yếu của Quỹ giảm thiểu ô nhiễm TP. Hồ Chí Minh. Vốn từ nguồn của thành phố được dành cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp thuộc quận, huyện quản lý hoặc các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Doanh nghiệp được vay tới 50% tổng vốn đầu tư với thời hạn là 3 năm, lãi suất 1,5%/năm. Trong khi đó, từ nguồn thu của ADB, các doanh nghiệp có thể vay tới 85% tổng vốn đầu tư, trong đó có 15% vốn của HIFU với thời hạn vay từ 3 đến 7 năm, lãi suất là 4%/năm. Cho đến nay, sau hơn nửa năm đi vào hoạt động, đã có trên 10 đơn vị lập dự án xin vay vốn, trong đó có 1 dự án đã hoàn tất thủ tục và đang triển khai hoạt động.
Quy trình thẩm định dự án vay vốn từ Quỹ giảm thiểu ô nhiễm TP. Hồ Chí Minh được thể hiện ở sơ đồ sau:
Các bước Các bên thực hiện
Bước 1
Lập dự án
Bước 2
Thẩm định dự án
Bước 3
Duyệt dự án
Bước 4
Lập hồ sơ xin vay
Bước 5
Giải ngân
Doanh nghiệp với sự hỗ trợ của đơn vị tư vấn Môi trường
Thành viên tổ thẩm định (theo quy định của UBND thành phố)
Hội đồng quản lý Chương trình (Nếu dự án trị giá < 1 tỷ đồng)
Chủ tịch UBND thành phố
(Nếu dự án trị giá > 1 tỷ đồng)
Các doanh nghiệp
muốn vay vốn
Quỹ Đầu tư Phát triển đô thị
Chương ii
quỹ môi trường địa phương
- nghiên cứu điểm quỹ môi trường Hà nội -
quỹ môi trường địa Phương
Cơ sở của việc hình thành Quỹ môi trường
Cơ sở thực tiễn
Môi trường có tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống, sản xuất và sự phát triển của con người. Sự suy giảm của chất lượng môi trường như đã trình bày ở chương I đang đe doạ sự sống của toàn nhân loại. Điều này không chỉ đòi hỏi nỗ lực của mỗi một quốc gia mà còn đòi hỏi sự liên kết, phối hợp nỗ lực của cả thế giới trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, có thể nói nỗ lực đầu tư về tài chính cho các hoạt động khôi phục và cải thiện chất lượng môi trường là quan trọng và cần thiết nhất. Vì vậy, việc thành lập QMT huy động nguồn tài chính từ các đối tượng trong xã hội để chủ động đối phó và khắc phục hậu quả của những sự cố môi trường là một nhu cầu cần thiết.
Mặt khác, tỷ lệ đầu tư tài chính cho nhiệm vụ BVMT trong GDP ở nước ta cũng như ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới còn rất thấp, chưa thể đủ để bảo đảm cho mô hình phát triển bền vững mà cả hành tinh đang cố gắng đạt được. Mặc dù đã nhận biết được tầm quan trọng của môi trường và BVMT, các quốc gia vẫn chưa đầu tư cho lĩnh vực này đến mức cần thiết. Từ đây có thể thấy, cần thiết phải thành lập QMT ở những phạm vi khác nhau (địa phương, ngành, quốc gia). Đây sẽ là nguồn tài chính ổn định chỉ dành riêng cho các mục đích khôi phục và cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường.
Như vậy, do yêu cầu thực tiễn của việc đầu tư tài chính cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường mà việc thành lập QMT là cần thiết.
Cơ sở pháp lý
Vấn đề huy động nguồn đóng góp tài chính cho mục đích bảo vệ môi trường và bồi thường thiệt hại do gây ra tổn hại cho môi trường đã được quy định tại Điều 7 Luật BVMT Việt Nam 27/12/1993. Tiếp đó, Nghị định 175/CP của Chính phủ về “Hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ Môi trường” ban hành ngày 18/10/1994 đã tạo lập cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thành lập QMT ở Việt Nam. Điều 33 của Nghị định nêu rõ: “Chính phủ lập Quỹ dự phòng quốc gia khắc phục tình trạng suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường nhằm chủ động đối phó với các trường hợp đột xuất về sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường”.
Bên cạnh cơ sở pháp lý cho việc thành lập QMT, Điều 30, 52 Luật BVMT và Điều 32 Nghị định 175/CP về “Hướng dẫn thi hành Luật BVMT” cũng quy định trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường và việc đóng phí BVMT đối với các tổ chức và cá nhân. Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 126 ngày 22/10/1999 của Bộ Tài chính - Bộ Công nghiệp và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về “Hướng dẫn ký quỹ để phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản” cũng là một văn bản pháp lý liên quan đến nguồn hình thành QMT, theo đó khoản tiền ký quỹ sẽ được phong toả tại một tổ chức tín dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản gây ra. Đây là những cơ sở pháp lý liên quan chặt chẽ tới nguồn vốn hoạt động cũng như nhu cầu sử dụng vốn của QMT.
Mục đích của việc thành lập QMT địa phương
QMT địa phương được thành lập với những mục đích sau:
QMT địa phương giúp khắc phục các cản trở tài chính cho nhiệm vụ BVMT.
QMT địa phương hỗ trợ tiến hành kế hoạch hành động môi trường địa phương.
QMT địa phương hỗ trợ tăng cường vai trò và trách nhiệm của cộng đồng địa phương và khuyến khích họ tham gia giải quyết những vấn đề môi trường và phát triển.
QMT địa phương trợ giúp cho các hoạt động nhằm cải thiện môi trường ở khu vực.
QMT địa phương sẽ hỗ trợ và giúp đỡ những dự án phát triển môi trường ở địa phương mình như: Nghiên cứu và đánh giá tác động của các hoạt động công nghiệp đến môi trường ở địa phương; Lập quy hoạch phát triển lâu dài cho toàn địa phương; Tổ chức lại và nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống thoát nước và giao thông trong khu vực; tận dụng diện tích trồng cây xanh và bảo vệ các yếu tố sinh thái.
QMT địa phương khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất tiến hành các hoạt động đầu tư để bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường.
QMT địa phương có các hình thức hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp về mặt tài chính trong việc xây dựng các hệ thống xử lý chất thải rắn, xây dựng các hệ thống lọc bụi và khí độc, thay thế các máy móc thiết bị đã hết thời hạn sử dụng hoặc đầu tư mới các dây chuyền công nghệ theo hướng khuyến khích các công nghệ ít ô nhiễm, đặc biệt là công nghệ sạch hơn cho phép vừa giảm chi phí sản xuất vừa nâng cao được năng lực cạnh tranh.
Hơn nữa, trong điều kiện cho phép, QMT địa phương có thể giúp đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất nhỏ trong các hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp quy mô nhỏ của địa phương thường không có đủ vốn để đầu tư cho cải thiện môi trường. Họ không có khả năng trích một phần doanh thu ra hoặc đi vay ngân hàng để xây dựng các hệ thống xử lý chất thải hay mua công nghệ sạch. Trong khi đó, mức độ gây ô nhiễm của các doanh nghiệp quy mô nhỏ lại mang tính chất nguy hại cao (vì dây chuyền sản xuất của họ thường lạc hậu và không đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường) và rất khó kiểm soát. Do đó, sự trợ cấp của QMT địa phương đối với mảng này là hết sức quan trọng.
- QMT địa phương góp phần nâng cao năng lực của các tổ chức liên quan trong việc quản lý môi trường.
QMT địa phương có thể được sử dụng vào việc hỗ trợ nâng cao năng lực của các tổ chức nhà nước tại địa phương trong việc quản lý môi trường, cụ thể là năng lực chuẩn bị kế hoạch, đánh giá và cấp tài chính cho các dự án môi trường.
- QMT địa phương góp phần nâng cao hiệu lực của pháp luật và các chính sách kinh tế trong bảo vệ môi trường. QMT có thể được coi như một động cơ thúc đẩy việc thực hiện nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”, qua đó khuyến khích việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực thông qua việc nâng cao hiệu lực pháp luật và các quy định cũng như các chính sách kinh tế trong bảo vệ môi trường.
Đặc điểm hoạt động của QMT địa phương
Một số vấn đề cần giải quyết khi thiết kế QMT địa phương:
Các nguồn vốn đóng góp cho Quỹ;
Cơ cấu tổ chức của Quỹ
Đối tượng được hỗ trợ tài chính từ Quỹ;
Loại dự án thích hợp đối với Quỹ;
Quy trình đệ trình dự án;
Quy trình xét duyệt dự án;
Cơ chế giải ngân;
Đặc điểm của vốn hỗ trợ và vốn vay do Quỹ cấp.
Dưới đây chỉ đề cập đến một số vấn đề cần giải quyết khi thiết kế QMT địa phương.
Nguồn hình thành QMT địa phương
QMT địa phương được hình thành từ các nguồn sau:
Thuế, phí, lệ phí và các khoản tiền phạt do gây ô nhiễm và tổn hại môi trường. Cho đến nay, nghị định 26/CP về Xử phạt hành chính các vi phạm pháp luật BVMT đã được áp dụng, thanh tra môi trường địa phương có quyền xử phạt các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Các khoản thu tiền phạt sẽ được tập trung vào QMT địa phương.
Kinh phí Nhà nước: Đây là số kinh phí mà Nhà nước dành riêng cho một số dự án môi trường nhất định trong phạm vi của địa phương hoặc doanh nghiệp, thông thường là cho các dự án nghiên cứu hoặc ứng dụng đánh giá tác động môi trường, các chương trình đào tạo, giáo dục, truyền thông, giải quyết sự cố hoặc các trường hợp bất khả kháng về môi trường.
Khoản đóng góp được trích từ doanh thu của các doanh nghiệp: Đây là khoản tiền mà các doanh nghiệp gửi vào quỹ để khi có sự cố về ô nhiễm môi trường hoặc khi doanh nghiệp có nhu cầu xây dựng công trình xử lý chất thải thì được phép rút ra sử dụng cho mục đích của mình. Nguồn thu này ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong các nguồn tài chính cho QMT vì các doanh nghiệp đã bắt đầu nhận thấy hiệu quả và lợi ích kinh tế của việc đầu tư cho BVMT.
Đổi nợ lấy thiên nhiên: Đối với những địa phương không có khả năng trả nợ tín dụng và phải vay ngân hàng Nhà nước, ngân hàng sẽ tính chuyển các khoản nợ đó thành tiền và yêu cầu các địa phương cam kết chuyển số tiền đó vào QMT để sử dụng cho việc bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Phương thức chuyển đổi này đang ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới vì nó tạo ra số tiền cho QMT cao hơn số tiền có thể được huy động để trả nợ, chưa kể đến hiệu quả tích cực đối với bảo vệ môi trường.
Các nhà đầu tư tư nhân và những khoản đóng góp tự nguyện: Khi nhận thức môi trường được nâng cao, ngày càng có nhiều nhà đầu tư tư nhân cũng như các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại tự nguyện góp vốn vào QMT. Ngoài ra cũng có một phần đóng góp của các tổ chức cho quỹ dưới hình thức cho vay không lãi hoặc với lãi suất thấp.
Tiền lãi từ các khoản cho vay đầu tư của Quỹ: Thông qua hình thức cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để xây dựng hệ thống xử lý chất thải, Quỹ thu được một khoản tiền lãi nhất định bổ sung vào nguồn vốn của mình.
Ngoài ra QMT địa phương có thể huy động nguồn tài trợ, đóng góp từ các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các nhà tài trợ như: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu á, Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ động thực vật hoang dã (WWF), Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP), Chương trình Môi trường của LHQ (UNEP),...
Cơ cấu tổ chức của Quỹ
Được thiết kế nhằm mục đích hỗ trợ cải thiện chất lượng môi trường của địa phương, mô hình tổ chức của QMT địa phương cần có sự tham gia của Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Sở Tài chính Vật giá, Sở Kế hoạch - Đầu tư và của các xí nghiệp đóng trên địa bàn địa phương.
Mỗi địa phương khi thiết kế QMT của địa phương mình có thể có những mô hình tổ chức khác nhau. Sau đây là mô hình mẫu tổ chức một QMT địa phương. Hội đồng Quản trị là cơ quan quản lý cao nhất toàn bộ hoạt động của QMT địa phương. Thành phần Hội đồng Quản trị Quỹ bao gồm:
Giám đốc Sở KHCNMT địa phương - Chủ tịch Hội đồng;
Giám đốc Sở KH và ĐT địa phương - Uỷ viên Hội đồng;
Giám đốc Sở Tài chính Vật giá địa phương - Uỷ viên Hội đồng;
Giám đốc Sở Công nghiệp địa phương - Uỷ viên Hội đồng;
Đại diện của các xí nghiệp thành viên của Quỹ - Uỷ viên Hội đồng;
Đại diện của UBND địa phương - Uỷ viên Hội đồng;
Các đại diện khác (nếu cần).
Trách nhiệm của Hội đồng Quản trị là hướng dẫn, giám sát và đánh giá việc thực hiện các hoạt động sau:
Xác định các quy tắc, điều kiện, thủ tục và phương pháp liên quan đến việc lập, thẩm định và phê chuẩn dự án;
Yêu cầu đệ trình kết quả thẩm định tài chính và thẩm định môi trường đối với các dự án xin hỗ trợ vốn từ Quỹ;
Quy định mọi điều kiện cho các khoản hỗ trợ không hoàn lại hoặc khoản vay từ Quỹ;
Tiếp xúc với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để khai thác các nguồn vốn đầu tư cho phát triển Quỹ;
Báo cáo định kỳ về tiến độ thực hiện, đánh giá hiệu quả đầu tư, xây dựng kế hoạch triển khai chương trình cho UBND địa phương và các cấp quản lý có liên quan.
Ngoài ra Hội đồng Quản trị có quyền thành lập một Ban thư ký có trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng theo định kỳ hàng quý. Đứng đầu Ban thư ký là Giám đốc điều hành Quỹ. Ban thư ký có nhiệm vụ thực thi các công việc hành chính của Quỹ và các bộ phận chức năng. Nhiệm vụ chính của Ban thư ký Quỹ là đảm bảo cho Quỹ vận hành được trôi chảy. Trong đó các chức năng nhiệm vụ cơ bản là chuẩn bị các kế hoạch về:
Dự trù thu chi;
Phân bổ các nguồn vốn;
Lựa chọn và vận hành dự án;
Quản lý tài chính;
Giám sát các dự án đang vận hành;
Tiến hành đánh giá dự án.
Quy trình ra quyết định
Quy trình ra quyết định của QMT địa phương có thể được thực hiện như ở bảng sau:
Các bước
Các hoạt động
Bước 1: Xác định mục tiêu của dự án trên cơ sở Kế hoạch hành động môi trường địa phương
Xây dựng Kế hoạch hành động môi trường cho địa phương
Bước 2: Xác định tính phù hợp của dự án đối với các yêu cầu của Quỹ trong việc hỗ trợ tài chính cho dự án
Dựa trên cơ sở quy chế quản lý Quỹ, đặc biệt là những quy định về:
Đối tượng được nhận hỗ trợ từ Quỹ
Các hình thức hỗ trợ tài chính của Quỹ
Cơ chế giải ngân v.v...
Bước 3: Thẩm định dự án
Thẩm định về tài chính
Thẩm định về môi trường
Bước 4: Xác định phương thức giải ngân
Thực hiện giải ngân
Các hình thức giải ngân
QMT địa phương có thể giải ngân dưới các hình thức sau:
Hỗ trợ không hoàn lại;
Hỗ trợ lãi suất;
Cho vay với lãi suất ưu đãi.
Căn cứ vào các đối tượng khác nhau mà QMT có hình thức hỗ trợ khác nhau phù hợp.
II. Quỹ môi trường Hà Nội
Giới thiệu chung
Quản lý Nhà nước về môi trường bằng các công cụ kinh tế - như đã trình bày ở chương I - là hình thức quản lý mềm dẻo, linh hoạt và mang lại hiệu quả quản lý cao nếu kết hợp tốt với công cụ pháp luật. QMT với tư cách là một công cụ kinh tế quản lý môi trường mang tính khuyến khích đã bắt đầu được nghiên cứu và đi vào hoạt động. ở Việt Nam đã có QMT ngành của Tổng Công ty Than Việt Nam (VINACOAL) thành lập năm 1998 và Quỹ Giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp TP. Hồ Chí Minh. Tại Hà Nội, theo đề xuất của Dự án VIE/97/007 (Dự án do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện với sự hỗ trợ của Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) và Chính phủ Thuỵ Sĩ nhằm mục tiêu gắn kết các cân nhắc môi trường vào quá trình lập kế hoạch đầu tư), một QMT đã được thành lập trên cơ sở thử nghiệm tại Khu công nghiệp Thượng Đình. QMT Hà Nội - Thử nghiệm Giai đoạn I tại Khu công nghiệp Thượng Đình, quận Thanh Xuân được thành lập theo quyết định số 48/QĐ-UB ngày 15/5/2000 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. Quỹ là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Hà Nội. Dưới đây là một số điểm chung về QMT Hà Nội trong giai đoạn thử nghiệm:
Mục tiêu và phạm vi hoạt động
Mục tiêu của Quỹ trong giai đoạn thử nghiệm là hỗ trợ các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường trên địa bàn khu công nghiệp Thượng Đình và quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Trong thời gian thử nghiệm, sự ưu tiên sẽ được dành cho các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường của cộng đồng, của các xí nghiệp và nhà máy trong khu vực công nghiệp Thượng Đình, quận Thanh Xuân trên cơ sở những ưu tiên được xác định trong Kế hoạch hành động Môi trường của quận.
Nguyên tắc hoạt động
QMT Hà Nội hoạt động theo nguyên tắc vì lợi ích cộng đồng và phi lợi nhuận, hỗ trợ các dự án thông qua phương thức hỗ trợ không hoàn lại, cho vay có thu hồi vốn với lãi suất ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất tiền vay, hỗ trợ sự tham gia của cộng đồng trong quy hoạch và xác định các hoạt động hoặc dự án để hoàn thiện chất lượng môi trường trong khu vực.
Chức năng
+ Quỹ được thành lập nhằm thu hút các nguồn vốn của cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước theo quy định pháp luật;
+ Quỹ hỗ trợ việc thực hiện các chính sách và biện pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường;
Nhiệm vụ
+ Hỗ trợ các dự án nhằm giảm thiểu ô nhiễm hoặc các hoạt động cải thiện môi trường triển khai trong khu công nghiệp Thượng Đình, Hà Nội.
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng thẩm định dự án của các đơn vị xin hỗ trợ vốn.
Đối tượng và điều kiện hỗ trợ tài chính
+ Đối tượng được hỗ trợ tài chính trong giai đoạn thử nghiệm là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội, UBND các phường thuộc Khu công nghiệp Thượng Đình trên cơ sở các dự án cải thiện chất lượng môi trường.
+ Điều kiện hỗ trợ: Các đối tượng thuộc phạm vi hỗ trợ của Quỹ phải lập dự án, nội dung dự án nêu rõ mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường trong khu công nghiệp Thượng Đình nói chung hoặc cải tạo môi trường trong phạm vi một doanh nghiệp nằm trong địa bàn nói riêng. Các dự án phải đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề môi trường ưu tiên trong Kế hoạch hành động Môi trường của quận Thanh Xuân. Hồ sơ dự án phải gửi Ban quản lý Quỹ thẩm định trình Hội đồng Quản trị Quỹ phê duyệt.
Nguồn vốn hoạt động của Quỹ
Vốn của Quỹ Môi trường Hà Nội khi thành lập là 100.000 USD, tương đương 1 tỷ 413 triệu 200 nghìn đồng từ khoản hỗ trợ ban đầu của Dự án Quốc gia VIE/97/007 về “Những vấn đề môi trường trong lập kế hoạch đầu tư” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Ngoài ra, Quỹ MTHN được tiếp nhận các nguồn tài trợ theo quy định và thoả thuận của UBND thành phố như:
Các khoản đóng góp tự nguyện của các cá nhân, các doanh nghiệp trên địa bàn;
Các khoản tài trợ, đóng góp bằng tiền hoặc hiện vật của khu vực tư nhân (cả trong và ngoài nước), của các Chính phủ và của các tổ chức quốc tế;
Tiền lãi và các khoản lợi khác thu được từ hoạt động của Quỹ;
Các khoản tiền phạt vi phạm hành chính trong hoạt động môi trường;
Các khoản phí, lệ phí môi trường (nếu được Hội đồng Nhân dân thành phố cho phép).
Tổ chức quản lý của Quỹ
Cơ cấu tổ chức của Quỹ MTHN bao gồm Hội đồng Quản trị, Ban Quản lý và các Phòng ban chuyên môn.
Hội đồng Quản trị
* Thành phần của Hội đồng Quản trị bao gồm:
+ Lãnh đạo Sở KHCNMT Hà Nội - Chủ tịch Hội đồng;
+ Lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội - Thành viên;
+ Lãnh đạo Sở Tài chính Vật giá Hà Nội - Thành viên;
+ Lãnh đạo Sở Công nghiệp Hà Nội - Thành viên;
+ Giám đốc Dự án điểm VIE/97/007 Hà Nội - Thành viên;
+ Đại diện Dự án VIE/97/007 - Thành viên;
+ Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND Quận Thanh Xuân - Thành viên;
Tuỳ theo nhiệm vụ cụ thể, số thành viên của Hội đồng Quản trị có thể được thay đổi cho phù hợp với thực tế. Các thành viên của Hội đồng làm việc theo chế độ kiêm nhiệm.
* Nhiệm vụ và quyền hạn: Hội đồng Quản trị là cơ quan cao nhất của Quỹ có nhiệm vụ hoạch định chính sách cho Quỹ, chỉ đạo giám sát, đánh giá việc thực hiện các nội dung sau đây:
+ Quyết định phương hướng, chủ trương hoạt động hàng quý của Quỹ;
+ Chỉ đạo, giám sát các hoạt động của Quỹ theo từng quý, từng năm;
+ Phê duyệt các hoạt động hoặc dự án cải thiện môi trường của Quỹ;
+ Phê duyệt các báo cáo tài chính;
+ Quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của Quỹ như: duyệt kế hoạch hoạt động, dự toán thu chi hàng năm của Quỹ;
+ Quyết định ngân hàng uỷ thác trên cơ sở đề xuất của Ban quản lý Quỹ;
+ Xác định các quy tắc, điều kiện, thủ tục và phương pháp liên quan đến quy trình cho vay và cấp phát vốn của Quỹ;
+ Yêu cầu Ban quản lý đệ trình kết quả thẩm định tài chính và thẩm định môi trường đối với các dự án xin hỗ trợ vốn từ Quỹ;
+ Quy định mọi điều kiện cho các khoản hỗ trợ không hoàn lại hoặc khoản vay từ Quỹ;
+ Tiếp xúc với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để khai thác các nguồn vốn đầu tư cho phát triển Quỹ;
+ Phê duyệt báo cáo định kỳ do Ban quản lý Quỹ thực hiện;
+ Định kỳ họp hai tháng một lần. Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Hội đồng Quản trị có quyền triệu tập họp bất thường;
+ Nguyên tắc hoạt động: Hội đồng Quản trị làm việc theo chế độ tập thể, biểu quyết theo đa số.
Ban quản lý Quỹ
* Bộ máy của Ban quản lý Quỹ
Ban quản lý gồm có Giám đốc, Phó Giám đốc, kế toán và các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ:
+ Giám đốc Ban quản lý Quỹ do Sở KHCNMT Hà Nội đề xuất, UBND thành phố Hà Nội bổ nhiệm;
+ Phó Giám đốc, kế toán và các nhân viên khác do Hội đồng Quản trị cử;
+ Ban quản lý do các nhân viên chuyên trách hoặc bán chuyên trách có chuyên môn nghiệp vụ đảm nhiệm. Trong giai đoạn thử nghiệm sử dụng bộ máy chuyên môn của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở KHCNMT, Sở Tài chính Vật giá để thẩm định các dự án;
+ Kế toán Quỹ phải là người có bằng chuyên môn về kế toán;
* Nhiệm vụ
Giám đốc Ban quản lý Quỹ là đại diện pháp nhân, là chủ tài khoản của Quỹ. Giám đốc Ban quản lý có trách nhiệm chỉ đạo và quản lý hoạt động của Quỹ theo đúng quy chế, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị và tuân thủ pháp luật về toàn bộ hoạt động của Quỹ.
Ban quản lý Quỹ là cơ quan điều hành các hoạt động của Quỹ theo chỉ đạo hướng dẫn của Hội đồng Quản trị, nhiệm vụ cụ thể như sau:
+ Thực hiện mọi công việc do Hội đồng Quản trị Quỹ yêu cầu;
+ Thẩm định và lựa chọn ngân hàng uỷ thác;
+ Ký hợp đồng uỷ thác cho vay, cấp phát với các tổ chức tài chính tín dụng;
+ Lập dự toán, báo cáo và quyết toán tài chính trình Hội đồng Quản trị phê duyệt;
+ Báo cáo hàng quý trước Hội đồng Quản trị;
+ Thẩm định các dự án hoặc các hoạt động cần hỗ trợ hoặc vay vốn;
+ Ký hợp đồng lao động và thực hiện chế độ phụ cấp với các nhân viên bán chuyên trách của Quỹ.
Quy trình xét duyệt dự án
Quy trình xét duyệt dự án của Quỹ Môi trường Hà Nội được mô tả trong sơ đồ sau:
Ban Quản lý QMT nhận được
hồ sơ dự án đề nghị được hỗ trợ
Bước 1: Dự án đó có nhằm giải quyết vấn đề ưu tiên hay thực hiện hoạt động đã được đề xuất trong Kế hoạch hành động Môi trường địa phương không ?
Nghiên cứu kế hoạch hành động môi trường địa phương
Bước 2: Chủ dự án có nằm trong diện đối tượng được hỗ trợ tài chính không ?
Nghiên cứu quy chế của Quỹ
Bước 3: Dự án có thích hợp về kỹ thuật và tài chính không ?
Nghiên cứu quy trình thẩm định kỹ thuật và tài chính
Bước 4: Xác định
phương thức giải ngân
Nghiên cứu quy chế của Quỹ
Có Không loại
Có Không loại
Có Không loại
Các hình thức giải ngân
* Các hình thức giải ngân
Các hình thức giải ngân của Quỹ MTHN gồm: hỗ trợ không hoàn lại, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất. Trong giai đoạn thử nghiệm, Quỹ sử dụng hai hình thức hỗ trợ: cấp vốn không hoàn lại và cho vay vốn với lãi suất ưu đãi.
Các dự án môi trường được hưởng hỗ trợ không hoàn lại bao gồm:
+ Các dự án nghiên cứu và đánh giá tác động môi trường đến khu công nghiệp Thượng Đình;
+ Các dự án nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục, đào tạo về môi trường và bảo vệ môi trường ở khu công nghiệp Thượng Đình;
+ Các dự án hỗ trợ xí nghiệp trong việc xác định và đánh giá tính khả thi của các dự án có mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường cho xí nghiệp đó;
+ Các dự án do các tổ chức cộng đồng xây dựng nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường tại các phường trên địa bàn;
+ Các dự án do cộng đồng tại địa phương xây dựng nhằm mục đích cải tạo chất lượng môi trường của các phường trên địa bàn.
Các dự án môi trường được hưởng hỗ trợ thông qua hình thức cho vay ưu đãi bao gồm:
+ Các dự án cải tạo chất lượng môi trường của xí nghiệp, có ưu tiên cho các biện pháp đầu tư phòng ngừa ô nhiễm môi trường;
+ Các dự án nhằm thay thế máy móc thiết bị đã hết thời hạn sử dụng hoặc cho mục tiêu đầu tư mới công nghệ hiện đại, ít gây ô nhiễm, đặc biệt là công nghệ sạch hoặc công nghệ tiết kiệm năng lượng.
+ Các dự án hỗ trợ các xí nghiệp trong việc thực hiện các quy định của Luật BVMT và của UBND thành phố Hà Nội;
* Mức vốn, thời hạn cho vay và lãi suất tiền vay
Mức hỗ trợ không hoàn lại có thể là hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ dự án:
Mức hỗ trợ tối đa một lần không vượt quá 10% số dư có của Quỹ tại thời điểm hỗ trợ và tổng giá trị các lần hỗ trợ không được vượt quá 20% số dư có của Quỹ tại thời điểm hỗ trợ.
Phương thức cấp vốn áp dụng theo quy định hiện hành về cấp phát vốn đầu tư của Nhà nước.
Mức cho vay: Các dự án được vay không quá 30% số dư có của Quỹ ở thời điểm cho vay. Các trường hợp ngoại lệ phải được Hội đồng Quản trị Quỹ quyết định.
Trong thời gian thử nghiệm, việc hỗ trợ không hoàn lại của Quỹ phải được sử dụng để hỗ trợ các dự án của cộng đồng dân cư địa phương nhằm cải thiện chất lượng môi trường trên địa bàn.
Thời hạn cho vay được xác định theo thời gian hoàn vốn đầu tư của dự án nhưng không quá 5 năm (kể cả 1 năm ân hạn) tính từ ngày đơn vị nhận khoản vay đầu tiên đến ngày phải trả hết nợ vay (gốc và lãi).
Lãi suất tiền vay bằng 1/3 lãi suất vay cùng kỳ ở các ngân hàng thương mại.
III. Hoạt động thực tiễn của Quỹ Môi trường Hà Nội
Những hoạt động đã tiến hành
Sau hai năm đi vào hoạt động từ tháng 11/1999, dự án điểm quốc gia
Những vấn đề môi trường trong lập kế hoạch đầu tư VIE/97/007 đã kết thúc các hoạt động vào tháng 10/2001. Theo đề xuất của dự án VIE/97/007, Quỹ Môi trường Hà Nội, giai đoạn I thử nghiệm tại Khu công nghiệp Thượng Đình được thành lập theo quyết định số 48/2000/QĐ-UB ngày 15/5/2000. Trong thời gian thử nghiệm tại Khu công nghiệp Thượng Đình, QMT Hà Nội đã có một số hoạt động thực tiễn như sau:
Hoạt động đầu tư
Hỗ trợ không hoàn lại
Cấp kinh phí không hoàn lại cho dự án “Nạo hút bể phốt cho 5 khu nhà cao tầng thuộc khu tập thể nhà máy thuốc lá Thăng Long, phường Thượng Đình”, đã nghiệm thu và hoàn tất dự án, giải ngân với số tiền trị giá 20 triệu đồng. Đầu tư của QMT cho dự án này đã giúp cho dân cư trong 5 khu nhà nói trên thoát khỏi tình trạng mất vệ sinh trầm trọng, kéo dài, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, sinh hoạt trong nhiều năm nay.
Cấp kinh phí không hoàn lại cho dự án “Trang bị thùng rác có nắp đậy thuộc cụm I và II phường Hạ Đình, Quận Thanh Xuân”, hoàn tất dự án và giải ngân xong với số vốn trị giá 23 triệu đồng. Từ công trình đầu tư này, bộ mặt ngõ xóm trong phường đã không còn cảnh vứt rác bừa bãi như trước kia, người dân có ý thức bảo vệ môi trường hơn.
Đây là hai dự án do các tổ chức cộng đồng xây dựng nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường tại các phường trên địa bàn thuộc đối tượng được hưởng hỗ trợ không hoàn lại của Quỹ. Qua xem xét thấy có tính khả thi và có hiệu quả môi trường tới cộng đồng nên đã được chấp nhận.
ã Cho vay với lãi suất ưu đãi
- Cho vay với lãi suất ưu đãi cho dự án vay vốn “Đầu tư bổ sung thiết bị tại phân xưởng mài hoa và đánh bóng thuỷ tinh” của Công ty Thuỷ tinh Hà Nội, Công ty này đầu tư cho một dây chuyền thiết bị hiện đại của Cộng hoà Séc khiến cho tiếng ồn và bụi giảm xuống. Quỹ đã giải ngân xong cả hai đợt cấp vốn với tổng giá trị tiền vay là 400 triệu đồng trong thời hạn 3 năm.
- Cho vay với lãi suất ưu đãi cho dự án vay vốn: “Đầu tư nhằm giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường và nâng cao sức khoẻ cho người lao động ở Công ty Giày Thượng Đình số tiền trị giá 400 triệu đồng. Nhiều hạng mục đầu tư tại đây đã nâng cao chất lượng môi trường của Công ty lên rõ rệt, sức khoẻ công nhân và hiệu quả sản xuất cũng được nâng lên đáng kể.
Cho đến nay tổng số tiền đã giải ngân đối với hai dự án trên là 800 triệu đồng, đã thu hồi hai lần trả lãi và vốn vay đến hạn, đạt ằ 17%.
Các hoạt động khác
Bên cạnh các hoạt động đầu tư hỗ trợ vốn cho các hoạt động bảo vệ môi trường, các hoạt động thân môi trường (là chức năng, nhiệm vụ của Quỹ được quy định trong Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ), Quỹ đã tiến hành các hoạt động tích cực khác, đó là:
Tham gia Hội nghị tổng kết hoạt động của dự án “Những vấn đề Môi trường trong lập kế hoạch đầu tư” VIE/97/007 với tư cách là QMT địa phương giai đoạn thử nghiệm.
Tích cực tham gia các lớp tập huấn về sản xuất sạch hơn do Trung tâm Sản xuất sạch hơn tổ chức, tham gia dự án “Triển khai trình diễn quản lý ô nhiễm tại Hà Nội” do dự án VCEP (Canada) tổ chức.
Tham gia trình diễn các kết quả hoạt động của Quỹ tại các Hội nghị về Môi trường và Phát triển bền vững do Sở Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, trình bày các hoạt động của Quỹ như là một công cụ kinh tế trong quản lý môi trường tại Hội thảo “áp dụng các công cụ kinh tế trong Quản lý Môi trường ở Việt Nam - Những vấn đề thực tiễn và áp dụng chính sách” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với dự án DEA (Đan Mạch) tổ chức.
Tổ chức hội nghị tuyên truyền giới thiệu về Quy chế quản lý và hoạt động của Quỹ với sự tham gia của đại diện các doanh nghiệp trên địa bàn Khu công nghiệp Thượng Đình, UBND các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân, các cơ quan phát thanh, truyền hình và một số đối tượng khác có liên quan, quan tâm đến lĩnh vực môi trường.
- Tham gia các hoạt động xã hội môi trường trong việc tuyên truyền công tác BVMT như tham gia vào ngày Bảo vệ mt thế giới 5/6, ngày Làm cho thế giới sạch hơn 22/9...; Các hoạt động xã hội nhân đạo như: quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt; ủng hộ cho Quỹ vì người nghèo...
Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, Quỹ đã nhận được một số yêu cầu xin hỗ trợ từ các tổ chức, doanh nghiệp nhưng không thể đáp ứng do bị giới hạn bởi Quy chế quản lý và hoạt động. Cụ thể là:
+ Đơn xin cấp kinh phí không hoàn lại cho dự án nghiên cứu khoa học do trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia làm chủ đầu tư. Theo quy chế, đây không phải là đối tượng được cấp hỗ trợ không hoàn lại.
+ Đơn xin vay vốn với lãi suất 0% từ Công ty Dệt 19/5 với dự án “Đầu tư bổ sung thiết bị môi trường trong đầu tư mở rộng thiết bị nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất”. Theo quy chế, trong giai đoạn thử nghiệm, Quỹ không áp dụng hình thức hỗ trợ lãi suất nên dự án này chưa được phê duyệt hỗ trợ.
Hiện tại Quỹ đang tiếp nhận một số hồ sơ xin hỗ trợ kinh phí cho ba phường trên địa bàn quận Thanh Xuân:
+ UBND phường Khương Đình với dự án: “San lấp ao làm sân chơi cải tạo môi trường tổ 2 cụm 4” với số vốn xin hỗ trợ là 85 triệu đồng.
+ UBND phường Khương Mai với dự án: Cải tạo đường ống thoát nước thải khu dân cư số 8 và 10 xin hỗ trợ 80 triệu đồng.
+ UBND phường Nhân Chính với dự án: “Xây dựng nhà vệ sinh công cộng cho khu dân cư xin hỗ trợ số vốn 65 triệu đồng.
Ban quản lý Quỹ đang xem xét, xét duyệt để tiến hành các thủ tục tiếp theo cho dự án sớm được triển khai.
Với những kết quả đã đạt được như trên, có thể thấy rằng QMT Hà Nội đã thực hiện đúng chức năng của mình qua việc hỗ trợ tài chính và biện pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường, đồng thời hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao quy định trong Quy chế quản lý và hoạt động của Quỹ, đó là việc hỗ trợ các dự án nhằm giảm thiểu ô nhiễm hoặc các hoạt động cải thiện môi trường triển khai trong KCN Thượng Đình; chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng thẩm định dự án của các đơn vị xin hỗ trợ vốn và nhiệm vụ khác trong kế hoạch năm 2001 của Quỹ. Các mục tiêu mà Quỹ đề ra cũng đã đạt được khá đầy đủ như: hỗ trợ được các dự án cải thiện chất lượng môi trường, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu xin hỗ trợ hoặc xin vay; việc giải ngân cho các dự án được tiến hành đúng như hạn định; mở rộng thông tin tuyên truyền về các hoạt động của Quỹ, nâng cao nhận thức, ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường, hạn chế các ảnh hưởng của việc ô nhiễm môi trường đối với sức khoẻ và đời sống, nâng cao nhận thức của các nhà tổ chức, quản lý trong việc phối hợp giữa các cơ quan ban ngành trong công tác BVMT... Đồng thời, với kết quả ban đầu hỗ trợ một số doanh nghiệp cộng đồng tại khu vực dự án điểm, QMT Hà Nội đã khẳng định ngày càng rõ nét vai trò tích cực của mình trong lĩnh vực BVMT ở địa phương.
Ưu điểm
Có thể tổng kết những ưu điểm của QMT Hà Nội trong thời gian hoạt động thử nghiệm ở Khu công nghiệp Thượng Đình như sau:
Là một QMT địa phương, QMT Hà Nội có quy mô tổ chức nhỏ, dễ dàng cho quản lý và hoạt động.
QMT Hà Nội đã nắm sát được các nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp, đơn vị có nhu cầu xin hỗ trợ vốn và đáp ứng kịp thời.
ở phạm vi địa phương, QMT Hà Nội có khả năng đánh giá và theo dõi tiến độ của dự án cao, nắm bắt được tình hình thực tế về cách thức và hiệu quả sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp, dự án.
Những hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Quỹ vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục:
- Chưa có cơ chế tài chính đảm bảo cho việc huy động các nguồn vốn khác cho Quỹ như hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đóng góp tự nguyện của các doanh nghiệp, của nhân dân... Vốn hoạt động của Quỹ chỉ được cấp từ kinh phí Nhà nước và ngân sách địa phương.
Tổ chức bộ máy là sự phối hợp của nhiều cơ quan thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, vì thế xảy ra tình trạng trách nhiệm chung không nhận được sự quan tâm đầy đủ.
Hầu hết các cán bộ chuyên viên của Quỹ đều là cán bộ kiêm nhiệm nên hiệu quả công việc chưa cao.
Quỹ chưa áp dụng các biện pháp xử phạt các vi phạm gây ô nhiễm môi trường theo Luật BVMT, theo Nghị định 26/CP, chưa gắn kết được với nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” và “Người hưởng lợi phải trả tiền”.
Tiến độ giải ngân dự án còn chậm do chưa có sự hợp tác tích cực từ phía được đầu tư, nhất là về mặt thủ tục.
Loại hình dự án cho vay bị giới hạn bởi quy chế quản lý của Quỹ.
Phạm vi hoạt động của Quỹ bị bó hẹp do chưa có nguồn chi cho công tác hành chính sự nghiệp.
chương iii
đề xuất hình thành quỹ môi trường quốc gia
sự cần thiết hình thành quỹ môi trường quốc gia
Cho đến nay, quản lý môi trường ở Việt Nam chủ yếu vẫn được thực hiện theo phương thức “mệnh lệnh và kiểm tra”, trong đó, các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải tuân thủ các tiêu chuẩn hoặc quy định pháp lý khác về môi trường, còn các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm rằng các tiêu chuẩn hoặc quy định này được tuân thủ một cách chặt chẽ. Về mặt lý thuyết, phương pháp này cũng có thể mang lại hiệu quả môi trường cao. Tuy nhiên, để đảm bảo cho phương pháp này mang lại kết quả mong muốn, nhất thiết phải đảm bảo hai điều kiện sau:
+ Có một hệ thống tiêu chuẩn môi trường rõ ràng, đầy đủ;
+ Các quy định pháp lý về môi trường phải rõ ràng và chắc chắn, phải được tuân thủ triệt để, buộc các doanh nghiệp, các đơn vị, cá nhân phải chịu trách nhiệm về những vấn đề ô nhiễm họ gây ra.
Thực tế cho thấy, ở Việt Nam, cả hai điều kiện trên hiện còn đang thiếu. Vì vậy, việc kiểm soát ô nhiễm còn chưa được tuân thủ một cách chặt chẽ. Rất ít doanh nghiệp đầu tư cho công nghệ sản xuất sạch hay cho các biện pháp chống ô nhiễm, chất lượng môi trường trong cơ sở sản xuất nói riêng và môi trường nói chung đều bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người dân, đến năng suất kinh tế.
Tất cả những điều nói trên cho thấy, đã đến lúc phải tìm kiếm một cách tiếp cận mới cho quản lý môi trường, sao cho việc kiểm soát ô nhiễm môi trường phải được khuyến khích, chất lượng môi trường phải được cải thiện, nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là phát triển bền vững.
Một trong những cách tiếp cận được nhiều người ủng hộ là tìm kiếm và áp dụng các cơ chế tài chính cho phép tạo nguồn đầu tư có hiệu quả cho các mục đích môi trường. Với tư cách là một cơ chế cấp phát tài chính mới, bảo đảm sự hỗ trợ dài hạn và bền vững cho các hoạt động thân môi trường, vai trò của QMT ngày càng được công nhận và bắt đầu được áp dụng trong thực tiễn.
Kinh nghiệm hoạt động thực tế của các quỹ môi trường trong và ngoài nước đều khẳng định sự cần thiết phải thành lập quỹ môi trường với tư cách là một thể chế tài chính cho phép đánh dấu các nguồn thu cho các mục tiêu môi trường. Trong số các hình thức khác nhau được sử dụng để đánh dấu các nguồn thu cho môi trường (ví dụ: ghi thêm mục môi trường trong cân đối ngân sách; lập tài khoản môi trường riêng trong tổng cân đối ngân sách; hay thành lập một tổ chức tài chính môi trường chuyên biệt như quỹ môi trường), thì Quỹ môi trường được coi là thích hợp nhất. Có hai lý do cơ bản:
+ QMT là công cụ cho phép quy tụ các khoản thu để đầu tư trực tiếp lại cho môi trường.
+ QMT là cơ chế tài chính giúp phối hợp nỗ lực của cả các cấp chính quyền, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư trong việc giải quyết các vấn đề môi trường.
Hơn nữa, đối với tổng thể nền kinh tế - xã hội, Quỹ môi trường là biện pháp khuyến khích phát triển bền vững, góp phần tích cực thay đổi hành vi của các doanh nghiệp theo hướng sản xuất gắn liền với bảo vệ môi trường, là công cụ hữu hiệu để thực hiện các chính sách về bảo vệ môi trường của Trung ương cũng như của địa phương, là cơ chế thu hút sự tham gia rộng rãi của dân chúng và các đoàn thể trong công tác bảo vệ môi trường.
Tóm lại, việc thành lập QMT - một thể chế tài chính để hỗ trợ đặc biệt cho các hoạt động bảo vệ môi trường là điều cần thiết. ở quy mô quốc gia, QMT sẽ thống nhất định hướng chung về chính sách quản lý bảo vệ môi trường, tập hợp được nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, có thể điều chuyển vốn giữa các vùng, mang lại hiệu quả tổng hợp và đồng bộ về cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường trong cả nước.
Những thuận lợi và khó khăn của việc thành lập quỹ môi trường quốc gia
Như đã trình bày ở phần I, QMT quốc gia BVMT là cơ chế tài chính quan trọng và cần thiết nhằm huy động mọi nguồn vốn cho các hoạt động BVMT. Điều này đòi hỏi cần có sự xem xét, đánh giá những thuận lợi và khó khăn hiện nay cho khả năng hình thành QMT quốc gia để đưa ra một mô hình Quỹ phù hợp.
Thuận lợi
Trước hết cần phải nói đến sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Những vấn đề môi trường đã được lồng ghép trong quan điểm chỉ đạo phát triển của Đảng và Nhà nước. Phát triển bền vững được khẳng định là mục đích của sự phát triển đất nước. Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững 1991 - 2000 và Chiến lược Bảo vệ Môi trường 2001 - 2010,... đã được soạn thảo thể hiện quan điểm phát triển gắn mục tiêu kinh tế với mục tiêu môi trường của nước ta.
Trong sự quan tâm chung đó, Quỹ môi trường với tư cách là một công cụ kinh tế quản lý môi trường cũng đã được đầu tư nghiên cứu để trở thành một cơ chế tài chính huy động các nguồn vốn phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật BVMT của nước ta tương đối hoàn chỉnh, bao gồm Luật Bảo vệ Môi trường 27/12/1993 và các văn bản dưới Luật quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của các đối tượng sử dụng tài nguyên cũng như đối tượng gây ô nhiễm môi trường, là điều kiện pháp lý thuận lợi để huy động nguồn vốn trong dân cư và từ các doanh nghiệp cho mục đích khôi phục và cải thiện chất lượng môi trường.
Ngoài hai thuận lợi cơ bản nói trên, nước ta còn có được những ưu thế khác là điều kiện tốt để có một mô hình QMT phù hợp và mang lại hiệu quả cao, đó là:
Nước ta là quốc gia đang phát triển, và trong xu thế hội nhập toàn cầu trong tất cả các lĩnh vực như hiện nay, chúng ta sẽ nhận được nhiều nguồn vốn cũng như nhiều hình thức hỗ trợ cho nhiều hoạt động phát triển, trong đó có cả hỗ trợ cho lĩnh vực môi trường. Đây sẽ là một nguồn lớn và quan trọng cho Quỹ quốc gia bảo vệ môi trường.
Hình thức quản lý môi trường bằng các công cụ kinh tế, cụ thể là cơ chế Quỹ môi trường đã được áp dụng ở nhiều quốc gia. Là nước đi sau, chúng ta có thể phân tích, đánh giá và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước để có được mô hình và phương thức quản lý, sử dụng nguồn vốn của Quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất.
Khó khăn
Những khó khăn mà chúng ta gặp phải khi thiết kế và đưa vào sử dụng trong thực tế mô hình Quỹ môi trường quốc gia là:
Trình độ phát triển kinh tế: Hiện tại nước ta được đánh giá là quốc gia đang phát triển, nền kinh tế còn yếu kém. Vì vậy, vốn đầu tư cho các lĩnh vực nói chung và cho lĩnh vực bảo vệ môi trường nói riêng là rất hạn hẹp. Hiện tại, tỉ lệ phân bổ của nước ta cho công tác bảo vệ môi trường trong ngân sách Chính phủ là 0,03% (theo “Quỹ Môi trường địa phương và ngành ở Việt Nam trong giai đoạn kinh tế chuyển đổi”). Đây là một trong những khó khăn của việc thành lập một QMT quốc gia khi mà quy mô phát triển của nền kinh tế và khả năng đầu tư cho môi trường là quá thấp.
Trình độ nhận thức: Mặc dù công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường đã bắt đầu được quan tâm nhưng trình độ nhận thức của các cấp, các ngành và người dân nói chung về các vấn đề môi trường và sự cần thiết phải đầu tư cho các mục đích môi trường vẫn còn rất thấp. Việc gắn quá trình phát triển với bảo vệ môi trường còn chưa thực sự tồn tại trong nhận thức và cuộc sống của người dân. Đây sẽ là khó khăn lớn khi mà Quỹ quốc gia bảo vệ môi trường là cơ chế tài chính được thiết lập để huy động mọi nguồn vốn cho mục đích bảo vệ môi trường trong đó có nguồn vốn trong nhân dân và vốn từ các doanh nghiệp.
Sự yếu kém của khuôn khổ chính sách và khả năng áp dụng các nguyên tắc chỉ đạo trong các chiến lược, chính sách phát triển của Nhà nước vào thực tiễn. Trên lý thuyết, Quỹ môi trường đã được công nhận về vai trò và sự cần thiết đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, để đưa mô hình Quỹ môi trường vào thực tế, chắc chắn sẽ còn rất nhiều khó khăn và sự chậm trễ.
Hệ thống pháp luật Bảo vệ môi trường với các văn bản pháp quy vừa thiếu, vừa chồng chéo, lại không đồng bộ và hiệu lực thi hành còn quá yếu. Trong điều kiện như vậy, để có một mô hình Quỹ BVMT quốc gia hoạt động có hiệu quả là rất khó, bởi vì cơ chế tài chính này không được sự hỗ trợ hiệu quả từ công cụ pháp lý là hệ thống Luật.
Môi trường chưa được xác định là một ngành kinh tế - kỹ thuật. Chúng ta đều biết, môi trường có liên quan mật thiết và có tác động trực tiếp đến tất cả các ngành, các vùng, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Thế nhưng hiện nay các hoạt động môi trường chưa được tổ chức một cách rõ ràng, có hệ thống, chưa được coi như một ngành kinh tế - kỹ thuật riêng biệt như sự cần thiết vốn có của nó mà mới chỉ được xem xét như là các hoạt động phụ trợ cho các ngành kinh tế khác có liên quan.
Ngoài ra cũng cần phải kể đến những khó khăn cản trở khác cho việc hình thành Quỹ Môi trường quốc gia, đó là: Các công cụ kinh tế quản lý môi trường tuy đã được áp dụng nhưng hiệu quả mang lại không cao; Tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp và quan niệm cho rằng đầu tư cho môi trường chỉ dẫn đến tăng chi phí mà không hề mang lại hiệu quả về lợi ích kinh tế; Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường các cấp chưa đáp ứng được yêu cầu...
Tóm lại, có thể nói việc thành lập Quỹ quốc gia bảo vệ môi trường hiện tại đang có cả những khó khăn và thuận lợi. Điều quan trọng nhất là phải tạo ra cơ chế để phối hợp sự quan tâm và cách nhìn nhận đúng đắn của mọi đối tượng có liên quan để có thể thiết lập được mô hình Quỹ quốc gia bảo vệ môi trường thích hợp nhất đối với đất nước.
mô hình quỹ môi trường quốc gia
QMT là một công cụ hữu hiệu để thực hiện việc huy động vốn từ các nguồn nhằm cho vay ưu đãi các hoạt động bảo vệ môi trường. Vai trò và tầm quan trọng của Quỹ đã được đề cập ở các phần trên, vấn đề đối với nước ta lúc này là lựa chọn mô hình Quỹ quốc gia BVMT phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, bởi đây là vấn đề có tính quyết định cho sự thành công của việc thực thi các chính sách huy động và sử dụng nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường. ở nước ta hiện nay, QMT quốc gia chưa ra đời nhưng đã được đầu tư nghiên cứu thông qua các đề tài khoa học và có thể sẽ sớm được hình thành. Mô hình QMT quốc gia BVMT phải được đặt trong tổng thể các điều kiện về kinh tế, xã hội, điều kiện về tổ chức và trình độ quản lý để phát huy tốt nhất vai trò tích cực đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Dưới đây là mô hình đề xuất Quỹ quốc gia cho mục đích bảo vệ môi trường.
Mục tiêu của Quỹ môi trường quốc gia
QMT quốc gia được sử dụng nhằm mục đích huy động các nguồn vốn để đầu tư xử lý, khắc phục các sự cố môi trường và hỗ trợ đầu tư các dự án bảo vệ môi trường.
Với mục tiêu như vậy, QMT quốc gia có các chức năng và nhiệm vụ:
Đầu tư xử lý sự cố môi trường: Khi các sự cố môi trường nghiêm trọng như hoả hoạn, thiên tai, tràn dầu... xảy ra, theo luật định, người gây tổn hại môi trường phải chịu trách nhiệm đền bù, chi trả để khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, những khoản ứng cứu ban đầu cần phải được cung cấp kịp thời trong khi việc xin kinh phí Nhà nước một cách nhanh chóng và đầy đủ là không hề dễ dàng. Trong trường hợp này, QMT sẽ chủ động sử dụng một phần vốn của mình để hỗ trợ cho việc khắc phục các sự cố trên một cách hiệu quả thông qua cung cấp tài chính trực tiếp cho các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ khắc phục sự cố môi trường vay với lãi suất thấp.
Hỗ trợ cho các dự án bảo vệ môi trường: Các dự án loại này bao gồm các hoạt động dịch vụ mang tính hỗ trợ như các chương trình nghiên cứu, đào tạo, giáo dục và truyền thông, xây dựng các cơ sở hạ tầng môi trường như hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải tập trung cho các khu công nghiệp. Hiện nay, mọi chi phí cho hoạt động đầu tư môi trường đều lấy từ ngân sách Nhà nước. QMT ra đời sẽ giúp giảm bớt một phần đáng kể chi phí cho môi trường từ ngân sách nhà nước và huy động được các nguồn vốn của các địa phương và doanh nghiệp.
Hỗ trợ cho vay với lãi suất ưu đãi đối với các dự án xây dựng các khu xử lý chất thải và mua các thiết bị làm sạch hay thay thế bằng công nghệ sạch. Các địa phương, doanh nghiệp gây ô nhiễm thường không muốn vay tín dụng ngân hàng thương mại để đầu tư trong lĩnh vực này vì không mang lại lợi nhuận. Do đó, QMT quốc gia không những có vốn vay mà còn có thể cho vay với lãi suất thấp hơn mức thị trường và các khoản ưu đãi khác, thực chất là một dạng trợ giá.
Hỗ trợ các dự án bảo tồn, khôi phục các hệ sinh thái có tầm quan trọng cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội và duy trì tính đa dạng sinh học, bao gồm các vườn quốc gia, các khu bảo vệ và dự trữ thiên nhiên, các hệ sinh thái đất ngập nước ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và ven biển, các hệ sinh thái rừng ngập mặn,...
Tham gia hỗ trợ xây dựng các công trình cần thiết để bảo vệ môi trường có khả năng thu hồi vốn.
Nguồn tài chính cho Quỹ môi trường quốc gia
Nguồn vốn của Quỹ môi trường quốc gia bao gồm vốn điều lệ và vốn bổ sung hàng năm.
* Vốn điều lệ được hình thành từ các nguồn sau:
Vốn góp của ngân sách Nhà nước;
Vốn góp của các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh kể cả liên doanh với nước ngoài;
Vốn góp tự nguyện của các cá nhân, các tổ chức trong nước và quốc tế.
* Vốn bổ sung hàng năm được hình thành từ các nguồn sau:
- Thuế, phí, lệ phí và các khoản tiền phạt do gây ô nhiễm và tổn hại môi trường. Đây là nguồn tài chính dễ được chấp nhận và dễ thuyết minh để xuất vốn đầu tư trở lại cho môi trường theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Hiện nay, nghị định 26/CP về xử phạt hành chính các vi phạm pháp luật BVMT đã được áp dụng để xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Các khoản thu tiền phạt đều được tập trung trả vào ngân sách Nhà nước. Đây sẽ là nguồn kinh phí chủ yếu của QMT quốc gia.
- Kinh phí Nhà nước: Đây là số kinh phí mà Nhà nước dành riêng cho một số dự án môi trường nhất định, thông thường là cho các dự án nghiên cứu hoặc ứng dụng đánh giá tác động môi trường, các chương trình đào tạo, giáo dục, truyền thông, giải quyết sự cố hoặc các trường hợp bất khả kháng về môi trường.
- Khoản đóng góp được trích từ doanh thu của các doanh nghiệp. Đây là khoản tiền mà các doanh nghiệp gửi vào Quỹ để khi có sự cố về ô nhiễm môi trường hoặc khi doanh nghiệp có nhu cầu xây dựng công trình xử lý chất thải thì được phép rút ra sử dụng cho mục đích của mình. Nguồn thu này ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong các nguồn tài chính cho QMT vì các doanh nghiệp đã bắt đầu nhận thấy hiệu quả và lợi ích kinh tế của việc đầu tư cho BVMT.
Trái phiếu môi trường: Trong trường hợp cần lượng vốn lớn để đầu tư xây dựng các công trình cải tạo môi trường, QMT có thể trình Chính phủ cho phép phát hành trái phiếu môi trường để huy động vốn.
- Các nhà đầu tư tư nhân và những khoản đóng góp tự nguyện: Khi nhận thức môi trường được nâng cao, ngày càng có nhiều nhà đầu tư tư nhân cũng như các tổ chức tài chính và ngân hàng thương mại tự nguyện góp vốn vào QMT. Ngoài ra cũng có một phần đóng góp của các tổ chức cho quỹ dưới hình thức cho vay không lãi hoặc với lãi suất thấp.
- Tiền lãi từ các khoản cho vay đầu tư của Quỹ: Thông qua hình thức cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để xây dựng hệ thống xử lý chất thải, Quỹ thu được một khoản tiền lãi nhất định bổ sung vào nguồn vốn của mình.
Đổi nợ lấy thiên nhiên: Đối với những địa phương không có khả năng trả nợ tín dụng và phải vay ngân hàng Nhà nước, ngân hàng sẽ tính chuyển các khoản nợ đó thành tiền và yêu cầu các địa phương cam kết chuyển số tiền đó vào QMT quốc gia để sử dụng cho việc bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Phương thức chuyển đổi này đang ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới vì nó tạo ra số tiền cho QMT cao hơn số tiền có thể được huy động để trả nợ, chưa kể đến hiệu quả tích cực đối với bảo vệ môi trường.
Tiền ký quỹ của các tổ chức khai thác tài nguyên để khôi phục môi trường.
- Tài trợ hoặc vốn vay từ các tổ chức tài chính đa phương: Các ngân hàng phát triển đa phương như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu á (ABD), châu Phi (AFDB), Liên Mỹ... thường cho các nước thành viên vay vốn đầu tư phát triển dài hạn hoặc các chương trình cải cách hành nghề. Vốn vay cơ bản phải được hoàn trả, nhưng những điều khoản ưu tiên như lãi suất thấp, hạn trả chậm... được tính thành tiền đưa vào các QMT. Cũng có nhiều chương trình cấp vốn không hoàn lại được gửi kinh phí vào QMT.
- Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) và các Quỹ tài trợ đầu tư xanh khác: Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) được thành lập vào cuối năm 1990 để trợ giúp tài chính cho các nước phát triển thực hiện các dự án có ý nghĩa môi trường ở mức độ toàn cầu. Quỹ được hình thành bởi đóng góp tài chính của các nước phát triển, được quản lý và phân bổ bởi ba cơ quan quốc tế là Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình phát triển của LHQ (UNDP) và Chương trình môi trường của LHQ (UNEP).
- Quỹ động thực vật hoang dã thế giới (WWF) và một số quỹ uỷ thác khác đầu tư vào QMT để thực hiện các chương trình bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Phương thức sử dụng và quản lý nguồn vốn
QMT quốc gia hoạt động theo nguyên tắc vì lợi ích cộng đồng và phi lợi nhuận nhưng phải bảo đảm quay vòng vốn, bù đắp được chi phí quản lý và tăng quy mô vốn. Vì vậy, Quỹ cần phải có một chiến lược sử dụng và quản lý vốn dài hạn có hiệu quả. Chiến lược này phải phù hợp với các chính sách môi trường quốc gia và phải có khả năng thay đổi theo những biến động về kinh tế - xã hội và môi trường. Cần sắp xếp thứ tự ưu tiên các loại sự cố môi trường, các loại dự án ưu tiên trong từng giai đoạn, trên cơ sở đó, xác định mức kinh phí sử dụng để khắc phục các sự cố. Đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ở Trung ương, giữa Trung ương với địa phương và giữa các ngành, các cấp.
Có một chiến lược sử dụng và quản lý vốn rõ ràng, Quỹ sẽ dễ dàng thu hút các nguồn tài trợ và đầu tư dài hạn.
Đối tượng được vay vốn từ QMT quốc gia
QMT quốc gia hoạt động dưới hình thức quỹ luân chuyển. Quỹ xem xét tài trợ cho các dự án tuyên truyền bảo vệ môi trường, các hoạt động nghiên cứu, đào tạo nhằm tăng cường chính sách, nâng cao năng lực quản lý về bảo vệ môi trường. Quỹ cũng xem xét cho vay ưu đãi các dự án đầu tư nhằm mục đích bảo vệ môi trường.
Những điều kiện cần có để các dự án được Quỹ xét cấp cho vay vốn:
Được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành;
Đầu tư để mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ hoặc chuyển nơi sản xuất nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường hoặc đầu tư cho các dự án bảo vệ đa dạng hệ sinh thái;
Có khả năng thu hồi vốn;
Có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc được bên thứ ba bảo lãnh.
Đối tượng được cho vay ưu đãi:
+ Những cơ sở đang hoạt động gây ô nhiễm môi trường quá mức cho phép, cần đầu tư đổi mới công nghệ hoặc mua sắm thiết bị xử lý ô nhiễm hoặc phải chuyển đổi địa điểm sản xuất để tránh gây ô nhiễm môi trường cho dân cư.
+ Những cơ sở sản xuất mới cần vốn đầu tư cho công nghệ sạch hoặc mua sắm thiết bị xử lý ô nhiễm.
+ Các dự án trồng rừng, bảo vệ sự đa dạng hệ sinh thái nếu chưa được tài trợ từ các nguồn vốn ưu đãi khác.
Đối tượng được vay với lãi suất thị trường: Những dự án liên quan đến hoạt động môi trường mà không thuộc diện nói trên sẽ được vay với mức lãi suất do Hội đồng quản lý Quỹ quyết định phù hợp với khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Cơ chế giải ngân
QMT quốc gia có các hình thức giải ngân: cấp không hoàn lại, cấp kinh phí cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc không lãi suất, cấp kinh phí cho các trường hợp khẩn cấp (sẽ hoàn trả sau). Ngoài ra còn có một số hình thức khác như:
Hỗ trợ một phần lãi suất vốn vay ngân hàng của cơ sở sản xuất: Trường hợp doanh nghiệp phải khắc phục sự cố môi trường nhưng khả năng tài chính có hạn và phải vay vốn ở các ngân hàng thương mại, Quỹ có thể chia sẻ một phần rủi ro và trách nhiệm quản lý vốn vay với ngân hàng thông qua hình thức hỗ trợ một phần lãi suất vay vốn ngân hàng.
QMT đảm bảo vốn vay: QMT quốc gia giúp trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay và lãi suất cho ngân hàng trong trường hợp dự án không có khả năng trả. Cơ chế này đòi hỏi phải đánh giá kỹ mức độ rủi ro của dự án đồng thời phải có nhiều điều kiện rất chặt chẽ.
Cho vay vốn thông qua hệ thống kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng trung gian: Trách nhiệm về thẩm định và quản lý tài chính sẽ thuộc về Kho bạc hoặc ngân hàng, còn Quỹ chỉ chịu trách nhiệm về kỹ thuật môi trường kinh tế. Cơ chế này có thể thích hợp với điều kiện về tổ chức và cán bộ hiện nay của Việt Nam nhưng cần lưu ý đến trách nhiệm giám sát tài chính của ngân hàng, Kho bạc vì khoản vốn cho vay không phải của ngân hàng.
kết luận và kiến nghị
Môi trường với tư cách là một yếu tố cấu thành quyết định sự phát triển bền vững đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam thường xuyên quan tâm trong thập kỷ vừa qua cùng với tiến trình đổi mới kinh tế. Sự quan tâm này được biểu hiện cụ thể trong việc đề ra các chủ trương, chính sách mới nhằm tăng cường thể chế và bộ máy quản lý, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong việc triển khai hàng loạt các hoạt động cụ thể ở tầm quốc gia và địa phương cũng như trong việc ban hành và thực hiện Luật Bảo vệ Môi trường, Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững 1991 - 2000 và gần đây nhất là Chiến lược Bảo vệ Môi trường 2001 - 2010.
Để bảo vệ môi trường một cách có hiệu quả, Nhà nước cần sử dụng đồng thời các công cụ quản lý: chiến lược và chính sách, công cụ pháp lý và công cụ kinh tế. Với nhiều ưu điểm: linh hoạt, mềm dẻo và phù hợp với nền kinh tế thị trường, các công cụ kinh tế quản lý môi trường ngày càng được sử dụng rộng rãi và phát huy vai trò của mình trong nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Trong số đó, Quỹ Môi trường được coi là cơ chế tài chính phù hợp nhất để huy động nguồn lực từ mọi đối tượng trong xã hội cho mục đích bảo vệ môi trường.
Quỹ Môi trường đã trở thành một công cụ hữu ích ở nhiều nước trên thế giới để thực hiện các chính sách, chương trình bảo vệ môi trường. Việc thành lập Quỹ Môi trường bản thân nó đã thể hiện quyết tâm theo đuổi chiến lược phát triển bền vững, góp phần tích cực tăng cường nhận thức của dân chúng về nghĩa vụ bảo vệ môi trường và tạo lập ý thức đầu tư phát triển gắn liền với bảo vệ môi trường.
Vì vậy có thể khẳng định với những tác dụng tích cực đối với môi trường và bảo vệ môi trường, mô hình Quỹ môi trường cần phải được xây dựng và đi vào hoạt động trong thực tiễn.
Dưới đây là một số kiến nghị:
Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là quan trọng và cần thiết phải được sử dụng trong thực tiễn. Điều quan trọng là phải đảm bảo có các thể chế, các chính sách kinh tế, luật pháp, quy chế thống nhất, có hiệu lực trong cả nước và một cơ sở thông tin môi trường phù hợp.
Cần sử dụng phối hợp các công cụ kinh tế với công cụ pháp lý và các công cụ khác để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Công cụ kinh tế không thể được thực hiện một cách thành công và đạt kết quả tốt nhất nếu không được hỗ trợ bởi hệ thống tiêu chuẩn và khả năng giám sát, cưỡng chế thi hành.
áp dụng các công cụ k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V8414.DOC