Tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một trong những quốc gia đang phát triển với hàng loạt những ưu tiên cho phát triển kinh tế, Việt Nam không tránh khỏi những mâu thuẫn mà các quốc gia khác thường gặp phải, đó là những vấn đề môi trường nảy sinh khi các chỉ số kinh tế tăng vọt. Cùng với sự phát triển về kinh tế đó là vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không hợp lý gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam hầu như tất cả các thành phố có hoạt động công nghiệp phát triển đều đang trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Trước tình trạng đáng báo động đó thì việc tìm giải pháp, hướng đi phù hợp và mang lại hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường là thực sự cần thiết.
Một trong những hình thức quản lý môi trường thu được hiệu quả cao là quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community – Based Environment Manager – CBEM). Mô hình này là một phương tiện cho người dân trong cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Quá trình này đưa ra một giới hạn đầy đủ về các bê...
82 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một trong những quốc gia đang phát triển với hàng loạt những ưu tiên cho phát triển kinh tế, Việt Nam không tránh khỏi những mâu thuẫn mà các quốc gia khác thường gặp phải, đó là những vấn đề môi trường nảy sinh khi các chỉ số kinh tế tăng vọt. Cùng với sự phát triển về kinh tế đó là vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không hợp lý gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam hầu như tất cả các thành phố có hoạt động công nghiệp phát triển đều đang trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Trước tình trạng đáng báo động đó thì việc tìm giải pháp, hướng đi phù hợp và mang lại hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường là thực sự cần thiết.
Một trong những hình thức quản lý môi trường thu được hiệu quả cao là quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community – Based Environment Manager – CBEM). Mô hình này là một phương tiện cho người dân trong cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Quá trình này đưa ra một giới hạn đầy đủ về các bên tham gia, từ đó phá vỡ những rào cản giữa các bên liên quan và đưa ra những mục tiêu rõ ràng, tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào quá trình quản lý và xác lập khả năng tự trị. Do đó, đây là một cơ chế quan trọng cho sự tham gia từ đó tạo hiệu quả cao trong việc xây dựng năng lực quản lý của chính quyền địa phương.
Hiện nay, mô hình quản lý này đã và đang được áp dụng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Các mô hình này qua thực tế đã thể hiện nhiều ưu điểm mà công tác quản lý nhà nước không đạt được. Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng được áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như các mô hình quản lý bảo tồn, mô hình thu gom rác tại các phường, xã...
Ở Việt Nam, mô hình người dân tham gia vào hoạt động quản lý môi trường không phải là hiếm thấy nhưng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng theo đúng nghĩa của nó thì không nhiều. Cần thiết có sự nghiên cứu, tìm hiểu những hình thức mà người dân tham gia vào quản lý môi trường ở nước ta và thực trạng áp dụng hình thức quản lý này.
Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng nhằm bảo vệ loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà là một mô hình tiêu biểu, điển hình cho hình thức quản lý này. Mô hình này đang được áp dụng ở Vườn quốc gia Cát Bà và đang tỏ ra là rất hiệu quả và có nhiều ưu việt, xứng đáng được nghiên cứu xem xét để các vùng khác học tập kinh nghiệm, và quảng bá rộng dãi.
Vì vậy trong khuôn khổ của luận văn em quyết định lựa chọn đề tài “Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà”
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài này nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
- Đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý dựa vào cộng đồng
- Nghiên cứu và phân tích, mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc đầu trắng dựa vào người dân ở Vườn quốc gia Cát Bà.
- Đánh giá những thành tựu, những tồn tại, khó khăn thuận lợi mà mô hình gặp phải và đề xuất một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình.
3. ` Phương pháp nghiên cứu.
-Tổng hợp tài liệu, số liệu, phân tích , đánh giá.
- Khảo sát thực địa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian địa điểm nghiên cứu: Vườn quốc gia Cát Bà bao gồm cả vùng lõi và vùng đệm, thời điểm nghiên cứu là năm 2006.
5. Nội dung nghiên cứu.
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý môi trường dựa vào cộng đồng và thực trạng quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Chương II: Nghiên cứu mô hình quản lý dựa vào cộng đồng nhằm bảo tồn loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà.
Chương III: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình, những thuận lợi, khó khăn và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG.
1.1.1 Một số khái niệm.
* Khái niệm về tài nguyên sở hữu chung
Tài nguyên sở hữu chung là tài nguyên được quản lý và sử dụng bởi một nhóm người (không phải một người). Để quản lý tài nguyên này thì nhóm người quản lý phải đặt ra các luật lệ và giám sát thực hiện các luật lệ này.
Đối với tài nguyên sở hữu chung vấn đề luật lệ là rất quan trọng. Bởi vì khi dân số phát triển hay các yếu tố về luật bị phá vỡ thì hệ thống khác sẽ không vận hành hiệu quả nữa và chuyển sang một dạng tài nguyên khác được gọi là tài nguyên tự do tiếp cận. Khi đó việc sử dụng tài nguyên này không bị loại trừ và có tính cạnh tranh là cho việc khai thác tài nguyên không bị ràng buộc, mạnh ai người ấy khai thác, khai thác cho tới khi không thể khai thác được nữa thì thôi.
* Khái niệm cộng đồng.
Có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng thông thường, cộng đồng được hiểu là tập hợp những người có chung lịch sử hình thành, có chung địa bàn sinh sống, có cùng luật lệ và quy định hay tập hợp những người có cùng những đặc điểm tương tự về kinh tế- xã hội và văn hoá.
Cũng có khái niệm khác, cộng đồng là một nhóm người có chung sở thích và lợi ích, có chung địa bàn sinh sống, có chung ngôn ngữ (hoặc loại ngôn ngữ) và có những đặc điểm tương đồng.
Tuỳ theo lịch sử hình thành hay đặc điểm của cộng đồng, có các loại cộng đồng sau:
- Cộng đồng người địa phương, là những người có quan hệ gần gũi với nhau, thường xuyên gặp mặt ở địa bàn sinh sống.
- Cộng đồng những người có chung quan tâm đặc điểm, tính chất (cộng đồng các nhà nghiên cứu khoa học, cộng đồng doanh nhân...)
- Cộng đồng những người có chung những quan tâm đặc điểm, tính chất, màu da (cộng đồng người dân tộc thiểu số, cộng đồng người da màu...)
- Cộng đồng có quan niệm chung về các vấn đề quan hệ xã hội, có chung mục tiêu, quan điểm chung về giá trị, cùng tham gia vào quá trình ra quyết định (cộng đồng ASEAN, các nước Pháp ngữ...)
* Khái niệm sự tham gia của cộng đồng.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tham gia của cộng đồng. Nhưng theo tổ chức phát triển quốc tế Canada quan niệm :
Tham gia cộng đồng là thu hút các nhóm đối tượng mục tiêu vào các khâu của chu trình dự án từ thiết kế, thực hiện và đánh giá dự án với mục tiêu nhằm xây dựng năng lực của người nghèo để duy trì được cơ sở hạ tầng và kết quả mà dự án đã tạo ra được trong quá trình thực hiện, và tiếp tục phát triển sau khi tổ chức hay cơ quan tài trợ rút khơi dự án . Cách tiếp cận này đựơc sử dụng khá phổ biến trong các lĩnh vực, các dự án trên thế giới.
Trước những năm 80, các hoạt động, chương trình có mục tiêu phục vụ cộng đồng đều được đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện từ cơ quan trung ương. Thời kì này người ta mới khuyến khích sự tham gia của các ngành vào các chương trình, hành động. Sự hiện diện của cộng đồng là rất ít. Vì thề tính bền vững của chương trình hay hoạt động không được đảm bảo. Cách tiếp cận sự tham gia của cộng đồng được phát triển mạnh mẽ vào những năm 80-90 của thế kỷ 20, đặc biệt là áp dụng cho các chương trình của tổ chức Phi chính phủ, chương trình thí điểm liên quan nhiều đến cộng đồng như phát triển đô thị và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, chương trình bảo vệ môi trường...Cách tiếp cận phát triển định hướng vào cộng đồng hay còn gọi là phát triển dựa trên cộng đồng được áp dụng phổ biến từ năm 2000. Các chương trình, dự án phát triển định hướng cộng đồng có đặc điểm là trao cho cộng đồng quyền kiểm soát quá trình ra quyết định và đóng góp nguồn lực vào việc lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện, vận hành, bảo trì những cơ sở hạ tầng.
* Khái niệm về quản lý môi trường dựa vào cộng đồng(CBEM).
Quản lý cộng đồng là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở một vấn đề môi trường cụ thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá nhân và tổ chức cần thiết để giải quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng các công cụ sẵn có để tập trung cải tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó hay tạo ra lợi ích về môi trường như dự án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu vực... Và đồng quản lý tài nguyên đó thông qua sự hợp tác giữa các đối tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân cư.
Phương pháp quản lý môi trường dựa vào cộng đồng là lấy cộng đồng làm trọng tâm trong việc quản lý môi trường. Đưa cộng đồng tham gia trực tiếp vào hệ thống quản lý môi trường, họ trực tiếp tham gia trong nhiều công đoạn của quá trình quản lý, từ khâu bàn bạc ban đầu tới việc lên kế hoạch thực hiện, triển khai các hoạt động và nhận xét, đánh giá sau khi thực hiện. Đây là hình thức quản lý đi từ dưới lên, thực hiện theo nguyện vọng, nhu cầu thực tế và ý tưởng của chính cộng đồng trong đó các tổ chức quần chúng đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ thúc đẩy cho các hoạt động cộng đồng.
1.1.2 Vai trò của người dân trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng.
Sự tham gia của người dân địa phương làm cho dự án phù hợp hơn với đặc điểm nhu cầu của địa phương. Thông qua việc tham khảo ý kiến của người dân, hay người dân đóng góp ý kiến sẽ cung cấp những thông tin có giá trị cho dự án. Do vậy dự án dễ được chấp nhận và khả năng bền vững cao hơn.
Bởi lẽ, họ có kiến thức về địa bàn sinh sống, chính vì vậy họ nắm rõ các đặc thù điều kiện cũng như vấn đề văn hoá, xã hội ở địa bàn, nắm rõ các nhu cầu cũng như các phương tiện hiện có của quản lý. Các quyết định có sự tham gia của cộng đồng sẽ trở nên có cơ sở thực tiễn và đây là căn cứ đảm bảo cho tính khả thi của các quyết định về quản lý môi trường về mặt kinh tế. Chẳng hạn, việc đề ra phí thu gom chất thải không thể nào áp dụng một mức như nhau cho tất cả các địa phương mà phải phân cấp cho các địa phương quyết định trên cơ sở lấy ý kiến cộng đồng.
Người dân tham gia vào các dự án giúp cho dự án có thể tiếp tục vận hành tốt, và có hiệu quả sau khi dự án kết thúc. Bởi vì hoạt động của dự án đem lại lợi ích cho họ. Và có thể được nhân rộng ra nhằm giải quyết vấn đề trên phạm vi rộng hơn.
Sự tham gia của người dân sẽ góp phần điều tiết trong sử dụng nguồn lực đảm bảo tính bền vững trong quản lý môi trường, tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hiệu quả nhất khi biết vận dụng kiến thức của người dân và huy động được các nguồn lực tài chính sẵn có trong cộng đồng vào việc làm kinh tế, từ đó tạo có hội tăng thu nhập cho người dân.
Có sự tham gia của cộng đồng sẽ đảm bảo giám sát và đánh giá các chương trình liên quan đến quản lý tổng hợp, duy trì được các hoạt động thông qua hợp tác trong cộng đồng và thể chế hoá sự tham gia của cộng đồng. Những dự án từ khi bắt đầu đến khi vận hành thì đều phải gắn với môi trường dân cư trong vùng, người dân trong vùng là người hiểu rõ nhất những nảy sinh, những hiện tượng khi dự án hoạt động. Họ sẽ là người đưa ra những đánh giá trung thực nhất, sát sao nhất về dự án qua đó đánh giá được thực chất của dự án
Sự tham gia của cộng đồng vào các dự án sẽ giải quyết được vấn đề nhận thức của người dân thông qua sự tác động lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng. Người dân sống trong một cộng đồng nên họ dễ dàng chia sẻ và bảo ban nhau vì vậy khi có người vi phạm hoặc đi ngược lại hoạt động của quản lý thì họ là người tác động đem lại hiệu quả nhất.
1.1.3 Các nguyên tắc trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng.
Nguyên tắc: Xác định danh giới rõ ràng.
Nguyên tắc này cho rằng việc tổ chức quản lý dựa vào cộng đồng phải được phân công rõ dàng cụ thể tới từng đối tượng. Xác định được đối tượng cần quản lý, từ đó tiếp tục chia nhỏ đối tượng quản lý để dễ phân chia công việc. Phải phân công rõ dàng từng công việc tới từng đối tượng. Nếu không dễ dẫn tới tình trạng không biết được mình quản lý cái gì hay đối tượng thuộc ai quản lý. Tránh tình trạng “Cha chung không ai khóc”. Trong quá trình phân công công việc, phân công trách nhiệm phải chú ý là phân công được tất cả công việc tới tất cả các đối tượng tham gia không để sảy ra tình trạng người muốn tham gia không được tham gia hay công việc dồn quá nhiều vào một người như thế dễ sảy ra xung đột trong quản lý.
Nguyên tắc: Cân đối giữa chi phí và lợi ích
Để lôi kéo được người dân tham gia vào việc quản lý môi trường cần có cơ chế tăng thu nhập cho họ. Tức là cần gắn kết giữa mục tiêu quản lý môi trường với tăng thu nhập của người dân. Người dân tham gia vào việc quản lý tích cực khi họ tìm thấy ở đó lợi ích đem lại cho họ mà ngoài lợi ích gián tiếp là các lợi ích trực tiếp thu được hàng ngày. Khi người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế mà do dự án tổ chức thì họ phải thu được thu nhập từ hoạt động này để duy trì đời sống của mình và gia đình, vì thế mà các dự án ngoài việc đầu tư cho các hoạt động phục vụ mục đích chính cần hỗ trợ người dân ở đó phát triển kinh tế đảm bảo người dân tham gia là có lợi ích kinh tế ví dụ như: hỗ trợ kĩ thuật, giống cây, tiêu thụ sản phẩm...
Nguyên tắc: Được đưa ra, được tiếp thu ý kiến
Cộng đồng dân cư được phép và được khuyến khích đưa ra ý kiến của mình trong các cuộc thảo luận. Họ được đưa ra những đánh giá về hoạt động của hệ thống quản lý. Người dân địa phương thông qua việc đóng góp ý kiến sẽ cung cấp cho cơ quan quản lý cao hơn những thông tin, những phản hồi từ phía họ. Những vấn đề mà người dân có thể sẽ gặp phải khi hệ thống đi vào vận hành. Những ý kiến từ phía người dân là rất quan trọng vì khi hệ thông hoạt động sẽ ảnh hưởng tới lợi ích, cuộc sống của họ và không ai hơn họ là người cung cấp thông tin đúng đắn, sát thực nhất. Đồng thời, người dân địa phương là người sống lâu ở địa bàn, họ có kinh nghiệm về địa bàn sinh sống vì vậy họ có thể đưa ra những giải pháp đơn giản mà hiệu quả cho những vấn đề đặt ra.
Nguyên tắc: Người dân tham gia giám sát
Mọi hoạt động, muốn thực hiện có hiệu quả cần có sự giám sát, và lẽ tất nhiên khi người dân tham gia vào hệ thống quản lý thì họ cũng có quyền được giám sát. Sự giám sát của người dân là hoạt động giám sát đối với hệ thống quản lý cấp trên giám sát đối với đối tượng quản lý, và giám sát lẫn nhau. Người dân tham gia giám sát giúp cho dự án hoạt động hiệu quả về thời gian, chất lượng. Giám sát của người dân là một nguyên tắc giúp cho dự án vận hành tốt, đi chệch hướng khi dự án kết thúc, không còn sự giám sát từ phía dự án. Sự giám sát của dân giúp phản ánh kịp thời những sai phạm của các khâu khi thực hiện dự án vấp phải, nêu nên mong muốn của dân trong quá trình triển khai dự án.
Nguyên tắc: Thưởng phạt rõ ràng.
Những cá nhân trong cộng đồng chịu sự giám sát của các tổ chức, đặc biệt là sự giám sát của cộng đồng mình về các hoạt động của mình. Nếu có hành vi vi phạm thì sẽ bị phạt, còn nếu lập công thì sẽ được thưởng. Những cá nhân không tham gia vào hoạt động của dự án có thể bị loại trừ khỏi các hoạt động công cộng khác, đây là cơ chế để khuyến khích người dân tham gia vào mô hình quản lý. Đồng thời cuốn hút người dân tham gia nhiệt tình hơn. Nhưng cơ chế thưởng phạt phải thật rõ ràng và đủ khả năng khuyến khích và lôi kéo sự quan tâm của mọi người.
Nguyên tắc: Công nhận quyền tối thiểu đối với các tổ chức.
Người dân được phép đưa ra ý kiến của mình với các cơ quan quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý môi trường mà không bị cản trở bởi các tổ chức nhà nước khác. Có nghĩa là khi người dân đưa ra ý kiến của mình họ không phải bận tâm về việc có động chạm vào các tổ chức khác không, và nếu có động chạm vào thì họ có phải chịu trách nhiệm gì không? Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì vấn đề người dân đưa ra nhiều khi có liên quan tới nhiều lĩnh vực liên quan khác chứ không phải chỉ về môi trường, vì thế nguyên tắc này đưa ra nhằm khuyến khích người dân nêu ra ý kiến của mình, và khuyến khích họ đưa ra ý kiến trung thực nhất.
1.1.4 Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM).
Hình1.1.4.1: Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng( CBEM)
Ô nhiễm nước, không khí, đất, cải tạo cơ sở hạ tầng, tái định cư
Xác định các thách thức của cộng đồng
Cán bộ được địa phương bầu cử, lãnh đạo cộng đồng có uy tín khác
Chỉ định người triệu tập
(người đầu tầu)
Chính quyền
Tổ chức NGO
Doanh nghiệp
Xây dựng nhóm làm việc cộng đồng
(nhóm CBEM)
Tổ chức các cuộc họp để xác định các thách thức và mục tiêu, thông tin và các yếu tố cần thiết, đề ra hướng giải quyết có thể
Xây dựng sự nhất trí
kinh tế
Môi trường
Xã hội
Đề ra các mục tiêu
Xây dựng giải pháp
Xây dựng kế hoạch hành động
Ký kết thoả thuận
Các đối tác cam kết:Hành động
Nguồn lực
Lịch trình
Biện pháp thực hiện
Phục hồi lưu vực
Cải thiện việc quản lý chất thải
Sản xuất sạch hơn
Giáo dục, tham gia của cộng đồng
Thưc hiện dự án
* Xác định các thách thức của cộng đồng.
Quá trình xác định các thách thức của cộng đồng là sự tham gia của nhiều bên liên quan, các bên cùng thảo luận để đưa ra vấn đề môi trường cụ thể của khu vực như các vấn đề về ô nhiễm nước, không khí, cải tạo cơ sở hạ tầng... Từ đó xác định các vấn đề ưu tiên, tìm kiếm các giải pháp để xây dựng sự đồng thuận rộng rãi trong cộng đồng. Trong suốt quá trình cộng đồng ra quyết định thì việc thảo luận được tiến hành với nhiều mức độ khác nhau, hình thức và tỷ lệ khác nhau. Điều này có thể đưa ra nhiều vấn đề khác nhau nhưng cuối cùng sẽ tập chung chủ yếu vào ý kiến tổng hợp của một tỷ lệ dân cư rộng lớn.
* Chỉ định người triệu tập.
Việc bổ nhiệm người triệu tập có thể thông qua việc sử dụng bảng câu hỏi như là một hướng dẫn để lựa chọn được người triệu tập cho dự án. Có thể đưa ra một ví dụ khi lựa chọn người triệu tập, bằng việc đưa ra các câu hỏi sau cho nhóm cộng đồng trả lời.
- Ai là người trong cộng đồng có thể tham gia là người triệu tập?
- Ai có được sự hỗ trợ từ địa phương, có mối liên quan tới quản lý nhà nước để bênh vực cho dự án ?
- Ai có thể đóng vai trò lãnh đạo, có kỹ năng điều phối và biểu lộ sự tập chung?
- Ai có thể đủ thời gian tham gia?
- Chính quyền có bằng lòng bổ nhiệm người triệu tập không ?
Trong ví dụ này, với 5 câu hỏi trên, nguời nhận được câu trả lời tốt nhiều nhất sẽ được lựa chọn là người triệu tập của dự án.
* Xây dựng nhóm cộng đồng.
Nhóm cộng đồng bao gồm các thành phần sau:
Nhà tài trợ: Đó là một nhà lãnh đạo hoặc cơ quan, cộng đồng, nhóm dân cư, doanh nghiệp... Trách nhiệm của họ là nhận diện các vấn đề và đưa ra đánh giá.
Người triệu tập, nhà lãnh đạo: Có thể là nhà lập pháp, chủ tịch UBND, đại biểu hội đồng nhân dân, người đứng đầu trong cộng đồng được kính trọng...Với trách nhiệm tập hợp mọi người bàn bạc cùng nhau (quá trình đồng thuận của tất cả các đối tác tham gia) viết văn bản thoả thuận của tất cả các đối tác, đảm bảo sự phát triển bền vững, hiệu quả và quá trình tiến hành lâu dài của dự án
Nhóm trung lập: Đó là các trường đại học, trung tâm đồng thuận, các tổ chức dân sự, chương trình mở rộng....
Các nhóm trên chính là nhóm làm việc cộng đồng, trong quá trình thực hiện dự án cần phải có sự phối hợp đồng bộ và có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng cho các nhóm.
* Xây dựng sự nhất trí.
Sự nhất trí được duy trì trên nguyên tắc hoạt động là công bằng, cởi mở và tin tưởng lẫn nhau. Tiến hành bằng cách tổ chức các cuộc họp, hội thảo để xác định các thách thức và mục tiêu, xác định thông tin và các yếu tố cấn thiết, đề ra hướng giải quyết có thể. Sự hình thành sự nhất trí không phải thông qua hình thức biểu quyết trong các cuộc hội thảo mà bằng các hình thức tìm hiểu, giải thích, cùng bàn bạc đi đến quyết định cuối cùng. Tạo không khí thân mật, cởi mở để mọi người đều đưa ra ý kiến của mình.
* Đề ra các mục tiêu.
Việc đề ra các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường nhằm giúp dự án xác định rõ kết quả đạt được về từng lĩnh vực cụ thể là như thế nào, từ đó càng thấy rõ tầm quan trọng của dự án cũng như của cộng đồng trong việc phối hợp giải quyết các vấn đề môi trường. Việc đề ra các mục tiêu chính là cơ sở để xây dựng các mục tiêu nhỏ, cụ thể để từng bước thực hiện các mục tiêu lớn. Có thể đề ra các mục tiêu trên thông qua việc xác định các chỉ tiêu chính. Các chỉ tiêu đưa ra phải được nghiên cứu kĩ lưỡng những điều kiện hiện có để có những chi tiêu phù hợp, nếu chỉ tiêu quá cao hoặc quá thấp đều không có tác dụng thúc đẩy hoạt động. Chỉ tiêu quá thấp sẽ không thực hiện được mục tiêu đề ra, chỉ tiêu quá cao, khó hoàn thành sẽ kìm hãm sự cố gắng hoàn thành.
Hình 1.1.4.2 Sơ đồ xác định các chỉ tiêu, mục tiêu.
chỉ tiêu 1.1
1. Môi trường
Bước 2
Đối với mỗi mục tiêu, trình bày rõ từng loại chỉ tiêu
chỉ tiêu 1.2
Bước1
Liệt kê các mục tiêu cho mỗi loại môi trường ,kinh tế và xã hội
chỉ tiêu 2.1
2. Kinh tế
Chỉ tiêu 2.2
Chỉ tiêu 3.1
3. Xã hội
Chỉ tiêu 3.2
Bước 3: Sử dụng bảng danh sách các mục tiêu và chỉ tiêu để truyền đạt những lợi ích đến cộng đồng và các đối tác
* Xây dựng các giải pháp tích hợp.
Việc xây dựng các giải pháp tích hợp được thực hiện thông qua việc lập kế hoạch. Chúng bao gồm các bước sau:
- Xác hoạt động của dự án.
Là bước quan trọng nhất trong giai đoạn lên kế hoạch dự án, thời gian và nỗ lực đầu tư cho bước này giúp dự án có nhiều khả năng thành công. Việc xác định các hoạt động cần có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan và phải dựa trên các mục tiêu cụ thể của dự án, kể cả những nguồn lực và trở ngại. Dự án được thực hiện một cách có hệ thống khi các hoạt động được vạch ra một cách chi tiết và kĩ lưỡng ở giai đoạn chuẩn bị. Khả năng quyết định một loạt hoạt động theo trình tự với nhau và những đề mục hoạt động là một kĩ năng quan trọng mà nhà lập kế hoạch cần phải có.
- Trình tự các hoạt động.
Khi đã định được các hoạt động thì vấn đề cần thiết là lập được một trình tự đúng đắn cho các hoạt động . Biết trình tự đúng đắn sẽ tránh lãng phí thời gian và nguồn lực. Thông thường một dự án được thực hiện bởi một nhóm cá nhân, do đó khi đã có khởi động thì cần phải có sự giám sát và phối hợp các hoạt động để tiến hành theo một trình tự hợp lý. Vì vậy, sắp xếp các hoạt động phải được làm trong giai đoạn chuẩn bị.
Việc vạch kế hoạch về thời gian cho các hoạt động chính, phụ sẽ giúp dự án dự án được mỗi hoạt động, khởi sự và hoàn tất trong khuôn khổ các nguồn lực sẵn có. Điều này cũng giúp giám sát các hoạt động của dự án trong quá trình thực hiện, kiểm tra xem công việc có tiến triển theo đúng kế hoạch không.
- Phân công trách nhiệm.
Việc phân công trách nhiệm cần tiến hành có phương pháp để đảm bảo sự tham gia đầy đủ của cộng đồng, vì quá trình lên kế hoạch của dự án sẽ không hoàn chỉnh nếu không phân công trách nhiệm cho từng cá nhân hoặc nhóm thực hiện những hoạt động khác nhau. Khi phân công trách nhiệm điều quan trọng là động cơ của những người thực hiện, các cá nhân sẽ có động lực tốt nếu họ được phân công công việc họ muốn đảm nhận và hoàn thành. Do đó, cần phải tìm hiểu những kĩ năng, chuyên môn và sở thích của các thành viên, nhóm cộng đồng để có những phân công hợp lý.
* Ký kết thoả thuận.
Kí kết thoả thuận áp dụng sau hội thảo lập kế hoạch hành động nhằm mục đích dẫn chứng - bằng văn bản - các vai trò và sự giao phó cho mỗi đối tác chủ yếu có liên quan tới quy trình CBEM.
Quy trình thực hiện ký kết thoả thuận có thể bao gồm bước:
- Người triệu tập xác nhận lại các đối tác chủ yếu đã ký tên vào bảng công bố.
- Điều phối viên dự án chuẩn bị bản công bố và thu thập ý kiến tán thành của từng thành viên, nhóm.
- Người triệu tập họp các đối tác để cùng nhau ký thoả thuận chính thức.
Bản ký kết sẽ diễn đạt tất cả các thông tin cần thiết để thuyết phục và dẫn chứng sự thoả thuận mà các đối tác đạt được trong việc thực hiện mô hình CBEM.
* Thực hiện dự án.
Thực hiện dự án là quá trình triển khai các kế hoạch đã lập ra trong các hội thảo trước đó dựa trên sự đóng góp của các bên theo thoả thuận, bao gồm các hoạt động phối hợp của nhiều bên nhằm đảm bảo sự tham gia của các lực lượng vào quá trình triển khai mô hình. Để triển khai mô hình thành công cần chú ý tới các vấn đề sau:
- Cần xác định rõ vấn đề môi trường cần giải quyết.
- Lựa chọn được công cụ phù hợp, dưới cái nhìn toàn diện.
- Trong quá trình thực hiện cần sự điều chỉnh linh hoạt và phối hợp tốt giữa các đối tác.
- Đạt được các cam kết của các bên liên quan, cần thiết trong phối hợp giữa chính quyền và nhân dân.
- Cần xác định rõ vai trò của người đầu tầu trong dự án CBEM, người đầu tầu phải được chỉ định bởi chính quyền và có uy tín trong cộng đồng. Người đầu tầu phải quan tâm đến những tác động tích cực và tiêu cực của dự án, và hoạt động vì lợi ích chung.
1.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM.
1.2.1 Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý môi trường có sự tham gia của cộng đồng ở Việt Nam.
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Điều này được thể hiện rõ trong các văn bảo luật, các văn kiện, định hướng phát triển đất nước là phát triển đất nước bền vững, hài hoà giữa ba mục tiêu là kinh tế, môi trường và xã hội. Chính vì vậy, trong các văn bản pháp luật cũng chú ý tới các hình thức quản lý môi trường, đặc biệt nhấn mạnh tới hình thức quản lý dựa vào cộng đồng, người dân địa phương cụ thể như:
Nghị quyết 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của bộ chính trị về chủ trương “đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường”
Quy định số 256/ 2003/ QĐ-TTg của, ngày 2-12-2003 của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cũng nhấn mạnh “Bảo vệ môi trường là nhiện vụ của toàn xã hội, của các cấp các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của người dân”
Trong chỉ thị 36/CT-TW, ngày 25-6-1998 “BVMT là sự nghiệp của toàn đảng, toàn quân, toàn dân”.
Những căn cứ pháp lý này có vai trò quan trọng để khuyến khích việc áp dụng hình thức quản lý này ở nước ta. Và nó cũng tác động tới tâm lý người dân, làm họ tự tin và tin tuởng hơn khi tham gia vào các dự án cần sự tham gia của người dân trong việc quản lý môi trường.
1.2.2 Các mô hình quản lý môi trường quản lý môi trường dựa vào cộng đồng hiện có ở Việt Nam.
1.2.2.1 Mô hình cam kết bảo vệ môi trường.
Mô hình này được xây dựng trên cơ sở các hương ước, quy ước. Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các cuộc vận động duy trì an ninh, trật tự vệ sinh môi trường và giải quyết các tranh chấp vi phạm nhỏ trong lĩnh vực BVMT, hương ước, quy ước ra đời trên cơ sở đoàn kết gắn bó, thống nhất của mỗi thành viên trong cộng đồng làng, xã.
Hương ước, quy ước quy định những nội dung hết sức thiết thực gần gũi, hữu ích với cuộc sống hàng ngày. Hương ước quy định được cộng đồng lập ra dựa trên các quy ước truyền thống và hướng dẫn của cơ quan kiểm lâm. Một nội dung không thể thiếu ở bất kì hương ước nào là các quy định về BVMT. Những quy định này góp phần quan trọng trong việc nâng cao ý thức BVMT.
Quy ước là một hình thức của hương ước và ngày càng được sử dụng nhiều, các quy ước thì rất nhiều, đa dạng điều quan trọng là phải phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Quy ước của cộng đồng còn được sử dụng trong việc xây dựng làng văn hoá.
Để phát huy những ưu điểm này Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành thông tư 56/1999/TT-BNNPTNT hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, Tuy nhiên để những hương ước, quy ước BVMT có hiệu qủa cần thiết có sự tham gia, chỉ đạo của chính quyền cơ sở, đặc biệt nên tránh tình trạng biến hương ước, quy ước trở thành những văn bản pháp lý của nhà nước. Bên cạnh đó có các hương ước, quy ước thường không bị cưỡng chế bởi các cơ quan thực thi pháp luật, nên dễ bị xâm phạm đòi hỏi cần có cơ chế giám sát tốt thông qua hình thức giám sát từ dòng họ của các tổ dân phố, cụm dân cư.
1.2.2.2 Mô hình tổ chức tự quản xử lý ô nhiễm môi trường.
Trước thực tế ô nhiễm môi trường (ONMT), nhiều loại hình tự quản xử lý ô nhiễm môi trường với quy mô hoạt động trên địa bàn thôn, xã và quy mô huyện đã xuất hiện. Hiệu quả của các hoạt động này phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư. Ngoài ra việc quy định mức phí đóng góp thích hợp của cộng đồng, các hình thức phân chia trách nhiệm cũng như phân chia lợi nhuận một cách công bằng, bình đẳng trong nhóm là điều kiện đảm bảo nhóm, tổ chức duy trì và phát triển. Mô hình này ra đời đã đạt được các mục tiêu: Xử lý rác làm sạch môi trường với giải quyết việc làm cho phụ nữ nghèo, tạo đà xây dựng tổ phụ nữ tiết kiệm lồng ghép vệ sinh môi trường. Hoạt động trên cơ sở phát huy nguồn lực cộng đồng, tổ chức thu gom rác thải tại nguồn, phát triển tái sử dụng và quay vòng sử dụng chất thải rắn, tự trang trải, và quyền được đổ rác hợp vệ sinh của người dân.
1.2.2.3 Mô hình lồng ghép xoá đói giảm nghèo với BVMT.
Điển hình cho mô hình này là các làng sinh thái ở Vĩnh Trinh- Thành phố Cần Thơ, xã Cổ Đô- Ba Vì- Hà Tây, xã Lộc Trì- Phúc Lộc- Thừa Thiên Huế và các mô hình làm tăng năng xuất cây xanh của trung tâm năng suất Việt Nam. Hiện nay, các mô hình này đang được người dân đón nhận và là mục tiêu hướng tới của các nhà quản lý. Hoạt động của các mô hình này mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt đồng thời bảo vệ được môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững. Tuy nhiên thực hiện các mô hình này đòi hỏi phải có sự đồng thuận cao của cả cộng đồng, sự hướng dẫn chỉ đạo kĩ thuật chặt chẽ sát sao của nhà khoa học và vốn đầu tư ban đầu tương đối cao. Mô hình lồng ghép xoá đói giảm nghèo với BVMT là một hướng giải quyết toàn vẹn vừa đáp ứng được nhu cầu tăng thu nhập cho người dân vừa giúp đạt được mục tiêu bảo vệ môi trường.
1.2.2.4 Các phong trào tình nguyện .
Xuất phát từ mục tiêu khác nhau nhưng các phong trào tình nguyện đều gặp một điểm chung là cùng nhau giữ gìn phát triển tài nguyên thiên nhiên và BVMT. Từ những hoạt động tình nguyện các phong trào đã lôi cuốn và thu hút nhiều người tham gia và hưởng ứng, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng dân cư và mang lại lợi ích thiết thực cho ngưòi dân. Tuy nhiên các phong trào này rất khó duy trì, tính bền vững không cao vì mục đích liên kết và những điều kiện ràng buộc còn lỏng lẻo. Có không ít phong trào kém hiệu quả, lúc phát động thì trống dong cờ mở, lúc làm thật thì chỉ được thời gian đầu, về sau xẹp dần theo mô hình luẩn quẩn” phát - động - xẹp – phát”. Nguyên nhân chính là chưa tuyên truyền vận động sâu rộng và thường xuyên để góp phần nâng cao cao nhận thức thực sự và làm thay đổi hành vi ứng sử, không có tổ chức chủ trì việc đôn đốc, theo dõi phong trào, hoặc có nhưng tổ chức này chưa làm tròn trách nhiệm, sự tham gia của cộng đồng, của công chúng còn ít, thiếu khen chê, thưởng phạt kịp thời, công bằng và thoả đáng. Thực tế cho thấy các phong trào tình nguyện đòi hỏi những người tham gia phải là người tâm huyết, nhiệt tình với chương trình đôi khi hộ phải chịu thiệt thòi
1.2.2.5 Mô hình BVMT trong sản xuất công nghiệp.
Nước ta đang hình thành những mô hình tốt gắn sản xuất với BVMT như mô hình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, BVMT của các công ty. Điển hình như công ty TNHH Chiang shin Việt Nam, công ty thuốc sát trùng Việt Nam, công ty phân lân nung chảy Văn điển, công ty xăng dầu Hà tĩnh…
Qua thực tế cho thấy mô hình đem lại lợi ích rõ rệt về kinh tế và môi trường. Một số mô hình đòi hỏi vốn ban đầu tương đối lớn để thành lập hệ thống xử lý chất thải nhưng lại thu đuợc những lợi ích to lớn về môi trường và sức khoẻ người lao động. Tuy nhiên các mô hình này mới bước đầu áp dụng ở Việt Nam, chưa được phổ biến rộng rãi do ý thức bảo vệ môi trường trong các doanh nghiệp ở Việt Nam còn kém, một sỗ khác các doanh nghiệp chưa có đủ tiềm lực để áp dụng hình thức này. Do đó mô hình này cần được nghiên cứu kĩ, hỗ trợ từ nhà nước cũng như hoạt động tuyên truyền thích hợp.
1.2.3 Những thuận lợi trong việc áp dụng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Ở Việt Nam đã có những văn bản pháp lý với những điều khoản điều chỉnh, khuyến khích việc huy động người dân tham gia vào công tác bảo vệ môi trường. Đây là sự thuận lợi về thể chế chính sách, là thuận lợi ban đầu để cho thu hút các dự án hỗ trợ xây dựng các mô hình quản lý có sự tham gia của cộng đồng và là cơ sở để vận động người dân tham gia vào hoạt động quản lý môi trường. Qua việc cộng đồng địa phương có thể đóng góp ý kiến cho các chủ trương chính sách của nhà nước và các dự án đầu tư, nhất là các tác động trực tiếp tới môi trường, tới sản xuất và đời sống của nhân dân tại đó. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc ”Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là một trong các biện pháp quan trọng để xã hội hoá cộng tác bảo vệ môi trường.
Các cộng đồng dân tộc Việt Nam, các cộng đồng địa phương đã có truyền thống lâu đời từ nhiều thế kỷ trong việc sống hài hoà với thiên nhiên, bảo vệ môi trường nên việc vận động, thu hút họ vào công tác quản lý môi trường không gặp quá nhiều khó khăn. Đặc biệt là các cộng đồng miền núi luôn luôn gắn bó với rừng. Hầu như tất cả các hoạt động kinh tế của cộng đồng đều dựa vào việc quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trong đó tài nguyên rừng (thậm chí có nơi mà 50-60% tổng thu nhập nhân dân địa phương được rừng cung cấp). Từ nhỏ trong sinh hoạt đời sống hàng ngày họ đã gắn bó với cây cỏ, rừng núi nên họ có tình cảm với mọi vật xung quanh họ, chỉ cần giáo dục, phân tích rõ những tác động thiệt hơn tới rừng thì chắc chắn rằng họ sẽ làm theo.
Nước ta là một trong những nước có mức đa dạng sinh học cao, chính vì thế đã thu hút được nhiều dự án đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường. Các dự án tác động trực tiếp bằng cách hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng mô hình quản lý cộng đồng như các mô hình thu gom rác thải có sự tham gia của người dân ở các phường xã, hay các mô hình bảo tồn ở các vườn quốc gia, các khu bảo tồn... Các dự án tác động gián tiếp bằng cách cho vay vốn phát triển kinh tế, hay dự án đầu tư cho tuyên truyền giáo dục môi trường tới người dân.
- Các ngành ở một mức độ nào đó đã có sự quan tâm tới hoạt động quản lý này, thông qua việc hỗ trợ về thể chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các dự án về môi trường tại các địa phương.
1.2.4 Những khó khăn trong việc áp dụng mô quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Bên cạnh những thuận lợi trong việc áp dụng mô hình quản lý cộng đồng ở Việt Nam, thì còn không ít khó khăn gặp phải khi xây dựng mô hình, cụ thể:
Điều kiện kinh tế nước ta chưa đủ để người dân quên đi những lo lắng về “cơm áo, gạo tiền” mà quan tâm tới chất lượng cuộc sống, khi số lượng chưa đáp ứng được nhu cầu thì người ta ít quan tâm tới chất lượng. Vì thế mà người dân Việt Nam ít có khả năng, cơ hội tham gia vào công tác quản lý môi trường cho dù là họ có quan tâm đi nữa.
Kiến thức của người dân về môi trường và hoạt động bảo vệ môi trường còn hạn chế. Điều quan trọng là phải nâng cao nhận thức của cộng đồng. Bên cạnh đó, hoạt động nâng cao nhận thức là hoạt động diễn ra trên diện rộng, cần nhiều thời gian với nguồn kinh phí khá lớn. Khi thiếu kiến thức về bảo vệ môi trường sẽ ảnh hưởng tới sự tham gia rộng lớn của cộng đồng dân cư trong mô hình và cũng ảnh hưởng tới quá trình triển khai mô hình. Sự tham gia của cộng đồng vào các khâu của mỗi hoạt động (từ thiết kế, thực hiện, đánh giá) đòi hỏi người dân phải có kiến thức nhất định hoặc có nhận thức rõ ràng về lợi ích trước mắt và lâu dài, nhưng trong thực tế các nhóm cộng động nghèo và có địa vị thấp lại gặp khó khăn về mặt này. Vì vậy đòi hỏi người đưa ra sáng kiến phải kiên trì và có phương pháp cũng như cách làm việc thích hợp.
Trong quá trình chuẩn bị xây dựng kế hoạch, thiết kế và tổ chức thực hiện với cách tiếp cận lấy ý kiến cộng đồng, đòi hỏi nhiều thời gian hơn, nhiều công sức, tài chính hơn vì phải tổ chức các buổi thảo luận, lấy ý kiến. Đây là khó khăn trong việc tiến hành và triển khai mô hình.
Năng lực quản lý của cộng đồng nói chung còn thấp, nhất là các nhóm dân cư nghèo dẫn đến lúng túng trong tham gia và điều hành công việc..
Vai trò của chính quyền chưa được thể hiện rõ, các cấp chính quyền địa phương còn thiếu hiểu biết về cách huy động cộng đồng tham gia, do đó việc tiến hành còn lúng túng và kết quả còn hạn chế.
Sự hỗ trợ của các ngành các cấp, các vườn quốc gia còn hạn chế ví dụ việc ngăn cấm bán các loại sản vật quý hiếm ở các khu vực xung quanh các vườn quốc gia nhiều nơi không được thực hiện.
Giao thông, cơ sở hạ tầng, phương tiện phục vụ trong hoạt động quản lý là một vấn đề bức xúc đối với việc thực hiện hoạt động quản lý.
1.2.5 Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong lĩnh vực quản lý môi trường dựa vào cộng đồng trong thời gian vừa qua.
Tuy rằng việc áp dụng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, các mô hình còn nhiều bất cập trong triển khai vào hoạt động, nhưng trong cho tới hiện tại Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc huy động, lôi cuốn người dân tham gia vào quản lý môi trường. Nhờ đó mà công tác bảo vệ môi trường đã đem lại những hiệu quả rõ rệt.
Thiết lập được một hệ thống các hương ước, quy ước về môi trường ở nhiều xã, phường trên cả nước, đặc biệt là các quy ước, hương ước này được sử dụng để xây dựng làng văn hoá. Các hương ước bảo vệ môi trường được lập và thực hiện ở nhiều xã, bản như bản Hợp Thành xã Xá Lượng, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An Quy định về việc không được bắn vượn, mang nếu chúng mắc bẫy thì phải thả ra, hay ở làng Beng, xã Bảo Hoà huyện Bảo yên tỉnh Lào Cai quy định về việc bắn nai, số lượng nai được bắn mỗi năm là 3 con nai nếu bắn đủ rồi thì không được bắn nữa, ai vi phạm thì sẽ bị phạt rất nặng.
Nói đến quy ước thì phải đề cập tới quy ước bảo vệ môi trường của làng Chiết Bi - xã Thuỷ Tân - huyện Hương Thuỷ- Tỉnh Thừa Thiên Huế gồm 4 chương: Chương 1 quy định chung gồm 2 điều nói lên trách nhiệm của làng và mỗi người dân trong làng đối với việc chấp hành pháp luật. Chương 2 là quy định về các hành vi gồm 5 điều quy định việc không được phóng uế bừa bãi, xây dựng hố xí, hạn chế dùng bao ni lông, mọi gia đình có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước...Chương 3 gồm 2 điều nêu ra các quy định về thưởng, phạt. Chương 4 gồm 3 điều khoản về thi hành. Làng cử ra Ban thường trực để tổ chức thực hiện, giám sát việc thực hiện quy ước. Các trưởng làng, trưởng họ, trưởng xóm và tổ trưởng của các đoàn thể như Hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội người cao tuổi...giúp đõ trong việc giám sát.
Ngoài ra còn các quy ước của làng Vân Cù - xã Hương Toàn - tỉnh Thừa Thiên Huế cũng gồm 4 chương và 12 điều nhưng vận dụng phù hợp với thực tế của địa phương như các điều khoản quy định không vui chơi gây tiếng ồn ảnh hưởng tới người khác đặc biệt sau 22h, không được tắm, giặt tại các bến sông trước 8h để đảm bảo nguồn nước lấy từ sông về làm bún. Quy ước bảo vệ môi trường ở xã Nậm Loòng - huyện Tam Đường - tỉnh Lai Châu có một số điều khoản như không làm chuồng trâu, bò ở gần nhà hoặc gần nguồn nước, không hạ cây tươi để làm củi, không đào rãnh thông lấy nước từ ruộng trên xuống ruộng dưới... Quy ước bảo vệ môi trường ở xã thạch Hoà, huyện Bến Lức, tỉnh Long An có quy định người chết không để quá thời gian quy định, việc kèn trống tế lễ chỉ thực hiện trước 23h, cấm dùng kích điện, chất nổ để đánh bắt ở ao hồ, kênh mương.
Xây dựng được mạng lưới cộng đồng bảo vệ rừng. Mỗi cộng đồng có một mạng lưới chính để chỉ đạo, tập chung toàn bộ lực lượng bảo vệ rừng. Nhiều tổ chức đoàn thể thành lập các mạng lưới của thanh niên chuyên tuần tra, canh gác, mạng lưới của phụ nữ để phát hiện các bất thường trong khai thác rừng, mạng lưới của nông dân đảm bảo chung cho rừng phát triển tốt, mạng lưới của người cao tuổi phát hiện nguy cơ cháy rừng, lâm tặc...Các hoạt động chủ yếu của mạng lưới này là tuyên truyền, giáo dục, phát hiện sự cố, thông tin với các cấp lãnh đạo và các ngành chuyên môn, tham gia giải quyết, sử lý sự cố khi sảy ra.
Phát huy được phong tục, tập quán và truyền thống bảo vệ rừng ở các địa phương có rừng. Người dân nhận thức được rằng rừng có vai trò quan trọng tới cuộc sống của chính họ chính vì thế các cộng đồng gắn bó với rừng và có truyền thống bảo vệ rừng. Tuy nhiên khi mật độ dân số tăng nên gây sức ép nghiêm trọng lên tài nguyên thì các phương thức khai thác truyền thống không còn thích hợp cần phải tìm kế sinh nhai khác nhưng vẫn giữ được phong tục tập quán trong việc bảo vệ rừng. Các dự án đầu tư, nguồn kinh phí của dự án ODA, các chương trình quốc gia, chuơng trình của địa phương tạo điều kiện cho dân cư ở các vùng đệm ổn định và nâng cao đời sống nhờ đó họ mới có thể giữ gìn các truyền thống bảo vệ môi trường.
Cộng đồng tham gia bảo tồn đa dạng sinh học. Các cộng đồng tham gia phục hồi tài nguyên rừng dưới nhiều hình thức. Nhiều cộng đồng đã kết hợp chăm sóc cây rừng, nâng cao độ phì nhiêu của đất rừng để phát triển nông nghiệp. Ví dụ ở Sa Pa đồng bào trong vùng đệm của vườn quốc Gia Hoàng Liên Sơn, đồng bào Mông, Dao đã chăm sóc cây rừng, bón phân cho đất rừng để phục hồi thảo quả dưới tán cây rừng. Đồng bào nhiều nơi cũng tự nhân giống cây rừng để phục vụ đời sống của họ. Nhìn chung, cộng đồng tham gia bảo vệ rừng một cách tự nguyện nhằm thực hiện tố chính sách của Nhà nước và bảo vệ quyền lợi thiết thực của mình.
Hình thành các doanh nghiệp tư nhân, mô hình tổ, đội, hợp tác xã hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải. Điển hình là đội chuyên trách vệ sinh môi trường xã Thạch Kim - huyện Thạch Hà - tỉnh Hà Tĩnh do UBND xã Kim Thành khởi xướng và ra quyết định thành lập đội chuyên trách vệ sinh môi trường hoạt động từ năm 1998 trên cơ sở lấy thu bù chi, nguồn là do các hộ dân đống góp hàng tháng, tổ tự quản môi trường phường Hồng Hải - thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh có chức năng thu gom rác sinh hoạt từ các hộ dân, phương tiện do nhân dân đóng góp. Hoạt động trên nguyên tắc công khai, các mức thu phí có sự đồng ý của UBND phường. Ỏ Hà Nội có tổ thu gom rác dân lập phường Nhân Chính - quận Thanh Xuân. Tổ thu gom này do UBND phường thành lập với nhiệm vụ là thu gom rác trên địa bàn phường và tập kết đến nơi quy định, khơi thông cống rãnh, phương thức hoạt động lấy thu bù chi và có lợi nhuận.
Ngoài sự tham gia của các tổ đội còn là sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực thu gom và vận chuyển rác thải mà điển hình là công ty TNHH Huy Hoàng - Lạng Sơn, công ty này đảm nhiệm việc thu gom, vận chuyển rác trên địa bản tỉnh Lạng Sơn ngoài ra công ty còn cung cấp các dịch vụ liên quan đến môi trường như nhận trở thuê rác, thông bể phốt. Công ty không những góp phần vào việc bảo bệ môi trường mà còn tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Phong trào tình nguyện ngày càng được mở rộng. Nhận thức của người dân về môi trường ngày càng tăng lên nên những phong trào, hình thức vận động rộng lớn cho công tác BVMT đã lôi cuốn nhiều người tham gia thuộc mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Những việc làm tình nguyện này xuất phát từ lợi ích trực tiếp hàng ngày của cộng đồng tại cơ sở. Các hoạt động tình nguyện phát triển dưới nhiều hình thức, quy mô và mức độ khác nhau từ dọn dẹp vệ sinh đường làng ngõ xóm đến việc tổ chức có tính thường xuyên và dài ngày trong phạm vi cả nước hoặc một địa phương. Đặc biệt phong trào thanh niên, sinh viên tình nguyện do trung ương đoàn khởi xướng, sinh viên tham gia “mùa hè tình nguyện” toả về các vùng nông thôn giúp đỡ người dân khó khăn phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá và cải thiện môi trường sống. Riêng hai tháng hè 2003 hàng ngàn đội thanh niên, sinh viên tình nguyện cả nước đã tổ chức 15000 lớp học xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở cho hàng chục nghìn người ở vùng sâu vùng xa, bác sỹ trẻ tình nguyện đã khám bệnh, tư vấn các phương pháp bảo vệ sức khoẻ và phát thuốc miễn phí cho 100000 người...
Ngoài ra còn có các đội tình nguyện xanh tham gia vào các nội dung như giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, tham gia các hoạt động lồng ghép với các chương trình, dự án ở địa phương, giúp đỡ các địa phương xây dựng nề nếp hoạt động vệ sinh môi trường.
1.2.6 Những tồn tại trong hoạt động quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Cộng đồng còn bị hạn chế trong việc tham gia vào các khâu lập kế hoạch và giám sát trong các dự án, nhiều khi có lấy ý kiến người dân nhưng đó chỉ là hình thức, còn những tham gia đóng góp, tiếng nói của người dân vẫn chưa được chú ý đúng mức.
Tính bền vững của sự tham gia cộng đồng chưa cao, các dự án sau khi hoàn thành các nhà tài trợ sau khi rút khỏi dự án thì hiệu quả hoạt động của dự án bị giảm xuống rõ rệt, thậm chi nhiều nơi dự án còn bị phá sản do không có sự giám sát thường xuyên của các cơ quan chính quyền và không được hỗ trợ kịp thời.
Đa phần dân chúng trong các cộng đồng ở địa phương không có khả năng tiếp cận với các ngồn vốn đầu tư của chính quyền địa phương, và điểm này đã ảnh hưởng tới khả năng tham gia rộng rãi của họ vào các hoạt động quản lý môi trường. mặt khác, sự phân cấp tài chính chưa diễn ra mạnh ở địa phương, vì thế chính quyền địa phương lại càng khó trong việc hỗ trợ hoạt động của cộng đồng.
Sự phối hợp của chính quyền địa phương với các tổ chức cộng đồng chưa được thể chế hoá, nếp nghĩ, nếp làm cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự tham gia của cộng đồng.
Các doanh nghiệp chưa tham gia một cách có hiệu quả, thái độ còn thờ ơ do hoạt động không mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích về kinh tế. Do đó, thiếu đi nguồn hỗ trợ chủ yếu về kinh phí, các phương tiện, vật dụng cho quá trình triển khai.
CHƯƠNG II
NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN LOÀI VOỌC ĐẦU TRẮNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở
VƯỜN QUÔC GIA CÁT BÀ.
2.1 GIỚI THIỆU VỀ VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ.
2.1.1 Lịch sử hình thành vườn.
Quần đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng Gồm 366 hòn đảo nhỏ. Trong đó đảo Cát Bà là đảo lớn nhất trong số 1969 đảo của quần thể vịnh Hạ Long. Đảo chính Cát Bà với quần thể các đảo nhỏ và hang động tạo nên một khung cảnh vô cùng hùng vĩ.
Vườn quốc gia Cát Bà với rừng nguyên sinh và nhiệt đới và hệ thống thảm thực vật phong phú, đặc trưng là các loài động thực vật quý hiếm đã được ghi vào sách đỏ của thế giới cũng như của Việt Nam.
Vườn quốc gia Cát Bà được thành lập dựa trên quyết định số 79/CT ngày 31/03/1986 của chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (Bộ NN &PTNT ).
Vườn quốc gia Cát Bà có diện tích 15200 ha bao gồm 9800 ha diện tích của đảo Cát Bà và một số hòn đảo nhỏ và 5400 ha diện tích vùng biển xung quanh. Đây được coi là khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam có phân khu bảo tồn biển.Trung tâm Vườn quốc gia là đảo Cát Bà, nằm cách thành phố Hải Phòng 30 km về phía đông và sát ngay phía tây vịnh Hạ Long. Vườn quốc gia Cát Bà nằm trên phần diện tích hành chính của các xã Trân Châu, Hiền Hào, Gia luận, Việt Hải, và thị trấn Cát Bà, Vườn gồm vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp:
Vùng lõi là vùng không có tác động của con người, trừ các hoạt động nghiên cứu và giám sát, có thể duy trì một số hoạt động truyền thống của người dân địa phương cho phù hợp. Vùng lõi gồm: vùng lõi phía Đông Nam, và vùng lõi phía tây Bắc có diện bao gồm cả phần đảo và biển.
Vùng đệm là vùng tiếp giáp vùng lõi, có thể tiến hành các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không làm ảnh hưởng đến mục đích bảo tồn trong vùng lõi. Ở Cát Bà gồm hai vùng đệm là vùng đệm trung tâm nằm giữa vùng lõi Đông Nam (vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141 ha và vùng đệm tiếp giáp. Đây là vùng có chức năng phát triển điều hoà, tôn trọng hiện trạng, phù hợp với tiêu chí bảo tồn của vùng lõi, vì vậy phải đảm bảo sự phát triển hạn định trong vùng này.
Vùng chuyển tiếp là vùng ngoài cùng, các hoạt động kinh tế ở đây vẫn duy trì bình thường, trong đó nhân dân địa phương cùng với các nhà khoa học, bảo tồn, công ty tư nhân, các tổ chức xã hội thoả thuận để cùng quản lý và phát triển bền vững nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên mà Vườn quốc gia đem lại, gồm vùng chuyển tiếp phía Nam và vùng chuyển tiếp phía Bắc (xã Gia Luận). Vùng này tập trung đông dân cư nên chú trọng khuyến khích phát triển cộng đồng, vùng nông thôn như: Nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ du lịch, đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật cao để phát triển nghề cá khơi và du lịch, dịch vụ.
2.1.2 Điều kiện tự nhiên.
2.1.2.1 Vị trí địa lí.
Huyện đảo Cát Hải của Hải Phòng có toạ độ địa lý là 106050’-107005’ kinh độ đông, 20042’-20053’ vĩ độ bắc. Cát Hải có diện tích 322,3 km2 bao gồm hai đảo là đảo Cát Hải có diện tích 30km2 và đảo Cát Bà có diện tích gần 300 km2.
Đảo Cát Bà có toạ độ địa lý 20047’46” bắc và 106045’00” đông, phần đảo nổi Cát Bà có diện tích 144 km2 gồm 18 thôn xóm thuộc 6 xã và 1 thị trấn.
Vườn quốc gia Cát Bà nằm trong khu vực địa lý của đảo Cát Bà. Có toạ độ địa lý :
20043’50” đến 20051’29” vĩ độ bắc.
106058’20” đến 107010’05” kinh độ đông.
Theo ranh giới phía nam, tây nam và tây bắc, từ phía nam của đảo Bầu Dê theo hướng tây đến cửa Hòn Cát Dứa vòng đến cửa Áng Ven, qua Đồng tép nối với đỉnh khoăn Đà Lát theo đường phân thuỷ của dãy núi chạy dọc theo ranh giới các xã Trân Châu, Xuân Đán, Hiền Hào tới điểm dốc eo Bùa .
2.1.2.2 Địa hình.
Nằm trên Đảo Cát Bà nên địa hình vườn quốc gia Cát Bà mang đặc điểm địa hình của đảo Cát Bà. Địa hình của vườn mang đặc trưng của địa hình đá vôi cacsto và địa hình bài bốc.
- Địa hình Cacsto.
Với chiều dài khoảng 25 km chạy theo hướng tây bắc- đông nam chiều rộng khoảng 10 km, bề mặt địa hình khá hiểm trở xen kẹp những đỉnh núi cao từ 50-200m, có các thành dốc dựng đứng 300-400m là các thung ang và cánh đồng cacsto. Cánh đồng cacsto lớn nhất là áng Trung Trang (lâm trường Cát Bà) có diện tích 300 ha khá bằng phẳng hình thành giải đồng bằng trùng với hướng phát triển hệ thống đứt gẫy kiến tạo tây bắc – đông nam chạy giữa đảo.
- Địa hình bài bốc .
Ngoài địa hình cacsto phổ biến trên đảo còn có địa hình bài bốc như Cái vừng, Phù Long. Đặc biệt bài bốc Phù Long được hình thành chủ yếu do bùn cát phù sa vận chuyển từ phía đất liền ra, được lắng lại do tác động của động lực biển. Đặc trưng vật chất bài bốc ở đây chủ yếu là bùn cát phù sa có màu xám nên lẫn vật liệu hữu cơ rất phù hợp cho sự phát triển của các loại thực vật ngập mặn. Về phía tây bắc, đông nam của đảo cũng hình thành một số bài bốc nhỏ quanh chân núi, song ở xa dòng sông nên vật liệu trầm tích ở đây chủ yếu là sản phẩm phá huỷ do phong hoá từ đá vôi, đá silic.
2.1.2.3 Khí hậu thuỷ văn.
- Khí hậu.
Nằm ở vùng đông bắc nên khí hậu của Hải Phòng, Cát Bà nói chung và của Vườn quốc gia Cát Bà nói riêng mang những đặc điểm chung của khí hậu miền bắc nước ta, đồng thời nằm trên đảo nên Vườn cũng mang đặc điểm của khí hậu của các vùng ven biển. Đặc biệt huyện Cát Hải là một đảo nhỏ riêng biệt với đất liền nên bị chi phối nhiều của khí hậu đại dương.
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới nội chí tuyến, khí hậu miền bắc nước ta nói riêng mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm. Tổng nhiệt độ cả năm dao động từ 80000C-85000C. Nhiệt độ trung bình tháng khu vực Cát Bà dao động từ 160C đến 29,20C, trung bình năm dao động từ 21,50C đến 24,50C. Trung bình nhiều năm là 230C. Tương ứng với nhiệt độ trung bình năm là tổng nhiệt trên khu vực Cát Bà dao động trong khoảng 80000C đến 85000C.
Về mùa hè nhiệt độ khá cao vào tháng 6, trung tâm của mùa nóng nhiệt độ trung bình nhiều năm 280C. Nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 38,50C .
Về mùa đông nền nhiệt độ thấp nhất vào tháng 1, tháng trung tâm của mùa lạnh nhiệt độ trung bình tháng xuống 160C. Nhiệt độ thấp tuyệt đối xuống 70C.
Biến đổi nhiệt độ trong ngày, đêm thường thấp nhất vào buổi sáng rồi tăng dần đến trưa đạt giá trị cực đại sau đó là giảm cho đến sáng.
- Độ ẩm.
Độ ẩm không khí trung bình tháng tại khu vực Cát Bà dao động trong khoảng từ 80-92%. Biến trình năm của độ ẩm tương đối đạt lớn nhất vào tháng 3 (>90%) vào tháng 8 (>86%) và đạt cực tiểu vào tháng 11, tháng 12 (76,78%). Độ ẩm tương đối khu vực Cát Bà trung bình năm đạt 85,9%. Về mùa đông độ ẩm phân bố tương đối phù hợp với lượng mưa, nơi mưa nhiều độ ẩm lớn, nơi mưa ít độ ẩm nhỏ. Độ ẩm cao thường xuất hiện vào ban đêm, độ ẩm cao nhất thường vào khoảng 4-6 giờ, ban ngày độ ẩm thấp nhất vào khoảng 12- 13 giờ.
- Mưa.
Lượng mưa hàng năm ở Cát Bà dao động trong khoảng từ 1500mm-1800mm (số liệu từ 1992-1998). Bình quân nhiều năm đạt 1661mm, mưa tập trung vào mùa hè. Lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm khoảng 70% -90% lượng mưa cả năm. Lượng mưa 6 tháng còn lại chỉ chiếm từ 10-30%. Tháng 12, tháng 1, tháng 2 có lượng mưa nhỏ nhất, dao động từ 10mm-20mm. Lượng mưa bình quân trong 6 tháng mùa mưa dao động từ 200mm-300 mm, lượng mưa tháng 7, tháng 8 lớn nhất đạt trên 300mm. Số ngày mưa trung bình hàng năm tại Cát Bà là 95 ngày. Tháng 7, tháng 8 có số ngày mưa lớn nhất trong năm.
2.1.3 Điều kiện kinh tế-xã hội.
Đảo Cát Bà có diện tích trên 29000 ha chủ yếu là đồi núi xen kẽ với các thung sâu. Do điều kiện thiếu nước ngọt khu vực này chỉ trồng được một vụ lúa năng suất thấp và một số lọai cây màu, cây ăn quả và cây công nghiệp. Men theo bờ biển là hệ thống eo, vụng, vịnh, bãi triều rất thuận tiện cho việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, có nhiều bãi tắm đẹp như Cát cò 1,2,3… tạo điều kiện cho phát triển du lịch.
2.1.3.1 Hiện trạng dân cư.
Khu vực Đảo Cát Bà cơ bản có thị trấn Cát Bà và 6 xã như: Xã Phù Long, Gia Luận, Hiền Hào, Xuân Đán, Việt Hải, Trân Châu. Trong đó có một xã nằm chọn trong phạm vi vườn quốc gia là xã Việt Hải. Dân số đảo vào năm 1999 là 10631 người trong đó dân số thị trấn Cát Bà là 7510 người. Mật độ dân cư trung bình thị trấn Cát Bà là 88 người/ km2, xã Việt Hải là xã có diện tích tự nhiên lớn thứ nhì trong huyện nhưng dân cư thưa thớt với mật độ chỉ 3 người/ km2.
2.1.3.2 Hiện trạng cơ sở hạ tầng .
Trong những năm gần đây tình hình cơ sở hạ tầng của đảo được cải thiện đáng kể. Trong những năm qua cùng với sự phát triển chung của cả nước nói chung và của Hải Phòng nói riêng, đảo Cát Bà cũng được đầu tư các dự án về điện, đường, nước sạch….Những năm qua các dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng kể từ năm 1990 đến nay đã phát huy tốt hiệu quả đầu tư như các dự án: Dự án xây dựng đường điện 35KW ra đảo (11/2002), dự án đường xuyên ra đảo Hải Phòng - Cát Hải - Cát Bà (hoàn thành 4/2002), dự án cấp nước thị trấn Cát Bà (lấy từ khe Sâu, xã trân Châu), dự án đường hồ, trạm xử lý nước thải Tùng Dinh - thị trấn Cát Bà.
2.1.3.3 Hiện trạng phát triển kinh tế- xã hội.
Với đặc điểm là một huyện đảo ở Cát Bà cũng phát triển các ngành nghề đặc trưng như nuôi trồng thuỷ sản, khai thác thuỷ sản, chế biến thuỷ sản. Bên cạnh đó được thiên nhiên ban tặng phong cảnh hùng vĩ, nên thơ, đồng thời có các bãi tắm đẹp như cát cò 1, 2, 3.. đặc biệt là có vườn quốc gia Cát Bà với đa dạng sinh học phong phú và nhiều loài động vật quý hiếm là điều kiện phát triển ngành du lịch.
- Ngành du lịch.
Cát Bà đã tận dụng được ưu thế về vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên cho việc phát triển ngành du lịch. Ngày càng có nhiều khách sạn và nhà hàng được xây dựng để phục vụ du khách đến thăm đảo, đồng thời chất lượng các dịch vụ cũng ngày càng được nâng lên rõ rệt để thu hút du khách.
Thực tế chứng minh, trong những năm gần đây lượng khách du lịch đến thăm đảo ngày càng nhiều, Cát Bà cơ bản trở thành một trung tâm du lịch có sức hấp dẫn của thành phố và khu vực. Lượng khách du lịch đến Cát Bà tăng từ 25000 lượt năm 1996 lên 75000 lượt năm 1998 và năm 2003 là 220500 lượt. Riêng với khách du lịch nước ngoài tăng từ 600 vào năm1998 lên 15000 vào năm 2003, đến hết năm 2005 số lượng khách du lịch đến với Cát Bà đạt 435000 lượt trong đó người nước ngoài là 122000 lượt.
Qua con số thống kê về lượng khách du lịch đến thăm đảo chúng ta có thể thấy sự phát triển nhanh chóng trong ngành du lịch trên đảo, đặc biệt là khi đường giao thông xuyên ra đảo hoàn thành. Đồng thời cũng thấy được sức phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch trong những năm sắp tới.
- Ngành dịch vụ hậu cần nghề cá.
Trên đảo Cát Bà có cảng cá Cát Bà (khu Tùng Vụng) đã hoàn thành phần cầu cảng với tổng chiều dài 155m có khả năng tiếp nhận tầu đánh cá 400-500cv, phần cầu cảng cá Cát Bà có số lượng tàu thuyền đánh cá cập bến lớn nhất trong số các cảng cá Hải Phòng và vịnh bắc bộ. Hầu như tất cả các tầu thuyền lớn đều nhận dầu tại vịnh Cát Bà.
Trong vịnh luôn thường trực 4-5 xà lan có sức chứa 100-150 tấn dầu. Trên đảo không có kho dầu dự trữ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vịnh cát Bà là một trong những vị trí neo đậu tránh trú gió bão lớn với sức chứa 800 chiếc /600cv.
- Khai thác thuỷ sản.
Thị trấn Cát Bà và xã Trân Châu nghề nghiệp chủ yếu là rê 3 lớp, nghề câu, nghề đăng đáy và một số tàu chụp mực nhỏ, các tàu đánh cá lớn của thành phố đều lấy vịnh Cát Bà làm căn cứ để ra khơi đánh cá và bán sản phẩm, nhận dầu.
Nhìn chung Cát Bà có tiềm năng khai thác thuỷ sản nhưng chưa được đầu tư phù hợp về phương tiện đánh bắt nên quy mô khai thác cũng như hiệu quả hai thác còn hạn chế, đây là cơ hội để Cát Bà phát triển trong tương lai.
- Ngành chế biến thuỷ sản.
Cùng với ngành khai thác thuỷ sản thì trên đảo phát triển ngành chế biến thuỷ sản. Cũng như ngành khai thác, ngành chế biến chỉ mới phát tiển ở mức độ nhỏ, chỉ là các công ty TNHH, chế biến các mặt hàng đơn giải từ thuỷ sản và số lượng và quy mô còn hạn chế.
Bảng2.1.3.3: Danh sách các cơ sở chế biến thuỷ sản tại Cát Bà.
STT
Tên cơ sở
Địa điểm
Sản phẩm
1
CT TNHH Nam Hải
Cảng cá- TT Cát Bà
Sản xuất bột cá và đá lạnh
2
CTTNHH Minh Châu
Cảng cá – TT Cát bà
Chế biến thuỷ sản
3
CT TNHH Tiên Tiến
Thôn Bền- xã Trân Châu
Sx bột cá
4
HTX Lập Lễ
Cảng cá- TT Cát Bà
Chế biến thuỷ sản
5
CTTNHHNguyễnHoàng
Thôn phú cường- xã
Trân Châu
Sx nước mắm và bột cá
(Nguồn, UBND huyện Cát Bà, năm 2005)
- Nông nghiệp.
Do địa hình của đảo chủ yếu là cacsto, đá vôi nên ở Cát Bà không có điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành nông nghiệp. Tổng diện tích lúa cả năm tập trung chủ yếu tại các xã Xuân Đán (48 ha), Trân Châu(15 ha), Việt Hải (15 ha), Hiền Hào (8 ha). Bên cạnh trồng một vụ lúa năng suất không cao, ở Cát Bà còn trồng một số loại hoa màu, cây công nghiệp nhưng nói chung thì sản lượng không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu trên đảo.
- Y tế .
Trên đảo Cát Bà hiện có một trung tâm y tế huyện đóng tại thị trấn Cát Bà và 7 trạm y tế đóng tại 6 xã, riêng xã Trân Châu có 2 trạm y tế xã.
2.1.4 Các giá trị và vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà.
2.1.4.1 Các giá trị của vườn quốc gia Cát Bà.
Vườn quốc gia Cát Bà với đặc trưng bao gồm hai phần là Đảo Cát Bà và một phần biển xung quanh nên ở vườn quốc gia Cát Bà có nhiều loại hệ sinh thái tiêu biểu của Việt Nam như rừng ngập mặn, rừng mưa nhiệt đới thường xanh quanh năm, rạn san hô, thảm rong…. Do vậy mà đa dạng sinh học ở đảo Cát Bà nói chung và Vườn quốc Gia Cát Bà nói riêng là rất phong phú. Theo thống kê cho đến nay riêng khu vực Cát Bà có tới 2320 loài động vật và thực vật đang sinh sống bao gồm:
Bảng 2.1.4.1: Danh sách các loài động, thực vật ở Cát Bà.
STT
Tên loài
Số lượng
1
Thực vật trên cạn
741
2
Động vật sống trong khu vực rừng
282
3
Rong biển
75
4
Thực vật ngập mặn
23
5
Thực vật phù du
199
6
Động vật phù du
89
7
Động vật đáy
538
8
Cá biển
196
9
San hô
177
(Nguồn:Theo ghi chép của nhóm nghiên cứu thực địa tại Cát Bà, năm 2005)
Đặc biệt trong số trên 2000 loài động thực vật tại đảo cơ bản có tới 60 loài được coi là đặc hữu và quý hiếm được đưa vào sách đỏ của Việt Nam và thế giới.
Trong đó động vật trên cạn có khoảng 30 loài như: đồi mồi, quản đồng, ác là, quạ khoang, Voọc đầu trắng, Voọc quần đùi trắng, trăn đất, kì đà nước, rắn hổ chúa, khỉ mặt đỏ, khỉ đuôi lợn, sơn dương, hươu sao.
Thực vật trên cạn là 27 loài như: Chi đài, kim giao, lát hoa, re hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật, và có thêm 8 loài rong biển cần được bảo vệ như: Rong mơ mền, rong đá cong, rong thun thút, rong thuốc giun, các loài vật đáy có 7 loài như: ốc đục cái, trai ngọc, bàn mai, con sút, vẹm xanh, mực nang vân hổ.
2.1.4.2 Vai trò của Vườn quốc gia Cát Bà.
Là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam vừa có đảo vừa có biển, đặc trưng này quy dịnh nên vai trò hết sức quan trọng của Vườn quốc gia Cát Bà. Sự phong phú, đa dạng của các loài động thực vật thêm vào đó là sự tồn tại của nhiều loài động thực vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ đã tạo nên lợi thế cho Vườn so với các khu vực bảo tồn khác của Việt Nam.
Vườn quốc gia Cát Bà không chỉ có vai trò quan trọng với Việt Nam và đối với cả thế giới. Tầm quan trọng của vườn quốc gia Cát Bà còn được nâng lên khi ở đây là nơi duy nhất trên thế giới còn tồn tại loài Voọc đầu trắng tuy là với số lượng không lớn lắm, được coi là một trong hai loài linh trưởng quý hiếm nhất thế giới.
Vai trò quan trọng của Vườn quốc gia Cát Bà đã được thể hiện rõ trong chiến lược bảo tồn của chính phủ Việt Nam khi chính phủ quyết định coi Vườn là khu vực bảo tồn đa dạng sinh học được ưu tiên nhất của Việt Nam. Tầm quan trọng của vườn quốc gia Cát Bà nói riêng và đảo Cát Bà nói chung càng được khẳng định rõ khi tháng 11 năm 2004 Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu vực bảo tồn sinh quyển trên thế giới.
Với vị trí quan trọng của mình đối với Việt Nam và thế giới là một lợi thế để thu hút sự quan tâm của các tổ chức, quốc gia.. nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, sức ép trong việc bảo tồn .
2.1.5 Giới thiệu về loài voọc đầu trắng tại vườn quốc gia Cát Bà.
Voọc Cát Bà hay còn gọi là Voọc đầu trắng có tên khoa học là (trachypihecus) là loài linh trưởng cỡ lớn, thuộc họ khỉ, bộ linh trưởng. Voọc đầu trắng trưởng thành có trọng lượng cơ thể từ 5-10kg, chiều dài cơ thể từ đầu và thân là 0,41m - 0,95m. Đầu và vai ở con đực lông màu trắng nhạt, ở con cái lông màu thẫm hơn, vùng mông có vệt lông đuôi màu đen. Lúc mới sinh ra chúng có màu vàng vàng lớn len thì chuyển sang đen trắng.
Thức ăn chủ yếu của Voọc đầu trắng là chồi non, lá non, và quả cây rừng. Voọc đầu trắng sống thành từng đàn từ 10- 15 con và chúng rất dạn người . Trong đàn Voọc con đi đầu đàn thường là con đực, chúng thường đứng trên vách đá, quan sát vì thế chúng thường bị bọn săn trộm bắn trước. Voọc Cát Bà có những tập quán rất thú vị, có lúc chúng ngồi yên như pho tượng nhưng có lúc lại rất linh hoạt.
Hiện nay Voọc đầu trắng chỉ còn khoảng 60 cá thể. Trước đây Voọc còn nhiều 2400-2700 cá thể giảm xuống 200 cá thể vào những năm 80 và đến năm 2000 chi còn 105-135 cá thể. Sự giảm số lượng Voọc nhanh chóng như vậy là do nạn săn bắn Voọc để lấy xương nấu cao, lấy nước giải của Voọc hay làm thức ăn cho khách du lịch. Trong những năm gần đây do có sự quản lý chặt chẽ và các hoạt động bảo tồn Voọc mà số lượng Voọc được ổn định.
2.2 THỰC TRẠNG BẢO TỒN TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ TRƯỚC KHI CÓ DỰ ÁN
2.2.1 Thực trạng quản lý tại Vườn quốc gia Cát Bà.
Vườn quốc gia Cát Bà được thành lập theo quyết định 78-CT ngày 31 tháng 3 năm 1986 của chủ tịch hội đồng Bộ Trưởng. Vườn quốc gia Cát Bà trước đây thuộc Bộ Lâm Nghiệp quản lý, hiện nay chịu sự quản lý trực tiếp của thành phố Hải Phòng. Ban quản lý vườn gồm 1 giám đốc, 1 phó giám đốc, và các nhân viên hành chính khác. Có trách nhiệm trước nhà nước về quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử dựng Vườn theo các quy định của pháp luật.
Thực hiện các biện pháp nhằm phát triển bền vững tài nguyên sinh vật, tài nguyên đất, tài nguyên nước. Đồng thời phối hợp với cấp chính quyền địa phương để bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khác, thực hiện các biện pháp phòng tránh, chữa cháy, phòng trừ sâu bệnh, ngăn chặn các hành vi gây thiệt hại đến rừng.
* Về cơ sở hạ tầng hiện nay tại vườn .
Cơ sở hạ tầng của vườn vẫn còn rất sơ sài bao gồm:
- Một khu nhà làm việc của ban quản lý vườn kết hợp với nhà nghỉ của khách, có khu nhà của cán bộ công nhân viên quản lý vườn, nhìn chung bây giờ đã xuống cấp.
- Một khu nghiên cứu và nuôi chim thú bán tự nhiên rộng khoảng 350m2 nhưng còn thô sơ chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn.
- Một số cơ sở trưng bày mẫu động vật, thực vật và phòng thí nghiệm.
- Ngoài ra còn có 10 trạm bảo vệ, 3 chòi quan sát, một số máng ăn, sân ăn, máng uống cho chim thú và các chuồng dẫn dụ.
- Về đường giao thông chỉ có 2km đường Vườn trung tâm còn khang trang 12500m đường tuần tra bảo vệ rừng đi lại rất khó khăn.
- Hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước còn thiếu thốn và chưa đáp ứng được nhu cầu của Vườn.
* Về tài chính.
Hoạt động của vườn dựa trên nguồn ngân sách nhà nước cấp hàng năm khoảng 500 triệu một năm, ngoài ra từ nguồn thu từ bán vé vào thăm vườn, và các hoạt động viện viện trợ, các hoạt động nghiên cứu được sử dụng từ vốn sự nghiệp khoa học theo kế hoạch hàng năm.
2.2.2 Những vấn đề trong việc bảo tồn mà Vườn quốc gia Cát Bà gặp phải trước khi có dự án.
2.2.2.1 Tình hình thực tế mà loài Voọc đầu trắng tại vườn đang gặp phải.
Hiện tại số lượng Voọc trên đảo còn rất ít chỉ con khoảng 60 con. Số lượng Voọc trên đảo hiện tại bị chia nhỏ thành bảy nhóm tách biệt, trong đó có hai nhóm không còn khả năng sinh sản, mà nguyên nhân phân tán đàn Voọc là do:
Việc sử dụng đất cho phát triển du lịch đã làm ảnh hưởng tới môi trường sống của Voọc Cát Bà. Các hoạt động du lịch tham quan Vườn, sự xuất hiện của con người cùng với hoạt những thói quen xấu làm cho môi trường của Voọc không còn nguyên vẹn như trước. Sự thay đổi này làm cho những con không thích nghi được sẽ bị loại trừ, những con còn lại thì tập quán sống cũng bị thay đổi.
Hiện tượng chặt phá rừng để lấy đất phát triển sản xuất nông nghiệp. Người dân sống quanh rừng để phát triển sản xuất nông nghiệp họ không ngừng lấn chiếm đất rừng, chặt phá cây rừng để lấy đất. Khi mà chưa có một quy hoạch cụ thể về việc sử dụng đất thì hiện tượng trên còn diễn ra.
Nạn săn bắt động vật hoang dã và tàn phá rừng, mà nguyên nhân sâu sa là do nghèo đói và thiếu hiểu biết về bảo tồn các loài động vật hoang dã của người dân địa phương. Người dân không có nghề đem lại thu nhập thường xuyên, họ thường vào rừng để khai thác trái phép cây, gỗ, săn bắt để bán. Mặt khác có những người có thu nhập nhưng do nhận thức kém về việc bảo tồn nên vẫn vào rừng khai thác trái phép.
Địa phương vẫn chưa có một kế hoạch bảo tồn có tính hiệu lực cao, và việc bảo tồn cũng chưa được đưa vào chiến lược phát triển chung của địa phương. Địa phương do thiếu kinh nghiệm hoặc do thiếu tài chính nên vẫn chưa đưa ra được khung pháp lý về bảo tồn loài Voọc, đặc biệt là chưa đưa việc bảo tồn loài Voọc nói riêng và bảo tồn đa dang sinh học nói chung vào chiến lược chung của địa phương mình
Cơ hội tạo thu nhập cho những hộ gia đình nghèo tại địa phương còn hạn chế cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch bảo tồn. Vẫn chưa có một hoạt động cụ thể nào để tạo điều kiện cho người dân nghèo tăng thêm thu nhập, gắn hoạt động tăng thêm thu nhập với bảo tồn thiên nhiên.
Theo như bản đánh giá chi tiết của hai chuyên gia Nadler và Long thực hiện cũng như trên cơ sở báo cáo thực địa tiến hành trong 4 năm qua của tiến sĩ R.Stenke thuộc ZSCSP, thì mối đe doạ tiềm ẩn hiện nay đối với loài Voọc Cát Bà là :
+ Sự phân nhỏ môi trường sống và các cá thể do thiếu quy hoạch sử dụng đất.
+ Khả năng sinh sản của loài Voọc này thấp mà trước mắt chúng ta chỉ có thể tập chung giải quyết được mối đe doạ thứ nhất, tức là tạo môi trường thuận lợi hơn cho loài Voọc sinh sống. Việc tăng cường khả năng sinh sản của loài Voọc sẽ được thực hiện trong kế hoạch dài hạn của ZSCSP nhằm đưa các nhóm Voọc phân tán nhỏ lẻ trở lại các khu bảo tồn trong phạm vi vườn quốc gia.
2.2.2.2 Các hoạt động quy hoạch sử dụng đất.
Hiện nay, chính quyền địa phương đang thực hiện việc giao đất giao rừng cho khoảng 400 hộ gia đình tại địa phương. Điều này đồng nghĩa với việc chia nhỏ khoảng 7000 ha đất gần khu vực vườn quốc gia. Phần đất này là một phần môi trường sống rất quan trọng cho loài Voọc, cùng với 9800 ha diện tích rừng thuộc vườn quốc gia. Việc phân nhỏ các cùng đất này sẽ làm đàn Voọc bị phân tán nhau. Việc sử dụng đất không có quy hoạch, hướng dẫn làm thay đổi tập quán sinh sống, bất kì một thay đổi nhỏ nào cũng có thể dẫn tới sự suy giảm khả năng sóng của đàn Voọc, trong tương lại có thể là sự tuyện chủng.
Hợp đồng giao đất và sử dụng đất do Cục Kiểm Lâm thực hiện, sẽ giao quyền và trách nhiệm sử dụng đất cho người dân địa phương và hợp đồng có hiệu lực trong vòng 50 năm. Tuy nhiên một thực tế đặt ra là các hợp đồng này không rõ ràng bởi vậy chúng không khuyến khích người dân sử dụng và quản lý bền vững phần đất mà họ được giao. Hợp đồng không nêu ra được những ràng buộc cũng như hướng dân cụ thể cho người dân thực hiện, ví dụ quy định cụ thể về những loại cây có thể được trồng, thời gian vào rừng... để tạo điều kiện thuận lợi cho đàn Vooc tự do sinh sống mà cũng không ảnh hưởng tới người có rừng. Những quy định này hết sức có ý nghĩa khi thời gian giao rừng lên tới 50 năm, thời gian dài như vậy mà không có những quy hoạch đúng đắn thì ảnh hưởng tới loại Voọc là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy cần có sự hỗ trợ trong việc lập kế hoạch sử dụng đất cho người dân cũng như chính quyền địa phương.
2.2.2.3 Các hoạt động du lịch ở Cát Bà.
Ở Cát Bà du lịch đang đựơc coi là một ngành công nghiệp phát triển. Cát Bà được coi là điểm đến lý thú không chỉ của du khách trong nước mà của cả du khách quốc tế. Với cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng hàng năm du lịch của Cát Bà tăng trưởng tới 40%, và dự kiến Cát Bà sẽ đón hàng triệu du khách đến thăm mỗi năm đến năm 2010. Sự phát triển du lịch bên cạnh việc tạo nguồn thu quan trọng cho người dân, chính quyền nó cũng tạo nên mặt trái trong công tác bảo tồn trên đảo.
Sự phát triển ồ ạt của ngành du lịch trên đảo Cát Bà đang gây tác động xấu đối với môi trường trên đảo và dần phá huỷ vẻ đẹp tự nhiên của đảo Cát Bà. Phát triển du lịch trên đảo đang ảnh hưởng đến môi trường sống của các loài động vật trên đảo.
Sự giảm sút các loài động vật hoang dã trên đảo là hệ quả của quá trình phát triển cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch và nhu cầu thưởng thức thịt các loài vật hoang dã của nhiều du khách tới đảo. Bên cạnh đó sự thiếu ý thức của nhiều du khách tới đảo cũng trực tiếp gây ra các vấn đề môi trường nghiêm trọng, ví dụ như việc xả rác bừa bãi, sử dụng quá nhiều nước và điện.
Các du khách là mối đe doạ đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học trên đỏ bởi vì họ mua bán trái phép các loài động vật hoang dã để lấy thịt hoặc làm quà lưu niệm. Mối đe doạ đối với loài Voọc Cát Bà ngày càng tăng khi các thợ săn trong vùng đặt càng nhiều bẫy bắt Voọc và đem bán cho khách du lịch. Có thực trạng này là do trên đảo vẫn chưa có những quy định cụ thể về du lịch, ngày càng nhiều du khách muốn khám phá nhiều khu vực hoang dã trên đảo và như vậy vô hình chung đã làm ảnh hưởng đến tính nguyên sơ của đảo.
2.2.2.4 Ý thức của người dân về việc bảo tồn .
Cũng như nhiều khu vực bảo tồn khác gặp phải, Vườn quốc gia Cát Bà phải đối mặt với một thực tế là nhận thức của người dân đối với các loài động thực vật hoang dã và ý nghĩa việc bảo tồn các loài động thực vật này còn rất thấp. Ở đây không chỉ là ý thức của người dân sinh sống trên đảo mà là cả ý thức của khách du lịch đến thăm vuờn.
Ở Cát Bà vẫn còn có những hiện tượng người dân vào khu vực bảo tồn nghiêm ngặt để bẫy động vật, đốt lửa lấy mật ong, hay vào khu vực biển cấm để đánh bắt cá. Đặc biệt họ vẫn chưa thấy được mức độ quí hiếm của loài Voọc đầu trắng nên vẫn tìm cách bắt chúng để bán cho khách du lịch, vẫn còn các quán ăn từ thịt các loài động thực vật rừng ngay trên khu vực bảo tồn.
Điều này cảnh báo cho chúng ta thấy rằng ý thức của người dân đang đe doạ trực tiếp tới hoạt động bảo tồn đang và sẽ tiến hành.Vậy tại sao người dân ở đây vẫn còn có những hành động như vậy? Phần lớn họ phải làm như vậy là do đói nghèo, không có nghề để ổn định cuộc sống buộc họ phải vào rừng để kiếm ăn kể cả các hành động không được phép.
Nhưng bên cạnh đó, có một nguyên nhân nữa là do sự thiếu hiểu biết và nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn các loài động thực vật đó còn có giá trị hơn nhiều những gì họ kiếm được. Một dự án bảo tồn muốn thành công trong khi thực hiện cũng như đạt được sự bền vững sau khi kết thúc phải dựa vào cộng đồng địa phương. Vì vậy, nâng cao ý thức, nhận thức của người dân là giải quyết cái gốc rễ của vấn đề.
2.3 GIỚI THIỆU MÔ HÌNH QUẢN LÝ BẢO TỒN LOÀI VOỌC ĐẦU TRẮNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ.
2.3.1 Giới thiệu về dự án .
2.3.1.1 Bối cảnh của dự án.
Dự án nhằm bảo vệ loài Voọc đầu trắng trên đảo khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Loài Voọc này là loài động vật đặc hữu của đảo Cát Bà nằm ở khu vực đông Bắc Việt Nam. Loài Voọc đã được đưa vào danh sách của IUCN là một trong hai loài linh trưởng quý hiếm nhất trên thế giới hiện nay.
Đảo Cát Bà và Vườn quốc gia Cát Bà được công nhận là khu vực ưu tiên bảo tồn của Việt Nam, của khu vực và thế giới bởi vì đây là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật quan trọng của khu vực như những dải san hô, rừng đước và những núi đá vôi nhiệt đới.
Khu vực này còn đặc biệt quan trọng vì có những loài động vật đặc trưng của vùng, được công nhận là những động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Tầm quan trọng của khu vực đảo Cát Bà và Vườn quốc gia Cát Bà đã được công nhận trong kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia của chính phủ Việt Nam. Kế hoạch này còn khẳng định Vườn quốc gia Cát Bà là khu vực được ưu tiên bảo tồn lớn nhất. Tiếp theo vào tháng 11 năm 2004 Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu vực bảo tồn sinh quyển thế giới càng khẳng định rõ hơn tầm quan trọng của đảo Cát Bà nói chung và của Vườn quốc gia Cát Bà nói riêng.
Mặt khác gần đây, uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã được trao quyền quản lý vườn quốc gia và họ đã đề nghị các đối tác của dự án hỗ trợ một chương trình bảo tồn loài Voọc và các loài động thực vật trên đảo trong khuôn khổ Kế hoạch hành động bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia.
2.3.1.2 Thành viên chính thức tham gia dự án.
Cơ quan thực hiện: Vườn quốc gia Cát Bà.
Cơ quan tài trợ: Chương trình Bảo tồn di sản Thiên nhiên Khu vực (RNHP)
Thời gian thực hiện: 6 tháng từ ngày 1/11/2006 đến ngày 30/4/2007.
Vốn tài trợ: 175216 AU$
Cơ quan đại diện: Quỹ Ôtraylia vì nhân dân châu á và thái bình dương (AFAP)
AFAP là một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Sydney, Australia. Thành lập từ năm 1968, có văn phòng đại diện tại Hà Nội, Việt Nam và hoạt động theo luật pháp Việt Nam. AFAP là một tổ chức hoạt động trên nhiều lĩnh vực cùng hợp tác chặt chẽ với tổ chức AusAID và DIFD của Anh để thực hiện một số các dự án về môi trường, y tế, giáo dục, nông nghiệp và các lĩnh vực nông thôn khác.
Hiện nay, AFAP đang quản lý các dự án với tổng giá trị 15 triệu đôla mỹ do AusAID tài trợ. Là một tổ chức quốc tế bao gồm các tổ chức đối tác và các thành viên có mặt tại 30 quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương, Nam và Đông Á, Bắc và Nam Châu Phi. Với một mạng lưới hoạt động rộng lớn, AFAP còn hỗ trợ cho những sáng kiến phát triển môi trường bền vững nhằm phục vụ lợi ích của người dân và cộng đồng địa phương.
Trong dự án này AFAP sẽ đóng vai trò là tổ chức chỉ đạo trong nhóm thực hiện dự án bao gồm AFAP, tổ chức sinh học bảo vệ các loài (ZSCSP) và tổ chức động thực vật thế giới(FFI).
Tổ chức sinh học bảo vệ các loài(ZSCSP).
Tổ chức này có trụ sở tại Munich, đây là tổ chức về sinh học hàng đầu của Đức. Tổ chức này làm việc tại Vườn quốc gia Cát Bà hơn một thập kỉ qua. ZSCSP hỗ trợ các hoạt động ảnh hưởng trực tiếp tới công tác bảo tồn loài Voọc Cát Bà và hỗ trợ kỹ năng quản lý cho Vườn và thực hiện chương trình nâng cao nhận thức về bảo tồn.
Tư vấn chính của ZSCSP là tiến sĩ Rosie Stenke, Bà là một nhà nghiên cứu các loài linh trưởng suất sắc và đã nghiên cứu loài Voọc Cát Bà từ năm 2000. Với sự hỗ trợ của ZSCSP và sự đóng góp của bà mà số lượng Voọc trong những năm gần đây được ổn định.
Tổ chức động thực vật thế giới (FFI).
Tố chức này đã hoạt động tại Việt Nam được 7 năm. Hiện nay các dự án của tổ chức này bao gồm một dự án do World bank và quỹ môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ (giá trị 1 triệu đô la mỹ thực hiện trong 3 năm), dự án do quỹ rừng nhiệt đới của liên minh Châu Âu tài trợ (1,2 triệu đô la mỹ thực hiện trong 3 năm)…Trong suốt 7 năm qua FFI Việt Nam đã thực hiện thành công nhiều dự án quy mô vừa và nhỏ do các tổ chức nước ngoài tài trợ vào Việt Nam.
2.3.2 Nghiên cứu mô hình quản lý .
2.3.2.1 Mục tiêu mô hình hướng tới.
* Mục tiêu tổng quan.
Mô hình này nhằm hướng tới mục tiêu dài hạn và cao nhất là bảo tồn loài Voọc đầu trắng bằng việc tạo ra môi trường sống nguyên vẹn và an toàn cho sự phát triển số lượng Voọc hiện có trên đảo.
* Mục tiêu cụ thể.
- Giảm thiểu sự lấn chiếm đất rừng và giảm suy thoái môi trường sống của loài Voọc Cát Bà, bảo vệ phần đất rừng .
- Sử dụng bền vững rừng tự nhiên trong vùng đệm.
- Giảm thiểu những tác động môi trường do việc sử dụng không bền vững và khai thác những khu vực mới giao đất .
- Tạo thu nhập từ hoạt động bảo tồn cho người dân nhằm giảm thiểu các hoạt động săn bắt trái phép.
- Hỗ trợ việc chuyển đổi hình thức và quản lý bền vững đất rừng trong vùng đệm nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ rừng, quản lý nguồn tài nguyên và đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của những hộ dân có phần đất mới được chuyển đổi.
- Hỗ trợ việc phát triển kế hoạch quản lý rừng có hiệu quả và xây dựng và thực hiện những cam kết quản lý rừng cộng đồng.
- Nâng cao năng lực và nhận thức của cộng đồng về bảo tồn đa dạng sinh học
2.3.2.2. Các hoạt động được tiến hành để thực hiện các mục tiêu đó.
Để thực hiện được mục tiêu cao nhất, bên cạnh những biện pháp tác động trực tiếp, mô hình còn tiến hành các hoạt động để thực hiện các mục tiêu cụ thể đi kèm, để từng bước giải quyết các vấn đề liên quan gián tiếp tới việc bảo tồn Voọc. Đây chính là hoạt động hướng tới sự bền vững của mô hình khi dự án kết thúc. Vì vậy các hoạt động của mô hình được chia thành nhóm các hành động nhằm giải quyết từng mục tiêu mà nhóm hành động đó hướng tới.
* Nhóm hành động tác động trực tiếp tới việc bảo tồn loài Voọc.
Nhóm hành động này nhằm thực hiện mục tiêu tạo hệ thống quản lý tốt những khu vực bảo tồn, duy trì, tạo môi trường thuận lợi để bảo tồn loài Voọc.
Thành lập một tổ công tác chuyên trách về bảo tồn loài Voọc, do phó chủ tịch UBND Hải Phòng làm chủ tịch. Và bắt đầu thảo luận về kế hoạch tổng thể bảo tồn loài Voọc. Tổ công tác chuyên trách giữ vai trò chủ đạo trong kế hoạch bảo tồn loài Voọc.
Tổ chức các tổ bảo vệ rừng. Thành lập tổ bảo vệ rừng với thành viên là các hộ mới có hợp đồng giao đất. Kế hoạch bảo tồn loài Voọc do nhóm công tác chuyên trách bảo tồn loài Voọc cấp chính phủ sẽ đề ra những quy định và quy chế cụ thể.
Tiến hành tập huấn kỹ thuật và kỹ năng quản lý cho các thành viên của tổ bảo vệ rừng, tập huấn cho các thành viên nòng cốt trong các tổ bảo vệ rừng từ đó họ về phổ biến cho các thành viên trong tổ của mình. Những người tham gia vào tổ bảo vệ rừng là những người dân sống lâu đời ở vường họ có kinh nghiệm tại địa bàn nhưng họ không có ký thuật, kỹ năng quản lý vì vậy phải tạp huấn cho họ đảm bảo cho tổ bảo vệ hoạt động bền vững và lâu dài.
Xây dựng sổ tay quy chế quản lý và kế hoạch sử dụng đất được xây dựng và thực hiện. Năm xã dự án được hướng dẫn đầy đủ về các nhiệm vụ và quyền lợi theo như bản cam kết. Hoạt động nhằm tới giải quyết vấn đề là sử dụng đất rừng hợp lý, không làm phân tán, ảnh hưởng tới môi trưởng sống của loài Voọc.
Thiết lập các bản cam kết bảo vệ môi trường hộ gia đình và các hộ nuôi ong. Cam kết này được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyên không có bất kì một sự ép buộc nào. Tuy nhiên, để cho hoạt động cam kết đạt được hiệu quả thì cần công tác vận động tuyên truyền, đặc biệt đi kèm với trách nhiệm là quyền lợi mà người dân được hưởng.
* Nhóm hành động hướng vào sinh kế người dân.
Nhóm hành động này nhằm hỗ trợ người dân địa phương phát triển kinh tế bền vững, nâng cao thu nhập cho người dân. Giúp đỡ họ quảng bá được các sản phẩm sinh thái ra môi trường, đồng thời cũng thiết lập các ràng buộc để họ phải tuân theo.
Phát triển và khuyến khích hoạt động nuôi ong lấy mật và các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ. Các nghiên cứu khẳng định rằng việc đốt lửa bắt ong để lấy mật đã làm giảm đáng kể độ che phủ của rừng. Mô hình này sẽ hành động cùng với những nhóm nuôi ong vừa mới thành lập cùng hợp tác với các hộ nông dân sống trong vùng đệm giúp họ tham gia vào những mô hình thí điểm chuyển đổi sản xuất nhằm tăng thu nhập.
Tiến hành tư vấn về các sản phẩm và dịch vụ sinh thái được nêu ra trong các cuộc điều tra hộ gia đình với các hộ có cam kết quản lý. Tư vấn cho người dân hiều như thế nào là dịch vụ sinh thái, muốn có được sản phẩm, dịch vụ sinh thái cần làm như thế nào, tuân theo qui trình, tiêu chuẩn nào, và tham gia sản xuất sản phẩm, dịc vụ sinh thái thì họ thu được những lợi ích gì.
Phát triển du lịch sinh thái thông qua mô hình thí điểm cấp làng. Hỗ trợ việc xây dựng, tổ chức triển khai, cũng như vật chất ban đầu cho phát triển du lịch sinh thái. Đồng thời tạo mối liên hệ giữa các đại lý du lịch với các mô hình dịch vụ sinh thái để tạo thàn các tour du lịch cố định.
Tiến hành tập huấn du lịch sinh thái cho cộng đồng địa phương. Sau khi đã có cở sở vật chất ban đầu cho phát triển du lịch sinh thái, để cho mô hình hoạt động được thì cần có đội ngũ phục vụ cho dịch vụ này, không ai khác là chính người dân địa phương tham gia, nhưng một vấn đề đặt ra là để cho học có thể đảm nhân được công việc này cần có sự hướng dẫn, tập huấn. Hoạt động tập huấn muốn đem lại hiệu quả thì cần có phương pháp thích hợp.
Phát triển các doanh nghiệp dựa vào cộng đồng tạo ra các sản phẩm từ rừng có giá trị cao và đảm bảo sử dụng bền vững nguồn tài nguyên rừng và các sản phẩm nông nghiệp thích hợp.
Thành lập vườn ươm các loại lâm sản tại cộng đồng bao gồm việc chuẩn bị vườn ươm và điều tra kĩ thuật ươm cho người dân. Việc thành lập vườn ươm tại chỗ phục vụ cây giống kịp thời, có định hướng trước về cây giống để phục vụ cho các hộ được giao đất.
Thành lập ban quản lý thị trường, thành lập một hệ thống chứng nhận nguồn gốc xuất xứ sản phẩm mật ong và các loại lâm sản khác và phát triển hệ thống cấp giấy chứng nhận.
* Nhóm hành động nhằm nâng cao nhận thức của người dân.
Tổ chức diễn đàn giáo dục cộng đồng. Đại diện các nhóm hộ gia đình tham gia diễn đàn giáo dục. Các diễn đàn nhằm giải quyết vấn đề ý thức còn thấp của người dân. Để diễn đàn giáo dục đạt được hiệu quả cần có phương pháp thích hợp, có người dẫn có khả năng lôi cuốn người dân tham gia thảo luận vào nêu lên ý kiến của mình.
Tổ chức các chiến dịch nâng cao nhận thức môi trường trong các trường học và cộng động. Một đối tượng quan trọng khác cũng cần chú ý nâng cao nhận thức đó là thế hệ trẻ. Do vậy, cần kết hợp với nhà trường để nâng cao nhận thức của các em, ngoài các buổi nói chuyện cần có các hoạt hộng ngoại khoá đưa các em gần gũi với thiên nhiên.
Nâng cao năng lực tổ chức và năng lực cộng đồng cho công tác bảo tồn loài Voọc. Một số chương trình tập huấn về loài Voọc được xây dựng và thực hiện cho tất cả các thành viên nòng cốt của dự án.
Tăng cường, hỗ trợ và khuyến khích hoạt động của các tổ bảo vệ rừng, nâng cao nhận thức của cộng đồng về hoạt động của các tổ bảo vệ rừng và mối quan hệ của họ với việc bảo tồn loài Voọc, bảo vệ rừng và quản lý tài nguyên thiên nhiên từ cấp cơ sở.
2.3.2.3. Mô hình quản lý dựa vào cộng đồng được áp dụng tại vườn quốc gia Cát Bà.
Các tổ chức phi chính phủ
Cộng đồng
Chínhquyền
Hình 2.3.2.3: Sơ đồ mô hình quản lý
mục tiêu .....
mục tiêu 3
mục tiêu 2
mục tiêu
1
Bảo tồn loài Voọc
* Sự tham gia của Chính quyền.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng.
UBND thành phố Hải Phòng là một đối tác quan trọng của dự án, giúp đỡ, hỗ trợ thực hiện mô hình về mặt thể chế, chính sách. Đây cũng là nơi thành lập tổ công tác chuyên trách bảo tồn loài Voọc, là bộ máy ban đầu để thực hiện những sáng kiến quy hoạch bảo tồn tổng hợp.
UBND thành phố còn là cơ quan tiếp nhận, xem xét những báo cáo thực hiện của dự án từ đó đúc rút những kinh nghiệm, tuyên truyền, quảng bá mô hình ra những khu vực khác.
Uỷ ban nhân dân huyện Cát Hải.
UBND huyện Cát Hải là cơ quan nhà nước tại địa phương trực tiếp tham gia vào việc phát triển một kế hoạch bảo tồn tổng hợp cho việc tiến hành kế hoạch bảo tồn loài Voọc. Thông qua việc tham gia tư vấn cho dự án trong việc lập hế hoạch sử dụng đất hay trong việc thành lập các tổ bảo vệ rừng tổ chức các lớp tập huấn, tổ chức buổi tuyên truyền.
Vườn quốc gia Cát Bà.
Vườn quốc gia Cát Bà tham gia vào dự án bằng cách phát triển một khu bảo tồn tổng hợp cho việc tiến hành kế hoạch bảo tồn loài Voọc. Tham gia vào việc phát triển vùng đệm theo quyết định về việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, lập và quản lý các nhóm bảo vệ cộng đồng và các tổ chức khác liên quan. Tham gia vào việc xác định những khu vực bảo tồn chính yếu cho loài Voọc.
Chính quyền xã.
Đây là cơ quan nhà nước cấp cở sở tham gia vào hoạt động của dự án. Chính quyền cơ sở tham gia dưới hình thức như: Tham gia vào quy hoạch sử dụng đất xung quanh Vườn quốc gia Cát Bà, vào thành lập hành lang bảo vệ rừng. Thành lập nhóm bảo vệ cộng đồng và các tổ chức liên quan. Tham gia vào quá trình lập quy hoạch tổng thể cấp cơ sở và tham gia vào tổ chuyên trách trong kế hoạch bảo tồn loài voọc.
* Sự tham gia của các tổ chức thực hiện dự án.
Quỹ Australian vì nhân dân châu Á và thái Bình Dương.( AFAP).
Văn phòng của AFAP tại Sydney có trách nhiệm quản lý dự án và giám sát thực hiện tài chính của dự án. Văn phòng AFAP tại Việt Nam có trách nhiệm thực hiện dự án tại Việt Nam dưới sự giám sát của một ban điều phối dự án mà các thành viên là đại diện của từng đối tác dự án và một đại diện của uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng.
Một chủ nhiệm dự án, làm việc từ văn phòng của AFAP Việt Nam tại Hà Nội sẽ có trách nhiệm quản lý dự án, gửi các báo cáo về thực hiện dự án và tài chính dự án cho văn phòng AFAP tại Sydney. AFAP sẽ cử một điều phối viên dự án đóng tại Vườn quốc gia Cát Bà để giám sát các hoạt động dự án thường nhật. Điều phối viên này sẽ có trách nhiệm báo cáo tình hình dự án cho chủ nhiệm dự án của AFAP tại Hà Nội.
Tổ chức sinh học bảo vệ các loài (ZSCSP).
Tổ chức này cũng tư vấn và thiết kế chương trình tập huấn, với tư vấn chính là tiến sĩ Rosie Stenke người đã nghiên cứu loài Voọc từ năm 2000 sẽ tư vấn trong việc xây dựng mô hình nhóm giáo dục và bảo vệ rừng được áp dụng ở 5 xã để bảo vệ loài Voọc.
Tổ chức sẽ có trách nhiệm đưa ra những chỉ dẫn ban đầu, tư vấn và điều phối các hoạt động cho việc phát triển và thực hiện kế hoạch bảo tồn loài Voọc. ZSCSP kết hợp chặt chẽ với cán bộ của AFAP và ban điều phối dự án để đưa ra tư vấn cho quá trình lập kế hoạch, giám sát dự án.
Tổ chức động thực vất thế giới (FFI).
Tham gia vào việc tư vấn và điều phối các hoạt động phát triển doanh nghiệp và du lịch sinh thái. Những chuyên gia tư vấn của FFI sẽ phối hợp chặt chẽ với cán bộ của AFAP và ban điều phối dự án đưa ra tư vấn cho quá trình lập kế hoạch, tập huấn và giám sát của dự án.
Tổ chức giáo dục thiên nhiên Việt Nam(ENV).
Đây là một tổ chức phi chính phủ, và họ sẽ là những tư vấn viên chính cho việc xây dựng và thực hiện các tài liệu về giáo dục môi trường cho các chương trình tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân địa phương.
* Sự tham gia của cộng đồng địa phương.
Sự tham gia của người dân.
Hiện nay, chính phủ Việt Nam đang xây dựng các hình thức khuyến lâm và các cơ chế bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng và các biện pháp phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học tổng hợp mới. Mô hình hình này đã lôi cuốn đựơc người dân Cát Bà tham gia nhất là những hộ nghèo, họ mong đựơc tham gia vào mô hình để tạo thêm thu nhập mà dự án đem lại. Người dân địa phương tham gia vào mô hình này bằng các hoạt động như:
Họ có thể tham gia vào các tổ bảo vệ rừng. Hành động này được đánh giá rất cao bởi vì không ai khác ngoài họ là người hiểu rõ địa bàn và quy luật hoạt động của các loài động vật trong vườn nhất là của loài Voọc. Vì vậy sự tham gia của học sẽ đen lại hiệu quả quản lý cao nhất. Ngoài ra sự tham gia của họ vào các tổ bảo vệ rừng sẽ giúp nâng cao nhận thức của họ về việc bảo tồn, và chính họ sẽ là người tuyên truyền nhận thức này có hiệu qủa nhất.
Người dân địa phương còn có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh bền vững như tổ chức nuôi ong lấy mật thay vì vào rừng đốt lửa lấy mật gây cháy rừng, kinh doanh các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ, tham gia vào mô hình phát triển du lịch sinh thái…Người dân tham gia vào các hoạt động sản xuất này sẽ có những lợi thế do dự án đem lại như là:
+ Họ sẽ được tư vấn, hỗ trợ về kiến thức trong lĩnh vực mình kinh doanh hay hoạt động thông qua các đợt tập huấn.
+ Sản phẩm của họ là ra sẽ được bảo vệ thông qua việc được chứng nhận là sẩn phẩm bền vững đối với việc bảo tồn, nó gần như là việc dán nhãn sinh thái. Và tất nhiên như vậy sẽ giúp sản phẩm của họ sẽ tiêu thụ dễ ràng hơn và giá thành cao hơn.
+ Sản phẩm của các hộ kinh doanh tham gia vào dự án sẽ được bảo vệ thông qua một ban quản lý thị trường do dự án thành lập.
nhưng bên cạnh những quyền lợi người dân được hưởng họ cũng có những nghĩa vụ phải thực hiện. Họ phải cam kết và thực hiện cam kết bảo tồn tài nguyên của vườn. Có nghĩa vụ tham gia vào các đợt tập huấn và các chương trình tuyên truyền giáo dục.
Những người mới được giao đất tham gia vào dự án bằng cách thực hiện theo đúng quy hoạch sử dụng đất mà dự án nêu ra, thay vào đó họ sẽ được cung cấp cây giống từ các vườn ươm của dự án.
Hội những người nuôi ong.
Qua kinh nghiệm hợp tác lâu dài với ZSCSP và FFI, Hội này sẽ hỗ trợ cho những hộ mới tham gia về kinh nghiệm, nuôi cũng như tư vấn cho dự án trong việc tập huấn các hộ nuôi ong.
Hiệp hội khách sạn Cát Bà.
Đối tượng này tham gia trong việc: Hỗ trợ cải thiện hoạt động của các khách sạn theo hướng thân thiện với môi trường, hỗ trợ thực hiện những quyết định về phát triển du lịch cho cộng đồng địa phương, tham gia vào các hoạt động thông tin và giáo dục du lịch.
Hội nông dân.
Hội nông dân cũng tham gia vào mô hình dưới hình thức tư vấn vào các hoạt động như: Tham gia thành lập hành lang rừng, tham gia phát hiện những khu vực bảo tồn loài Voọc.
Hội phụ nữ huyện Cát Hải.
Hội phụ nữ huyện tham gia hỗ trợ các sáng kiến thành lập doanh nghiệp hướng tới đối tượng chị em phụ nữ. Họ đưa ra tư vấn về giới cho các hoạt động của dự án nhằm góp phần đưa các hoạt động của dự án đến từng hộ gia đình.
Sự tham gia của khách du lịch.
Khách du lịch đến với đảo Cát Bà nói chung và Vườn quốc Gia Cát bà nói riêng, bên cạnh việc đem lại thu nhập cho địa phương và người dân ở đây thì vô hình chung họ cũng làm ảnh hưởng tới môi trường của vườn, đảo một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trực tiếp là việc họ xả rác bừa bãi, sử dụng nước, điện không tiết kiệm, hay là vào các khu vực cấm.
Ngoài ra tác động gián tiếp của họ tới môi trường bằng các hành động như: mua các sản phẩm từ rừng, mua động vật hoang dã, ăn các món ăn từ rừng vô hình họ đã khuyến khích người dân khai thác rừng bừa bãi. Vì thế để mô hình hoạt động hiệu quả cần có sự tham gia của họ.
Khách du lịch có thể tham gia bằng việc giữ vệ sinh môi trường, nâng cao nhận thức của mình về việc bảo tồn, thay vì mua các sản phẩm từ rừng là mua các sản phẩm thân thiện với môi trường, các sản phẩm sinh thái đã được chứng nhận. Những việc làm này không chỉ góp phẩm cho hoạt động bảo tồn mà còn khuyến khích người dân phát triển các hình thức kinh doanh bền vững. Hay là thay vì tham gia vào các tour du lịch bình thường thì tham gia vào các tour du lịch sinh thái và sử dụng các dịch vụ du lịch thân thiện với môi trường. Trong khuôn khổ của dự án cũng có các hoạt động kết hợp với các đại lý du lịch nhằm tuyên truyền, hướng dẫn hoặc phát tờ rơi để nâng cao nhận thức của đối tượng này.
CHƯƠNG III
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP,KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG.
3.1 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH
3.1.1 Đánh giá hiệu quả trực tiếp.
* Đối với hoạt động bảo tồn Voọc.
Thiết lập được một hệ thống quản lý các khu vực, hành lang bảo vệ Voọc. Hệ thống này đáp ứng được mục tiêu bảo tồn loài Voọc. Hệ thống này đã vận hành theo kế hoạch tổng hợp bảo tồn loài Voọc do nhóm công tác chuyên trách bảo tồn loài voọc cấp chính phủ quản lí.
Giao 7274 ha đất rừng cho các hộ gia đình ở vùng đệm quản lý, góp phần chấm dứt nạn lấn chiếm đất rừng.
Thành lập 5 tổ bảo vệ rừng được ở 5 xã dự án đã thực hiện tốt vai trò của mình, các tổ này thực hiện quản lý tốt vùng rừng được giao theo đúng quy định quy chế mà kế hoạch tổng hợp bảo vệ Voọc đưa ra, cụ thể họ đã liên kết bảo vệ diện tích rừng, không còn hiện tượng chặt phá rừng như trước đây, và sử dụng bền vững những rừng.
Kí kết 1021 bản cam kết bảo vệ môi trường được với 1021 hộ ở vùng đệm. Và người dân ở đây đã được phổ biến về quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi họ kí cam kết vì thế mà người dân đã tích cực tham gia. Cam kết đã kí những lợi ích mà người dân nhận dược đã khuyến khích họ tham gia tích cực thực hiện những điều khoản đã nêu ra trong cam kết, dễ nhận thấy nhất là cơ bản không còn hiện tượng người dân đặt bẫy, săn bắn trong vùng cấm, không vào rừng đốt lửa lấy mật ong.
Tổ bảo vệ rừng đi vào hoạt động đã góp phần điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ. Kịp thời giải quyết mâu thuẫn giữa các thành viên, hạn chế hiện tượng chặt trộm rừng của nhau.
* Đối với những cán bộ cấp huyện và địa phương.
Những cán bộ khuyến lâm, cán bộ của vườn quốc gia, cán bộ cục kiểm lâm, cán bộ liên quan cấp làng, xã, huyện được tham gia vào 5 chương trình tập huấn. Các lớp tập huấn đã cung cấp các kĩ năng, kiến thức như:
- Những kĩ năng khuyến nông thông qua các mô hình thí điểm.
- Những kĩ năng quản lý rừng đầu nguồn, tài nguyên thiên nhiên rừng .
- Những kĩ năng thực hiện dự án tổng hợp.
- Những kĩ năng quản lí dự án, quản lý dự án, giám sát dự án.
- Những kĩ năng phát triển cộng đồng
Những kĩ năng này góp phần nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, sẽ trau rồi kiến thức, kĩ năng và năng lực của đội ngũ cán bộ địa phườn và giúp họ có thể duy trì các hoạt động và hỗ trợ cộng đồng địa phương sau khi dự án kết thúc. Đồng thời những kiến thức này sẽ được nhân rộng ra các khu vực nằm ngoài dự án.
* Đối với sinh kế người dân.
Các hoạt động hỗ trợ của dự án nhằm mục đích chuyển đổi hình thức sản xuất cũ, nâng cao thu nhập cho người dân cũng đem lại hiệu quả cao.
Năm doanh nghiệp được thành lập ở 5 xã nhờ sự hỗ trợ, tư vấn từ dự án, chuyên kinh doanh các mặt hàng bền vững từ rừng, hay các sản phẩm nông sản cho thích hợp cho các hộ gia đình được giao đất như: mật ong, đồ thủ công.
Số hộ nuôi ong, cơ sở sản xuất các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ tăng lên từ chỗ chỉ có 12 hộ trong các xã lên tới 37 hộ. Trong tương lai các hộ nuôi ong còn tiếp tục tăng lên.
Từ khi ban quản lý thị trường đi vào hoạt động, thị trường các sản phẩm đi vào ổn định, hệ thống giấy chứng nhận lâm sản được phép khai thác đựơc thiết lập, đi vào hoạt động đem lại hiệu quả cao, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm của người dân tiêu thụ trên thị trường.
Các hộ gia đình hợp tác với các đại lý du lịch để cung cấp các dịch vụ sinh thái bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu của các tour du lịch. Người dân tham gia vào các dịch vụ ăn, uống, nghỉ trọ, hướng dẫn khách du lịch. Thu nhập của các hộ từ hoạt động du lịch này trung bình đạt từ 8- 10 triệu một năm.
Nhìn chung từ khi mô hình đi vào hoạt động nhập của người dân tăng lên rõ rệt. Cơ bản không còn hộ đói nghèo, chỉ có Xã Việt Hải nằm sâu trong Vườn thì đời sống còn khó khăn hơn.
* Ý thức của người dân.
Tổ chức 6 điễn đàn giáo dục môi trường được tổ chức với sự tham gia của đại diện các hộ gia đình, 3 diễn đàn tổ chức toàn bộ thành viên của dự án .
Kết thúc mỗi diễn đàn đều có phỏng vấn, qua phỏng vấn cho thấy có tới 85% đã thay đổi suy nghĩ của mình về việc bảo tồn theo hướng tích cực, họ cho biết là đã thấy được lợi ích của việc bảo tồn và cần thiết phải bảo tồn, và họ sẽ tham gia tích cực vào mô hình. Số còn lại họ không quan tâm tới vấn đề này vì họ có thu nhập cao từ các hoạt động không liên quan đến rừng vì thế đối tượng này cũng không lo ngại về vấn đề ý thức của họ
Qua đó ta thấy rằng người dân rất quan tâm tới việc BVMT. Sau các diễn đàn giáo dục thì ý thức của người dân hoạt động bảo tồn đã tăng lên rõ rệt.
Cụ thể số vụ vi phạm vào rừng đặt bẫy, săn bán giảm xuống rõ rệt, cụ thể vào năm 2003 xử lý 93 vụ vi phạm thu 3 khẩu súng săn, tthu và phá > 1000 bẫy các loại, năm 2004 xử lý 18 vụ vi phạm thu một khẩu súng săn, thu và phá >700 bẫy các loại đến năm 2006 sỗ vụ vi phạm được phát hiện chỉ còn là 9 vụ và thu được 89 bẫy. Người dân ngày càng ít vào rừng, nếu có vào chỉ để tìm lá thuốc, củi khô...họ không tự ý vi phạm như trước.
Các em học sinh ở 8 trường trung học của huyện đã được tham gia vào các chương trình ngoại khoá, đóng kịch, tiểu phẩm về môi trường phần lớn các em đều tham gia rất hứng thú, hào hứng.
Qua các buổi học này các kiến thức về BVMT được truyền tải tới các em rất sâu sắc, dễ hiểu, và sinh động. Trong các chương trình có xen kẽ các câu hỏi về môi trường nhằm kiểm tra nhận thức của các em, các câu hỏi đưa ra đều được các em hào hứng trả lời, và rất đúng.
Những buổi học như vậy đã nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường cho các em, đối với các em BVMT cũng như là một môn học và cần phải học, ý thức BVMT đã gắn liền với các hoạt động hàng ngày của các em
3.1.2 Hiệu quả gián tiếp của mô hình.
* Đối với quốc gia.
Khi dự án thực hiện, mô hình quản lý đi vào hoạt động sẽ giúp Việt Nam thực hiện được các mục tiêu bảo vệ môi trường đã đề ra như: Tác động tích cực đến việc thực hiện kế hoạch hành động bảo vệ môi trường của Việt Nam giai đoạn 2001-2005, hỗ trợ thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng với mục tiêu nâng độ che phủ rừng của Việt Nam vào năm 2010 như tỷ lệ của năm 1945, giúp bảo tồn nguồn gen và đa dạng sinh học.
Mô hình sẽ giúp hỗ trợ chính thực hiện các điều khoản 8,10,11,12,18 của công ước quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học mà Việt Nam tham gia, bao gồm các vấn đề về: Bảo tồn tại chỗ, sử dụng bền vững đa dạng sinh học, các giải pháp khuyến khích bảo tồn, nghiên cứu, tập huấn và hợp tác khoa học kĩ thuật. Mô hình cũng giúp hỗ trợ thực hiện điều khoản 2 của công ước về khả năng tạo thêm thu nhập cho người dân đảo Cát Bà, đồng thời giảm những tác động của con người đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Góp phần hài hoà các chính sách quản lý quốc gia và của địa phương về rừng và tài nguyên rừng, xây dựng hệ thống giám sát bảo vệ rừng nhằm cung cấp những dữ liệu quan trọng về những khu vực có rừng cho việc lập quy hoạch chiến lược cấp quốc gia và xác định những khu vực ưu tiên cho đầu tư, đóng góp của những khu vực bảo tồn, sự đa dạng sinh học và của ngành lâm nghiệp đối với nền kinh tế quốc gia.
* Đối với thành phố Hải phòng.
Mô hình này tạo ra mối liên kết để khuyến khích các đối tác trong khu vực áp dụng những hệ thống quản lý tập thể nhằm bảo tồn và sử dung bền vững những khu vực rừng đựơc ưu tiên bảo vệ đặc biệt. Khuyến khích phân cấp quản lý và ra quyết định từ trung ương xuống địa phương, bảo vệ và tái đề cử Vịnh hạ Long là một khu vực di sản thế giới và đề cử đảo Cát Bà là một khu vực “Bảo tồn sinh quyển và con người”.
3.1.3 Những tồn tại từ mô hình cần giải quyết.
Để mô hình vận hành tốt cần có sự rõ ràng về các ranh giới như gianh giới về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia, gianh giới về đối tượng quản lý... Trong mô hình quản lý ở Vườn quốc gia Cát Bà đã có sự phân công, phân cấp rõ ràng tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong việc xác định các ranh giới như:
+ Ranh giới giữa rừng bảo tồn nghiêm ngặt và rừng ở vùng đệm nên vẫn có sự dịch chuyển về ranh giới ở một số nơi.
+ Ranh giới giữa sản phẩm sinh thái và sản phẩm không phải là sinh thái vẫn chưa thực sự minh bạch rõ ràng. Do việc quản lý về nguồn gốc các sản phẩm đưa ra thị trường không phải việc đơn giản, đòi hỏi có một mạng lưới quản lý thị trường đủ mạnh và có sự đầu tư thích đáng. Chưa có một tiêu chuẩn cụ thể nào về việc xác định một sản phẩm là sản phẩm sinh thái mà chủ yếu được xác định qua sự quan sát, kinh nghiệm là chủ yếu.
+ Ranh giới về quyền hạn của ban quản lý thị trường cũng chưa rõ ràng, chưa có một chính sách cụ thể nào cho hoạt động của đối tượng này nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Hoạt động cấp giấy chứng nhận chưa có cơ chế điều chỉnh hợp lý nên vẫn còn sảy ra tình trạng tư nhân thông đồng với nơi cung cấp giấy chứng nhận để đưa các sản phẩm không phải sản phẩm sinh thái cũng được cấp giấy chứng nhận.
Để cho người dân yên tâm tham gia vào mô hình thì họ phải có thu nhập ổn định đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống, vì thế khi tham gia vào mô hình phải cân đối dược chi phí người dân bỏ ra với lợi ích họ thu về, đặc biệt đối với người dân được giao rừng. Nhưng việc thu nhập của người dân được giao rừng ở vườn quốc gia Cát Bà còn nhiều điều cần giải quyết:
Về cơ chế hưởng lợi trong giao và khoán rừng, chính phủ đã ban hành quyết định 178/2001/QĐ-TTG. Quyết định này áp dụng cho cá nhân, hộ gia đình được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp, chưa đề cập đến quyền lợi của chủ thể quản lý rừng là cộng đồng dân cư thôn bản. Tuy nhiên ngay đối với quyền lợi cho cá nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V7076.DOC