Đề tài Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội trên quan điểm kinh tế môi trường hướng tới phát triển bền vững

Tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội trên quan điểm kinh tế môi trường hướng tới phát triển bền vững: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………..…………1 CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG…………………….4 I. những vấn đề cơ bản về kinh tế môi trường Cơ sở hình thành chuyên ngành kinh tế môi trường Kinh tế môi trường với sự thất bại của thị trường cơ chế giá cả trong nền kinh tế thị trường Quyền sở hữu và thất bại thị trường Hàng hóa công cộng Ngoại ứng 1.3. Mối liên quan giữa các thế hệ II.Khái niệm chung về quản lý môi trường……………….…………………4 1.1. Khái niệm quản lý môi trường…………………………………………………4 1.2. Mục tiêu quản lý môi trường…………………………………………………..5 1.3. Nội dung quản lý môi trường………………………………………………….5 II. Quản lý rác thải…………………………………………………………...6 2.1. Khái niệm rác thải………………………………………………………………6 2.2. Phân loại rác thải ………………………………………………………………6 2.3. Khái niệm quản lý rác thải……………………………………………………..6 2.4. Hệ thống cơ quan quản lý rác thải ……………………………………………7 2.5. Công nghệ xử lý …………………………………………………………8 2.5.1.Phương pháp chế biến chất thải thành phân compost…………………...8 2.5.2...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội trên quan điểm kinh tế môi trường hướng tới phát triển bền vững, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………..…………1 CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG…………………….4 I. những vấn đề cơ bản về kinh tế môi trường Cơ sở hình thành chuyên ngành kinh tế môi trường Kinh tế môi trường với sự thất bại của thị trường cơ chế giá cả trong nền kinh tế thị trường Quyền sở hữu và thất bại thị trường Hàng hóa công cộng Ngoại ứng 1.3. Mối liên quan giữa các thế hệ II.Khái niệm chung về quản lý môi trường……………….…………………4 1.1. Khái niệm quản lý môi trường…………………………………………………4 1.2. Mục tiêu quản lý môi trường…………………………………………………..5 1.3. Nội dung quản lý môi trường………………………………………………….5 II. Quản lý rác thải…………………………………………………………...6 2.1. Khái niệm rác thải………………………………………………………………6 2.2. Phân loại rác thải ………………………………………………………………6 2.3. Khái niệm quản lý rác thải……………………………………………………..6 2.4. Hệ thống cơ quan quản lý rác thải ……………………………………………7 2.5. Công nghệ xử lý …………………………………………………………8 2.5.1.Phương pháp chế biến chất thải thành phân compost…………………...8 2.5.2.Phương pháp đốt………………………………………………………………8 2.5.3.Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh…………………………………………9 2.5.4. Các công nghệ khác…………………………………………………………..9 CHƯƠNG II : HIỆN TRẠNG RÁC THẢI ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HÀ NỘI…...10 I. Giới thiệu chung về Hà Nội………………………………………………10 1.1. Đặc điểm tự nhiên của Hà Nội……………………………………………….10 1.1.1. Vị trí địa lý……………………………………………………………10 1.1.2. Điều kiện tự nhiên…………………………………………………….10 1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội……………………………………………………….11 1.2.1. Đất đai, dân số………………………………………………………...11 1.2.2. Tổ chức hành chính…………………………………………………...12 1.2.3. Tình hình kinh tế……………………………………………………...12 II. Thực trạng rác thải đô thị thành phố Hà Nội…………………………..13 2.1. Nguồn gốc phát sinh…………………………………………………………..13 2.2. Khối lượng rác thải ……………………………………………………………14 2.3. Thành phần rác thải …………………………………………………………..16 III. Tình hình quản lý rác thải thành phố Hà Nội………………………...19 3.1. Cơ quan quản lý Nhà nước về rác thải……………………………………..19 3.2. Công tác thu gom………………………………………………………………19 3.3. Công tác vận chuyển ………………………………………………………….23 3.4. Phí thu gom rác thải…………………………………………………………...26 3.5. Tình hình xử lý rác thải………………………………………………………..27 3.5.1. Chôn lấp rác …………………………………………………………..27 3.5.2. Chế biến phân vi sinh ………………………………………………...28 3.5.3. Thiêu đốt rác………………………………………………………….29 IV. Xử lý rác thải tại bãi Nam Sơn - Sóc Sơn ..30 4.1. Tổng quan khu liên hiệp xử lý chất thải Nam Sơn…………………...30 4.1.1. Các điều kiện tự nhiên của khu liên hiệp…………………………………30 4.1.2. Các hạng mục chính của khu liên hiệp hiện nay………………………..31 4.1.3. Quy hoạch tổng thể KLH Nam Sơn……………………………………….31 4.2. Khu chôn lấp hợp vệ sinh rác thải đô thị……………………………32 4.2.1. Trình tự sử dụng các ô chôn lấp rác xây dựng giai đoạn 1……………32 4.2.2. Khu chôn lấp chất thải giai đoạn 2……………………………………….33 4.2.3. Hệ thống thu gom xử lý nước rác………………………………………….34 4.3. Quy trình quản lý và vận hành bãi…………………………………….35 4.4. Dự án phát triển tương lai của khu liên hiệp………………………..39 4.4.1. Khu xử lý chất thải công nghiệp…………………………………………...39 4.4.2. Khu chế biến phân compost………………………………………………..40 4.4.3. Nhà máy tái chế rác thải thành điện……………………………………...40 CHƯƠNG III : MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC Chi phí tài chính cho hoạt động thu gom, vận chuyển rác thải Chi phí tài chính cho hoạt động thu gom và vận chuyển rác thải Xác định số thu phí vệ sinh Hiệu quả tài chính cho hoạt động thu gom, vận chuyển rác thải Công tác quản lý rác thải và vấn đề thất bại thị trường Lợi Ých thực của hoạt động quản lý Công tác quản lý rác thải và những vấn đề thất bại thị trường Vấn đề xử lý CHƯƠNG IV : CÁC GIẢI PHÁP…………………………………………41 I. Mục tiêu của chiến lược quản lý rác thải………………………………..41 II. Tổ chức quản lý………………………………………………………….42 III. Giải pháp về công tác vận chuyển……………………………………...44 IV. Giảm lượng rác thải…………………………………………………….55 4.1. Các công cụ kinh tế……………………………………………………………56 4.1.1. Phí rác thải……………………………………………………………56 4.1.2. Hệ thống ký quỹ – hoàn trả…………………………………………...58 4.2. Các công cụ pháp lý…………………………………………………………...59 V. Thu hồi, tái chế rác thải…………………………………………………61 VI. Giải pháp về xử lý KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………….65 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………66 Phụ lục LỜI MỞ ĐẦU Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của loài người nói chung, của từng quốc gia và từng địa phương nói riêng. Trong quy hoạch và xây dựng đô thị nếu không cân nhắc, tính toán đến các yếu tố môi trường một cách đầu đủ thì có thể gây ra hậu quả xấu, làm sa sót, suy thoái môi trường, nguy hại đến sức khỏe con người và hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta quan tâm đến môi trường chính là chúng ta quan tâm và bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta. Trong công tác quản lý rác thải đô thị nói chung, quản lý rác thải đô thị Hà Nội nói riêng, vấn đề môi trường vẫn chưa được đánh giá một cách đúng đắn. Mọi người dân vẫn được hưởng không khí trong lành, được hưởng các các dịch vụ làm sạch môi trường như hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải do mình thải ra môi trường mà không phải trả hoặc trả một khoản tiền không tương xứng nên mọi người không có ý thức giữ gìn, coi trọng và bảo vệ môi trường. Rác thải được thải ra ngày càng nhiều, rác được vứt bừa bãi không đúng nơi quy định và việc xử lý rác thải vẫn chưa triệt để. Đó là do môi trường và công tác quản lý rác thải do Nhà nước đảm nhiệm vẫn được coi là hàng hóa môi trường không đo được và không được xác định rõ ràng trên thị trường, cơ cấu giá và hệ thống quyền sở hữu đều thất bại. Xuất phát từ những vấn đề trên và từ chuyên ngành đào tạo của mình là “Kinh tế và quản lý môi trường”, được sự giúp đỡ của các thầy cô và cán bộ Xí nghiệp môi trường đô thị, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp : “Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội trên quan điểm kinh tế môi trường hướng tới phát triển bền vững”. Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu công tác quản lý rác thải tại Hà Nội làm rõ vấn đề hàng hóa công cộng đối với môi trường sống xung quanh chóng ta và thực hành trong thực tế những kiến thức mà mình đã được đào tạo trong trường học. Chuyên đề được nghiên cứu trong phạm vi thành phố Hà Nội. Dựa trên các tư liệu, số liệu thống kê tiến hành nghiên cứu và thực hiện chuyên đề bằng một số phương pháp sau : - Phương pháp thu thập tài liệu. - Phương pháp kế thừa các kết quả có sẵn. - Phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa thông tin. - Phương pháp phân tích dự án đầu tư. Từ đó đề tài nêu lên thực trạng của công tác quản lý rác thải trên địa bàn, dự báo được lượng rác thải trong tương lai gần và đề xuất một số giải pháp cho công tác quản lý. Chuyên đề đã hoàn thành với 4 chương : - Chương I : Những vấn đề lý luận chung. - Chương II : Hiện trạng rác thải của thành phố Hà Nội. - Chương III : Một số đánh giá về công tác quản lý rác thải. - Chương IV : Các giải pháp. Chuyên đề tốt nghiệp là kết quả của quá trình thực tập, quá trình nghiên cứu và thu thập số liệu. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú trong xí nghiệp môi trường đô thị số 1 đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân trọng đến : PGĐ Nguyễn Mạnh Hùng - Xí nghiệp môi trường đô thị số 1. GVC Lê Trọng Hoa - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD Thạc sĩ Huỳnh Thị Mai Dung - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD Cử nhân Nguyễn Quang Hồng - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD Do còn hạn chế về trình độ và thời gian nên đề tài vẫn còn có nhiều thiếu sót và nghiên cứu chưa được đầy đủ, tôi rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè để có thể hoàn thiện hơn những nhận định của mình. Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác, nếu sai phạm tôi xin chịu kỷ luật với nhà trường. Hà Nội, ngày tháng năm 2003 Ký tên Hoàng Thu Hà CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG 1.1. Cơ sở hình thành chuyên ngành kinh tế môi trường Con người trải qua hàng ngàn năm phát triển bằng các hoạt động sản xuất và các hoạt động phát triển kinh tế đã tiến bộ, ổn định và phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Trong các hoạt động của mình con người luôn phải dựa vào tự nhiên, dựa vào môi trường. Trong giới hạn của mình môi trường có khả năng tự phục hồi và lại tiếp tục phục vụ con người. Tuy nhiên khi các hoạt động của con người lại làm ảnh hưởng đến chất lượng môi trường, làm vượt mức giới hạn tự phục hồi của môi trường thì môi trường sẽ tác động trở lại và làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người. Con người buộc phải quan tâm đến môi trường khi tiến hành các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của mình. Mối quan tâm đến môi trường tự nhiên bao trùm khắp mọi tầng lớp dân cư. Chưa bao giờ thế giới lại ý thức sâu sắc đến môi trường như hiện nay. Xã hội đang quan tâm đến giải quyết các vấn đề môi trường. Tuy nhiên trong xã hội phân hóa rất sâu sắc đến vấn đề môi trường và hình thành hai nhóm đối lập nhau. Đó là “những người ủng hộ phát triển” cho rằng cần phải phát triển kinh tế rồi mới có thể ổn định môi trường và “những người ủng hộ bảo tồn” lại cho rằng môi trường đang bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng thậm chí một số người còn đi đến kết luận phải ngừng tất cả mọi hoạt động kinh tế. Cả hai quan niệm trên đều mang tính chất cực đoan. Rõ ràng chúng ta không thể đi theo mét trong hai quan điểm đó. Nếu chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế thì có thể gây thiệt hại không thể bù đắp được đối với môi trường tự nhiên và môi trường tự nhiên sẽ tác động trở lại làm nền kinh tế mất khả năng tăng trưởng. Ngược lại nếu ngừng các hoạt động kinh tế gây ảnh hưởng đến môi trường thì cũng có thể gây ra suy thoái môi trường. Bởi nếu chúng ta giảm các hoạt động kinh tế sẽ dẫn đến việc tăng thất nghiệp và nghèo đói mà nghèo đói cũng là một nguyên nhân gây suy thoái môi trường. Xuất phát từ các vấn đề trên, chuyên ngành kinh tế môi trường ra đời. Kinh tế môi trường không đề cao quan điểm nào mà đặt ngang nhau cả hai mục tiêu chiến lược : sự tăng trưởng kinh tế (EG) và chất lượng môi trường (EQ) với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nói cách khác trong quyết đinh lựa chọn có tính chiến lược ở tất cả các cấp độ xã hội, một bước không thể thiếu và bỏ qua được là xem xét ảnh hưởng của môi trường trong quá trình ra quyết định. 1.2. Kinh tế môi trường với sự thất bại của thị trường 1.2.1. Cơ chế giá cả trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố cung và cầu hàng hóa chịu sự tác động của cơ chế giá. Nó định ra cho thị trường những quyết định cơ bản : Cần phải sản xuất hàng hóa nào, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào và bán cho ai. Gi¸ c¶ (P) Sè l­îng (Q) §­êng cung thÞ tr­êng §­êng cÇu thÞ tr­êng 0 Đường cầu thị trường thể hiện giá mà xã hội sẵn sàng trả để có thêm một đơn vị (cận biên). Khi giá cả đối với một đơn vị hàng hóa giảm thì lượng hàng mua tăng lên. Thông thường đường cầu được mô tả như một chu trình sẵn sàng thanh toán (WTP) Đường cung thị trường mô tả chi phí sản phẩm cận biên nghĩa là chi phí để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Khi giá cả của hàng hóa giảm thì lượng cung đối với hàng hóa đó sẽ giảm. Khi hàng hóa được bán ra ở mức giá mà cung và cầu thị trường cân bằng nhau có nghĩa là thị trường hoạt động một cách hiệu quả, tổng lợi Ých cho toàn xã hội là tối đa. Ngược lại nếu hàng hoá được bán ra ở mức giá nhỏ hơn hoặc cao hơn mức giá cân bằng sẽ dẫn đến sự thất bại của thị trường và sẽ dẫn đến xã hội mất đi một phần lợi Ých. 1.2.2. Quyền sở hữu và thất bại thị trường Thị trường sẽ hoạt động một cách hiệu quả đối với các loại hàng hóa nếu các hàng hóa bán ra thị trường đáp ứng được những điều kiện sở hữu cá nhân. Đó là : - Phải xác định rõ quyền đối với người sở hữu nghĩa là phải xác định rõ sở hữu cái gì và sở hữu bao nhiêu. Hàng hóa có thể bị chiếm đoạt và sử dụng nếu không xác định rõ quyền cho người hiện đang sở hữu. Quy định này được xem như là một điều kiện bắt buộc. - Quyền chuyển nhượng nghĩa là người khác có thể sử dụng hàng hóa khi người chủ sở hữu tự nguyện chuyển nhượng cho họ. Quy đinh này được xem như là điều kiện chuyển nhượng. - Tất cả các lợi Ých và chi phí cho việc sử dụng hàng hóa này phải được người chủ sở hữu của nó quyết định. Đây là điều kiện độc quyền. Những người khác chỉ có thể quyết định lợi Ých và chi phí sau khi đã thoả mãn điều kiện có thể chuyển nhượng. Các quy định này chỉ thỏa mãn đối với các hàng hóa thông thường trên thị trường, còn đối với hàng hóa môi trường các điều kiện thi hành bị vi phạm. Việc không đưa ra chỉ giới rõ ràng giữa nhiều loại hàng hóa môi trường dẫn đến điều kiện thi hành bị vi phạm, quyền sở hữu đối với hàng hóa môi trường không được xác lập. Điều kiện chuyển nhượng chỉ có thể thỏa mãn nếu nảy sinh động cơ về chuyển nhượng. Động cơ đó chính là giá cả. Đối với nhiều loại hàng hóa môi trường, khả năng chuyển nhượng là không thể có chính vì giá cả của hàng hóa không được xác định đúng đắn. Ngay cả khi một người sở hữu một hồ nước hay một dòng sông, điều đó cũng không thể ngăn chặn kẻ khác tước đoạt đi một số lợi Ých, Ýt nhất là về phong cảnh chẳng hạn. Rút cuộc là cần phải chú ý cả ba điều kiện liên quan đến nhau này. Nếu một trong ba điều kiện bị vi phạm thì các điều kiện còn lại cũng bị vi phạm theo. 1.2.3. Hàng hóa công cộng Hàng hóa công cộng là một loại hàng hóa mà ở đó sự tiêu thụ của mỗi người có thể cân bằng với số hàng hóa sẵn có. Mỗi khi một hàng hóa công cộng được cung cấp, thì mỗi người có thể tiêu dùng một lượng hàng hóa cũng bằng một lượng hàng hóa có sẵn mà không loại trừ bất cứ một ai khác tiêu dùng lượng hàng hóa sẵn có đó. Hàng hóa công cộng có hai quyền sở hữu quan trọng là : - Không loại trừ : Một khi hàng hóa được cung cấp, nó không thể từ chối cung cấp hàng hóa sẵn có đó cho bất cứ ai. - Chi phí cận biên bằng không : Quyền sở hữu này được rót ra từ quyền sở hữu thứ nhất là chúng ta không thể từ chối cung cấp hàng hóa sẵn có đó cho bất cứ ai, khi mà giá cung cấp hàng hóa đến tay người tiêu thụ thêm vào là bằng không. Hầu hết các hàng hóa môi trường gần như là hàng hóa công cộng hay là hàng hóa hỗn hợp. Nếu đưa sở hữu hàng hoá công cộng lên một điểm nào đó mà nếu vượt qua điểm đó thì hàng hoá sẽ trở thành hàng hoá cá nhân. ở giai đoạn đầu của việc tiêu thụ hàng hoá sự tiêu dùng thêm của những người khác không làm ảnh hưởng đến người khác, chi phí cận biên là bằng không. Nhưng đến một điểm ngưỡng nào đó sự tiêu dùng thêm sẽ làm cho chi phí cận biên trở thành dương và có xu hướng lên đến vô cùng, sự tiêu dùng hàng hóa công cộng trở thành tắc nghẽn. Như vậy việc sở hữu hàng hóa công cộng đã gây ra thất bại thị trường. Khi quyền sở hữu không xác định được rõ ràng khiến cho hàng hóa này không có giá cả, giá cả thị trường bằng không. Khi tiêu dùng một hàng hóa mà không có giá sẽ thúc đẩy việc sử dụng quá mức, dẫn đến suy thoái và làm hư hại tài nguyên thiên nhiên. Nguyên nhân thứ hai là hàng hóa công cộng có đặc tính chi phí cận biên bằng không có nghĩa là khi tiêu thụ thêm một đơn vị hàng hóa mà vẫn không phải trả tiền thể hiện một sự thất bại thị trường. Sở dĩ như vậy vì người ta có xu hướng đánh giá thấp WTP đối với hàng hóa công cộng và thêm nữa là vì người ta cho rằng một khi nó được cung cấp, người ta có quyền tự do sử dụng nó. Vấn đề này thường được đề cập đến như việc “cưỡi ngựa không mất tiền”. 1.2.4. Ngoại ứng Ngoại ứng là những tác động đến các lợi Ých hay các chi phí nằm bên ngoài thị trường. Một ngoại ứng thường tạo ra những tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều nhóm người và điều đó không thể nào định giá được. Đó là những chi phí hay lợi Ých mà một người nào đó tạo ra cho người khác mà những chi phí và lợi Ých này không được tính đến trên thị trường. Có hai loại ngoại ứng : - Ngoại ứng tích cực : Ngoại ứng tích cực nảy sinh khi hoạt động của một bên làm lợi cho bên khác. Chẳng hạn, một người sửa sang lại ngôi nhà của mình, trồng vườn hoa đẹp thì tất cả những người láng giềng đều có lợi, dù cho chủ nhân không tính đến những lợi Ých đó của xóm giềng. - Ngoại ứng tiêu cực : Ngoại ứng tiêu cực nảy sinh khi hoạt động của một bên áp đặt chi phí cho bên khác. Chính các ngoại ứng này đã gây ra sự thất bại của thị trường. Chúng ta sẽ xem xét sự thất bại của thị trường được gây ra bởi ngoại ứng tiêu cực. Gi¸ hoÆc chi phÝ (P) S¶n l­îng (Q) MSC = MPC + MEC MPC MEC §­êng cÇu thÞ tr­êng 0 Q1 Q2 P2 P1 Giá cả trên thị trường được xem xét trên quan điểm đường cung và đường cầu thị trường. Đường cung mà không tính tới ảnh hưởng của ngoại ứng gọi là chi phí cận biên cá nhân (MPC) bởi vì nó chỉ bao gồm chi phí sinh ra bởi một nhóm người. Giá cả được tính trên thị trường được xác định (P1,Q1) bằng chi phí cận biên cá nhân gây nên sự thất bại trên thị trường do giá cả không được xác định đúng đắn. Hoạt động này gây ra một ngoại ứng gọi là chi phí cận biên môi trường (MEC). Việc khắc phục các ngoại ứng nghĩa là tính cả giá cả gây ra bởi các ngoại ứng vào chi phí cho xã hội (MSC) sẽ dẫn đến sản lượng giảm đi và giá cả tăng lên. Việc xác định giá cả ở mức (P2,Q2) được gọi là mức hiệu quả mà ở đó giá của sản phẩm bằng chi phí cận biên xã hội sản xuất ra chóng. 1.3. Mối liên quan giữa các thế hệ Việc quản lý hàng hoá môi trường liên quan đến 3 chỉ tiêu xã hội : - Sự tăng trưởng kinh tế (EG). - Chất lượng môi trường (EQ). - Mối liên quan giữa các thế hệ (IGC). Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế (EG) là làm tối đa thu nhập quốc dân, đó là sản lượng hàng hoá và thu nhập quốc gia. Đối với chất lượng môi trường (EQ) chóng ta đã thấy rõ trong phần trình bày trên, cần phải bảo vệ môi trường và tăng chất lượng môi trường. Chúng ta có thể xác định chỉ tiêu EQ như sau : Chỉ tiêu chất lượng môi trường là chỉ tiêu nhằm phục hồi, tăng cường và bảo tồn chất lượng tài nguyên tự nhiên và các hệ sinh thái. Theo nội dung này, chỉ tiêu về mối liên quan giữa các thế hệ bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa các thế hệ về nhu cầu đối với tài nguyên và nhu cầu hưởng thụ môi trường sống trong lành, các hệ sinh thái. Ở hiện tại chúng ta chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế làm giảm tối đa hoá chi phí và tăng tối đa lợi Ých của mình mà không cần quan tâm đến chất lượng môi trường. Điều này sẽ làm cho chất lượng môi trường bị suy thoái và để lại hậu quản cho thế hệ mai sau. Những ô nhiễm, những suy thoái môi trường, sự cố môi trường hay như sự giảm và thậm chí cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẽ gây ra những chi phí mà chúng ta không thể tính hết được. Những chi phí này sẽ do các thế hệ mai sau phải gánh chịu. Giữa các chỉ tiêu EQ và IGC có mối liên hệ qua lại, bổ sung cho nhau. Đó là việc bảo vệ các nguồn tài nguyên môi trường cũng chính là đảm bảo được tính sẵn có của chúng cho thế hệ tương lai. Tuy nhiên hai chỉ tiêu này lại thường mâu thuẫn với chỉ tiêu EG. II. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 2.1. Khái niệm quản lý môi trường Xã hội loài người đã trải qua các thời kỳ, các hình thái xã hội khác nhau. Đó là các thời kỳ : - Thời kỳ hái lượm - Thời kỳ văn minh nông nghiệp - Thời kỳ văn minh công nghiệp Trải qua các giai đoạn phát triển, cuộc sống của con người ngày càng văn minh, đầy đủ và phát triển vượt bậc. Nhưng bên cạnh những mặt tích cực thì chính những hoạt động sản xuất của con người lại đem lại những tác động xấu cho môi trường. Xã hội càng đi lên hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phong phú, đa dạng, con người càng khai thác nhiều tài nguyên thiên nhiên. Chúng ta sử dụng tài nguyên thiên nhiên để sản xuất và lại thải ra môi trường những rác thải và đến một lúc nào đó chính môi trường cũng không thể tiếp nhận. Chính vì vậy cùng với tăng trưởng kinh tế, con người đã làm đảo lộn thế giới tự nhiên, làm chất lượng môi trường ngày càng suy giảm, các hệ sinh thái bị nghèo kiệt, sức khoẻ con người bị đe doạ. Trước tính cấp bách của môi trường như vậy đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ trên góc độ môi trường đối với sinh hoạt, các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Từ đó ta có khái niệm về quản lý môi trường : “Quản lý môi trường là bằng mọi biện pháp thích hợp tác động và điều chỉnh các hoạt động của con người nhằm làm hài hoà các mối quan hệ giữa phát triển và môi trường sao cho vừa thoả mãn nhu cầu của con người vừa đảm bảo được chất lượng của môi trường và không quá khả năng chịu đựng của hành tinh chóng ta”. 2.2. Mục tiêu quản lý môi trường Thực chất của quản lý môi trường là quản lý con người trong các hoạt động phát triển và thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của hệ thống môi trường. Mục tiêu chung, lâu dài và nhất quán của quản lý môi trường là nhằm góp phần tạo lập sự phát triển bền vững. 2.3. Nội dung quản lý môi trường - Quản lý môi trường được tiến hành ở cả cấp vĩ mô (quản lý Nhà nước) và cấp vi mô (doanh nghiệp, hộ gia đình) gồm các nội dung sau : - Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường. - Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. - Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường. - Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường. - Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh. - Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường. - Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. - Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường. - Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. - Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. III. QUẢN LÝ RÁC THẢI 3.1. Khái niệm rác thải Chất thải là chất được loại ra trong quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người hoặc các hoạt động khác. Dựa theo nguồn gốc hình thành chất thải bao gồm : Chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp, chất thải y tế, chất thải sinh hoạt… Chất thải sinh hoạt thường được gọi là rác thải. Rác thải sinh hoạt là các rác thải liên quan đến hoạt động của con người ở các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các cửa hàng dịch vụ, thương mại, du lịch… 3.2. Phân loại rác thải Việc phân loại rác thải nhằm mục đích tuỳ theo yêu cầu mà quản lý tốt hơn các chất thải. Tuy nhiên việc phân loại này chỉ có tính chất tương đối. 3.2.1. Phân loại theo bản chất nguồn hình thành chất thải có các loại : - Rác thải thực phẩm bao gồm thức ăn thừa, rau quả… các loại chất này mang bản chất dễ bị phân huỷ sinh học, quá trình phân hủy tạo ra các mùi khó chịu, đặc biệt trong thời tiết nóng Èm. Ngoài các loại thức ăn thừa từ gia đình, còn có thức ăn dư thừa từ các bếp ăn tập thể, các nhà hàng, khách sạn, ký túc xá, chợ… - Rác thải đường phố : có thành phần chủ yếu là lá cây, que, củi, nilon, vá bao gãi. 3.2.2. Phân loại theo thành phần hoá học và vật lý Người ta phân biệt theo các thành phần hữu cơ, vô cơ, cháy được, không cháy được, kim loại, phi kim loại, da, giẻ vụn, cao su, chất dẻo… 3.3. Khái niệm quản lý rác thải Cuộc sống của con người luôn tạo ra rác thải, từ các hoạt động ăn uống hàng ngày cũng như trong các sinh hoạt bình thường sử dụng các vật dụng. Khi dân số tăng cao, lượng rác thải ra cũng tăng lên ngày càng nhiều và gây ra những tác động đến môi trường. “Quản lý rác thải là làm sao để các chất có thể gây ô nhiễm môi trường không lan truyền ra khí quyển, thuỷ quyển, thạch quyển”. Việc quản lý chất thải phụ thuộc vào bản chất của quá trình sản xuất, đặc trưng của chất thải, tính chất của các chất gây ô nhiễm nằm trong chất thải. Quản lý chất thải với ý nghĩa quản lý các chất gây ô nhiễm được thực hiện bởi sơ đồ sau : Nguån « nhiÔm (SX vµ sinh ho¹t) §­êng truyÒn chÊt « nhiÔm (sù lan truyÒn « nhiÔm) §èi t­îng bÞ « nhiÔm C¬ quan gi¸m s¸t m«i tr­êng C¬ quan gi¸m s¸t tiÕp xóc C¬ quan §TM C¬ quan ra quyÕt ®Þnh 3.4. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước trong quản lý chất thải rắn Sơ đồ hệ thống quản lý chất thải : ChÝnh phñ Bé x©y dùng UBND thµnh phè Bé Khoa häc, c«ng nghÖ & m«i tr­êng Së GTCC Së Khoa häc, C«ng nghÖ vµ M«i tr­êng C«ng ty M«i tr­êng ®« thÞ UBND c¸c cÊp d­íi R¸c th¶i 3.5. Công nghệ xử lý Rác thải sinh hoạt tuỳ từng mục đích và điều kiện mà có các cách xử lý khác nhau. 3.5.1. Phương pháp chế biến rác thải thành phân compost . Chế biến rác thải thành phân compost là một quá trình ủ rác mà trong đó các chất thối rữa chuyển hoá về mặt sinh học trong chất thải rắn biến chúng thành phân hữu cơ gọi là compost. Quá trình này đòi hỏi đảm bảo vệ sinh tốt, triệt để ngăn ngừa các sinh vật gây bệnh bằng cách sử dụng nhiệt phân huỷ sinh học và chất kháng sinh do nấm tạo ra. Các thành phần chất thải thích hợp để ủ bao gồm các chất thải hữu cơ từ bếp, vườn tược, giấy loại, rác rưởi trên đường phố, rác thải ở các chợ, rác, bùn cống, các chất thải hữu cơ từ công nghiệp thực phẩm, chất thải từ công nghiệp gỗ và giấy, phân chuồng động vật nuôi. Việc ủ phân không được thuận lợi nếu các thành phần này dưới 30% tổng số chất thải hoặc nếu độ Èm lớn hơn 40%- 50%. Sản phẩm thu được phục vụ cho nông lâm nghiệp, vừa có tác dụng cải tạo đất tăng năng suất cây trồng mà không bị nhiễm hóa chất tồn dư trong quá trình sinh trưởng. Tại Việt Nam nếu phát triển phương pháp này sẽ góp phần giải quyết tình trạng thiếu phân bón do không đủ kinh phí nhập khẩu. Chi phí sản xuất 8 – 10 USD/tấn, chu trình sản xuất dài khoảng 2 tháng và diện tích xây dựng nhà máy khoảng 5 ha cho công suất 100.000 tấn/năm. 3.5.2. Phương pháp đốt Đốt rác là “quá trình kỹ thuật sử dụng quá trình đốt bằng ngọn lửa có điều khiển nhằm phân huỷ các chất thải bằng nhiệt”. Chất bã còn lại của quá trình cháy và khí thải ra thường phải tiếp tục được xử lý. Nhiệt phát sinh trong quá trình này được thu hồi và sử dụng cho các mục đích khác nhau. Công nghệ đốt rác có ưu điểm Ýt gây ra nguy cơ làm nước ngầm bị nhiễm bẩn. Quá trình đốt rác làm giảm đáng kể khối lượng rác chôn lấp. Tuy nhiên công nghệ đốt là quá trình cần phải có vốn đầu tư ban đầu cũng như chi phí vận hành khá lớn, dễ vượt quá khả năng của hầu hết các thành phố ở các nước đang phát triển. Do đó công nghệ đốt rác chủ yếu được chấp nhận ở các nước công nghiệp hoá vì sẽ làm giảm bớt nhu cầu về mặt bằng đất đai. Đối với các nước đang phát triển việc đốt rác chủ yếu được áp dụng với các chất thải y tế và công nghiệp độc hại. 3.5.3. Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh là một phương pháp kiểm soát phân huỷ chất thải trong đất bằng cách chôn nén chặt và phủ lấp bề mặt. Chất thải rắn đọng lại trong chôn lấp bị tan rữa ra về mặt hoá học và sinh học rồi tạo ra các chất rắn, lỏng, khí. Chi phí để vận hành bãi chôn lấp hợp vệ sinh là tương đối thấp so với phương pháp đốt, do đó phương pháp xử lý rác bằng chôn lấp hợp vệ sinh thường được áp dụng đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên việc vận hành bãi chôn lấp phải được kiểm tra, xử lý thường xuyên độ nguy hại của rác thải, khí và nước rác được tạo ra trong quá trình xử lý để tránh nguy hại cho môi trường và con người. 3.5.4. Các công nghệ khác Ngoài 3 công nghệ chủ yếu trên rác thải còn được xử lý bằng phương pháp tạo khí ga, hóa rắn để làm vật liệu xây dựng, trung hòa, chưng cất. CHƯƠNG II HIỆN TRẠNG RÁC THẢI THÀNH PHỐ HÀ NỘI I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HÀ NỘI 1.1. Đặc điểm tự nhiên của Hà Nội 1.1.1. Vị trí địa lý Hà Nội nằm trong vùng châu thổ sông Hồng có độ nghiêng 0,30 theo hướng Tây Bắc - Đông Nam ở vĩ độ 20,570 đến 21,250 vĩ tuyến Bắc, 105,350 đến 106,010 kinh Đông. Chiều dài Bắc 0 - Nam 93 km, Đông - Tây 30 km. Diện tích đất tự nhiên Hà Nội là918,46 km2. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Hà Nội nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa : Gió đông nam (mùa hè), gió đông bắc (mùa đông). Độ Èm trung bình 81% - 82% (cao nhất 85% - 86%). Nhiệt độ trung bình có xu hướng tăng từ 23,50C năm 1985 lên 24,40C năm 2000. Số ngày mưa trong năm từ 140 - 160 ngày, lượng mưa trung bình trong năm là 1480,6 mm. Về địa hình Hà Nội có các sông chảy qua như sông Hồng, sông Đuống, sông Nhuệ, sông Công, sông Cà Lồ với chiều dài 1250 km. Độ cao địa hình trung bình từ 6 - 9 m thấp hơn mực nước sông Hồng (mùa lũ lớn từ 12 - 13 m). Đây là một trở ngại lớn cho việc tiêu thoát nước của Hà Nội. Hà Nội có trên 100 ao, hồ, đầm trong đó nội thành có 16 hồ, tổng diện tích 592 ha chiếm 17% diện tích nội thành. Các ao hồ này ngoài việc tạo cảnh quan còn có tác dụng điều hoà khí hậu, nước mưa, nuôi thủy sản, tiếp nhận một phần nước thải và có khả năng tự sạch nhất định. Nước ngầm tầng sâu Hà Nội khá phong phú và là nguồn nước sạch chính cho sinh hoạt với khả năng khai thác 800.000 – 900.000 m3/ngày đêm. 1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội 1.2.1. Đất đai, dân số 1.2.1.1. Đất đai Tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố là 920,97 km2 được phân bố: - Diện tích nội thành : 84,3 km2 chiếm 9,15%. - Diện tích ngoại thành : 836,85 km2 . - Còn lại 322,50 km2 (35%) là các loại đất chuyên dùng cho công nghiệp, đất dân cư và chưa sử dụng. 1.2.1.2. Dân số Dân số Hà Nội tương đối lớn, đứng thứ hai trên toàn quốc. Theo số liệu của tổng cục thống kê dân số Hà Nội trong mấy năm gần đây như sau : Đơn vị : nghìn người Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Số dân 2621.5 2685 2739.2 2841.7 2930.6 (Nguồn : Niên giám Thống kê - Nhà xuất bản Thống kê). Mật độ dân số trung bình 2993 người/km2 đứng đầu cả nước. Tuy nhiên mật độ phân bố không đồng đều : diện tích nội thành là 9,2% nhưng lại chiếm 53% dân số đưa mật độ dân số lên 17489 người/km2. Tốc độ tăng dân số tự nhiên có xu thế giảm dần từ 1,475% năm 1995 còn 1,087% năm 2000. Trong khi tốc độ tăng cơ học lại tăng rất nhanh do dòng người từ nông thôn và các tỉnh tràn vào mỗi năm một nhiều. 1.2.2. Tổ chức hành chính Hà Nội được chia thành 7 quận nội thành gồm Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân, Tây Hồ, Cầu Giấy và 5 huyện ngoại thành gồm Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm. Hà Nội có 220 phường xã và 8 thị trấn. 1.2.3. Tình hình kinh tế Tăng trưởng GDP của Hà Nội trong những năm gần đây khoảng 7% - 10%. Trong cơ cấu GDP kinh tế quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo. Năm 1999, kinh tế quốc doanh trung ương chiếm 56,8%, kinh tế quốc doanh địa phương là 8,9%. Còn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thay đổi từ 14,42% trong giai đoạn 1991 - 1995 đến 1999 đã tăng lên 19,7%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài kể từ 1993 đã bắt đầu có vai trò trong kinh tế thành phố, tăng từ 4,7% trong năm 1993 lên 12,6% vào năm 1999. Thành phố Hà Nội, thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, khoa học và kỹ thuật. Đồng thời đây cũng là trung tâm giao lưu quốc tế, thường xuyên tổ chức các đại hội, hội nghị trong nước và quốc tế. Hà Nội có nhiều truyền thống văn hóa và lâu đời, nhiều di tích lịch sử và các nhiều điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Sắp tới Hà Nội sẽ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội và gần nhất là hướng tới SEAGAME 22 sẽ được tổ chức vào tháng 12 tới. Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế Hà Nội là tương đối lớn nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Trong vài năm trở lại đây, tốc độ đô thị hóa của Hà Nội phát triển rất mạnh mẽ tuy nhiên việc phát triển cơ sở hạ tầng vẫn còn chậm và chưa theo kịp. Hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn nhiều những bất cập như hệ thống đường xá, giao thông và đặc biệt là công tác quản lý rác thải đô thị vẫn còn chưa triệt để từ khâu thu gom, vận chuyển đến xử lý. II. THỰC TRẠNG RÁC THẢI ĐÔ THỊ HÀ NỘI 2.1. Nguồn gốc phát sinh rác thải * Rác thải của khu dân cư : Đây là nguồn thải chính của rác thải sinh hoạt. Hoạt động của con người hàng ngày luôn tạo ra một lượng rác thải nhất định rất đa dạng, phức tạp. Nó bao gồm các thực phẩm thừa, túi, bao bì các loại… Nguồn rác này luôn có xu hướng gia tăng và thay đổi về tỉ lệ các thành phần. * Rác thải của nhà hàng, khách sạn : Nguồn thải này bao gồm thức ăn thừa, chai lọ, đồ hộp, giấy, vải vụn… Nguồn rác thải này thường được thu gom bởi các xí nghiệp môi trường đô thị và một phần nhỏ được bán cho tư nhân làm thức ăn chăn nuôi. * Rác thải của các công sở, trường học, công trình công cộng : Nguồn thải này không gây nhiều tác động xấu tới môi trường do thành phần của nó không phức tạp lắm gồm giấy vụn, văn phòng phẩm … và được thu gom phần lớn bởi các xí nghiệp môi trường đô thị. * Rác thải từ các chợ : chiếm một lượng lớn rác thu gom. Rác thải này có thành phần phức tạp, bao gồm rau quả, các loại bao bì, túi nilon, chai lọ… và tác động mạnh tới môi trường xung quanh. Lượng rác này có hàm lượng hữu cơ cao nên thường được sử dụng để ủ phân compost. * Rác thải sinh hoạt từ các bệnh viện : bao gồm rác thải của cán bộ công nhân viên bệnh viện, rác thải của người nhà bệnh nhân và rác thải từ bếp ăn. Lượng rác này cũng được thu gom cùng với rác thải sinh hoạt của thành phố. 2.2. Khối lượng rác thải Tính trung bình lượng rác thải sinh hoạt theo đầu người dao động từ 0,4 - 0,6 m3/người/ngày. Tỉ trọng rác thải trung bình theo tính toán của URENCO là 0,416 tấn/m3. Bảng 2.1: Lượng rác thải đô thị của thành phố Hà Nội năm 1999 TT Thành phần Khối lượng (tấn/ngày) Khối lượng (tấn/năm) Tỉ lệ (%) 1 Rác sinh hoạt (kể cả rác chợ và rác đường phố) 1.603 584.934 79,3 2 Rác công nghiệp 144 52.570 7,1 3 Rác xây dựng 262 95.515 12,9 4 Rác bệnh viện 14 5.183 0,7 Tổng 2023 740.423 100 (Nguồn : Bé Khoa học Công nghệ và Môi trường năm 1999) Qua đó ta thấy lượng rác thải sinh hoạt chiếm tỉ lệ rất lớn 79,3% trong tổng lượng rác của thành phố. Hơn nữa đặc điểm nổi bật của loại rác này là phát sinh trên diện rộng trên khắp mọi ngõ ngách của thành phố. Điều này đòi hỏi chúng ta phải quản lý chặt chẽ lượng rác thải phát sinh từ khâu thu gom đến vận chuyển và xử lý. Bảng 2.2 : Lượng rác thải sinh hoạt của Hà Nội qua các năm Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Số lượng 369882 413545 499320 544259 584934 534938 (Nguồn : Báo cáo hiện trạng môi trường Hà Nội năm 2000) Qua biểu đồ ta thấy : Nhìn chung lượng rác thải tăng lên theo thời gian. Nghĩa là giữa tiêu thức thời gian và tiêu thức số lượng có mối liên hệ với nhau. Có thể có nhiều nguyên nhân nhưng một nguyên nhân dễ nhận thấy nhất đó là do qua thời gian số dân ngày càng tăng lên kéo theo lượng rác cũng tăng lên. Dự báo rác thải để có một cách nhìn khái quát về lượng rác thải trong tương lai, từ đó có những kế hoạch quản lý cho phù hợp. Khối lượng rác thải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : tỉ lệ tăng dân số, mức tăng trưởng kinh tế, trình độ khoa học kỹ thuật và vào dân trí môi trường… Dựa vào kết quả khảo sát và nghiên cứu thực trạng rác thải phát sinh của thành phố, đồng thời kết hợp với phương pháp dự báo ta có bảng sau : Bảng 2.3 : Dự báo lượng rác thải trong tương lai Năm 2000 2005 2010 2015 2020 Khối lượng rác sinh hoạt (m3) 1.273.984 1.746.883 2.619.483 3.559.455 5.018.750 (Nguồn : báo cáo tóm tắt công tác quản lý chất thải rắn đô thị Hà Nội(URENCO) 2.3. Thành phần rác thải Việc thu thập và tính toán thành phần rác thải có ý nghĩa rất lớn đối với việc đề xuất các biện pháp xử lý rác thải, giúp người quản lý lựa chọn được các công nghệ thu gom, vận chuyển và xử lý có hiệu quả. Thành phần rác thải đô thị rất phức tạp, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá và tập quán sinh hoạt của người dân đô thị. Bảng 2.4 : Thành phần rác thải của thành phố Hà Nội TT Các thành phần cơ bản Số liệu URENCO (1997) % Số liệu JICA (1998) % Các giải pháp xử lý 1 Chất hữu cơ (rau, quả, lá cây, thức ăn…) 50,27 47,51 Sản xuất phân vi sinh 2 Giấy 2,72 7,28 Tái chế hoặc đốt sinh nhiệt 3 Plastic, nilon, cao su, đồ da 0,71 7,47 Tái chế + đốt 4 Gỗ vụn, giẻ rách 6,27 1,92 Sản xuất phân 5 Xương, vá trai, ốc 1,06 0,96 Chôn lấp 6 Gạch, đá sỏi, bê tông, xỉ than, đất… 7,43 4,41 Chôn lấp + chế biến phân vi sinh 7 Thuỷ tinh 0,31 0,77 Tái chế 8 Kim loại, vỏ hộp 1,02 0,38 Tái chế 9 Các tạp chất nhỏ khó phân loại 30,21 29,32 Chôn lấp + chế biến vật liệu xây dựng Độ PH trung bình : 6,5 – 7 Độ Èm (RH) : 60 - 67% Tỷ trọng : 0,38 - 0,416 tấn/m3 (Nguồn : báo cáo tóm tắt công tác quản lý chất thải đô thị TP Hà Nội – URENCO 8/2002) Thành phần rác thải sẽ thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, trình độ công nghệ, khả năng tái chế, tái sử dụng chất thải, nhu cầu của dân cư, tập quán sinh hoạt… Thông thường khi mức sống của dân cư được nâng cao thì thành phần rác thải sẽ tăng tỉ lệ những rác thải có thể tái sinh, tái sử dụng. Để dự báo thành phần rác thải đô thị Hà Nội căn cứ trên những yếu tố: - Phân tích các số liệu thống kê về chất thải rắn đô thị ở Việt Nam trong những năm gần đây. - Tham khảo các số liệu về chất thải rắn đô thị của các nước trong khu vực có đặc điểm về tự nhiên, tập quán, … và ở giai đoạn phát triển kinh tế tương tự như ở Việt Nam hiện nay. - Dự báo khí hậu của Tổng cục khí tượng thuỷ văn. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hoá thủ đô. - Mức sống của dân cư khu vực và xu hướng thị hiếu hàng hóa của người tiêu dùng. Bảng 2.5 : Dự báo thành phần rác thải trong tương lai của Hà Nội TT Thành phần chất hữu cơ Tỉ lệ Năm 1997-2000 Năm 2005-2010 Năm 2011-2020 1 Chất hữu cơ % 51,06 48 45 2 Giấy % 4,6 6,8 8,2 3 Chất dẻo, cao su % 5,79 6,4 7,8 4 Gỗ mục, giẻ rách % 4,08 5,5 5 5 Gạch vôn, sỏi đá % 1,07 4,8 5,8 6 Thuỷ tinh % 7,09 2,5 3,0 7 Xương, vá trai % 1,12 1,0 1,5 8 Kim loại, vỏ đồ hộp % 0,6 3,0 3,7 9 Tạp chất % 24,58 22,0 20,0 10 Độ PH % 6 - 7 6 - 7 6 - 7 11 Độ Èm % 62 62 60 12 Tỷ trọng tấn/m3 0,42 0,42 0,4 (Nguồn : báo cáo tóm tắt công tác quản lý chất thải đô thị TP Hà Nội - URENCO 8/2002) Qua đó ta thấy thành phần chất hữu cơ giảm dần theo thời gian, còn các thành phần có thể tái chế được như giấy, kim loại, chất dẻo, cao su lại có xu hướng tăng lên theo thời gian. Đó là do khi đô thị càng phát triển, mức sống của người dân được nâng lên thì thành phần chất hữu cơ sẽ giảm đi, mọi người có xu hướng sử dụng ngày càng nhiều các thành phần mang tính chất công nghiệp hiện đại hơn. III. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ RÁC THẢI ĐÔ THỊ HÀ NỘI 3.1. Cơ quan quản lý rác thải đô thị Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những đô thị phát triển của cả nước. Hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về rác thải đô thị cũng tuân theo mô hình quản lý chung của cả nước. Theo mô hình ở phần trên ta thấy các công ty Môi trường đô thị là đơn vị trực tiếp quản lý công tác quản lý rác thải đô thị. Công ty Môi trường đô thị Hà Nội là đơn vị quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội. Đây là một doanh nghiệp công Ých hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh môi trường. Các đơn vị trực thuộc công ty bao gồm : - 5 xí nghiệp môi trường đô thị chịu trách nhiệm thu gom và vận chuyển rác thác trên địa bàn các quận được phân công quản lý. - 2 đoàn xe cơ giới, 1 đoàn xe chịu trách nhiệm tưới rửa đường và bơm phân xí máy, 1 đoàn xe chịu trách nhiệm vận chuyển đất và chất thải xây dựng. - 1 xí nghiệp cơ khí dịch vụ có nhiệm vụ sửa chữa lớn, bảo dưỡng các thiết bị vận tải và vệ sinh chuyên dùng. - 1 xí nghiệp đốt rác bệnh viện. - 1 xí nghiệp quản lý bãi chôn lấp Nam Sơn. - 1 xí nghiệp chế biến chất thải thành phân compost: Cầu Diễn. - 1 trung tâm tư vấn kỹ thuật môi trường. 3.2. Công tác thu gom rác thải Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội tồn tại song song hai lực lượng thu gom rác thải sinh hoạt. - Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội và các xí nghiệp Môi trường Đô thị các quận, huyện là các đơn vị được giao nhiệm vụ thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải thành phố. - Lực lượng tư nhân bao gồm các hợp tác xã, các tổ vận chuyển và những người các thể tham gia một cách tự phát vào quá trình thu gom và vận chuyển rác thải. Hàng ngày các xí nghiệp Môi trường đô thị sẽ tiến hành thu gom rác ở các nhà dân, các cơ quan xí nghiệp, trường học, nơi công cộng, rác thải sinh hoạt bệnh viện theo quy định và theo các đơn hợp đồng với các đơn vị. Công tác thu gom rác thải, vệ sinh do công nhân môi trường các xí nghiệp thực hiện bằng xe đẩy tay tập trung tới vị trí quy định để cẩu đổ vào các xe thùng cơ giới, xe container và chở tới bãi chôn lấp. Hàng ngày công nhân thu gom vào giờ quy định (18h30’) sẽ tiến hành thu gom rác nhà dân, Nhân dân đưa rác ra đổ vào các xe thu gom, hay đổ vào các điểm tập trung rác đã quy định vào buổi tối. Rác thải của các chợ thường được thu gom vào buổi sáng và tối. Rác được được công nhân thu gom chờ đến các chân điểm cẩu rác theo các tuyến xe. Tại các khu nhà cao tầng thường sử dụng các thùng chứa rác lớn các dung tích từ 6 - 8 m3 để thu gom phế thải. Sau đó các loại xe chuyên dùng sẽ vận chuyển các thùng này đến bãi chôn lấp Nam Sơn - Sóc Sơn. Bên cạnh đó còn có một lượng lớn công nhân làm công tác nhặt rác ngày trên các tuyến phố, trung bình cứ 2 người/km. Để đảm bảo duy trì vệ sinh đường phố, hàng ngày công nhân phải đảm nhiệm việc nhặt rác do dân đổ trộm ra đường. Do sự vô ý thức của người dân mà đã gây nên sự lãng phí nhân công lớn. Vấn đề này có thể được giải quyết nếu như người dân có ý thức hơn, đổ rác đúng nơi, đúng thời gian quy định. Công ty Môi trường đô thị Hà Nội thu gom được khoảng 1300 tấn/ngày. Phần còn lại được thu gom bởi những người thu mua đồng nát nhằm tái chế, còn lại số người dân tự đổ ra sông, mương, ao, hồ và được thu gom qua các kỳ tổng vệ sinh. Sơ đồ chung của quá trình thu gom. R¸c c¸c hé gia ®×nh R¸c hîp ®ång R¸c ®­êng phè Xe ®Èy tay do c«ng nh©n ®i thu gom ®­a ®Õn ®iÓm tËp kÕt r¸c B·i ch«n lÊp r¸c thµnh phè R¸c bÖnh viÖn (sinh ho¹t) TËp trung ra ®iÓm cÈu quy ®Þnh ¤ t« vËn chuyÓn r¸c Công tác thu gom của lực lượng tư nhân bao gồm những người thu mua phế liệu và những người nhặt rác, những người thu gom thức ăn thừa. Các loại rác được thu gom bởi lực lượng này bao gồm các rác thải có khả năng tái chế như chai lọ, thuỷ tinh, vỏ đồ hộp… Những lực lượng này đã góp một phần quan trọng trong việc làm giảm rác thải đến khu xử lý, làm tăng lượng rác thải được tái chế, tái sử dụng. Đây là hoạt động mang lại lợi Ých cho cả người thu gom và xã hội. Tuy nhiên những lực lượng này được hình thành một cách tự phát và chưa có một quy định nào để quản lý chặt chẽ. Theo điều tra của một số cơ quan trong nước và nước ngoài thì hiện nay ở Hà Nội có khoảng 6000 người thu mua phế liệu và nhặt rác. Mỗi ngày những người này thu gom được khoảng 180 - 268 tấn phế thải nghĩa là khoảng 15% - 22% tổng lượng rác phát sinh. 3.3. Công tác vận chuyển Công tác vận chuyển là một khâu trong quá trình quản lý rác thải. Rác thải sau khi thu gom phải được vận chuyển ngay đến nơi xử lý. Công ty có 200 xe chuyên dùng để vận chuyển rác thải dung tích từ 6 - 8 m3, các xe này đều có hệ thống thuỷ lực để nâng các xe gom rác đẩy tay hoặc các thùng rác nhỏ và trong đó có khoảng 70 xe có bộ phận nén Ðp rác. Phần lớn các xe đã qua sử dụng từ 8 - 10 năm. Các xe này được bàn giao cho các xí nghiệp môi trường tự quản lý và sử dụng. Các xí nghiệp tuỳ theo địa bàn mình quản lý mà bố trí các loại xe cho thích hợp. Mục tiêu của công tác vận chuyển : - Vận chuyển hết 100% lượng rác thu gom. - Rác không bị chờ quá lâu, rác được chở đi ngay sau khi thu gom. - Giảm tối đa chi phí vận chuyển. - Mỹ quan đường phố. Tuy nhiên có một vấn đề khó khăn cho công tác thu gom, vận chuyển rác thải là việc tìm các điểm thu thập rác từ các xe gom lên xe chở rác. Do phương tiện của ta còn lạc hậu nên trong quá trình cẩu rác thường có tiếng ồn lớn của động cơ xe, các mùi khó chịu từ rác bốc ra và việc rơi vãi rác, chảy nước rác ra đường trong quá trình nâng cẩu. Do đó người dân thường phản đối việc đặt các điểm cẩu rác gần nhà họ. Điều này khiến cho việc lựa chọn các điểm cẩu rác thường không tuân thủ các nguyên tắc đặt ra mà thường được tiến hành ở bất cứ nơi nào có thể được thậm chí ngay tại các vườn hoa hoặc các điểm nhạy cảm với môi trường. Nhiều năm trước đây rác thải của thành phố hàng ngày được Công ty Môi trường Đô thị thu gom và vận chuyển tới các bãi chôn lấp như Thuỵ Phương, Tây Mỗ. Hiện nay do bãi chôn lấp Tây Mỗ đã đóng bãi nên rác của thành phố Hà Nội sẽ vận chuyển lên bãi Nam Sơn. Vận chuyển lên bãi Nam Sơn được chia làm 2 phương án : * Phương án 1 : Toàn bộ chất thải được chuyển thẳng lên khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nam Sơn. Theo phương án này công ty xin được đầu tư thêm xe, lái, phụ xe cùng với phương tiện hiện có của công ty đảm bảo đủ phương tiện vận chuyển. Tất cả rác thu gom được đi thẳng từ nội thành đi Nam Sơn. Tuyến vận chuyển : có 2 tuyến. - Tuyến 1 : Nội thành - Cầu Thăng Long - Nam Sơn : 61km. - Tuyến 2 : Nội thành - Cầu Chương Dương - Nam Sơn : 59 km. * Phương án 2 : Vận chuyển qua bãi Tây Mỗ để chế biến thành phân compost. Phương án này được tiến hành thực hiện từ giữa năm 2001. Tuy nhiên lượng rác chuyển qua trạm Tây Mỗ chỉ chiếm khoảng 1% và chủ yếu là lượng rác được thu gom từ các chợ. - Từ nội thành đến Tây Mỗ : 23 km - Tây Mỗ - Nam Sơn : 48 km. Quá trình thu và vận chuyển được thực hiện theo từng chuyến, mỗi chuyến thu gom và vận chuyển năng lực đạt khoảng 5 tấn/xe, trung bình được 10 tấn rác thải sinh hoạt. Tất cả các xe trong quá trình vận chuyển đều phải phủ bạt để tránh làm rơi vãi trong quá trình vận chuyển và chỉ tháo bạt khi đổ rác vào bãi thải. 3.4. Phí thu gom rác thải Xí nghiệp sẽ thu phí vệ sinh bằng biên lai thu phí do cục thuế phát hành với mức thuế quy định 1000đ/người/tháng. Thông thường việc thu phí được tiến hành hàng tháng, song một số địa bàn, một số hộ có thời gian làm việc bận rộn có thể tiến hành thu theo quý. Tuy nhiên theo báo cáo 6 tháng đầu năm 2002 việc thu phí chỉ đạt 74% tổng số dân 1 tháng, trung bình chỉ thu được 70 – 75%. Nguyên nhân của việc thất thu phí thì có nhiều nhưng có các nguyên nhân cơ bản sau: Dân trên địa bàn được phân chia thành các loại KT1, KT2, KT3, KT4. - KT1 là những người có hộ khẩu thường chú tại nơi ở thu được tỉ lệ lớn nhất. Có một phần nhỏ người dân chây lì không chịu đóng phí vệ sinh. - KT2 là những người chuyển khỏi địa bàn nhưng không chuyển hộ khẩu nên trên sổ quản lý họ vẫn thuộc địa bàn nhưng thực tế họ không đóng phí tại địa bàn đó. - KT3 là những dân từ các tỉnh khác về làm thêm trên thành phố, có cuộc sống, chỗ ở không ổn định cũng không thể thu phí được từ họ. - KT4 là những người thuộc diện khó khăn, phải trợ cấp từ chính quyền địa phương cũng không thu được phí. Công tác thu phí hiện nay còn rất khó khăn chưa thể giải quyết. Công ty chưa có những chức năng và quyền hạn cụ thể để buộc người dân phải đóng phí mà chỉ có thể tuyên truyền vận động mọi người chấp hành. Hiện nay, tổng số phí thu được có 77% nộp lên công ty để bù đắp cho ngân sách Nhà nước, còn 23% để lại các xí nghiệp dùng vào các công việc sau : - 4% chi cho các phường để sử dụng vào việc đôn đốc, kiểm tra, tuyên truyền. - 13% chi dùng cho cán bộ công nhân viên. - 4% chi thù lao cho nhân viên thu phí. - 2% cho chi phí quản lý như lương của 2 cán bộ quản lý, văn phòng phẩm, chi phí kiểm tra. 3.5. Tình hình xử lý rác thải 3.5.1. Chôn lấp rác Rác thải sinh hoạt sau khi được thu gom sẽ được vận chuyển đến khu chôn lấp. Phần lớn rác thải sinh hoạt hiện nay được xử lý bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh. Phương pháp chôn lấp trước đây, bây giờ và trong tương lai gần vẫn được coi là phương pháp chủ đạo. Bởi lẽ phương pháp này dễ vận hành, chi phí vừa phải và phù hợp với điều kiện nước ta còn nghèo, các công nghệ còn lạc hậu. Tuy nhiên với phương pháp này còn nhiều tiềm Èn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường như ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm đất. Hiện nay bãi rác Nam Sơn là bãi rác chính của thành phố Hà Nội, được quy hoạch trở thành khu xử lý rác chính của thành phố Hà Nội. Phần sau ta sẽ nói rõ hơn về vấn đề này. 3.5.2. Chế biến phân vi sinh Xí nghiệp chế biến phế thải Cầu Diễn thuộc công ty Môi trường Đô thị Hà Nội được thành lập từ 1996, có nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý rác làm phân vi sinh. Công nghệ của nhà máy xử lý rác làm phân vi sinh theo phương pháp ủ đống tĩnh, thổi gió cưỡng bức với công suất thiết kế 30.000 m3/năm và xử lý khoảng 15.000 m3 chất thải/năm, đạt 1% tổng lượng chất thải đô thị phát sinh trong ngày, thu hồi được 7500 tấn phân phục vụ cho cây trồng. Lượng rác thải dùng để ủ phân là rác thu gom tại các chợ. Công nghệ này được thực hiện qua các công đoạn ở trong nhà có mái che nên đảm bảo không gây mùi. Công nghệ hầu như khôngphát sinh nước thải mà tận dụng được nước rác ở trong các nhà chế biến đưa quay vòng bể ủ lên men để bổ xung lượng Èm. Công nghệ vừa giảm được diện tích chôn lấp vừa tiết kiệm được một khoản tiền do chi phí chôn lấp . Tuy nhiên do chưa có sự phân loại tại nguồn nên nhà máy gặp nhiều khó khăn trong khâu phân loại. Rác thải chưa được phân loại nên chất lượng còn thấp và chi phí sản xuất là khá cao, khoảng 150.000 đ/ tấn. 3.5.3. Thiêu đốt rác Thiêu đốt rác có chi phí cao nhất so với các phương án trên và hiện nay chưa được sử dụng để xử lý rác thải sinh hoạt. Công nghệ này mới chỉ được áp dụng đối với rác thải nguy hại bệnh viện. IV. XỬ LÝ RÁC THẢI TẠI BÃI NAM SƠN – SÓC SƠN 4.1. Tổng quan khu liên hiệp xử lý chất thải Nam sơn 4.1.1. Các điều kiện tự nhiên của khu liên hiệp Xã Nam Sơn là khu vực xây dựng khu liên hiệp có diện tích 100 ha, cách trung tâm Hà Nội khoảng 45 km về phía bắc. Phía bắc là các cụm dân cư với ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp. Sông Công cách 2 km chảy qua phía Đông có các con rạch nhỏ tự nhiên chảy qua. Khu liên hợp nằm trong thung lũng đồi gò thấp, có độ cao từ +8,0 đến +40,0 m so với mực nước biển. Các đồi gò và đất ở đây khô cằn. Theo báo cáo khả thi của công ty Tư vấn và Cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam thì địa chất ở khu vực này được chia làm 4 loại. Trừ lớp đất đầu tiên là nông nghiệp có độ dày 1 - 2 m, còn các lớp 2,3,4 là những lớp đất sét pha và sét, có tính biến dạng nhỏ, hệ số thấm nhỏ, chiều dày tổng cộng các lớp đất này là 8 - 13 m. Các lớp đất từ trên xuống như sau : - Líp 1 : lớp thổ nhưỡng đất lấp bề dày 0,2 – 1 m. - Líp 2 : lớp sét xen kẹp sét pha bề dày 2,4 – 10,2 m. - Líp 3 : sét pha lẫn dăm sạn, bề day từ 3,5 – 10,4 m. - Líp 4 : đá phiến phong hoá, bề dày của lớp chưa xác định, chiều sâu mặt lớp thay đổi từ 8,6 – 13,4 m. Trữ lượng nước ngầm tại đây rất nhỏ vì tầng chứa nước mỏng và ở sâu. Nằm trong vùng đồi thấp, phần lớn là thung lũng, có hồ nhỏ và rạch nhỏ chảy qua để tiêu nước mưa và cấp nước sông cho các hồ ao nhỏ. Về mùa khô hầu hết các hồ ao và lạch đều khô cạn. Mực nước ngầm ở khu vực chân đồi là 2m và trên đồi là 7m. Mực nước mặt mùa mưa +8m đến +11,5m. 4.1.2. Các hạng mục chính của khu liên hiệp hiện nay - 5 ô chôn lấp số 1,2,3,4,5 trong đó ô 1,2,3 đã đầy và tiến hành đóng bãi sơ bộ giai đoạn 1. - Hệ thống cân điện tử 30 tấn. - Trạm cấp nước sạch. - 3 trạm xử lý nước rác : 1 trạm xử lý sẵn có bằng phương pháp sinh học và 2 trạm xử lý khẩn cấp bằng phương pháp hoá học. - Hệ thống 3 hồ điều hoà : kị khí, hiếu khí, tuỳ tiện. - Đường ra vào bãi. - Khu hành chính và phụ trợ. - Khu xử lý chất thải công nghiệp hiện đang trong giai đoạn khởi công xây dựng ban đầu. Các hạng mục chính hiện nay chủ yếu là của khu chôn lấp. 4.1.3. Quy hoạch tổng thể khu liên hiệp Nam Sơn (Sơ đồ trang bên). Tổng diện tích đất dành cho các ô chôn lấp rác là 53,49 ha, có dung tích chứa rác khoảng 10,7 triệu m3, thời gian vận hành sử dụng khu chôn lấp là 21 năm. - Đường giao thông chính nối giữa 2 khu vực hành chính phía bắc và nam sẽ được mở rộng trên cơ sở của đường đê có sẵn của 3 ô chôn lấp giai đoạn 1. - Khu xử lý nước rác và hồ vi sinh có diện tích 4,1 ha nằm ở vị trí hồ Phú Thịnh hiện có. Nước qua hồ đảm bảo vệ sinh môi trường xả vào suối Lai Sơn. - Dải cây xanh 10m cách ly với bên ngoài của 2 khu công nghiệp và khu sản xuất phân vi sinh và dải cây xanh 20m đối với khu chôn lấp. - Đường vận chuyển rác thải vào khu xử lý chất độc hại công nghiệp và khu compost sẽ tận dụng đường hiện đã xây dựng ở giai đoạn 1 và kéo dài đến khu compost. - Bố trí các khu chức năng và các công trình phụ trợ trong diện tích 83,4 ha bao gồm diện tích đất đã giao đợt 1 và đợt 2. - Khu xử lý chất thải độc hại công nghiệp có diện tích 5,15 ha. - Khu xử lý phân compost có diện tích 9,8 ha, công suất 685 – 700 tấn/ngày. - Khu đốt rác đô thị được bố trí ở phía nam diện tích 5,9 ha. - Ngoài đường vận chuyển phía đông bắc hiện nay dự kiến sẽ xây thêm tuyến đường phía nam nối từ đường 35 và khu liên hiệp rộng 11,25 m, dài 2,4 km. * Khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nam Sơn sẽ được xây dựng theo 2 giai đoạn, 2 khu vực. - Khu vực 1 (giai đoạn 1: 1998 – 2000) : diện tích xây dựng 14,388 ha, cao độ từ 15 – 25 m. Xây dựng 3 ô chôn lấp để đầu năm 1999 đưa các ô vào chôn lấp rác thải khi bãi Tây Mỗ đóng cửa. Đất xây dựng khu hành chính, đường vào khu chôn lấp, đất nắn suối, đất mở rộng đường liên xã. - Khu vực 2 ( giai đoạn 2 : 2000 – 2020) : có diện tích khoảng 74,32 ha gồm 8 ô chôn lấp cho giai đoạn 2, trạm xử lý nước rác (kể cả đê bao và đường bao) nằm trong thung lũng giữa các đồi núi có cao độ từ +9 đến +11, xây dựng khu chế biến phân compost và nhà máy xử lý rác công nghiệp. Ngoài ra còn có 4,02 ha đất dùng xây dựng mương thoát nước mưa xung quanh chân đê của khu liên hiệp. 4.2. Khu chôn lấp hợp vệ sinh rác thải đô thị Trong quy hoạch tổng thể khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nam Sơn giai đoạn 1 (1998 – 2000), khu chôn lấp chất thải đô thị gồm 3 ô chôn lấp số 1, 2, 3 và giai đoạn 2 gồm 8 ô chôn lấp. Hiện tại 3 ô chôn lấp của giai đoạn 1 đã đầy và đã được tiến hành đóng bãi cục bộ giai đoạn 1 (ở cao trình +15m), ô chôn lấp số 4,5 đã xây dựng xong và hiện đang chôn lấp rác tại phần 4B (phần 4A đã đầy). 4.2.1. Trình tự sử dụng các ô chôn lấp rác xây dựng giai đoạn 1 ( đến năm 2017) Giai đoạn 1 : Đổ rác vào lô 1 và lô 2,3 được sử dụng làm chức năng hồ sinh học để tăng độ sạch nước trước khi xả ra ngoài sau khi đã qua hệ thống xử lý rác bằng phương pháp sinh hoá. Giai đoạn 2 : Rác được đổ tại lô 1 tới đỉnh đập ngăn lô ở cao độ +15m thì được tiến hành đóng bãi cục bộ giai đoạn 1 và rác được chuyển sang đổ tại lô số 2, lô số 3 vẫn đảm nhiệm vai trò hồ sinh học. Giai đoạn 3 : Rác đổ trong lô 2 tới cao độ +15m thì sử dụng diện tích mặt bằng cả 2 lô 1 và 2 để tiếp tục đổ rác. Đắp bờ bao ngăn rác theo từng đợt, mỗi đợt cao 2,5m. Cao độ cuối cùng của bờ bao ngăn rác là 20m. Trình tự đổ rác ở giai đoạn này là sau khi nâng cao độ tại lô thứ nhất thêm 2m thì bao phủ đất trên bề mặt rác để chuyển sang đổ rác vào lô bên cạnh và tiếp tục luân chuyển. Khi mặt bằng 2 lô đạt tới cao độ +21m thì tổ chức đóng bãi các lô 1 và 2 theo quy trình đóng bãi. Giai đoạn này lô 3 vẫn sử dụng như một hồ sinh học. Giai đoạn 4 : Đổ rác vào lô 3 từ cao độ +6m lên đến cao độ +21m. Hồ sinh học sử dụng ở giai đoạn này là hồ Phú Thịnh hoặc một diện tích ô trũng trong tổng mặt bằng khu liên hợp xử lý (giai đoạn này đã quản lý toàn bộ diện tích đất của dự án là 130 ha). 4.2.2. Khu chôn lấp chất thải giai đoạn 2. Các ô chôn lấp giai đoạn 2 (2001 - 2020) sẽ gồm 6 ô (số 4,5,6,7,8 và 9) sẽ được xây dựng mỗi đợt 2 ô và đổ rác đến cốt +15 (bao gồm cả 3 ô chôn lấp giai đoạn 1). Sau khi cả 9 ô đạt đến cao trình +15 sẽ tiếp tục nâng dần từng đợt 3m lên đến cốt đỉnh là +39m, theo mái dốc m =1/3. Với giải pháp trên tổng lượng rác có khả năng tiếp nhận cho chôn lấp tại khu liên hiệp xử lý rác là khoảng 9.587.292 m3. Thời gian vận hành là 20 năm. Trình tự và tiến độ chôn lấp rác ở giai đoạn 2 được dự kiến như sau: Tên ô chôn lấp Thời gian vận hành Ô 4 và 5 đến cốt 15m 2001 – 2003 Ô 6 và 7 đến cốt 15m 2004 – 2005 Ô 7 và 8 đến cốt 15m 2006 – 2007 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 17m 2007 – 2009 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 20m 2009 – 2011 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 23m 2011 – 2014 Các ô giai đoạn 1 và 2 đến cốt 26m 2014 – 2017 Các ô giai đoạn 2 đến cốt 39m 2018 – 2020 4.2.3. Hệ thống thu gom nước rác Theo tính toán mỗi ô chôn lấp đang vận hành sẽ có lượng nước rác phát sinh khoảng 400 – 500 m3/ngày. Nước rác từ các ô chôn lấp qua các trạm xử lý nước rác sẽ được xả vào hồ để xử lý vi khuẩn. Nước thải sinh hoạt sau khi đã xử lý qua bể tự hoại và nước rửa xe của khu hành chính sẽ được thu gom vào bể chứa. Bể chứa đặt tại khu vực hành chính có dung tích 10m3. Nhiệm vụ của bể chứa : lưu giữ nước phục vụ bơm tưới tăng độ Èm rác cho các ô chôn lấp và khu chế biến phân vi sinh. Hồ xử lý vi khuẩn xử lý giảm vi khuẩn Coli trong nước thải trước khi thải ra suối. Mương bao nước mưa thu gom nước mưa xung quanh khu liên hợp dẫn xả vào hồ hoặc suối hiện trạng. 4.3. Quy trình quản lý và vận hành bãi Quy trình vận hành bãi có thể tổng kết thành sơ đồ sau : ¤ t« chë r¸c C©n ®iÖn tö §æ r¸c San ñi San phñ ®Êt hoÆc chÊt tr¬ §Çm chÆt R¾c Bokashi Phun dung dÞch EM B¬m n­íc r¸c Xö lý n­íc r¸c X¶ n­íc th¶i ®· xö lý §ãng b·i côc bé Trång c©y xanh §ãng b·i toµn bé L¾p ®Æt hÖ thèng tho¸t t¸n khÝ ga * Các biện pháp đảm bảo vệ sinh môi trường : Nước rác rỉ ra từ các ô chôn lấp được bơm vào hồ chứa, sau đó qua trạm xử lý nước rác thải để xử lý. Nước sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn nước thải loại B và được thải ra hệ thống thoát nước. Quá trình chôn lấp phát sinh một lượng khí ga sinh ra từ chất thải chôn lấp, các khí thải này chủ yếu là Mêtan được phát tán ra ngoài nhờ hệ thống ống thu và phát tán được đặt trên ô chôn lấp. Trong quá trình vận hành bãi chôn lấp, dung dịch EM và chế phẩm Bokashi được phun thường xuyên để giảm thiểu mùi và làm tăng quá trình phân huỷ của chất thải. Ngoài ra, các bãi chôn lấp còn tiến hành phun thuốc diệt ruồi, muỗi đảm bảo vệ sinh môi trường. Cây xanh được trồng xung quanh bãi tạo vành đai cách ly nhằm giữ gìn vệ sinh môi trường, hạn chế mùi và các ảnh hưởng bất lợi từ bãi rác. Đất phủ bãi hàng ngày được phủ theo đúng quy trình vận hành bãi : 0,2 m trên một lớp rác dày 2m, ngoài ra còn có đóng bãi cục bộ và đóng bãi cuối cùng bằng đất và có thể cả các lớp chống thấm nước mưa trên bề mặt. 4.3. Nhận xét về công tác xử lý rác bằng chôn lấp tại bãi Nam Sơn Mặc dù khu liên hiệp được quy hoạch một cách tổng thể và có quy mô, nhưng thực tế đối với khu chôn lấp chất thải sinh hoạt vẫn còn có nhiều vấn đề bất cập. - Rác được đổ kết hợp với việc phun dung dịch diệt ruồi muỗi và khử mùi hàng ngày nhưng vẫn không đảm bảo được chất lượng cho môi trường xung quanh. Trong khu vực bãi rác và khu vực nhà dân xung quanh vẫn bốc lên những mùi xú uế, vấn đề ô nhiễm môi trường không khí vẫn đang hàng ngày tồn tại. - Do chưa có thiết bị đầm nén chuyên dụng nên chưa đảm bảo được hệ số nén yêu cầu 0,8 – 0,85, hậu quả là không khai thác được tối đa thể tích của ô. Từ tháng 6/1999 đến tháng 2/2001 ô số 1 đã được chôn lấp đầy đến cốt +17, ô số 2 đã được chôn lấp đầy đến 4/5 diện tích. Lượng rác chôn lấp đã vượt quá mức dự tính. - Về thu gom nước rác : Các ô chôn lấp chất thải được xử lý để chống ô nhiễm nguồn nước ngầm và ô nhiễm đất bằng 1 lớp đất sét đầm chặt dày 50 cm, sau đó lót đáy chống thấm bằng 1 lớp vải địa kỹ thuật. Qua thời gian vận hành cho thấy do dùng lớp đất lót đáy bãi và bảo vệ vải chống thấm nên khả năng tiêu nước đến rãnh thu rất kém. Hơn nữa trong thời gian vận hành nước rác phát sinh cũng chưa được bơm khỏi bãi kịp thời và thường xuyên nên gây lầy bùn đáy bãi khi vận hành. Nước rác chảy dồn trên mặt đáy bãi đọng về các chỗ trũng không được lọc nên mang theo nhiều cặn rác khi được bơm ra khỏi bãi. - Về xử lý nước rác : Công nghệ xử lý nước rác của Viện cơ học đề xuất là phương pháp sinh học cưỡng bức đã được sở khoa học công nghệ và môi trường Hà Nội phê duyệt. Tuy nhiên trong thời gian vận hành đến nay vẫn chưa đạt chất lượng nước ra theo tiêu chuẩn môi trường loại B, nên chưa được phép thải ra suối Lai Sơn và nguồn tiêu bên ngoài khu liên hiệp. Do vậy toàn bộ lượng nước rác tồn đọng từ khi vận hành ô chôn lấp số 1 đến thời điểm 2/2001 vẫn phải lưu giữ trong ô chôn lấp số 3. IV. DỰ ÁN PHÁT TRIỂN TƯƠNG LAI CỦA KHU LIÊN HIỆP XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN NAM SƠN 4.1. Khu xử lý chất thải công nghiệp Đây là khu xử lý chất thải công nghiệp độc hại, công suất từ 30 – 50 tấn/ngày, liên doanh với Nhật từ khâu thu gom, vận chuyển đến xử lý chất thải. Có nhiều công nghệ để xử lý phù hợp từng loại chất thải như sau: * Đối với chất thải lỏng, xử lý bằng phương pháp hoá rắn, chiếm tỉ lệ 37,8%. * Đối với chất thải axit và kiềm xử lý bằng phương pháp trung hòa, chiếm 5,6%. * Chất thải dạng bùn chứa kim loại nặng xử lý bằng phương pháp tách nước, chiếm 23,8%. * Đối với chất thải có chứa dầu và chất dễ cháy được xử lý bằng đốt chiếm 11%. Cặn tro sau xử lý trên (gọi là trung gian) sẽ được chôn lấp. Hiện nay khu xử lý chất thải công nghiệp đã tiến hành giai đoạn đầu xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật xử lý trung gian, bãi chôn lấp, xử lý nước rác và phương tiện thu gom vận chuyển. Lò đốt rác, phòng thí nghiệm kiểm soát ô nhiễm môi trường cũng đang được xây dựng, lắp đặt. 4.2. Khu chế biến phân compost Dự kiến khu này nằm ở phía tây bắc, diện tích là 9 ha, thuộc khu vực 2 của khu liên hiệp có thể mở rộng ra các ô chôn lấp. Công nghệ sản xuất là quá trình lên men hiếu khí phân huỷ các chất hữu cơ, nghiền phân loại, sản phẩm thu được là phân vi sinh đóng bao còn chất thải trơ chôn lấp. Nguyên liệu là rác thải sinh hoạt có tỉ lệ hữu cơ cao. Công suất chế biến là 800 tấn chất thải /ngày (khoảng 250.000 đến 280.000 tấn/năm) và nhập men công nghệ Mỹ là 6,85 tấn/năm, sản xuất ra 100.000 tấn phân compost 1 năm. 4.3. Nhà máy tái chế rác thải thành điện Được dự kiến xây dựng nằm phía đông nam khu liên hiệp, diện tích đất khoảng 7 ha nằm phía chân núi Dũng. Cần diện tích mặt bằng chính dành cho các cụm công trình : khu chứa rác, khu tua bin máy phát, khu lò hơi tầng sôi tuần hoàn, khu tháp làm mát, khu phụ trợ công trình kỹ thuật, diện tích đất khu phô. Nhà máy dự kiến xây dựng vào năm 2006, công suất yêu cầu tái chế 330 tấn/ngày rác thải rắn và 755 tấn/ngày than nội địa. CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI I. HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THU GOM, VẬN CHUYỂN RÁC THẢI 1.1. Chi phí tài chính cho hoạt động thu gom, vận chuyển rác thải 1.1.1. Hoạt động thu gom rác thải Hoạt động thu gom rác thải của nước ta nói chung và của thủ đô Hà Nội nói riêng chủ yếu vẫn dùng phương pháp thủ công, thu gom bằng các xe đẩy tay do các công nhân vệ sinh thực hiện. Do được thực hiện bằng các biện pháp thủ công nên chi phí về thời gian và nhân công rất lớn. Theo thống kê số công nhân của Công ty môi trường đô thị Hà Nội thực hiện công việc thu gom rác hàng ngày là 1961 người. Chi phí dành cho hoạt động thu gom rác là CPTG = CPCN + CPCC + CPQL Trong đó : CTG : Chi phí cho công tác thu gom. CCC : Chi phí cho công nhân thu gom. CCC : Chi phí cho công cụ, dụng cụ thu gom. CQL : Chi phí cho quản lý. Chi phí cho công nhân thu gom Tiền lương và phụ cấp Lương và phụ cấp cho công nhân tính trung bình là 900.000đ/người/tháng. Do đó chi phí lương công nhân cho 1 tháng là : 700.000 x 1961 = 13.727.000.000 (đ) Bồi dưỡng độc hại Bồi dưỡng độc hại được tính theo định mức 3000đ/người/ngày. Trung bình 1 tháng người lao động phải làm việc 26 ngày. Þ Chi phí này là : 1961 x 26 x 3000 = 152.958.000 (đ) Bảo hiểm tai nạn Bảo hiểm tai nạn tính theo định mức 14.000 đ/người/năm Þ Chi phí là : (14.000 x 1961)/ 12 = 2.287.833 (đ) Chi phí bảo hộ lao động Chi phí bảo hộ lao động cho 1 người là 300.000 đ/người/năm Þ Chi phí là : (300.000 x 1961) / 12 = 49.025.000 (đ) Vậy tổng chi phí cho người lao động thực hiện thu gom rác thải là : CCN = 13.727.000.000 + 152.958.000 + 2.287.833 + 49.025.000 = 13.931.270.830 (đ) Chi phí cho công cụ, dụng cụ Ta có bảng tính cho chi phí công cụ, dụng cụ lao động trong 1 tháng như sau : Bảng 3.1 : Bảng giá thành và chi phí công cụ, dụng cụ Chỉ tiêu Định mức Đơn giá (đ/cái) Thành tiền (đ) Chổi dài 1,2m 2cái/người/tháng 3.000 11.766.000 Chổi 0,8m 1cái/người/tháng 2.000 3.922.000 Xẻng 1cái/người/6 tháng 6.000 1.961.000 Kẻng 1cái/2người/2năm 10.000 408.500 Cuốc 1cái/2người/2năm 6.000 245.125 Xe gom rác 1xe/2người/1,5năm 1.350.000đ 73.357.500 Chi phí sửa chữa dụng cụ 5.000.000 Tổng 96.660.125 Tổng (1+2) = 14.027.930.960 (đ) Chi phí cho quản lý : Chi phí quản lý của phường cho công tác hành chính, tuyên truyền, vận động (10%) là 1.402.793.096 Chi phí quản lý công tác thu gom (5%) là : 701.396.548 (đ) Þ Tổng chi phí cho công tác quản lý là : CQL = 1.402.793.096 + 701.396.548 = 2.104.189.644 (đ) Tổng hợp chi phí cho công tác thu gom ta được : CTG =13.931.270.830 + 96.660.125 + 2.104.189.644 (đ) = 16.132.120.610 (đ) 1.1.2. Tính toán giá thành và kinh phí vận chuyển Căn cứ vào biên bản tính toán chi phí của tổ chuyên viên liên ngành, giá thành và kinh phí vận chuyển rác cụ thể như sau : Bảng 3.2 : Giá thành vận chuyển rác từ thành phố đi Nam Sơn. TT Chỉ tiêu Xe chuyên dùng 1 Cù li tính cước vận chuyển 60,773 km 2 Cước phổ thông đường loại 1, hàng bậc 3 588,9 đ/Tkm 3 Cước phổ thông đường loại 3, hàng loại 3 928,2 đ/Tkm 4 Cước vận tải tính cho 1 tấn hàng: - 38 km đường loại 1 - 23 km đường loại 3 43.525,3 đ/T 22.362,3 đ/T 21.163 đ/T 5 Các hệ số tính theo cước cơ bản - Phương tiện có thiết bị tự đổ - Chở thiếu tải 6.528,8 đ/T 4.352,5 đ/T 6 Các loại phụ phí: 13,500 đ/T 7 Trích 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi 2.037,2 đ/T Tổng cộng 69.644 đ/T (Nguồn : NCKT dự án khu liên hiệp Nam Sơn) Theo như phần thực trạng ở trên ta đã trình bày, lượng rác thải thu gom được năm 2000 là 534.938 tấn. Ta sẽ tính chi phí vận chuyển rác cho năm 2000. Theo bảng 3.2 ở trên, đơn giá vận chuyển cho 1 tấn rác là 69.644 đ/tấn. Do đó chi phí vận chuyển rác cho 1 tháng sẽ là : CVC = (534938 x 69.644)/12 = 3.104.601.663 (đ) 1.1.3. Tổng hợp chi phí thu gom, vận chuyển rác thải Do đó ta có tổng hợp chi phí cho công tác thu gom và vận chuyển rác trong thành phố là : åC = CTG + CVC = 16.132.1206.610 + 3.104.601.663 = 19.236.722.270 (đ) 1.2. Xác định số thu phí vệ sinh Theo pháp lệnh phí và lệ phí của Nhà nước quy định, phí vệ sinh cho dịch vụ thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt tính theo đầu người là 1000đồng 1 tháng. Theo như trình bày ở chương II, công tác thu phí chỉ đạt được 70 – 75% tổng số dân trên toàn thành phố. Ta giả sử tỉ lệ phí thu được trên địa bàn là 75%. Với dân số Hà Nội tính cho năm 2000 là 2.930.600 người, ta có thể tính được tổng số phí thu được trên địa bàn thành phố Hà Nội như sau : åB = 2.930.600 x 1000 x 75% = 2.197.950.000 (đ) 1.3. Hiệu quả tài chính của công tác thu gom, vận chuyển rác thải Để đánh giá hiệu quả tài chính của một hoạt động ta có thể xem xét trên hai góc độ. Lợi nhuận tuyệt đối : Lợi nhuận tuyệt đối là hiệu của tổng lợi Ých trừ đi tổng chi phí phải bỏ ra. D = åB - åC Lợi nhuận tương đối : Lợi nhuận tương đối được xác định là thương của tổng lợi Ých trên tổng chi phí Áp dụng các công thức trên ta có thể đánh giá được hiệu quả tài chính của hoạt động thu gom và vận chuyển rác của Nhà nước D = 2.197.950.000 - 19.236.722.270 = - 17.038.772.270 (đ) < 0 Qua kết quả trên ta thấy, nếu đứng trên góc độ tài chính thì hoạt động thu gom vận chuyển rác thải của Nhà nước không mang lại hiệu quả về mặt tài chính, lợi nhuận tuyệt đối thu được là âm và tỉ suất lợi nhuận thu được rất nhỏ, gần bằng không. II. CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI VÀ VẤN ĐỀ THẤT BẠI THỊ TRƯỜNG 2.1. Lợi Ých thực của hoạt động quản lý rác thải Theo kết quả tính toán trên phải chăng với công tác quản lý rác thải của thành phố Nhà nước đã bị “lỗ” nặng, còn người dân thì hưởng lợi Ých trên? Thực tế không phải như vậy. Trong thực tế người dân không chỉ được hưởng những lợi Ých trên mà còn nhiều những lợi Ých khác mà chúng ta không thể lượng hoá được bằng tiền. Những con số cụ thể ở trên nó chỉ thể hiện một phần những chi phí và lợi Ých về mặt tài chính của công tác thu gom và vận chuyển rác mà người dân được hưởng. Đứng trên góc độ người dân để phân tích, thì những chi phí mà Nhà nước bỏ ra trên chính là những lợi Ých mà dân được hưởng, còn những lợi Ých do công tác thu phí lại là chi phí mà người dân phải bỏ ra cho việc thải rác ra môi trường. Do đó mà với hoạt động thu gom và vận chuyển rác thải của Nhà nước, người dân đã thu được lợi Ých về mặt tài chính là 17.038.772.270 đồng 1 tháng. Mà trong thực tế những chi phí mà Nhà nước phải bỏ ra không chỉ là những chi phí cho công tác thu gom và vận chuyển mà nó còn bao gồm cả những chi phí để xử lý rác mà chúng ta chưa tính ở đây. Do đó xét về mặt lợi Ých tài chính thì người dân không chỉ được hưởng những lợi Ých tính được ở trên mà nó còn bao gồm cả lợi Ých từ chi phí bỏ ra của Nhà nước để xử lý lượng rác thải tạo ra hàng ngày. Khi Nhà nước tiến hành công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải không những chỉ tạo ra những lợi Ých về mặt tài chính cho người dân như chúng ta đã phân tích ở trên mà người dân còn được hưởng những lợi Ých về mặt môi trường mà chúng ta không thể lượng hóa được bằng tiền. Công tác quản lý rác thải nếu được làm tốt và thực hiện thường xuyên sẽ tạo ra được một môi trường sống trong lành, sạch đẹp cho xã hội và cộng đồng. Môi trường trong sạch sẽ góp phần tạo cho cộng đồng một cuộc sống thoải mái và khoẻ mạnh, tăng lượng ôxi và giảm nồng độ các khí độc hại do chính rác thải gây ra. Nếu như lượng rác thải không được thu gom và vận chuyển đi hàng ngày mà vẫn để lưu lại trong thành phố thì do đặc tính của rác thải sinh hoạt có thành phần hữu cơ cao, dễ phân huỷ đặc biệt trong thời tiết nóng Èm như của nước ta sẽ là nguồn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, là nguồn lây lan các loại dịch bệnh. Việc làm trong lành không khí không chỉ đem lại lợi Ých về mặt môi trường cho người dân mà nó còn đem lại những lợi Ých về kinh tế. Khi môi trường trong lành các hoạt động kinh tế cũng phát triển hơn. Có thể lấy ví dụ điển hình đối với hoạt động du lịch. Môi trường trong lành sẽ thu hút khách du lịch từ các nơi về thăm quan do đó các hoạt động kinh tế trong ngành du lịch hay các ngành dịch vụ theo đó mà cũng tăng trưởng theo. Một vấn đề khác được đặt ra là phải chăng nhân dân được hưởng lợi từ hoạt động quản lý rác của Nhà nước còn Nhà nước phải chịu phần “lỗ”. Cũng không phải như vậy. Giữa chỉ tiêu chất lượng môi trường và chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi môi trường được quan tâm, bảo vệ thì nó cũng là một động lực cho phát triển kinh tế. Đặc biệt với vai trò là trái tim của cả nước, là trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị, trung tâm giao lưu quốc tế, Hà Nội có tầm quan trọng to lớn đối với cả nước. Nhà nước tiến hành các hoạt động vệ sinh môi trường nhằm thu được những lợi Ých to lớn khác mà không thể lượng hoá chính xác bằng tiền như những lợi Ých về bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng, những lợi Ých về tăng trưởng kinh tế mà môi trường trong sạch đem lại, những lợi Ých về chính trị… Ngay cả khi vì mục tiêu xã hội và môi trường mà người ta cho rằng chính những chi phí bỏ ra cho công tác quản lý rác thải là lợi Ých mà Nhà nước thu được, còn những khoản tiền do thu phí của nhân dân lại chính là những chi phí. Do đó đứng trên góc độ của nhà quản lý thì lợi nhuận từ công tác thu gom rác thải là dương. 2.2. Công tác quản lý rác thải và những thất bại thị trường Khi người dân sử dụng dịch vụ môi trường của Nhà nước là hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải đáng lẽ phải bỏ ra một khoản chi phí để được phục vụ. Nhưng trên thực tế người dân chỉ phải bỏ ra một khoản phí rất nhỏ so với những chi phí mà Nhà nước đã bỏ ra. Khoản phí đó so với những lợi Ých mà người dân thu được là gần như bằng không. Mặt khác phí xả thải như hiện nay Nhà nước quy định đối với nhân dân có tính chất bình quân có nghĩa là dù lượng rác đổ ra nhiều hay Ýt đều chỉ phải đóng số tiền như nhau. Đó chính là những nguyên nhân gây ra thất bại thị trường của dịch vụ môi trường, lợi Ých của toàn xã hội là không tối đa, mục tiêu về kinh tế và mục tiêu về môi trường đều không đạt được. Ở đây công tác quản lý rác thải đóng vai trò là một loại dịch vụ môi trường do Nhà nước cung cấp cho nhân dân. Hàng hóa này cũng có đầy đủ các tính chất của một loại hàng hoá công cộng. - Tính không loại trừ : Trong thực tế khi công tác quản lý rác thải của Nhà nước diễn ra thì ai cũng được hưởng lợi từ dịch vụ này mà không thể từ chối bất cứ một người nào. Việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải làm cho môi trường trong sạch, bất cứ ai sống trong môi trường đó cũng chính là đang hưởng lợi Ých của hoạt động này dù người đó có đóng phí hay không. - Chi phí cận biên bằng không : Do quy định của Nhà nước thu phí là 1000đ/người/tháng nên dù người dân có đổ rác nhiều hay Ýt cũng không phải trả thêm khoản tiền cho lượng rác tăng thêm đó. Gi¸ c¶ hoÆc chi phÝ L­îng r¸c 0 CÇu (D) Cung (chi phÝ cËn biªn = 0) Có thể xác định cơ chế giá đối với dịch vụ vệ sinh môi trường như sau: Chính cơ chế giá cả của hoạt động này đã tạo nên những thất bại của thị trường, giá cả không phản ánh đúng giá trị mà dịch vụ đem lại. Đối với những hàng hóa công cộng, việc giá xác định không đúng hay chi phí cận biên bằng không đã thúc đẩy việc sử dụng quá mức hoặc sử dụng một cách lãng phí nguồn lực dẫn đến suy thoái và gây ảnh hưởng đến môi trường. Như dịch vụ về rác thải mà chúng ta đang phân tích, việc giá cả không chính xác và chi phí cận biên bằng không đã dẫn đến việc người dân không có ý thức bảo vệ môi trường sống của chính mình. Lượng rác thải vẫn hàng ngày tăng lên, rác được đổ không đúng quy định, xả rác bừa bãi ra đường, thậm chí ngay cả khi công nhân thu gom rác vừa đi qua họ đã đổ ngay rác ra đường… Trong một bộ phận người dân còn có tâm lý cho rằng việc Nhà nước phải tiến hành các hoạt động dịch vụ vệ sinh này là đương nhiên và việc họ đóng một phần phí vệ sinh rác thì họ có quyền đổ rác bừa bãi “để tạo công ăn việc làm cho công nhân vệ sinh”. III. VẤN ĐỀ XỬ LÝ RÁC THẢI Hiện nay việc xử lý rác thải của nước ta chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp chôn lấp. Đối với khu vực Hà Nội, việc xử lý chôn lấp rác thải được tiến hành tại bãi rác Nam Sơn. Như trên ta đã phân tích có nhiều phương pháp khác nhau để xử lý rác thải nhưng chúng ta vẫn chọn phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh. Phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh được lựa chọn bởi lẽ giá thành để xử lý rác thải là rẻ, phù hợp với điều kiện của nước ta còn khó khăn. Tuy nhiên có phải giá thành để xử lý rác bằng phương pháp chôn lấp là rẻ như đã xác định không? (Theo như tính toán giá thành để xử lý 1 tấn rác thải khoảng 20.000đ). Bãi rác Nam Sơn được quy hoạch và xây dựng trở thành khu chôn lấp chất thải hợp vệ sinh. Tuy nhiên trong thực tế thì bãi rác đã thực sự đạt được tiêu chuẩn chưa ? Theo như phần phân tích thực trạng ở trên, trong thực tế bãi chôn lấp chất thải Nam Sơn vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Đó là tình trạng ô nhiễm không khí do mùi phát ra từ rác đang phân huỷ và ô nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiễm đất do nước rác chảy ra. Những ô nhiễm này sẽ do người dân xung quanh vùng phải gánh chịu. Đó là những ảnh hưởng về sức khoẻ, tổn hại đến hoa màu xung quanh vùng, ảnh hưởng đến nguồn nước… Nếu tình trạng ô nhiễm không được khắc phục, ô nhiễm môi trường trở nên nặng nề thì chi phí cho việc xử lý ô nhiễm sẽ là rất lớn thậm chí có thể tiến tới vô cùng. Chi phí này chính là những chi phí mà chúng ta chưa xét đến trong chi phí xử lý. Hoạt động xử lý rác thải đã tạo nên một ngoại ứng tiêu cực mà những chi phí do ngoại ứng này gây nên sẽ do xã hội gánh chịu. Nếu những chi phí này chúng ta không tính đến thì chính thế hệ sau sẽ phải gánh toàn bộ những hậu quả sau này. Qua đó ta thấy việc xử lý rác bằng chôn lấp đã tạo ra những ngoại ứng tiêu cực. Ngoại ứng tiêu cực là nguyên nhân gây nên sự thất bại của thị trường, cơ cấu giá là thất bại, giá cả của hoạt động này được xác định không chính xác. Việc thất bại thị trường làm cho lợi Ých của xã hội giảm đi. Mục tiêu của xã hội là tối đa hoá lợi Ých, vừa đạt được mục tiêu về phát triển vừa đảm bảo cho môi trường được bảo vệ. Mặt khác trong chi phí cho việc xử lý bằng chôn lấp chưa tính đến chi phí cho việc sử dụng tài nguyên đất. Xử lý rác bằng phương pháp chôn lấp cần phải sử dụng quỹ đất rất lớn. Mặc dù trong hiện tại quỹ đất của Hà Nội còn dồi dào, nhưng chưa ai xác định được quỹ đất chưa sử dụng còn tồn tại trong bao lâu nữa. Tốc độ đô thị hoá của Hà Nội là rất lớn, dân số ngày một tăng nhanh trong khi đất đai không thể tăng lên, sinh sôi nảy nở. Vì thế trong tương lai chắc chắn quỹ đất của Hà Nội sẽ trở nên khan hiếm. Hậu quả này cũng là do thế hệ mai sau phải gánh chịu. Khi đó chi phí cho việc xử lý rác bằng chôn lấp chắc chắn sẽ không còn là rẻ nữa. CHƯƠNG IV CÁC GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI I. MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ RÁC THẢI TẠI HÀ NỘI Quản lý tốt rác thải tại Hà Nội là mục tiêu quan trọng của thành phố và của nước ta hướng tới sự phát triển bền vững. Mục tiêu chung của chiến lược quản lý rác thải thủ đô Hà Nội là : Từng bước hình thành và thực hiện hệ thống quản lý rác thải tại thành phố trung tâm và các đô thị một cách đồng bộ, khoa học, nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý môi trường Thủ đô nói chung, bảo vệ sức khoẻ trong lành, tạo nên sự phát triển hài hòa và bền vững của Thủ đô. Mục tiêu cụ thể : Mục tiêu môi trường : - Đảm bảo thu gom, xử lý 100% chất thải của thành phố vào năm 2010. - Đảm bảo tỉ lệ xử lý : 70% chôn lấp, 10% tái chế, 5% đốt (rác bệnh viện, rác công nghiệp), 15% sản xuất phân compost vào những năm sau năm 2000. - Giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường gây ô nhiễm : nguồn nước, đất đai, không khí. Đảm bảo cảnh quan đô thị. - Bảo vệ sức khẻo của nhân dân thành phố, nhân dân sống gần khu vực xử lý, công nhân viên chức trực tiếp làm việc. - Tận dụng thành phần chất hữu cơ trong chất thải để cải tạo đất. Mục tiêu xã hội : - Nâng cao nhận thức của nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường. - Giảm tối đa công tác phục vụ cho chôn lấp. - Tạo một phần công ăn việc làm cho xã hội. - Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia với Nhà nước các công việc vệ sinh môi trường. - Là cơ sở cho việc hoàn chỉnh pháp luật, quy tắc, quy chế cho việc quản lý chất thải rắn. Mục tiêu về tài chính : - Nâng cao hiệu quả của việc quản lý rác thải. - Giảm một phần cho Ngân sách . - Tăng thu nhập cho người lao động tham gia việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải. - Giảm dần sự phụ thuộc của Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội vào ngân sách Nhà nước. - Khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào công tác vệ sinh môi trường. II. TỔ CHỨC QUẢN LÝ RÁC THẢI Tổ chức quản lý rác thải là cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Nguyên nhân gây ra những thất bại thị trường trong công tác quản lý rác thải chính là do dịch vụ vệ sinh môi trường của thành phố được coi là hàng hoá môi trường và do Nhà nước quản lý. Do đó vấn đề cần đặt ra là phải tạo ra sự cạnh tranh trong các hoạt động, làm thay đổi nhận thức của mọi người rằng dịch vụ này không chỉ độc quyền của Nhà nước, cần lôi kéo các thành phần kinh tế khác vào tham gia. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta cho rằng công tác quản lý rác thải phải được xã hội hoá sâu rộng và là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong việc quy hoạch xây dựng kế hoạch phát triển và quản lý các đô thị và khu công nghiệp ở Việt Nam. Khuyến khích và đa dạng hoá các thành phần kinh tế cùng tham gia quản lý rác thải. Tất cả các khâu thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng và xử lý rác thải cần phải được quan tâm ở mọi cấp chính quyền và phải được thực hiện trên cơ sở một khung pháp lý đồng bộ về Luật pháp, tổ chức, kinh tế, tài chính… Căn cứ vào đường lối chiến lược, chủ trương của thành phố và điều kiện thực tế, việc xây dựng mô hình tổng thể quản lý chất thải rắn của thành phố Hà Nội như sau : * Doanh nghiệp Nhà nước : đảm bảo các khâu có vai trò chủ đạo như khâu thu gom, khâu vận chuyển và xử lý chất thải . Đặc biệt duy trì vệ sinh tại các khu trung tâm, khu vực quan trọng và các tuyến phố chính sẽ do doanh nghiệp Nhà nước đảm nhiệm. * Các thành phần kinh tế khác : Để thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho mọi đối tượng, Chính quyền thành phố cần khuyến khích các thành phần kinh tế khác đảm nhận các khâu thu gom rác tại các khu vực ngõ xóm, khu vực ven đô và một phần công tác vận chuyển. Bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Việc lôi cuốn các thành phần kinh tế khác vào công tác quản lý rác thải sẽ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho mọi đối tượng đặc biệt là giảm được gánh nặng ngân sách cho Nhà nước, tạo thêm nguồn tài chính cho công tác quản lý rác thải. Tuy nhiên, việc xã hội hoá này còn có nhiều vấn đề khó khăn, bởi lẽ đây là lĩnh vực không thu được lợi nhuận cao. Nhà nước cần có các biện pháp ưu đãi để các công ty tư nhân hoặc các đơn vị khác tham gia vào lĩnh vực này. Trước mắt nên giao cho tư nhân tham gia vào lĩnh vực thu gom và vận chuyển một phần rác dưới sự giám sát của cấp cơ sở (phố, phường). Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia dưới các hình thức liên doanh, BOT, 100% vốn nước ngoài để đầu tư cho khâu xử lý rác thải mang tính công nghệ hiện đại. Hiện nay Công ty Môi trường đô thị đã và đang xây dựng các dự án để kêu gọi các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài nhằm đầu tư phát triển dưới nhiều hình thức trong những năm tới. Trong đó tập trung vào triển khai dự án xử lý rác thành phân vi sinh bằng nguồn vốn ODA của chính phủ Tây Ban Nha, dự án xin cung cấp thiết bị khẩn cấp cho công tác vệ sinh môi trường ở Hà Nội. III. GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC VẬN CHUYỂN Ở nước ta trong hiện tại và tương lai, việc xử lý rác thải bằng phương pháp chôn lấp vẫn là chủ yếu. Với mục tiêu đối đa hoá lợi Ých công tác quản lý, trước mắt cần có biện pháp giảm chi phí, cụ thể là giảm chi phí vận chuyển rác thải. Khu chôn lấp rác thải đô thị được quy hoạch tại bãi Nam Sơn Sóc Sơn. Khu này ở vị trí khá xa so với trung tâm thành phố (khoảng 60 km) mà hiện tại việc vận chuyển rác từ thường được vận chuyển thẳng tới bãi Nam Sơn bằng các xe tải nhỏ có công suất từ 6 - 8 m3. Việc sử dụng các xe tải nhỏ khiến chi phí vận chuyển rác thải cao lên. Điều này có thể khắc phục được nếu chúng ta sử dụng các loại xe to để chuyên chở rác lên bãi Nam Sơn. Do đó đòi hỏi phải có các trạm trung chuyển để tập trung rác từ các nơi trong thành phố. Trạm trung chuyển thường được đặt gần khu vực thu gom nơi mà các xe thu gom có thể đổ rác của chúng xuống sau đó rác lại được chất lên những xe tải lớn hơn để chuyển một cách kinh tế đến bãi rác ở nơi xa hơn. Các trạm trung chuyển được dùng để tối đa hoá năng suất lao động của đội ngũ thu gom và đội xe, giảm tối đa chi phí vận chuyển rác đến nơi xử lý. Chúng có thể được dùng để củng cố thêm lượng rác thu gom từ các xe khác nhau và chúng thường được bố trí sao cho thời gian đi và khoảng cách mà các xe phải chạy bên ngoài vòng thu gom bình thường là nhỏ nhất. Các trạm trung chuyển còn có thể được dùng để thực hiện một chức năng quan trọng là giảm lượng rác thải đến bãi chôn lấp chung của thành phố và sử dụng lại các vật liệu có khả năng thu hồi và tái chế, tạo điều kiện cho những người nhặt rác thực hiện việc phân loại rác để tái sử dụng lại ngay tại các trạm này. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển việc xây dựng các trạm trung chuyển là cần thiết. Xem xét kinh nghiệm của Nhật Bản ta có thể thấy một cách trực quan tính kinh tế của việc sử dụng các xe to vận chuyển rác khi có trạm trung chuyển so với vận chuyển một cách trực tiếp bằng các loại xe nhỏ. Bảng này chỉ ra rõ ràng những ưu thế của việc sử dụng những phương tiện tiết kiệm năng lượng cho việc vận chuyển những khối lượng lớn rác thải từ điểm chuyển tiếp đến bãi chôn lấp. Bảng 4.1 : So sánh hai phương án vận chuyển rác Chỉ tiêu Chuyển trực tiếp bằng xe thu gom Chuyển qua trạm trung chuyển bằng xe lớn Chi phí vận tải đơn vị USD Xe đổ rác kín 8m3 2chuyến/ngày sử dụng 7 năm (giá 15.000USD/xe) Xe vận chuyển lớn 30m3 4 chuyến/ngày sử dụng 7 năm (giá 60.000USD/xe) Khấu hao xe hàng năm 2.200 7.600 Lương cho lái xe 1.600 2.200 Lương cho đội ngũ công nhân 5.500 (5 người) 1.100 (1 người) Bảo hiểm, thuế 1.500 2.000 Bảo dưỡng, vận hành hàng năm 3.800 15.000 Tổng chi phí vận chuyển 14.600 28.900 Chi phí tính cho 1m3 rác thải 2,5/m3 0,66/m3 * Xác định vị trí các trạm trung chuyển Mục tiêu chủ yếu của việc xây dựng các trạm trung chuyển là giảm thiểu chi phí vận chuyển rác tới nơi xử lý. Khoảng cách giữa điểm thu gom và trạm trung chuyển càng ngắn thì chi phí cho nhiên liệu và các chi phí vận hành khác trong hoạt động thu gom tuyến 1 càng giảm. Ô nhiễm không khí do khí thải của xe tải chuyên dùng chở rác cũng giảm đi. Trên cơ sở đánh giá, lựa chọn các trạm trung chuyển về quãng đường, địa điểm đặt có đường vận chuyển thuận lợi và điều kiện về đất đai, khí hậu lựa chọn 3 trạm trung chuyển sau : - Tây Mỗ : hiện đang thực hiện chở rác thải còn lại sau khi chế biến phân compost. - Đông Ngạc : dự kiến 5 ha, hiện đang xin cấp đất để xây dựng. - Đức Giang : dự kiến 5 ha. Với phương án vận chuyển này phải từng bước đầu tư trang thiết bị : - Các xe cuốn Ðp rác thải các loại nhỏ từ 1 – 2 tấn sử dụng thu gom, vận chuyển trong các ngõ, phố hẹp. - Các xe có trọng tải 2 – 6 tấn sử dụng trong các đường phố, khu dân cư, khu tập thể. - Các xe có trọng tải > 6 tấn vận chuyển các container. - Các xe chuyên dụng đảm nhận vận chuyển từ trạm trung chuyển lên bãi Nam Sơn, loại chở container có tải từ 18 – 24 tấn. IV. GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM LƯỢNG RÁC THẢI Như trên ta đã phân tích, lượng rác thải đang có xu hướng ngày càng tăng mạnh, đặt ra nhiều vấn đề đối với công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Mặt khác điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, công nghệ còn lạc hậu nên việc xử lý rác thải còn nhiều hạn chế. Biện pháp xử lý chủ đạo vẫn là chôn lấp. Phương pháp này có chi phí phù hợp nhưng lại tốn nhiều diện tích đất đai. Mặc dù mới đi vào hoạt động được hơn 3 năm nhưng việc sử dụng các lô chôn lấp giai đoạn 1 đã vượt mức dự kiến. Giải pháp giảm lượng rác thải là biện pháp phòng ngừa chủ động có tính hữu hiệu nhất. Giảm lượng rác thải cũng chính là một giải pháp để bảo vệ nguồn tài nguyên. Tỉ lệ phát sinh chất thải rắn cao ám chỉ tốc độ cao của việc khai thác các vật liệu thô sơ khai. Theo dự báo do mức sống và sinh hoạt của người dân đô thị ngày càng tăng nên xu hướng những thành phần có giá trị trong chất thải sẽ tăng lên. Do đó cần chú trọng phát triển áp dụng các công nghệ thu hồi tái chế như : phân loại từ nguồn, phân loại ở các trạm xử lý tập trung, áp dụng công nghệ thu hồi dùng lại và tái chế tập trung, từng bước xây dựng công nghiệp tái chế rác thải trong hệ thống quản lý rác thải của thành phố Hà Nội. 4.1. Các công cụ kinh tế Công cô kinh tế là một trong những công cụ quan trọng nhất để bảo vệ môi trường đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới đặc biệt là trong các nước công nghiệp phát triển (OECD). Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên nguyên tắc cơ bản đã được Quốc tế thừa nhận là “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) và “nguyên tắc người được hưởng thụ phải trả tiền” (BPP). Ở Việt Nam quan niệm công cụ kinh tế như là một phương tiện chính sách quản lý môi trường là điều hoàn toàn mới mẻ, nhưng chúng ta đã từng bước đổi mới, nhìn nhận khôn khéo và khách quan hơn trong việc quản và điều hành nền kinh tế của đất nước. 4.1.1. Phí vệ sinh môi trường Hiện nay ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng hoạt động vệ sinh môi trường đô thị chỉ mang tính chất là hoạt động công Ých. Chi phí cho các hoạt động này do Ngân sách Nhà nước cấp. Nhà nước cũng tiến hành thu phí đối với các dịch vụ vệ sinh môi trường này. Mức phí bình quân đầu người là 1000đ/người. Tuy nhiên hoạt động thu phí chỉ mang tính chất bình quân đầu người và nhằm mục đích giảm gánh nặng Ngân sách cho Nhà nước chứ chưa làm cho người dân thấy rõ tầm quan trọng của loại dịch vụ này. Việc thu phí tính trên mức bình quân này đã không khuyến khích được người dân giảm lượng rác thải mà lượng rác theo thống kê vẫn ngày càng tăng lên. Nhằm biện pháp giảm lượng rác thải của người dân theo tôi thiết nghĩ cần có sự thay đổi đối với việc thu phí vệ sinh. Chóng ta có thể học tập kinh nghiệm của các nước đối với việc thu phí thông qua số túi rác hoặc số thùng rác. Nhà nước có thể tiến hành sản xuất riêng một loại túi có khả năng phân huỷ nhanh bán cho các hộ gia đình và quy định phải sử dụng các túi này để đựng rác. Giá của một túi rác tương đương với phí đổ lượng rác thải đựng trong tói. Cũng có thể sử dụng công cụ phí để khuyến khích người dân phân loại rác tại nguồn. Đối với những rác thải có thể tái sinh như giấy, bìa, kim loại, chai lọ thì để riêng ra loại túi khác. Kích thước, màu sắc các loại túi cần quy định rõ để phân biệt túi đựng cho các loại rác khác nhau. Giá mua loại túi rác này có thể rẻ hơn túi rác chung nhằm khuyến khích người dân phân loại rác tại nguồn. Lượng chệnh lệch giữa hai loại túi có thể là chi phí để phân loại rác. Với biện pháp này có thể khiến các gia đình hạn chế lượng rác thải, tận dụng tối đa mọi vật chất. Đối với các công sở, trường học có thể sử dụng hợp lý, tiết kiệm tránh bỏ phí các loại vật liệu như giấy viết, giấy phô tô… Hơn nữa với biện pháp này có thể tăng thêm nguồn thu vào bù đắp chi phí bỏ ra. Nếu thực hiện biện pháp này cũng có thể lôi kéo các thành phần kinh tế khác tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển do phần thu vào cho hoạt động được đảm bảo hơn. Hệ thống thu gom chất thải rắn ở New Jersey minh hoạ thêm về tính hiệu quả của hệ thống trả phí theo từng túi rác. Tại đây mỗi thùng hoặc túi 120 lit đặt tại lề đường để thu gom hàng tuần cần có một tem dán của thành phố. Kể từ khi áp dụng hệ thống này năm 1988, khối lượng rác cư dân đã giảm đi 25%, khối lượng rác thu gom đã giảm từ 8,5 tấn mỗi ngày xuống còn 6,3 tấn mỗi ngày. Nếu mỗi người dân thành phố giảm lượng rác thải từ 0,6 kg/người/ngày xuống còn 0,5 kg/người/ngày thì với số dân khoảng 2,5 triệu người, lượng rác thải trong thành phố có thể giảm 250 tấn /ngày. Với chi phí vận chuyển đi bãi Nam Sơn là 70.000 đồng/tấn + chi phí xử lý rác tại bãi chôn lấp là 20.000 đồng/tấn. Do đó nếu giảm lượng rác thải chúng ta có thể tiết kiệm được cho Ngân sách là : 250 tấn* (70.000 + 20.000) = 22.500.000 đồng/ngày. Tuy nhiên vấn đề cần đặt ra cho chóng ta là xác định được mức phí như thế nào cho hợp lý để người dân có thể chấp nhận được. 4.1.2. Hệ thống ký quỹ – hoàn trả Các hệ thống ký quỹ – hoàn trả biểu hiện mối liên hệ giữa thuế và trợ cấp. Các loại thuế, phí, lệ phí đặc biệt đối với các khách hàng được thiết kế để khuyến khích tái chế, ngăn ngừa ô nhiễm. Công cụ này thường được áp dụng với các loại chai lọ, vỏ hộp nước giải khát có thể tái chế, tái sử dụng. Nếu khách hàng đem trả lại bao bì nước giải khát họ sẽ được trả lại một khoản tiền nhất định nào đó. Số tiền đó chính là số tiền ta đã đặt cho cửa hàng khi mua hàng. Sự kích thích kinh tế này đủ để tạo ra được các hành vi mong muốn. Ở Hà Nội phương pháp này đã được áp dụng đối với vỏ chai bia và vỏ chai nước ngọt. Mặc dù hình thức này diễn ra tù phát ở các doanh nghiệp nhưng nó đã tỏ ra rất hữu hiệu. Với biện pháp này phần lớn các chai bia và chai nước ngọt đã được thu về để tái sử dụng cho chu kỳ sản xuất sau. Trong số rác thải đổ ra hầu như không thấy các loại chai này. Công cụ này có thể được áp dụng đối với bất kỳ loại sản phẩm nào mà chúng đòi hỏi một sự tập trung cao để tái sử dụng, tái quay vòng. Việc sử dụng công cụ này có thể làm tăng tỉ lệ thu hồi rác thải có khả năng tái chế và giảm lượng rác thải cần phải xử lý chôn lấp. Cần có những biện pháp, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các ngành dịch vụ thải ra chất thải rắn và có khả năng tái sinh : đồ thuỷ tinh, đồ nhựa, giấy… áp dụng hệ thống này, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Trong thực tế các hệ thống ký quỹ – hoàn trả tỏ ra có hiệu quả hơn là các hệ thống tự nguyện hoàn trả bởi lẽ chúng đền đáp cho các hành vi tốt. Theo cách nhìn hành chính, những hệ thống này có hiệu quả. Chúng không đòi hỏi sự giám sát hay những sự liên quan của các nhà cầm quyền. 4.2. Các công cụ pháp lý Hai phương cách chính để kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải là Mệnh lệnh và Kiểm soát (CAC) và chiến lược kinh tế. Khi khởi đầu các chính sách môi trường ở phần lớn các nước công nghiệp hoá thường có xu hướng sử dụng Mệnh lệnh và Kiểm soát như một chiến lược chính thống trong kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải. Tại Việt Nam nhận thức của người dân về môi trường còn thấp, thói quen xả rác ra đường còn nặng nề. Một phần lớn dân cư đều tuỳ tiện vứt rác ra đường, ngay cả tầng lớp thanh niên trí thức như học sinh, sinh viên những người có đầy đủ nhận thức về tầm quan trọng của môi trường, hiểu biết về lối sống văn minh, lịch sự. Thậm chí một số người còn có lý sự “cùn” cho rằng xả rác ra đường để tạo công ăn việc làm cho công nhân môi trường. Như phần thực trạng ta đã đề cập đến, hàng ngày chúng ta đã lãng phí một lượng lớn nhân công đi nhặt rác do dân đổ ra đường. Nếu mỗi người dân có ý thức đổ rác đúng quy định, đúng giờ thì vừa đỡ vất vả cho công nhân thu gom, vừa tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước một khoản chi phí lớn sử dụng vào các công việc hữu Ých khác. Trước thái độ, tâm lý của người dân như vậy, cần áp dụng công cụ pháp lý để làm thay đổi thái độ người dân, buộc họ phải tham gia vào công tác bảo vệ môi trường. Các công cụ pháp lý sẽ hỗ trợ cho công cụ kinh tế đạt được những hiệu quả mong muốn. Đôi khi những công cụ kinh tế ở trên sẽ không thực hiện được nếu như người dân không chịu thực hiện. Chính phủ cần có những quy định về việc phân loại rác tại nguồn, thu hồi tái chế rác thải, bắt buộc các hộ dân phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định đặt ra. Để bổ xung cho công cụ kinh tế ở trên và giúp sử dụng có hiệu quả, Nhà nước có thể đề ra các quy định tiêu chuẩn về các loại túi rác, thùng rác gia đình, các điểm thu gom rác và cả tần xuất thu gom buộc mọi người phải tuân theo. Cần có các chế tài, đề ra các mức phạt cụ thể đối với những hộ gia đình không chấp hành theo đúng quy định. Để kiểm soát việc thực hiện theo các quy định có thể giao cho từng tổ dân phố. Các tổ trưởng kết hợp với chính quyền địa phương sẽ kiểm tra đôn đốc. Chi phí cho hoạt động này có thể được bù đắp từ lợi Ých do giảm lượng rác thải hoặc từ các khoản nộp phạt của các hộ dân vi phạm. Việc phân loại rác tại nguồn đã từng được thí điểm tại khu tập thể Kim Liên, nhưng chưa thành công. Thực tế thì một bộ phận dân chúng cũng đã có ý thức và thực hiện theo cách thức này. Tuy nhiên còn nhiều những bất cập như loại thùng chứa chưa phù hợp, chưa có biện pháp để giảm mùi hôi, diệt ruồi muỗi làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Nếu chúng ta có biện pháp thay đổi cho phù hợp và có biện pháp bắt buộc cũng như các chính sách tài chính thì cũng có thể khuyến khích người dân tham gia. Đối với các hành vi xả rác bừa bãi ra đường cũng cần có những biện pháp cứng rắn như mức phạt nặng về tài chính để làm thay đổi thói quen xấu. Xử lý kiên quyết các đơn vị và các cá nhân vi phạm các điều quy đinh bảo vệ môi trường thành phố theo quy định 3008/QĐ-UB của UBND thành phố về xả rác ra đường và nơi công cộng. Nguồn tài chính thu được từ xử phạt sẽ tạo thêm nguồn vốn cho quản lý rác thải. Một thói quen xấu có thể khó thay đổi nhưng không có nghĩa là không thể thay đổi. Trước tiên có thể tạo thành tâm lý đối phó của dân chúng với các quy định nhưng dần dần sẽ tạo ra được ý thức tốt cho dân cư. Để biến nước mình trở thành đất nước trong sạch, đất nước Singapore đã phải mất tận 20 năm. Chúng ta có thể mất một thời gian lâu hơn nhưng nếu chúng ta quyết tâm nhất định sẽ thành công. Có thể thấy một ví dụ điển hình ở nước ta hiện nay. Đó là việc ban hành nghị định 13/CP của Chính phủ về xử phạt hành chính đối với người vi phạm khi tham gia giao thông. Khi đội ngũ công an thực hiện giám sát triệt để, chỉ sau 3 tháng tình hình chấp hành giao thông trên đường phố đã có những tiến bộ rõ rệt. 4.3. Công tác giáo dục tuyên truyền. Bên cạnh các biện pháp pháp lý cần kết hợp với công tác giáo dục tuyên truyền cộng đồng. Thông qua giáo dục, ý thức bảo vệ môi trường của cá nhân và cộng đồng ngày một nâng cao. Thực tế cho thấy rằng việc giáo dục và tuyên truyền có tầm quan trọng trong công tác quản lý rác thải. Đưa công tác giáo dục và tuyên truyền trở thành một hoạt động chính quy, đưa công tác giáo dục vào các trường học từ các bậc mẫu giáo, tiểu học đến các bậc cao hơn, hình thành nên thói quen tốt cho các em ngay từ nhỏ. Thường xuyên đưa ra các thông tin cập nhật trên các hệ thống thông tin công cộng như báo chí, truyền hình, loa phóng thanh… tiếp cận đến từng người dân. Thường xuyên tổ chức các buổi lao động tổng vệ sinh đường phố, ngõ xóm có sự kết hợp của công ty Môi trường và Đô thị và quần chúng nhân dân. Nâng cao ý thức cho nhân dân về vệ sinh đường làng, ngõ xóm, tạo nên một môi trường trong sạch cho chính gia đình mình. Khen thưởng những cụm dân cư, tổ dân phố giữ gìn vệ sinh môi trường tốt . Phê bình, xử phạt những cộng đồng không thực hiện công tác này. Ngân hàng Thế giới khuyến nghị phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền việc bảo vệ môi trường coi đó là biện pháp rẻ nhất. Nếu làm tốt có thể biến ý thức và bảo vệ môi trường thành một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm xã hội cho công dân Thủ đô, tức là nó sẽ trở thành một đặc trưng nổi bật của nền văn hóa hiện đại, của cuộc sống hiện đại, nền văn hoá môi trường. V. THU HỒI TÁI CHẾ, TÁI SỬ DỤNG RÁC THẢI Tái chế là hoạt động thu hồi lại chất thải các thành phần có thể sử dụng để chế biến thành các sản phẩm mới sử dụng lại cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Hoạt động tái chế mang lại những lợi Ých : - Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên bởi việc sử dụng vật liệu được tái chế thay cho vật liệu gốc. - Giảm lượng rác thông qua việc giảm chi phí đổ thải, giảm tác động môi trường do đổ thải gây ra, tiết kiệm diện tích đất chôn lấp. Một lợi Ých quan trọng là có thể thu lợi nhuận từ hoạt động tái chế, hoạt động tái chế lúc này sẽ mang tính kinh doanh và vì thế có thể giải thích tại sao các vật liệu có thể tái chế hiện được thu gom ngay từ nguồn phát sinh cho tới khâu xử lý và tiêu huỷ cuối cùng. Hoạt động tái chế và thu hồi rác thải được thực hiện thông qua hệ thống thu gom rác thải theo mạng lưới 3 cấp gồm : người thu gom, đồng nát và buôn bán phế liệu. Hoạt động tái chế cũng cần chi phí để thu gom, vận chuyển chế biến và ngăn chặn các tác động tiêu cực lên môi trường do quá trình tái chế gây ra. Do đó nếu như chi phí tái chế cao hơn lợi Ých thì hoạt động này không mang lại hiệu quả. Để ước tính lợi Ých tái chế người ta sử dụng công thức tính trên chi phí cơ hội. NBr = [Pv1 – Pv2] + [Ce1 + Cu1 – Ce2] + [Cw1 – Cw2] + Cdw Trong đó : [Pv1 – Pv2] : chênh lệch về chi phí vật liệu thô Pv1: chi phí vật liệu đầu vào là tài nguyên thiên nhiên Pv2 : chi phí đầu vào là rác tái chế [Ce1 + Cu1 – Ce2] : chênh lệch chi phí tái chế, tái sử dụng Ce1 : chi phí do phải xử lý rác thải nếu không tái chế Cu1 : doanh thu do tạo thành sản phẩm từ rác Ce2 : chi phí xử lý môi trường do hoạt động tái chế gây ra [Cw1 – Cw2] : chênh lệch chi phí thu gom Cw1 : chi phí thu gom rác để xử lý Cw2 : chi phí thu gom rác để tái chế Cdw : chi phí tiết kiệm đổ rác thải. Nếu kết quả tính toán cho NBr là dương thì có nghĩa là hoạt động tái chế mang lại hiệu quả, ngược lại nếu cho kết quả là âm thì hoạt động này không mang lại hiệu quả. Hiện tại với điều kiện của nước ta việc tái chế, tái sử dụng rác thải thông qua đội ngũ những người nhặt rác, những người thu mua đồng nát đã tỏ ra là một biện pháp hữu hiệu và có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu lượng rác và đem lại lợi Ých cho cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên những hoạt động này chỉ mang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100803.doc