Tài liệu Đề tài Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ- Tỉnh Phú Thọ: Phần I
Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ trên mọi phương diện, mà trong đó nông nghiệp là điển hình. Nền nông nghiệp nước ta từ khi có chỉ thị 100 của Ban bí thư (1981), Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) và những chính sách mở cửa, hội nhập của Đảng và nhà nước đã thu được những thành tựu lớn mang tính đột phá và lịch sử sâu sắc.
Trên thế giới không có nước nào như Việt Nam, một đất nước mà trước kia trong con mắt và tâm trí của bạn bè quốc tế chúng ta chỉ là một dân tộc anh hùng, bất khuất trong chiến đấu và bảo vệ tổ quốc nhưng nghèo đói, kiệt quệ về kinh tế. Còn bây giờ thì khác, chúng ta không chỉ đảm bảo lương thực cho gần 80 triệu người mà chúng ta còn trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo và sản phẩm từ nông nghiệp hàng đầu thế giới. Đây là một thành tựu to lớn mà toàn thể dân tộc Việt Nam đã giành được trong những năm qua, đã làm thay đổi cách nhìn của cộng đồng quốc tế về Việt Na...
66 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ- Tỉnh Phú Thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I
Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ trên mọi phương diện, mà trong đó nông nghiệp là điển hình. Nền nông nghiệp nước ta từ khi có chỉ thị 100 của Ban bí thư (1981), Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) và những chính sách mở cửa, hội nhập của Đảng và nhà nước đã thu được những thành tựu lớn mang tính đột phá và lịch sử sâu sắc.
Trên thế giới không có nước nào như Việt Nam, một đất nước mà trước kia trong con mắt và tâm trí của bạn bè quốc tế chúng ta chỉ là một dân tộc anh hùng, bất khuất trong chiến đấu và bảo vệ tổ quốc nhưng nghèo đói, kiệt quệ về kinh tế. Còn bây giờ thì khác, chúng ta không chỉ đảm bảo lương thực cho gần 80 triệu người mà chúng ta còn trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo và sản phẩm từ nông nghiệp hàng đầu thế giới. Đây là một thành tựu to lớn mà toàn thể dân tộc Việt Nam đã giành được trong những năm qua, đã làm thay đổi cách nhìn của cộng đồng quốc tế về Việt Nam và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đất nước ta với trên 80% dân số là nông nghiệp, 76,9% lực lượng lao động sống và làm việc ở nông thôn. Nền nông nghiệp nước ta ngoài việc sản xuất ra lương thực, thực phẩm cho xã hội còn cung cấp những nguyên liệu cần thiết cho các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và đóng góp gần 30 % tổng thu nhập quốc dân. Vì vậy mà Đảng và nhà nước ta xác định: "Nông nghiệp là một ngành sản xuất chính trong nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay". Bằng những chủ trương, những chính sách, sự chỉ đạo kịp thời của Đảng và nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển lên một tầm cao mới, đồng thời tạo thế và lực vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung.
Trong qua trình đó thủy lợi - thuỷ nông là biện pháp hàng đầu để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp. Hệ thống các công trình thuỷ lợi - thuỷ nông có nhiệm vụ cung cấp nước và tiêu úng khi cần thiết. Nước đối với nông nghiệp là rất quan trọng liên đến sự sống, sự đâm hoa kết trái nhưng cũng gây ra những tác hại vô cùng to lớn, nhiều nước quá hoặc ít nước quá sẽ làm hạn chế đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng và làm giảm năng suất, sản lượng cây trồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng nói rất giản dị rằng: “ Nước cũng có thể làm lợi, nhưng cũng có thể làm hại, nhiều nước qua thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với nhau đê nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng CNXH ” [1].
Do đó, trong phát triển nông nghiệp, thủy lợi cần phải đi trước một bước để tạo tiền đề cho việc áp dụng các tiến bộ KHKT như giống mới, phân bón, chế độ luân canh cây trồng và đa dạng hoá nông nghiệp. Thuỷ lợi tốt làm tiền đề cho việc nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Vì vậy mà trong những năm qua Đảng và nhà nước đã dành hàng trăm nghìn tỷ đồng từ vốn ngân sách ( Đầu tư cho thuỷ lợi chiếm 50% vồn ngân sách nhà nước đầu tư cho nông nghiệp ) và đi vay của nước ngoài để đầu tư cho công tác thuỷ lợi - thuỷ nông trên cả nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, huyện Thanh Thuỷ trong 3 năm trở lại đây đang thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương và nâng cấp, làm mới các công trình thuỷ lợi trên địa bàn toàn huyện. Thông qua điều tra và các số liệu trong báo cáo về công tác thuỷ lợi - thuỷ nông của huyện Thanh Thuỷ nhiều năm qua chúng tôi thấy việc khai thác và sử dụng các công trình thuỷ lợi - thuỷ nông trên địa bàn huyện còn nhiều vấn đề cần quan tâm.
_ Hầu hết các công trình thuỷ lợi - thuỷ nông được đưa vào sử dụng chưa được sự đánh giá hiệu quả kinh tế mà việc khai thác các công trình này đem lại một cách thực tiễn, mà nó chỉ được xem xét đánh giá trên cơ sở lý thuyết một cách chung chung.
_ Sau khi các công trình thuỷ nông được đưa vào sử dụng việc quản lý các công trình này còn gặp rất nhiều khó khăn làm hạn chế hiệu quả khai thác công trình.
_ Thanh Thuỷ được xác định là vùng chậm lũ của quốc gia do đó mà việc khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông vừa phải đảm bảo được mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế của huyện, vừa thực hiện được mục tiêu chiến lược của quốc gia khi cần là rất cần thiết.
Vậy để xây dựng và phát triển bền vững, có hiệu quả kinh tế của các công trình thuỷ lợi - thuỷ nông nhằm thiết thực phục vụ mục tiêu CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn của huyện, phải cần có những giải pháp gì hữu hiệu nhất.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, từ những lý do trên và nhu cầu cá nhân muốn tìm hiểu về ý nghĩa, tầm quan trọng trong việc khai thác các công trình thuỷ nông mang lại; được sự phân công của Khoa kinh tế và PTNT, sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn và sự đồng ý của Phòng NN & PTNT huyện Thanh Thuỷ - tỉnh Phú Thọ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
" Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ- tỉnh Phú Thọ ".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
1.2.1 Mục tiêu chung.
Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông mang lại cho huyện, xã và các hộ nông dân vùng nghiên cứu, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, đẩy nhanh sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn huyện Thanh Thuỷ - tỉnh Phú Thọ. Đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu và đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể.
_ Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình thuỷ nông.
_ Đánh giá thực trạng các công trình thuỷ nông ở địa bàn nghiên cứu.
_ Đánh giá thực trạng khai thác các công trình thuỷ nông ở địa bàn nghiên cứu.
_ Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông mang lại cho huyện, xã và các hộ nông dân vùng nghiên cứu.
_ Xác định các yếu tố ảnh hưởng và xây dựng một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về kinh tế trong việc khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông của huyện Thanh Thuỷ, và tình hình sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trên một số xã điều tra (đặc biệt là việc khai thác và sử dụng các loại kênh mương của huyện sau khi được KCH).
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
* Phạm vi nội dung:
_ Để tài tập trung nghiên cứu giải quyết các vấn đề về lý luận và thực tiễn của việc khai thác các công trình thuỷ nông.
_ Xác định, đánh giá và so sánh hiệu quả kinh tế trong việc phát triển kinh tế của huyện, của các xã và của các hộ nông dân trước và sau khi khai thác và sử dụng hệ thống các công trình thuỷ nông. Cụ thể, đề tài tập trung vào đánh giá hiệu quả kinh tế mang lại cho các hộ nông dân sau khi hệ thống KCH kênh mương và nâng cấp các công trình đầu mối được đưa vào khai thác và sử dụng.
_ Xác định những yếu tố còn tồn tại trong việc khai thác các công trình thuỷ nông để nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình này.
* Phạm vi không gian.
Đề tài được nghiên cứu trên phạm vi huyện Thanh Thuỷ - tỉnh Phú Thọ. Và đề tài được tìm hiểu chi tiết, cụ thể ở các xã đại diện điển hình trong việc khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện: Xã Đồng Luận, Trung Nghĩa, Xuân Lộc.
* Phạm vi thời gian.
Số liệu nghiên cứu của đề tài được sử dụng trong 3 năm từ 1999 đến 2001.
* Thời gian nghiên cứu của đề tài tại cơ sở từ 14 tháng 01 năm 2002 đến 20 tháng 05 năm 2002.
Phần II
Tổng quan tài liệu
2.1 Vai trò thuỷ lợi - thuỷ nông đối với sản xuất nông nghiệp và sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đất và nước là hai yếu tố quan trọng đối với việc sản xuất nông nghiệp.
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, nước trên đồng ruộng luôn luôn thay đổi theo hai hướng trái ngược nhau. Đất ngày càng tốt lên hoặc ngày càng xấu đi. Nếu chúng ta nắm vững qui luật biến đổi của chế độ nước và sử dụng hợp lý các nguồn nước ở từng vùng thì độ phì của đất ngày càng tăng lên hoặc hạn chế đến mức thấp nhất sự phát triển xấu của đất đai. Ngược lại, nếu không nắm vững quy luật biến đổi chế độ nước của đất và sử dụng không hợp lý nguồn nước thì độ phì của đất giảm dần, đất bị bạc màu, một số nơi đất có thể bị hoá mặn, hoá lầy, thậm chí không sử đất để trồng trọt được nữa.
Rõ ràng, nước là một yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành đất.Đôcutraiep đã nói: “Để đặt nông nghiệp lên đôi chân vững chắc và đảm bảo cho nó một con đường phát triển bình thường,cần tiên đoán thông thạo quá trình hình thành đất, điều kiện chế độ nước của đất và của cả vùng”[2]. Ngày nay, với những tiến bộ KHKT hiện đại, người ta đã biến hàng triệu hécta đất khô cằn, đất lầy thụt, đất mặn thành đất trồng trọt phì nhiêu.
Để đạt được những yếu tố trên thì thuỷ lợi - thuỷ nông là một trong những biện pháp hàng đầu để có những hécta đất trồng trọt phì nhiêu.
Và chúng ta cũng đã biết một trong những đối tượng chính của nông nghiệp là cây trồng. Muốn năng suất cây trồng ngày càng cao và ổn định cần phải thoả mãn các điều kiện sống của nó. Các điều kiện đó là nước, chất dinh dưỡng, ánh sáng, nhiệt độ và không khí.Theo V.R.Viliam: “ Các điều kiện sống của cây có liên quan mật thiết với nhau và tuân theo qui luật không thay thế”[2]. Tuy nhiên, nước đóng vai trò đặc biệt hơn, nước có khả năng điều hoà các yếu tố còn lại và phát huy tác dụng của chúng làm cho cây trồng phát triển tốt.
Trong thiên nhiên nước lại phân bố không đều cả về không gian và thời gian, không phù hợp với nhu cầu nước của cây trồng trong hệ thống luân canh. Lượng nước chủ yếu là nước mưa và nước ngầm cung câp không đều, quá nhiều hoặc quá ít so với lượng nước tiêu hao thì cây trồng bị úng hoặc bị hạn. Vì vậy, điều tiết chế độ nước của đất phù hợp với nhu cầu nước của cây trồng là một biện pháp kỹ thuật quan trọng đối với tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và nâng cao độ phì của đất.Thực tiễn sản xuất, nhiều vùng khô hạn trên thế giới thấy rằng sản phẩm thu được trên diện tích có tưới tăng từ 2 đến 3 lần sản phẩm thu được trên diện tích không được tưới.
Như vậy, thuỷ lợi - thuỷ nông chính là biện pháp, là điều kiện hàng đầu để giải các vấn đề về chế độ nước cho cây trồng, tiêu thoát úng, chống hạn và góp phần tăng năng suất, tăng vụ cho cây trồng, tăng độ phì cho đất. ở Việt Nam trong thời đại CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn thuỷ hoá là một quá trình phát triển.
Thuỷ lợi là một trong những cơ sở hạ tầng thiết yếu để ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Thiết lập những tiền đề cơ bản và tạo ra môi trường thuận lợi, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước[3]. Ngày 10/05/1999, quốc hội đã thảo luận về báo cáo của chính phủ cho rằng: “Có đi vay nước ngoài cũng phải đầu tư cho thuỷ lợi”. Đầu tư cho thuỷ lợi vừa để kích cầu vừa để phát triển kinh tế, kinh nghiệm cho thấy ở đâu có thuỷ lợi thì ở đó có sản xuất phát triển và đời sống nhân dân ổn định.Việc đầu tư cho thuỷ lợi của Đảng và nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng được mong mỏi của bà con nông dân.
Thuỷ lợi - thuỷ nông thực hiện tổng hợp các biện pháp sử dụng các nguồn lực của nước trên mặt đất và dưới mặt đất để phục vụ sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt nông thôn, đồng thời hạn chế tác hại của nước gây ra cho sản xuất và sinh hoạt của nông dân. Như vậy, thuỷ lợi hoá lầ một quá trình phức tạp, lâu dài nhưng có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển nền nông nghiệp nước ta như:[4]
-Tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng diện tích, tăng năng suất cây trồng một cách bền vững và ổn định.
-Là điều kiện đảm bảo cho các biện pháp kỹ thuật khác phát huy tác dụng.
-Lợi dụng triệt để tiềm năng của tự nhiên và hạn chế tác hại của nước( lũ lụt, úng, hạn hán,... ).
-Trong cơ cấu cây trồng ngắn ngàythì nlúa nước chiếm tỷ trọng lớn. Do đó làm tốt công tác thuỷ lợi - thuỷ nông sẽ góp phần nâng cao năng suất cây trồng, giải quyết vững chắc an toàn; an ninh lương thực.
-Góp phần thúc đẩy ngành nghề, dịch vụ và đặc biệt là cải thiện điều kiện sinh hoạt cho dân cư sinh sống ở nông thôn.
2.2 Các khái niệm cơ bản.
2.2.1 Khái niệm và đặc điểm các công trình thuỷ nông.
2.2.1.1. Một số khái niệm:
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thì cơ sở hạ tầng đóng vai trò hết sức quan trọng, nếu cơ sở hạ tầng tốt sẽ phục vụ đắc lực cho sự phát triển và ngược lại nó gây cản trở cho sự phát triển.Trong nông nghiệp các công trình thuỷ lợi - thuỷ nông là một yếu tố quan trọng, do vậy để khai thác và sử dụng các công trình có hiệu quả chúng ta cần hiểu rõ một số khái niệm cơ bản:
* Thuỷ lợi là sự tổng hợp các biện pháp khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước trên mặt đất và nước ngầm, đấu tranh; phòng chống các thiệt hại do nước gây ra với nền kinh tế quốc dân và dân sinh, đồng thời làm tốt công tác bảo vệ môi trường [2].
* Hệ thống thuỷ nông là tập hợp các công trình làm nhiệm vụ lấy nước từ nguồn nước, dẫn vào đồng ruộng tưới cho cây trồng và tiêu hết lượng nước thừa trên đồng ruộng, bao gồm công trình lấy nước, hệ thống kênh mương lấy nước tưới tiêu và các công trình phục vụ trên hệ thống đó [2].
* Công trình lấy nước: Nguồn nước tưới trong nông nghiệp có thể là nước sông ngòi, nước trong các hồ chứa, nước thải của các thành phố, các nhà máy công nông nghiệp và nước ngầm ở dưới đất. Tuỳ theo nguồn nước và các điều kiện địa hình, thuỷ văn ở từng vùng mà các công trình lấy nước có thể xây dựng khác nhau, để phù hợp với khả năng lấy nước, vận chuyển nước về khu tưới và các địa điểm cần nước khác. Người ta thường gọi chúng là công trình đầu mối của hệ thống tưới.
* Hệ thống kênh mương dẫn nước bao gồm hệ thống tưới và hệ thống tiêu. Hệ thống tưới làm nhiệm vụ vận chuyển nước từ công trình đầu mối về phân phối cho hệ thống điều tiết nước mặt ruộng trên từng cánh đồng trong khu vực tưới. Hệ thống tiêu làm nhiệm vụ vận chuyển nước thừa trên mặt ruộng do tưới hoặc do mưa gây nên, ra khu vực chứa nước.
Theo tiêu chuẩn thiết kế hệ thống kênh tưới Việt Nam TCVN 4118- 85, hệ thống kênh tưới được phân ra như sau [5]:
_ Kênh đầu mối: Dẫn nước từ nguồn đến kênh cấp 1.
_ Kênh cấp 1: Lấy nước từ kênh đầu mối phân phối nước cho kênh
cấp 2.
_ Kênh cấp 2: Lấy nước từ kênh nhánh cấp 1 phân phối cho kênh nhánh cấp 3.
_ Kênh cấp 3: Lấy nước từ kênh nhánh cấp 2 phân phối cho cấp kênh cuối cùng.
_ Kênh nhánh cấp 4: ( Còn gọi là kênh nội đồng):Đây là cấp kênh tưới cố định cuối cùng trên đồng ruộng, phụ trách tưới cho khoảnh ruộng, thửa ruộng.
* Khai thác các công trình thuỷ nông: Là một quá trình vận hành, sử dụng và quản lý các công trình thuỷ nông nhằm đảm bảo cung cấp và tiêu thoát nước đúng kế hoạch tưới tiêu, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho khu vực tưới tiêu và xẫ hội.
* Thuỷ lợi phí: Là một phần phí dịch vụ về nước của công trình thuỷ lợi, để góp phần chi phí cho công tác tu bổ, vận hành và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
2.2.1.2. Một số đặc điểm công trình thuỷ nông.
Thuỷ lợi - thuỷ nông là ngành thuộc kết cấu hạ tầng, vừa có tính chất là ngành sản xuất, vừa có tính chất là ngành dịch vụ nên đòi hỏi phải có sự hoạt động thống nhất để công trình phát huy hiệu quả cao nhất. Vì vậy, chúng ta cần phải nắm chắc một số đặc điểm cơ bản của các công trình thuỷ nông.
* Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật:
+ Đặc điểm kinh tế:
_ Vốn đầu tư xây dựng thường lớn, thu hồi vốn đầu tư trực tiếp thường chậm, hoặc không thu hồi được, kinh doanh không có lãi.Vốn đầu tư lớn đến đâu cũng chỉ phục vụ trong một phạm vi lưu vực tưới nhất định, mang tính hệ thống.
_ Các công trình thuỷ nông đều được xây dựng theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nguồn vốn lấy từ ngân sách Nhà nước, vốn vay, vốn địa phương hoặc trích từ thuỷ lợi phí của các CTKTCTTN và nhân dân đóng góp,... Công trình được hoàn thành sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao trong một thời gian dài nếu khai thác và quản lý tốt
+ Đặc điểm kỹ thuật:
_ Các công trình thi công kéo dài, nằm dải rác trên diện rộng, chịu sự tác động của thiên nhiên và con người.
_ Đảm bảo hệ số tưới mặt ruộng như đã xác định trong quy hoạch, cung cấp nước và thoát nước khi cần.
_ Hệ số lợi dụng kênh mương lấy tương ứng với tình trạng đất của khu vực theo quy phạm thiết kế kênh tưới.
_ Kênh mương cứng hóa đáy bằng bê tông, thành xây gạch, mặt kênh có thể hình thang hoặc hình chữ nhật.
* Đặc điểm khai thác và sử dụng:
_ Khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông cần phải có sự kết hợp giữa những hộ đang dùng nước với những người quản lý để đảm bảo tưới tiêu chủ động. Các hộ có trách nhiệm bảo vệ giữ gìn, tránh tình trạng “cha chung không ai khóc”. Mỗi người dân phải có ý thức hơn và cũng có đơn vị quản lý thường xuyên kiểm tra, bảo dưỡng và bảo vệ các công trình thuỷ nông được tốt hơn.
_ Khai thác và quản lý các công trình thuỷ nông tốt sẽ nâng cao được hệ số sử dụng nước hữu ích, giảm bớt lượng nước rò rỉ, thẩm lậu, nâng cao tính bền vững của hệ thống, giảm bớt chi phí tu sửa. Mặt khác, khai thác và quản lý tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch dùng nước, thực hiện chế độ và kỹ thuật tưới phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của nông nghiệp, ngăn ngừa được hiện tượng đất bị lầy hoá, tái mặn hoặc bị rửa trôi do tình trạng sử dụng nước bừa bãi gây nên.
2.2.2.1 Khái niệm và nội dung hiệu quả kinh tế.
Trước kia, hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu đánh giá riêng biệt không mang tính bao trùm về nội dung nghiên cứu rộng rãi như hiện nay. Hiệu quả kinh tế chỉ là thuần tuý so sánh sự tương quan giữa chi phí bỏ ra và kết quả kinh tế đơn thuần như sản phẩm, lãi thu được,.... Trong khi đó tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả về mặt xã hội của một quá trình sản xuất hay một dự án đầu tư (như: giải quyết công ăn việc làm, bảo vệ môi trường sinh thái,....) lại bị tách rời và tồn tại độc lập so với hiệu quả kinh tế.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu con người ngày càng tăng làm cho lực tự nhiên dần trở nên khan hiếm, tính xã hội được đề cao nên cơ sở để phát triển một cách bền vững chung cho toàn xã hội đòi hỏi phải có sự gắn kết giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội và môi trường. Vì vậy, khi nói đến hiệu quả kinh tế là nói đến hiệu quả xã hội và môi trường.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế mà trong đó đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều được tính đến khi xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt một trong hai yếu tố hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả phân bổ mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để đạt hiệu quả kinh tế. Chỉ khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế [6].
_ Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được dựa trên một đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào nông nghiệp [6].
_ Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu hiệu quả trong đó các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị thu thêm trên một đồng chi phí chi thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của đầu vào và giá của đầu ra. Vì thế nó còn được gọi là hiệu quả về giá [6].
Khi tiến hành phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông cũng chính là phân tích, đánh giá đồng thời cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ mà các công trình mang lại cho huyện, xã và các hộ nông dân.
2.2.2.2 Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế.
* Hiệu quả = Kết quả/ Chi phí. Hay H= (I).
Trong đó: H:Hiệu quả kinh tế.
Q: Kết quả
C: Chi phí
Chỉ tiêu này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, giúp so sánh được hiệu quả giữa các qui mô sản xuất khác nhau. Song chỉ tiêu này không phản ánh được qui mô hiệu quả.
* Hiệu quả kinh tế được xác định bằng chênh lệch giữa kết quả và chi phí hay H= Q- C (II).
Chỉ tiêu này phản ánh được qui mô hiệu quả kinh tế, nhưng giá phải trả cho qui mô hiệu quả này là không rõ ràng.
Vì vậy để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong việc phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế người ta sử dụng kết hợp cả hai công thức (I) và (II).
Một phương pháp khác để xác định hiệu quả kinh tế đó lầ sự so sánh phần tăng thêm của kết quả thu được với phần tăng thêm của chi phí bỏ ra.
Hay: H =
H = DQ-DC
Trong đó: DQ là phần tăng lên của kết quả sản xuất hay là độ biến động của kết quả sản xuất.
DC là phần tăng lên của chi phí sản xuất haylà độ biến động của chi phí sản xuất.
Hiệu quả kinh tế tính theo phương pháp này vừa phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, vừa phản ánh qui mô hiệu quả. Ưu thế của phương pháp này là đánh giá được hiệu quả của đầu tư theo chiều sâu, hạn chế là không xem xét đến hiệu quả kinh tế của tổng chi phí bỏ ra.
Từ các công thức, định nghĩa, quan điểm trên về hiệu quả kinh tế chúng ta rút ra được:
Q- C đ Max: Biểu thị trị số tuyệt của hiệu quả.
Q/C đ Max: Biểu thị số tương đối của hiệu quả.
C/Q đ Min: Biểu thị trọng chi phí cần thiết để có một đơn vị kết quả hay gọi là hiệu suất tiêu hao, hiệu suất chi phí.
Để đề tài được đánh giá, phân tích chính xác và cụ thể chúng tôi sử dụng một số chỉ tiêu kết quả dùng làm cơ sở xây dựng hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đó là [7]:
_ Giá trị sản xuất(GO): Là giá trị tính bằng tiền của các sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Trong nông nghiệp giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị của các loại sản phẩm trên một đơn vị diện tích trong một vụ hay một chu kỳ sản xuất.
_ Chi phí trung gian(IC): Là toàn bộ các loại chi phí vật chất( trừ khấu hao TSCĐ) và dịch vụ sản xuất.
_ Giá trị gia tăng(VA): Là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ do các ngành sản xuất sáng tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất: VA = GO- IC
_ Thu nhập hỗn hợp(MI): Là phần thu nhập thuần tuý của người sản xuất, bao gồm phần trả công lao động và phần lợi nhuận mà họ có thể nhận được trong chu kỳ sản xuất: MI được xác định:
MI=VA-(A+T).
Trong đó: MI: Thu nhập hỗn hợp.
A : Khấu hao TSCĐ
T : Thuế
Nếu trường hợp thuê lao động thì còn phải trừ đi các khoản thuê mướn đó.Thu nhập hỗn hợp là phần đảm bảo cho đời sống, tích luỹ của người sản xuất(ở đây là hộ nông dân).
_ Lợi nhuận(LN): Là phần lãi ròng trong thu nhập hỗn hợp.
LN=MI-L*P2
Trong đó: L:Số công lao động bỏ ra để tiến 0hành sản xuất.
P2: Đơn giá ngày công lao động ở địa phương.
2.2.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông.
Tổng sản lượng thu được
_ Năng suất bình quân =
Tổng diện tích gieo trồng
_ Diện tích gieo trồng tăng.
_ Hao phí nước tưới giảm.
_ Hệ số sử dụng ruộng đất tăng.
_ Diện tích đất làm thuỷ lợi giảm.
_ Thời gian dẫn nước giảm.
_ Giá trị sản xuất trên diện tích gieo trồng tăng.
_ Giá trị gia tăng trên diện tích gieo trồng tăng.
_ Chi phí ttrung gian trên diện tích gieo trồng giảm.
_ Thu nhập hỗn hợp,thu nhập trên diện tích gieo trồng tăng.
_ GO/IC, VA/IC, MI/IC, LN/IC, IC/GO,....
* Ngoài ra, còn các chỉ tiêu hiệu quả xã hội.
_ Nâng cao mức sống của người dân.
_ Góp phần xoá đói giảm nghèo.
_ Giải quyết công ăn việc làm.
_ Giảm các tranh chấp về nước giữa các hộ dân.
_ Bảo vệ môi trường sinh thái,....
2.3 Tình hình thực tiễn về phát triển thuỷ lợi-thuỷ nông trên thế giới và Việt Nam.
2.3.1 Kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực về xây dựng, khai thác và quản lý hệ thống thuỷ lợi - thuỷ nông.
Phát triển cơ sở hạ tầng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới rất chú trọng đến cơ sở hạ tầng. Và thuỷ lợi - thuỷ nông là một trong những ưu tiên hàng đầu, thu hút vốn đầu tư lớn.
Các nước trong khu vực như:Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia,... đều có chính sách đầu tư mạnh cho phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong đó hệ thống cơ sở hạ tầng trực tiếp cho nông nghiệp là thuỷ lợi thuỷ nông được đầu tư rất cao.
ở Inđônêxia, Thái Lan thuỷ lợi được coi là biện pháp số một trong việc phát triển nông nghiệp. Hiện nay ở Thái Lan, thuỷ lợi được đầu tư tới 5 tỷ USD, Inđônêxia là 4 tỷ USD bằng ngân sách nhà nước cấp, chính phủ đứng ra quy hoạch và đầu tư trực tiếp.
Nhật Bản là một quốc gia đạt trình độ thuỷ lợi hoá trong nông nghiệp ở mức độ cao trên thế giới, 63% diện tích đất canh tác của nhật đã được tưới tiêu theo khoa học kỹ thuật cao. Mức thu thuỷ lợi phí bù đắp được 100% chi phí bảo dưỡng và 20 - 40% vốn xây dựng ban đầu.
Malaixia có nền nông nghiệp phát triển nhờ các hệ thống thuỷ nông tốt. Chính phủ đầu tư 100% vốn đầu tư xây dựng ban đầu. Các hộ nông dân dùng nước chỉ phải trả 50% các chi phí khai thác và bảo dưỡng công trình. Vì vậy năm 1983 gần như tất cả các nông trại trồng lúa ở nước này đều được tưới tiêu chủ động.
ở Trung Quốc, các dự án tưới đã làm cho một số vùng đất hoang hoá biến thành đất trồng trọt màu mỡ cho năng suất cao. ở lưu vực sông Hoàng Hà đã chế ngự được úng lụt và duy trì cung cấp nước cho canh tác trong thời kỳ khô hạn. Năng suất lúa mỳ ở một số vùng vượt quá 5 tấn/ha(được tưới tiêu) so với năng suất 1,1tấn/ha (không được tưới tiêu)[8]. Như vậy, thủy lợi có ảnh hưởng tích cực đến tăng năng suất cây trồng.
Hiện nay, chiến lược phát triển thuỷ lợi - thuỷ nông của các nước trong khu vực là đầu tư theo chiều sâu, giảm xây dựng những công trình có quy mô lớn, phát huy hiệu quả các công trình hiện có. Mức độ đầu tư bình quân vào thuỷ lợi của các nước trong khu vực từ 3000 USD đến 4000 USD/ha, các công trình được đâu tư khá đồng bộ từ công trình đầu mối xuống[9]. ở các nước phát triển mức độ đâu tư rất cao khoảng 10000USD/ha[9]. Các công trình thuỷ lợi không những chỉ vững chắc về kỹ thuật mà còn mang tính mỹ thuật, kiến trúc hiện đại.
* Bài học kinh nghiệm.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy việc thu thuỷ lợi phí là một công việc khó khăn, phức tạp. Bởi vì đặc thù của hệ thống thuỷ nông là không kiểm soát được chính xác toàn bộ hoặc từng phần nước sử dụng trong mỗi nông trại. Hơn nữa, công trình thuỷ lợi không những chỉ phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp mà còn đáp ứng nhu cầu sản xuất phi nông nghiệp và sinh hoạt của các thành phố, các khu vực đô thị, song người tiêu dùng ở các khu vực này lại không phải trả tiền. Do đó khó xác định phần mà người nông dân phải trả do được hưởng lợi từ các công trình thuỷ lợi. Trước những khó khăn đó hầu hết các chính phủ đều lựa chọn chính sách từ bỏ thu thuỷ lợi phí và khuyến khích rộng rãi nông dân; những người sản xuất nông nghiệp tự làm thuỷ lợi. Riêng đối với những công trình thuỷ lợi lớn đã được xây dựng nhiều nhà kinh tế cho rằng: duy trì mức thu, đảm bảo đủ kinh phí khai thác và vận hành công trình là hợp lý hơn cả, còn chi phí sửa chữa, nâng cấp công trình sẽ do chính phủ gánh chịu.
2.3.2 Lịch sử phát triển của thuỷ nông và nhiệm vụ công tác thuỷ nông Việt Nam.
Từ lâu, nhân dân ta đã đắp bờ giữ nước, đào giếng, khơi mương lấy nước tưới ruộng. Thế kỷ thứ 10 (năm 938) nhân dân Thanh Hoá đã đào sông Đồng Cỏ; Thái Hoà; dưới triều Lý Thái Tôn đào sông Đan Nãi. Thời Trần Thái Tông (năm 1231) đào sông Hào và sông Trầm. Năm 1390, đào sôngThiên Đức (sông Đuống ngày nay).
Từ khi xã hội phong kiến, nước ta bước vào thời kỳ suy tàn, các công trình thuỷ nông ít được xây dựng, hạn hán; lũ lụt xảy ra thường xuyên.
Thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng xây dựng được 10 công trình thuỷ nông.Và trong quá trình xâm lược chúng lại ném bom vào các hệ thống thuỷ nông quan trọng của ta như: hệ thống thuỷ nông sông Chu, sông Cầu hòng phá hoá sản xuất làm kiệt quệ kinh tế hậu phương của ta.
Địch phá hoại hệ thống thuỷ nông lớn nhân dân ta tích cực đào giếng, trữ nước ao hồ làm thuỷ nông nhỏ tưới ruộng đảm bảo sản xuất cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm cho tiền tuyến. Hoà bình lặp lại(1954) dưới sự lãnh đạo của Đảng các công trình thuỷ thuỷ nông được phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1957,các công trình thuỷ nông dược sửa chữa có thể tưới cho 27 vạn hécta ruộng đất góp phần phục hồi sản xuất nông nghiệp.
Trong 3 năm phát triển kinh tế (1958-1960), chúng ta đã xây dựng được công trình đầu mối của hệ thống đại thuỷ nông Bắc - Hưng- Hải có thể tưới cho khoảng 54.000 ha và xây dựng một số trạm bơm loại vừa như; Thuỵ Phương, Gia Thượng Hà Nội, tây và nam Nghệ An,...
Dưới ánh sáng nghị quyết đại hội Đảng III, Nhà nước và nhân đân đã tăng đầu tư vốn và sức lực vào xây dựng thêm nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi - thuỷ nông, năm 1964 -1965 đã động viên đông đảo quần chúng xây dựng mạng lưới công trình tưới tiêu rộng khắp trên đồng ruộng.
Thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, chúng ta tích cực bảo vệ các công trình hiện có, đồng thời xây dựng những công trình mới như: hồ chứa nước Cam Sơn, Đồng Mô, các trạm bơm tiêu úng lớn Cốc Thành, ...
Trong thời kỳ này, Nhà nước đã đầu tư số tiền lớn cùng với sức lao động sáng tạo của đông đảo nhân dân, chúng ta đã xây dựng được hơn 56 hệ thống công trình thuỷ nông loại lớn, hàng nghìn công trình loại vừa và hàng vạn công trình thuỷ nông loại nhỏ. Đã hình thành mạng lưới công trình thuỷ nông có thể tưới cho hơn 1triệu hécta ruộng đất, chống úng cho hơn 30 vạn hécta lúa rau màu và cây công nghiệp.
Thời kỳ 1975 đến nay, Đảng và Nhà nước luôn coi hoàn thiện hệ thống thuỷ nông là nhiệm vụ cấp bách. Những năm 90, nước ta đã có một số cơ sở vật chất về thuỷ lợi khá mạnh có năng lực hạn chế bớt phần nào hạn hán, úng lụt đối với sản xuất nông nghiệp. Nhờ đầu tư cao nên đã mở rộng được diện tích lúa Đông Xuân, Hè Thu và diện tích được tưới tiêu chủ động tăng lên đáng kể. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp & PTNT thì diện tích lúa Đông Xuân được tưới từ 2.074.000 ha (năm 1991) lên 2.408.000 ha (năm 1995) tăng 16% hay tăng 334.000 ha và diện tích lúa Hè Thu được tiêu úng từ 2.041.000 ha (năm1991) lên 2.410.000 ha (năm 1995) tăng 18% hay tăng 369.000 ha.
Ngày 18 tháng 07 năm 1996, Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ra chỉ thị số 12 NN-CS/CT về việc “ Tổ chức triển khai KCH- KM thuỷ lợi nội đồng”. Rất nhiều tỉnh thành trong cả nước đã ủng hộ kế hoạch KCH- KM như: Thanh Hoá, Hà Tây, Hà Nội, Phú Thọ, Hưng Yên,... cho tới nay rất nhiều công trình thuỷ lợi - thuỷ nông đã được KCH đưa vào sử dụng và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện chủ trương chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước thì công tác thuỷ lợi - thuỷ nông là biện pháp hàng đầu thúc đẩy nông nghiệp pấat triển. Thuỷ lợi - thuỷ nông phải đảm bảo tưới tiêu nước chủ động, góp phần tích cực vào việc tăng vụ, tăng năng suất cây trồng và cải tạo đất. Để thực hiện yêu cầu nói trên công tác thuỷ nông có các nhiệm vụ sau đây:
_ Tiếp tục hoàn thiện các công trình thuỷ nông, đảm bảo nước thông suốt từ công trình đầu mối đến mặt ruộng. Xây dựng những công trình mới trên cơ sở quy hoạch sản xuất, thuỷ nông cho các vùng chuyên canh và các nông trại lớn theo hướng quy mô sản xuất lớn XHCN.
_ Nâng cao chất lượng quản lý và khai thác hệ thống thuỷ nông. Đưa công tác sử dụng nước có kế hoạch vào nề nếp, đáp ứng yêu cầu thâm canh tăng vụ, cải tạo đất. Nâng cao hệ số sử dụng nước hữu ích trong đơn vị sản xuất và hệ thống tưới tiêu giảm chi phí nước tưới; góp phần hạ giá thành sản phẩm.
_ Sử dụng nước cải tạo đất mặn, chua mặn, lầy thụt, chống sói mòn bằng biện pháp thuỷ nông để bảo vệ đất đồi núi.
2.4 Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, địa phương về phát triển thuỷ lợi - thuỷ nông.
Mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta giai đoạn 2001-2005 được xác định rõ tại đại hội lần thứ IX của Đảng: “ Giá tri sản xuất nông lâm ngư nghiệp của cả nước tăng bình quân 4%/năm. Đến năm 2005, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp chiếm 75-76% giá trị sản xuất toàn ngành nông lâm ngư nghiệp, trong đó trồng trọt 54-57%, chăn nuôi 15-16%, dịch vụ nông nghiệp 2 - 3%; lâm nghiệp chiếm khoảng 5 - 6%; thuỷ sản chiếm khoảng 19 - 20%. Phấn đấu đến năm 2005, đưa năng lực tưới lên trên 6,5 ha gieo trồng lúa và 1,5 triệu ha rau màu, cây công nghiệp”.
Để thực hiện được mục tiêu đó Đảng và nhà nước đã và đang có rất nhiều chính sách để quyết tâm đạt được mục tiêu của đại hội.
Đối với thuỷ lợi - thuỷ nông Đảng và nhà nước có chủ trương “ phát triển mạng lưới thuỷ lợi, bảo đảm thâm canh, tăng vụ và khai thác các vùng đất mới. Hoàn thành xây dựng các công trình thuỷ lợi kết hợp với phòng tránh lũ ở miền trung như hệ thống thuỷ lợi sông Chu, thuỷ lợi An Mã (Quảng Bình), Thuỷ điện; thuỷ lợi Rào Quán ( Quảng Trị), hồ Tả Trạch (Thừa Thiên Huế), Định Bình ( Bình Định). Xây dựng và củng cố hệ thống các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản và thực hiện chương trình KCH - KM” [10].
Và dựa trên một số chính sách thuỷ lợi - thuỷ nông hiện có:
_ Nghị định của HĐBT NĐ- 122/HĐBT ( 1984) đã ban hành về qui định về mức thu thuỷ lợi phí.
_ Pháp lệnh về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
_ Chỉ thị số 12 NN - CS/NT ngày 18 tháng 7 năm 1996 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn về việc “ tổ chức triển khai kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi nội đồng”.
_ Quyết định 08/1999 NQ- CT ngày 9 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về việc thực hiện KCHKM nhằm tiết kiệm nước; đất; điện năng; công lao động,...
Được sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước, Đảng uỷ - UBND tỉnh Phú Thọ trong những năm qua luôn ưu tiên đầu tư các công trình đầu mối, thủy lợi vùng đồi, KCH - KM và xác đinh các XNKTCT thủy nông là một đơn vị công ích. Đảng uỷ và UBND tỉnh đã có các công văn, văn bản về phát triển thuỷ lợi - thuỷ nông của tỉnh:
_ Văn bản số 1874/HC ngày 10 tháng 9 năm 1999 cảu UBND tỉnh về việc lập dự án KCH- KM giai đoạn 2.
_ Văn bản số 14/KTN- KH ngày 7 tháng 1 năm 2002 của UBND tỉnh Phú Thọ- Sở kế hoạch và đầu tư về việc “lập kế hoạch chương trình KCH- KM đợt hai của tỉnh”.
Phần III
Đặc điểm địa bàn
và phương pháp nghiên cứu
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu.
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên.
3.1.1.1 Vị trí địa lý.
Huyện Thanh Thuỷ nằm ở phía Đông Nam tỉnh Phú Thọ, từ 21010’ đến 21024’ độ vĩ Bắc, 105009’ đến 105020’ độ kinh Đông. Trung tâm huyện là thị trấn La Phù, cách thành phố Việt Trì 40 km đường bộ theo quốc lộ 2, quốc lộ 32A và tỉnh lộ 317.
*Vị trí huyện Thanh Thuỷ.
+ Phía Bắc giáp huyện Tam Nông.
+ Phía Đông Bắc và phía Đông Nam giáp tỉnh Hà Tây, ranh giới tự nhiên là sông Đà.
+ Phía Tây Nam giáp huyện Thanh Sơn, ranh giới tự nhiên là dãy núi Thành Tiểu, Mỏ Ngọt và Yến Mao.
Huyện Thanh Thuỷ có 15 xã, tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 12382,47 ha (123.82 km2).
Huyện Thanh Thuỷ do nằm gần đỉnh tam giác đồng bằng Bắc Bộ, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng và miền núi, trước đây được là huyện trung du đất giữa, ngày nay được xác định là huyện miền núi phía Bắc.
Với vị trí địa lý như vậy, huyện có những lợi thế về thu gom, tiêu thụ sản phẩm và hàng hoá. Và huyện cũng có những thuận lợi trong tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất công nghiệp, nông lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các lĩnh vực khác so với nhiều huyện miền nui xa.
Tuy nhiên, do vị trí địa lý của huyện nằm ở vùng tiếp giáp giữa miền núi và đồng bằng, nên địa hình bị chia cắt mạnh mẽ và phức tạp, nếu sử dụng đất không hợp lý thì độ phì nhiêu sẽ giảm hoặc tàng kiệt, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sản xuất của đất. Và thuỷ lợi - thuỷ nông tốt chính là giải quyết được phần nào những hạn chế này.
3.1.1.2. Địa hình.
Do đặc điểm huyện Thanh Thuỷ dài và hẹp, một phía giáp sông, ba phía được bao bọc bởi núi cao, địa hình phức tạp, tiêu biểu của vùng đất bán sơn địa: dốc; bậc thang và lòng chảo.
_ Địa hình dốc của huyện Thanh Thuỷ được thể hiện ở hai dạng sau:
+ Dạng 1 dốc theo thế đất: ở dạng này huện Thanh Thuỷ có địa hình thấp dần từ Tây san Đông và địa hình cao dần về phía Nam.
+ Dạng 2 là dạng dốc của sườn đồi: do đặc điểm của huyện Thanh Thuỷ, vừa là dãy các núi cuối cùng của hệ thống Hoàng Liên Sơn, vừa chịu ảnh hưởng của quá trình biến chất phức tạp, phân lớn đồi cao và dốc.
_ Địa hình bậc thang là điển hình của vùng đất bán sơn địa, ở đây có đầy đủ các loại đất ruộng bậc thang xếp thứ tự từ cao xuống thấp là:đất dốc tụ ở các khe đồi, đất bậc thang phù sa cổ, đát phù sa cũ và phù sa mới ở các xã ven sông tương đối bằng phẳng.
_ Địa hình lòng chảo cũng tương đối là phổ biến và tập trung chủ yếu ở các xã La Phù, Bảo Yên và Đoan Hạ.
Với đặc điểm địa hình khó khăn như vậy, huyên Thanh Thuỷ có thuận lợi về tiêu thoát úng, nhưng lại khó khăn cho việc xây dựng và khai thác các công trình thuỷ nông và các công trình khác của huyện.
3.1.1.3 Thời tiết khí hậu.
Huyện Thanh Thuỷ mang đặc điểm chung khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm chia làm bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông.
Theo số liệu quan sát của trạm khí tượng thuỷ văn La Phù thì nhiệt độ trung bình ngày của huyện là 23,120C, số giờ nắng trung bình năm là 1553 giờ, số ngày mưa trung bình năm là125 ngày, lượng mưa trung bình năm là 1719 mm và tổng tích ôn trung bình năm là 8436 0C.
Bảng I. Một số yếu tố khí tượng trung bình của huyện
Thanh Thuỷ.
Chỉ tiêu
Tháng trong năm
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Cả năm
Nhiệt độ 0C
16,3
17
19,8
23,6
27
28,3
28,2
27,8
26,7
24,2
21
17,7
21,12
Nắng(giờ)
86
48
43
87
177
140
192
185
188
172
131
104
1553
L.Mưa(mm)
27
41
52
100
187
248
292
346
218
137
44
27
1719
Bốc hơi(mm)
47,3
47,5
46,7
58,2
85,9
78,3
87,5
66,8
72,2
34,5
54,1
62,0
791
N.mưa(mm)
7
9
10
11
14
13
15
14
12
7
7
6
125
Độ ẩm(%)
87
87
89
87
85
87
85
89
88
85
88
85
87
T.tích ôn 0C
505
484
613
708
810
849
874
861
801
750
630
548
8436
Nguồn số liệu: Trạm khí tượng thuỷ văn La Phù - Phú Thọ.
Ngoài những đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc thì vùng cũng có một số đặc điểm riêng về khí hậu, đó là: trong một năm chia làm 2 mùa rõ rệt:
Mùa nóng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10 nhiệt độ tương đối cao trung bình 26,50C. Đặc điểm mùa này là mưa nhiều với lượng mưa trung bình tháng là 218,2mm, gió thịnh hành là gió đông nam.
Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 năm sau.Đặc điểm mùa này là do chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên khí hậu ẩm ướt, trời lạnh (nhiệt độ trung bình 18,4 0C ), xuất hiện mưa muối và mưa chì.
Với điều kiện khí hậu trên ảnh hưởng hai mặt tới việc sử dụng đất và sản xuất nông nghiệp của huyện.
ảnh hưởng tích cực ở Thanh Thuỷ có nhiệt độ thích hợp, lượng mưa khá, tổng tích ôn dồi dào thuận lợi cho việc phát triển nông lâm nghiệp nhiều vụ, nhiều loại cây trồng trong một năm. Điều kiện khí hậu thuận lợi đất đai sẽ được khai thác tốt, hiệu quả sử dụng đất ngày càng được nâng cao.
ảnh hưởng tiêu cực của điều kiện khí hậu ở Thanh Thuỷ là do chế độ nhiệt, lượng mưa phân bố không đều trong năm; đặc biệt là mưa lớn tập trung vào tháng 6,8,7,8,9 thường gây ra xói mòn, rửa trôi rất mạnh đối với đất đồi, lũ và ngập úng đối với đồng ruộng. Ngược lại mưa ít trong các tháng 11,12,1 và 2 gây ra hạn hán cho cây trồng vụ đông xuân và làm tăng quá trình đá ong hoá của đất đồi.
Để khắc phục những hạn chế và kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển thì việc khai thác có hiệu quả các công trình thuỷ nông là một nhu cầu thiết yếu trong quá trình sản xuất nông nghiệp của huyện.
3.1.1.4 Thuỷ văn.
Huyện Thanh Thuỷ có sông Đà chảy qua. Tổng chiều dài sông Đà chảy qua huyện là 35 km, chiều rộng trung bình là 700 m.Theo kết quả đo đạc lượng nước chảy của sông Đà qua huyện Thanh Thuỷ hàng năm là rất lớn các tháng mùa mưa là khoảng 2004 m3/giây, mùa khô khoảng 220 m3/giây.
Sông Đà góp phần bồi đắp chủ yếu đồng ruộng các xã Tu Vũ, Yến Mao, Phượng Mao, Đồng Luận, Đoan Hạ, Bảo Yên,.... Đây cũng là con sông đảm nhận tưới tiêu nước chủ yếu cho 15 xã của huyện Thanh Thuỷ.
3.1.1.5. Đặc điểm tập quán sản xuất.
Do dân số huyện chủ yếu là nông dân nên trong đời sống hàng ngày của nhân dân huyện Thanh Thuỷ thể hiện rõ rệt những đặc tính chung của nông dân Việt Nam là cần cù, giản dị, chịu thương, chịu khó, hay làm có ý thức cộng đồng cao và mang nặng tình làng nghĩa xóm. Bên cạnh những đức tính tốt cũng thể hiện những cố tật của nông dân như tự do, bảo thủ, chậm tiếp thu KHKT. Chính những tồn tại này gây cản trở đến việc khai thác các công trình thuỷ nông có hiệu quả kinh tế.
Dân số huyện thuần nông là chủ yếu, sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính tự cấp, tự túc. Những năm gần đây nhờ tiếp xúc với những tiến bộ KHKT mới như giống vật nuôi, cây trồng, thuốc BVTV, các máy móc thiết bị hiện đại. Những tập quán canh tác lạc hậu cũ dần dần được loại bỏ, các biện pháp thâm canh tiên tiến dần dần được áp dụng góp phần đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, từng bước hoà nhập với cơ chế thị trường.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Thanh Thuỷ.
3.1.2.1.Tình hình sử dụng đất đai.
Đất đai là yếu tố không thể thiếu đối với sản xuất nông nghiệp cũng như tất cả các ngành kinh tế khác. Đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là đối tượng sản xuất. Do đó, việc sử dụng đất đai hợp lý đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ riêng với huyện Thanh Thuỷ mà đối với cả nước nói chung hiện tại và tương lai.
Đất đai của huyện Thanh Thuỷ tương đối phong phú và đặc điểm dạng bao gồm hầu hết các loại đất: đồi núi, đất ruộng, đất bãi, hồ đầm, và sông ngòi. Các loại đất này được phân bố gần như đều khắp ở các xã từ đầu huyện đến cuối huyện góp phần tạo ưu thế riêng cho từng xã. Do vậy, cây trồng của huyện Thanh Thuỷ cũng có nhiều loại khác nhau. Trên đồi ngoài các loại cây rừng còn có các loại cây lâm nghiệp như: lim, mỡ, bạch đàn, thông,... Các loại cây công nghiệp dài ngày như: chè, dứa,.... Dưới ruộng là :lúa, ngô, lạc, đậu, rau,...
Đất đai huyện Thanh Thuỷ mặc dù là một vùng đất cổ, nhưng do lợi thế là nhiều diện tích đất đồi núi mới khai thác, nhiều diện tích đất đồng ruộng được phù sa bồi đắp hàng năm, chất lượng một số loại đất chính của huyện còn khá tốt. Đây là những tiền đề góp phần làm tăng năng suất các cây trồng trong những năm gần đây.
Qua biểu 1 ta thấy, toàn huyện Thanh Thuỷ với 14 xã và 1 thị trấn có tổng diện tích đất tự nhiên là 12.382,47 ha, trong đó: đất nông nghiệp là 5.048,14 ha chiếm 40,77% năm 2001.
Qua 3 năm sử dụng, đất dùng cho sản xuất nông nghiệp có tăng nhưng mức độ tăng không đáng kể, bình quân mỗi năm tăng 0,78%/Năm. Trong đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm diện tích lớn nhất 3.775,36 ha; chiếm 75,96% tổng diện tích đất nông nghiệp năm 1999. Đất trồng cây hàng năm của huyện có xu hướng ngày càng giảm qua3 năm sử dụng ; giảm bình quân 2,12%/năm. Lý do của diện tích đất canh tác giảm là do quá trình xây dựng các cở hạ tầng của huyện trong 3 năm qua đã phải lấy một phần diện tích đất canh tác. Và diện tích đất canh tác của huyện trong những năm tới do sự chuyển đổi các loại đất sang phục vụ mục tiêu khác của huyện. Qua biểu ta thấy, diện tích cây hàng năm huyện Thanh Thuỷ tăng khá nhanh, năm 2000 so với năm 1999 tăng 46,77% (9,4 ha); năm 2001 so với năm 2000 tăng 296,69% (86,64 ha) và bình quân 3 năm tăng 140,37%/năm. Diện tích đất trồng cây hang năm tăng nhanh là do huyện đang triển khai dự án trên toàn huyện và diện tích trống chè được lấy từ những quả đồi trọc của các xã: Phượng Mao,Trung Nghĩa, Yến Mao, Hoàng Xá, Đào Xá. Và diện tích này đến năm 2005 sẽ là 500 ha theo kế hoạch và dự án đề ra.
Với sự phát triển mạnh của huyện những năm qua và những năm tiếp theo khi mà các dự án của huyện được đưa vào thực hiện hết (dự án chè, dự án nuôi trồng thuỷ sản) thì các công trình thuỷ nông ngoài việc phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp của huyện, còn phải phục cho các dự án của huyện. Vì vậy đây chính là một khó khăn đòi hỏi khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông phải hợp lý để phát huy hết khả năng của công trình và phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp của huyện.
Thanh Thuỷ là một huyện mới được tách ra từ huyện Tam Thanh cũ nên cơ sở vật chất còn thiếu thốn rất nhiều. Vì vậy những năm qua trên địa bàn toàn huyện đã được đầu tư xây dựng rât nhiều công trình, từ đó làm cho quỹ đất chuyên dùng của huyện ngày càng tăng với tốc độ tăng bình quân 15,03%/năm. Hơn nữa, Thanh Thuỷ được xác định là vùng chậm lũ của quốc gia nên trong những năm tới quỹ đất chuyên dùng và quỹ đất cho thuỷ lợi còn tăng lên, đây cũng chính là nguyên nhân làm cho quỹ đất canh tác của huyện giảm.
Ngoài ra trên địa bàn huyện, diện tích đất canh tác còn khá lớn chiếm 35,71% (4.421,1 ha) năm 1999, 3% (4.209,96 ha) năm 2000 và 32,92% (4.076,74 ha) năm 2001. Diện tích này những năm qua tuy có giảm nhưng không đáng kể, trung bình một năm giảm 3,97%/năm. Diện tích đất chưa sử dụng này chủ yếu là các núi đá vôi, đồi trọc, và sông suối rất có lợi cho phát triển lâm nghiệp, Khai thác đá vảtồn cây công nghiệp dài ngày.Do quỹ đất cho nông nghiệp ngày càng tăng dẫn đến mức đất nông nghiệp bình quân hộ nông nghiệp cũng tăng lên trung bình 0,58%/năm. Và diện tích đất canh tác ngày càng giảm dẫn tới mức đất canh tác bình quân khẩu nông nghiệp ngày càng giảm, trung bình 2,31%/năm.
Qua sự giảm sút và tăng lên của các loại đất cho thấy tình hình sử dụng đất đai của huyên Thanh Thuỷ có rất nhiều biến động do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Diện tích đất chuyên dùng ngày càng tăng, đặc biệt là đất thuỷ lợi cho thấy những năm qua huyện rất quan tâm đến phát triển thuỷ lợi - thuỷ nông.
Tóm lại, đất đai huyện Thanh Thuỷ còn nhiều tiềm năng lớn về khai hoang, tăng vụ, thâm canh tăng năng suất cây trồng nếu như công tác thuỷ lợi - thuỷ nông phục vụ tốt cho việc tưới tiêu của huyện. Công tác quản lý mặt bằng và chất lượng đất trong những năm qua từng bước được làm tốt đã góp phần khai thác sử dụng các loại đất đúng mục đích, tiết kiệm đất và có hiệu quả cao.
3.1.2.2. Tình hình dân số và lao động của huyện Thanh Thuỷ.
Cùng với đất đai thì nguồn lực con người là một trong những điều kiện không thể thiếu trong bất cứ sự phát triển nào. Dân số nhiều khi có tác động tích cực đến quá trình phát triển, nhưng nhiều lúc hạn chế quá trình phát triển.
Huyện Thanh Thuỷ với dân số năm 2001 là 74.817 người tương ứng với 16.497 hộ. Trong đó hộ nông nghiệp, khẩu nông nghiệp lần lượt chiếm 94,59% (15.604 hộ) và 94,59% (70.772 người). Qua số nhân khẩu và hộ nông nghiệp cho thấy, Thanh Thuỷ là một huyện thuần nông, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Qua biểu 2 ta thấy số hộ phi nông nghiệp qua các năm là quá nhỏ bé, tuy rằng mỗi năm số hộ này có tăng lên nhưng với tỷ lệ không cao, trung bình mỗi năm là 10,98%; năm 1999 chiếm 4,43% (725 hộ) đến năm 2001 chiếm 5,41% (893 hộ).
Thực hiện chủ trương sinh để có kế hoạch của Đảng và Nhà nước, Thanh Thuỷ mặc dù là một huyện miền núi nhưng nhận thức của người dân về sinh đẻ có kế hoạch là rất cao, số gia đình sinh con thứ ba giảm xuống, nhiều xã nhiều năm liền không có gia đình nào sinh con thứ ba như: Trung Nghĩa, Đồng Luận, La Phù. Tỷ lệ nhân khẩu nông nghiệp có xu hướng giảm xuống nhưng rất chậm, năm 2000 chiếm 94,95% đến năm 2001 chiếm 94,59%. Sự dịch chuyển nhân khẩu và lao động nông nghiệp của huyện sang các ngành phi nông nghiệp có xu hướng tăng lên; hộ phi nông nghiệp năm 1999 là725 hộ và lao động phi nông nghiệp là 1.599 người (chiếm 4,42%) thì đến năm 2001 số hộ phi nông nghiệp là 893 hộ (5,41%) và lao động phi nông nghiệp là 1.929 người ( chiếm 5,4%). Sự chuyển dịch này một mặt giải quyết việc làm cho người lao động, một mặt tăng thu nhập và quan trọng hơn là nâng cao trình độ lao động và đa dạng hoá ngành nghề cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH.
Chỉ tiêu đất canh tác bình quân một hộ nông nghiệp qua 3 năm đều giảm, do diện tích đất canh tác giảm. Vì vậy, cần khắc phục tình trạng này bằng việc áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, tăng diện tích gieo trồng, nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp nhằm giai quyết nhu cầu của người dân và tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hoá.
Chính sức ép của dân số về nhu cầu lương thực và các yêu cầu khác trong cuộc sống đòi hỏi khai thác và sử dụng công trình thuỷ nông có hiệu quả kinh tế để đáp ứng được các yêu cầu đó. Dân số của huyện chủ yếu là nông nghiệp nên trình độ thấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình vận hành và sử dụng các công trình thuỷ nông, nhưng các công trình lại phục vụ cho chính họ nên ý thức bảo vệ các công trình của họ là rất cao. Đây chính là những lợi thế và khó khăn khai thác các công trình thuỷ nông sẽ gặp phải do sức ép dân số mang lại, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết hợp lý.
3.1.2.3 Hệ thống cơ sở vậtchất chủ yếu của huyện Thanh Thuỷ .
Cơ sở vật chất kỹ thuật là những phương tiện thể hiện sự phát triển của bộ mặt nông thôn của một địa phương. Cơ sở vật chất có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất và phát triển kinh tế của mỗi vùng, mỗi địa phương.
Thanh Thuỷ là một huyện miền núi, mới tái lập nên cơ sở vật chất còn thấp kém về mọi mặt.
Hệ thống điện có liên quan trực tiếp đến quá trình vận hành và sử dụng các công trình nông thôn để lấy nước cung cấp cho đồng ruộng và thoát nước khi bị úng. Trên địa bàn huyện năm 2001 có 21 trạm hạ thế và chỉ có 12/15 xã có điện lưới quốc gia. Tại các xã không có điện lưới hiệu quả khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông không cao vì chi phí bơm nước lớn. Cũng do không có điện mà thông tin chỉ đạo sản xuất của huyện xã đối với người dân không kịp thời.
Hơn nữa, cơ sở vật chất của huyện qua biểu 3 ta thấy còn thiếu thốn rất nhiều, không đáp ứng được mục tiêu CNH-HĐH nông thôn và gây cản trở sản xuất nông nghiệp của huyện. Số máy bơm nước lưu động dùng để bơm chuyển tiếp tới những nơi mà công trình thuỷ nông không tới được chỉ có 31 máy, máy cày bừa 28 máy năm 2001. Toàn huyện có 15 hồ đập phục vụ tưới tiêu (trong đó có 2 đập tự chảy) và 21 trạm bơm.
Vì vậy trong những năm tới, huyện cần đầu tư hơn nữa để xây dựng cơ sở vật chất hiện đại hơn, đầy đủ hơn để phục vụ cho quá trình phát triển chung của toàn huyện, và mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn của quốc gia.
3.1.2.4. Tình hình phát triển kinh tế của huyện Thanh Thuỷ.
* Tình hình phát triển kinh tế.
Thanh Thuỷ là một huyện miền núi trải dài ven sông có đồi núi, đất ruộng và đất bãi thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp toàn diện. Các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua và đường thuỷ sông Đà giúp cho Thanh Thuỷ nối liền với các khu kinh tế, khu công nghiệp tạo tiền đề cho việc giao lưu hàng hoá và dịch vụ.
Nông dân lao động chăm chỉ đã đạt được nhiều kết quả trong thâm canh tăng năng suất cây trồng, bước đầu thực hiện sản xuất hàng hoá. Thanh Thuỷ cũng là địa bàn có tiềm năng về dịch vụ và du lịch. Vì vậy những năm qua kể từ khi tái lập huyện nền kinh tế của huyện đạt được những thành tựu rất to lớn.
Tốc độ phát triển kinh tế của huyện năm 2001 là 109,41% so với năm 2000. Bình quân 3 năm (1999-2001) tốc độ tăng trưởng đạt 7,4%, đây là tốc độ tăng trưởng khá cao, cũng là thành quả mà Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Thuỷ giành được kể từ khi tái lập huyện.
Qua biểu 4 ta thấy, nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của huyện. Qua 3 năm, cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp vẫn duy trì ở mức cao trên 50% tuy có chuyển dịch nhưng không đáng kể năm 1999 là 50% đến năm 2001 tăng lên 50,5%.Điều này cho thấy, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của huyện chưa phù hợp với xu thế phát triển và sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn.
Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng từ 24,4% năm 1999 lên 25,7% năm 2001, tốc độ tăng bình quân là 8,03%/năm.
Dịch vụ thương mại của huyện về giá trị tăng, với tốc độ tăng bình quân là 5,57%/năm. Nhưng cơ cấu dịch vụ - thương mại sụt giảm từ 25,6% năm 1999 xuống là 23,8% năm 2001. Điều này cho thấy dịch vụ trên địa bàn huyện chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của địa phương cũng như cho thấy huyện chưa có sự khuyến khích kịp thời để thúc đẩy dịch vụ thương mại huyện phát triển. Qua số liệu trên ta thấy, cơ cấu nông lâm thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất của huyện vẫn là chủ yếu.
Trong thời gian qua nhờ sự đổi mới về chính sách ruộng đất, cùng với chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước và việc đưa các tiến bộ KHKT vào sản xuất cộng với sự khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện có hiệu quả kinh tế cao nên đời sống nhân dân được cải thiện. Sản phẩm làm ra của nông dân được thương mại hoá tăng về số lượng, nâng cao về giá trị góp phần ổn định kinh tế xã hội trên địa bàn huyện. Đời sống của người dân ngày càng được nâng cao. Năm 2001, giá trị sản xuất bình quân đầu người một năm của toàn huyện là 3,04 triệu đồng. Lương thực bình quân người/năm đạt 351 kg; vượt kế hoạch đại hội Đảng bộ huyện đề ra là 27 kg và tăng so với năm 1999 là 125,02 kg. Tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện giảm từ 22% năm 1999 xuống 12% năm 2001, không còn hộ đói.
* Tình hình phát triển xã hội.
Đời sống vật chất của nhân dân không ngừng được nâng cao. Các lễ hội truyền thống của các làng xã dần dần được phục hồi làm cho đời sống, tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú. Đường giao thông đang được bê tông hoá đến tận các thôn xóm, các tuyến đường giao thông liên xã được dải nhựa, dải cấp phối để tạo điều kiện giao lưu kinh tế và văn hoá, kinh nghiệm sản xuất và các tiến bộ KHKT giữa các vùng, xã trong toàn huyện, tỉnh với nhau.
Các nhu cầu về ăn ở, đi lại, khám chữa bệnh, học hành, giải quyết việc làm và hưởng thụ văn hoá tinh thần của nhân dân đã được đáp ứng tốt hơn.
3.1.3. Nhận xét chung về địa bàn nghiên cứu.
Thanh Thuỷ là một huyện miền núi, diện tích tự nhiên có 12.382,47 ha, dân số 75.000 người. Đơn vị hành chính gồm 14 xã; 1 thị trấn, có hai tôn giáo chính là Thiên chúa giáo và Đạo phật. Dân tộc chủ yếu là người Kinh và người Mường. Mật độ dân số 597 người/km2. Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện mục tiêu chính trị và kế hoạch của Đảng bộ huyện Thanh Thuỷ - UBND huyện, nhân dân trên toàn huyện đã nỗ lực phấn đấu không ngừng và thu được những thành tựu rất lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong 3 năm qua (1999-2001), cụ thể:
_ Tổng giá trị sản xuất 1999-2001 tăng trưởng bình quân mỗi năm là: 7,4%/năm. Trong đó:
+ Nông- lâm- thuỷ sản tăng bình quân 7,97%/năm.
+ CN-XDCB tăng bình quân 5,57%/năm.
_ Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 107.525,32 triệu đồng,năm2001.
_Sản lượng lương thực quy thóc đạt 26.261,91 tấn và bình quân lương thực quy đầu người đạt 351 kg.
_ Tỷ lệ hộ nghèo còn 12%, năm 2001.
Ngoài những thành tựu mà nhân dân huyện Thanh Thuỷ đạt được trong những năm qua và những lợi thế mà huyện có thì trong quá trình phát triển của huyện vẫn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Đó là: Nền kinh tế phát triển không đều, kết cấu hạ tầng thấp kém, giao thông, thuỷ lợi chưa đáp ứng được yêu cầu, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
3.2 Phương pháp nghiên cứu.
3.2.1 Phương pháp chung.
3.2.1.1 Phương pháp duy vật biện chứng.
Là phương pháp nhằm xem xét, phân tích, đánh giá các vấn đề một cách khách quan, khoa học. Phương pháp duy vật biện chứng nhìn nhận sự vật hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển luôn có sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau để tìm ra bản chất quy luật vận động của chúng. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi áp dụng phương pháp này nhằm phân tích, đánh giá, tìm hiểu và làm rõ tác động của việc khai thác các công trình thuỷ nông đối với sự phát triển kinh tế của huyện, xã và các hộ ở địa bàn nghiên cứu. Nhằm đánh giá xem việc khai thác này có đem lại hiệu quả kinh tế hay không từ đó đề ra giải pháp thích hợp và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình khai thác các công trình thuỷ nông phục vụ sản xuất.
3.2.1.2 Phương pháp duy vật lịch sử.
Là phương pháp dựa trên quan điểm duy vật để xem xét sự vật, hiện tượng từ quá khứ đến hiện tại để rút ra quy luật vận động và bài học kinh nghiệm. Những yếu tố chủ yếu nào đã ảnh hưởng đến quá trình khai thác các công trình thuỷ nông và quá trình sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Thuỷ trong những năm qua. Từ đó mà chúng tôi dự kiến đề ra phương án hành độnh thích hợp trong những năm tới.
3.2.2 Phương pháp chuyên môn.
3.2.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu.
Đề tài muốn thành công hay không thì điểm nghiên cứu đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy, điểm nghiên cứu phải thể hiện được rõ nét đặc điểm tự nhiên của địa phương, tình hình canh tác sản xuất và thâm canh các loại cây trồng. Thanh Thuỷ là một huyện thuần nông, người dân đa số là sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, Đảng uỷ- UBND và các cấp lãnh đạo huyện luôn quan tâm tới vấn đề thuỷ lợi-thuỷ nông. Hệ thống thuỷ lợi - thuỷ nông được dải khắp trong trong toàn huyện. Việc khai thác và sử dụng các công trình này phục vụ cho sản xuất nông nghiệp làm sao để đạt hiệu quả cao nhất đang là vấn đề đặt ra.
Dựa vào những kiến thức đã học và thực tế địa phương mà chúng tôi chọn huyện Thanh Thuỷ làm điểm nghiên cứu để đánh giá được tác dụng của việc khai thác các công trình thuỷ nông đối với sản xuất nông nghiệp của huyện một cách chính xác, từ đó đưa ra các định hướng và giải pháp phát triển.
3.2.2.2 Phương pháp thu thập, xử lý số liệu.
* Phương pháp thu thập số liệu.
_ Số liệu thứ cấp:
Do yêu cầu của đề tài cần thu thập các số liệu có liên quan như: số liệu về tình hình tự nhiên, tình hình dân số, lao động, kinh tế xã hội, tình hình sản xuất nông nghiệp, thực trạng các công trình thuỷ nông và thực trạng khai thác các công trình thuỷ nông,.... Nguồn số liệu phục vụ cho những vấn đề lí luận chung sử dụng trong đề tài chủ yếu được thu thập trong sách báo và các tài liệu có liên quan khác nhằm làm sáng tỏ hướng đi của đề tài là đúng đắn. Những số liệu phục vụ cho việc tính toán tính toán cụ thể được thu thập từ phòng Nông nghiệp & PTNT huyện, phòng Thống kê, phòng Kế hoạch, UBND xã và HTX nông nghiệp cụ thể tại 3 xã Trung Nghĩa, Đồng Luận và Xuân Lộc.
_ Số liệu sơ cấp:
Để có những số liệu chi tiết, sát thực tế phục vụ cho đề tài nghiên cứu, công tác điều tra lấy số liệu được thực hiện bằng phương pháp chọn bất kỳ hơn 60 hộ trên 3 xã vùng nghiên cứu. Từ đó chỉnh lý, tổng hợp số liệu đi đến lập biểu thống kê và phân tích thống kê.
* Phương pháp xử lý số liệu:
Sau khi thu thập tất cả các số liệu thu thập được, chung tôi tiến hành chọn lọc các số liệu có liên quan đến đề tài, tổng hợp lại rồi phân tích thông qua các biểu và tính toán bằng máy tính.
3.2.2.3. Phương pháp so sánh.
So sánh để tìm ra mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. So sánh năng suất, sản lượng, lợi nhuận, hệ số quay vòng đất,... giữa trước và sau khi khai thác các công trình thuỷ nông (khi các công trình chưa được nâng cấp; làm mới và sau khi các công trình được làm mới và được nâng cấp). Từ đó làm nổi bật hiệu quả của việc khai thác các công trình thuỷ nông mang lại cho huyện, xã và các hộ sản xuất nông nghiệp.
3.2.2.4. Phương pháp định lượng và phân tích kinh tế.
* Phương pháp định lượng.
Song song với quá trình thu thập số liệu và xử lý số liệu, chúng ta đồng thời tổng hợp, phân loại, tính toán các số liệu cần thiết cho đề tài làm cơ sở cho việc phân tích kinh tế.
* Phương pháp phân tích kinh tế.
Là phương pháp mà sau khi định lượng các số liệu, chúng ta dùng các chỉ tiêu kinh tế để đánh giá nhằm tìm ra được nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông mang lại cho huyện, xã và các hộ sản xuất nông nghiệp của huyện.
3.2.2.5. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
_ Phương pháp chuyên gia: Đây là phương pháp thu thập số liệu dựa trên sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực khai thác các công trình thuỷ nông và lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến thuộc về chuyên môn, kỹ năng làm việc, lý thuyết và thực tiễn của các chuyên gia; cán bộ giảng dạy và những cán bộ trực tiếp làm công tác thuỷ nông.
_ Phương pháp chuyên khảo: Là phương pháp thu thập số liệu bằng cách tham khảo những ý kiến của những người dân sử dụng nước.Xây dựng hệ thống phiếu điều tra dưới dạng những câu hỏi xoay quanh hiệu quả của việc khai thác các công trình thuỷ nông mang lại cho sản xuất của hộ.
Phần IV
Kết quả nghiên cứu
4.1 Thực trạng các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ.
Để khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông có hiệu quả kinh tế thì thực trạng các công trình đóng vai trò rất quan trọng. Nếu các công trình tốt và đầy đủ sẽ là điều kiện để nâng cao hiệu quả khai thác các công trình đó. Ngược lại, nếu các công trình thiếu thốn; thấp kém sẽ hạn chế việc nâng cao hiệu quả kinh tế khi khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông.
Vì vậy, mà chúng tôi đánh giá thực trạng các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện ThanhThuỷ, để xem xem các công trình đã đầy đủ về số lượng và chất lượng cho việc phục vụ sản xuất nông nghiệp và các mục tiêu khác của huyện hay chưa.
4.1.1 Các công trình đầu mối của huyện.
Các công trình đầu mối có nhiệm vụ đưa nước vào các cấp kênh để cung cấp cho khu vực tưới. Do đó, các công trình đầu mối phải đảm bảo yêu cầu là có thể lấy nước được bất cứ khi nào để đưa vào khu tưới theo kế hoạch tưới cho các loại cây trồng đã xác định và hoạt động của các công trình không làm ảnh hưởng tới môi trường xung quanh; không làm thay đổi nhiều các yếu tố thuỷ văn dẫn tới ảnh hưởng tới điều kiện lấy nước cũng như các hoạt động lợi dụng nguồn nước của khu vực.
Qua tìm hiểu thực tế các công trình đầu mối của huyện ThanhThuỷ chúng tôi thấy toàn huyện có số trạm bơm được biểu hiện cụ thể qua biểu 5.
Năm 2001, toàn huyện có 21 trạm bơm. Trong đó: trạm bơm điện là 19, trạm bơm dầu là 2 trạm (tổng số 21 trạm bơm thì có 16 trạm bơm chuyên tưới, 2 trạm bơm tưới tiêu kết hợp, 3 trạm bơm chuyên tiêu) và 2 đập tự chảy ở 2 xã Sơn Thuỷ và Phượng Mao.
Biểu 5: Thực trạng các công trình đầu mối của huyện
Thanh Thuỷ năm 2001.
Diễn giải
ĐVT
Số lượng
* Tổng số trạm bơm
Trạm
21
_ Tổng số trạm bơm điện
Trạm
19
_ Tổng số trạm bơm dầu
Trạm
2
1- Trạm bơm chuyên tưới
Trạm
16
a- Trạm bơm điện
Trạm
14
_ Số máy bơm.
Máy
14
_ Công suất.
M3/h
15.400
b- Trạm bơm dầu.
Trạm
2
_ Số máy bơm.
Máy
3
_ Công suất.
M3/h
3000
2- Trạm bơm tưới tiêu kết hợp.
Trạm
2
_ Số máy bơm.
Máy
3
_ Công suất.
M3/h
3.600
3- Trạm bơm chuyên tiêu.
Trạm
3
_ Số máy bơm.
Máy
3
_ Công suất.
M3/h
3.600
* Đập tự chảy
Cái
2
_ Công suất.
M3/h
2000
Nguồn số liệu: Phòng NN & PTNT huyện Thanh Thuỷ.
Hầu hết các công trình đầu mối của huyện đều được xây dựng vào cuối năm 70 và vừa được sự đầu tư nâng cấp cải tạo, làm mới dã làm cho các công trình phục vụ xản suất nông nghiệp của huyện ngày càng tốt hơn.
Với số lượng trạm bơm của huyện như vậy cơ bản đã đáp ứng được cho tình hình tưới tiêu của huyện, góp phần nâng cao sản lượng; nâng cao năng suất cây trồng và hiệu quả khai thác. Nhưng để khai thác có hiệu quả kinh tế hơn nữa theo quy hoạch thì huyện phải xây dựng thêm 4 trạm bơm điện
( 2 trạm thay thế cho 2 trạm bơm dầu) thuộc các xã Trung Nghĩa, Tu Vũ, Yến Mao và Hoàng Xá để chủ động tưới tiêu cho các diện tích chưa được tưới tiêu của huyện ở các xã đó.
Các công trình đầu mối của huyện trong những năm qua hoạt động tương đối tốt đã tạo điều kiện cho huyện chuyển đổi cơ cấu cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
4.1.2 Hệ thống kênh mương.
Trong hệ thống thuỷ nông kênh mương đóng vai trò rất quan trọng để dẫn nước đến khu vực tưới. Đối với đồng ruộng và sản xuất nông nghiệp thì kênh mương được ví như mạch máu của đồng ruộng cung cấp nước cho cây trồng.
Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và nghị quyết 06/NQ - TU của ban thường vụ tỉnh uỷ tỉnh Phú Thọ về việc phát triển sản suất của tỉnh từ năm 1997 đến năm 2000, huyện ThanhThuỷ đã tiến hành thực hiện KCH - KC, từ đầu mối đến mặt ruộng trên tất cả 15 xã trong huyện. Toàn bộ quá trình KCH - KM của huyện được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn I: Thực hiện tại 10 xã, thời gian từ năm 1998 đến năm 2000.
Giai đoạn II: Thực hiện ở 5 xã còn lại, thời gian từ năm 2001 đến năm 2003.
Kết quả của quá trình KCH - KM của huyện tính đến cuối năm 2001 được thể hiện cụ thể ở biểu 6.
Tổng chiêu dài kênh mương của huyện Thanh Thuỷ là 223.398 m, trong đó: kênh tưới là 198.833 m, kênh tiêu là 8.800 m và kênh tưới tiêu là 20.760 m. Tỷ lệ KCH- KM của huyện là 73,59%, trong đó kênh tưới là 74,09%; kênh tưới tiêu là 100% và kênh tiêu chưa được KCH.
Và cụ thể từng cấp kênh ta thấy: đối với kênh tưới thì kênh cấp I dài 57.515 m; tỷ lệ kiên cố là 84,18%, kênh cấp II dài 57.310 m; tỷlệ kiên cố là 70,26% và kênh cấp III & nội đồng dài 84.008 m; tỷ lệ kiên cố là 69,79%.Từ kết quả KCH- KM của huyện những năm qua chất lượng kênh mương của huyện là rất tốt, là cơ sở, điều kiện dể nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện. Kênh mương được KCH đãlàm giảm thời gian dẫn nước, giảm hao phí nước, tiết kiệm điện năng, phục tưới tiêu đúng lịch và đúng kế hoạch sản xuất.
Biểu 6: Thực trạng kênh mương huyện Thanh Thuỷ đến
năm 2001.
Stt
Diễn giải
ĐVT
Kênh tưới
Kênh tiêu
Kênh tưới tiêu
Tổng
1-
Kênh cấp I
- Chiều dài
M
57.515
-
3.000
60.515
Trong đó: + KKC
M
48.420
-
3.000
51.420
+ Kênh đất
M
9.095
-
-
9.095
- Tỷ lệ KCH
%
84,185
-
100,00
84,97
- Diện tích chiếm dụng
M2
118.105
-
4.500
122.605
2-
Kênh cấp II
- Chiều dài
M
57.310
8.800
5.030
71.140
Trong đó: + KKC
M
40.270
-
5.030
45.300
+ Kênh đất
M
17.040
8.800
-
25,840
-Tỷ lệ KCH
%
70,26
-
100,00
63,68
- Diện tích chiếm dụng
M2
99.444
132.000
6.036
237.480
3-
Kênh cấp III & NĐ
- Chiều dài
M
84.008
-
12.730
96.738
Trong đó: + KKC
M
58.633
-
12.730
71.363
+ Kênh đất
M
25.357
-
-
25.375
-Tỷ lệ KCH
%
69,79
-
100,00
73,77
- Diện tích chiếm dụng
M2
73.242
-
7.638
80.880
S
- Tổng chiều dài các loại kênh
M
198.833
8.800
20.760
228.393
- Tỷ lệ KCH
%
84,09
-
100,00
73,59
- Diện tích chiếm dụng
M2
290.791
132.000
18.174
440.965
Nguồn số liệu: Phòng NN & PTNT huyện Thanh Thuỷ
Với kết quả này huyện đã cơ bản hoàn thành giai đoạn I của quá trình KCH- KM, đó chính là động lực và tiền đề để huyện tiếp tục triển khai và hoàn thành giai đoạn II ở năm xã còn lại trong những năm tới. Hệ thống kênh mương hoàn chỉnh kết hợp với các công trình đầu mối vận hành tốt sẽ góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói chung và mục tiêu phát triển nông nghiệp huyện nói riêng giai đoạn 2000 - 2005 và 2000 - 2010. Bên cạnh đó cũng là cơ sở để huyện thực hiện tốt mục tiêu quốc gia là vùng chậm lũ.
Hệ thống kênh mương hoàn chỉnh, vững chắc góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình thuỷ nông, nhưng để công trình càng bền vững và phát huy hết năng lực thiết kế đòi hỏi trong thời gian tới cần phải khai thác sử dụng và quản lý các công trình một cách khoa học để tăng tuổi thọ công trình và phục vụ tốt mục tiêu tỉnh, huyện và xã đã đề ra.
4.1.3 Thực trạng nguồn vốn đầu tư cho thuỷ nông của huyện.
Thực hiện chủ trương KCH - KM của Đảng và Nhà nước và Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong những năm qua Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Thuỷ đã tiến hành KCH - KM và nâng cấp; làm mới các công trình đầu mối trên toàn huyện.
Nguồn vốn để thực hiện KCH-KM và cải tạo; làm mới các công trình đầu mối được ngân sách Nhà nước và tỉnh cấp cùng với sự đóng góp của người dân, điều này cho thấy sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng với Nhà nước.
Nguồn vốn được đưa vào sử dụng trên địa bàn huyện tính đến cuối năm 2001 để KCH-KM và cải tạo; làm mới công trình đầu mối hết 37.637,413 triệu đồng, trong đó: 6 tỷ đồng dùng cho việc cải tạo 2 hồ Phượng Mao và hồ Suối Rồng, 300 triệu đồng cải tạo và xây dựng mới 1 trạm bơm điện ở xã Trung Thịnh.
Trong 3 năm, toàn huyện thực hiện KCH-KM 31.337,413 triệu đồng, ngân sách tỉnh cấp 26.612,6236 triệu đồng và nhân dân đóng góp 4.004,7894 triệu đồng; bình quân giá trị 1 km dài kênh mương đã KCH hết 186,44 triệu đồng bao gồm cả các công trình trên kênh. Quả tìm hiểu thực tế địa phương chúng tôi thấy phần vốn do nhân dân đóng góp là đóng góp theo diện tích. Tuỳ từng xã mà nức đóng góp là khác nhau như Đồng Luận 18.000 đông/sào/vụ, Trung Nghĩa là 15.000 đồng/sào/vụ, Trung Thịnh là 10.000 đồng/sào/vụ,...
Với nguồn vốn tỉnh cấp và nhân dân đóng góp kênh mương của huyện được KCH theo mặt cắt hình chữ nhật, thành trong và đáy chát vữa và bố trí 5 m có trụ để giữ vững kênh. Tuỳ theo đặc điểm của từng xã, từng kênh mương, theo yêu cầu của đồng ruộng, lưu lượng nước chảy trên kênh, công suất máy bơm mà kích thước kênh được thiết kế phù hợp nên giá trị mỗi mét kênh mương ở mỗi địa phương là khác nhau, được thể hiện cụ thể ở phụ lục 1.
Nhìn chung quá trình KCH-KM và cải tạo; làm mới các công trình thuỷ nông của huyện trong giai đoạn I là khá tốt, với nguồn vốn tương đối lớn nhưng hợp với lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, ngoài số tiền đóng góp nhân dân còn thường xuyên giám sát; thăm quan công trình. Nừu có gì không đúng, không phù hợp với đặc điểm của vùng họ phản ánh ngay với tổ giám sát sở tại để có những điều chỉnh cho thích hợp, tăng tính bền vững cho công trình. Mặt khác, huyện Thanh Thuỷ được xác định là vùng chậm lũ quốc gia nên hệ thống thuỷ lợi - thuỷ nông được ưu tiên hàng đầu. Do vậy, mà nguồn vốn cho nâng cấp; xây mới hệ thống thuỷ nông trên địa bàn huyện thực hiện một cách thuận lợi.
Tuy nhiên trong quá trình huy động nguồn vốn góp của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn ở một số xã, do quy định đóng góp theo đầu sào trên diện tích đất canh tác nên khi đưa ra dân bàn rất khó khăn. Họ sợ xây xong mương của nhóm này lại không xây tiếp con mương của nhóm khác. Vì vậy, họ không hoặc còn e ngại trong việc đóng góp do đó vẫn còn một số hộ chưa đóng góp tiền để xây dựng và làm mới các công trình thuỷ nông.
Từ quá trình KCH - KM giai đoạn I của huyện đã rút ra được bài học kinh nghiệm cho các cấp lãnh đạo khi tiến hành KCH tiếp kênh mương của 5 xã còn lại cần phải có những điều chỉnh cho phù hợp từ những hạn chế của giai đoạn I và tích cực tuyên truyền cho nhân dân thấy được những lợi ích; tác dụng của hệ thống thuỷ nông mang lại để họ chủ động tham gia.Thanh Thuỷ với mục tiêu đến năm 2003, toàn huyện cứng hoá xong toàn bộ hệ thống kênh mương từ đó góp phần phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn của huyện trong những năm tới.
4.1.4 Hệ thống cống qua đê và các công trình trên kênh của huyện.
Qua điều tra thực tế, toàn huyện có 20 cống qua đê, các cống đều có cánh đóng mở rất thuận tiện. Sau khi các cống được cải tạo, làm mới trong những năm qua đã đóng góp tích cực trong việc tiêu nước, thoát úng cho đồng ruộng của cả huyện.
Hệ thống trên kênh của các xã được KCH-KM hoạt động rất tốt đã phục vụ đắc lực cho cuộc sống và sản xuất của nhân dân vùng hưởng lợi. Còn hệ thống cầu cống trên kênh của 5 xã chưa được KCH đã xuống cấp trầm trọng và còn thiếu nhiều ,nhưng sẽ được hoàn thành trong giai đoạn II của quá trình KCH-KM của huyện.
4.2 Thực trạng khai thác công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ.
4.2.1 Tình hình tưới tiêu phục vụ sản suất của các công trình đầu mối.
Sau khi chương trình KCH-KM giai đoạn I và chương trình cải tạo nâng cấp; làm mới các công trình đầu mối được hoàn thành thì các công trình đầu mối đã phục vụ tưới tiêu của huyện ngày càng được nâng cao.
Qua biểu 8 ta thấy, các công trình đầu mối của những xã được KCH-KM và chưa được KCH-KM diện tích được tưới tiêu là khác nhau. Đối với các xã được KCH-KM thì trên 90% diện tích là được tưới. Còn các xã chưa được KCH-KM thì diện tích được tưới so với diện tích cần tưới chỉ đạt 50 - 60% diện tích. Diện tích cần tưới của các xã được KCH không được tưới 100% diện tích là do đặc điểm tự nhiên của huyện là một huyện miền núi nên các xã đều có diện tích gieo trồng trên đồi với các loại cây trồng như sắn, lạc, khoai lang,..
Cũng từ biểu 8 ta thấy, diện tích cần tưới tiêu của huyện là 3.378,54 ha nhưng trong khi đó diện tích được tưới thực tế là 2.630,48 ha và diện tích được tiêu thực tế bởi các công trình đầu mối là 906,39 ha, Còn lại phần lớn diện tích của huyện là tự tiêu từ 70-80%, do địa hình huyện dốc từ tây sang đông và dốc ra sông Đà nên nước tự thoát.
Biểu 8: Thực trạng khai thác các công trình đầu mối phục vụ tưới tiêu trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ.
Trạm bơm, đập tự chảy.
Số máy, đập.
Công suất
(m3/h)
Diện tích tưới tiêu (ha)
Diện tích tưới thực tế (ha)
Diện tích tiêu thực tế (ha)
GTCL
(%)
A- Trạm bơm.
1- Xuân Lộc
3
3.600
246,00
240,00
-
90,00
2- Thạch Đồng
2
2.000
110,00
107,00
-
80,00
3- Đào Xá
2
2.000
227,00
223,00
227,00
90,00
4- Tân Phương
1
1.200
110,39
105,39
110,39
90,00
5- La Phù
3
3.600
191,00
187,00
191,00
95,00
6- Bảo Yên
2
2.400
290,00
174,00
-
90,00
7- Đoan Hạ
3
3.600
149,40
67,98
-
90,00
8- Hoàng Xá
2
2.400
378,00
-
378,00
80,00
9- Đồng Luận
1
1.200
260,00
256,00
-
86,00
10- Trung Thịnh
1
1.200
91,30
90,03
-
100,00
11- Tu Vũ
2
2.000
119,35
77,58
-
62,00
12- Trung Nghĩa
1
1.000
120,00
120,00
-
65,00
B- Đập tự chảy.
1- Hồ Phượng Mao
1
1.000
392,10
288,23
-
100,00
2- Hố Suối Rồng
1
1.000
694,00
684,00
-
100,00
Tổng
27.600
3.378,54
2.620,21
906,39
Nguồn số liệu: Phòng NN & PTNT huyện Thanh Thuỷ.
Các công trình đầu mối của huyện sau khi sau khi được cải tạo, sửa chữa và nâng cấp đã phục hồi trên 80% giá trị ban đầu đã phát huy hết tác dụng. Duy chỉ có 2 xã Trung Nghĩa và Tu Vũ có 2 trạm bơm dầu giá trị còn lại là từ 60-65% nên dã làm tăng chi phí trong quá trình khai thác như chi phí sửa chữa, vận hành,...từ đó làm ảnh hưởng tới sản suất, mặc dù kênh mương đã được KCH.
Để công trình đầu mối của huyện ngày càng hoạt động tốt hơn thì trong thời gian tới huyện cần phải nhanh chóng hoàn thành KCH-KM trên toàn huyện và phải đầu tư xây mới 2 trạm bơm điện, đồng thời thay thế 2 trạm bơm dầu đang xuống cấp. Bên cạnh đó, huyện cần phải có kế hoạch chỉ đạo cho các xã thường xuyên duy tu, bảo dưỡng các công trình để tăng khả năng khai thác và tăng tuổi thọ công trình.
Huyện Thanh Thuỷ có 2 đập tự chảy từ hai hồ lớn là hồ Phượng Mao và hồ Suối Rồng. Hồ Phượng Mao phục vụ tưới tiêu cho xã Phượng Mao, xã Yến Mao và một phần diện tích của xã Trung Nghĩa. Hồ Phượng Mao ngoài việc cung cấp nước cho cây trồng còn được tận dụng làm thuỷ lợi nhỏ phục vụ đời sống sinh hoạt của một số hộ dân thuộc xã Phượng Mao và Yến Mao. Hồ Suối Rồng nằm thuộc xã Sơn Thuỷ với diện tích 5 ha, phục vụ tưới tiêu cho 694 ha đất canh tác thuộc 2 xã Sơn Thuỷ và xã Hoàng Xá. Bên cạnh đó, hồ Suối Rồng đóng góp tích cực vào việc nuôi trồng thuỷ sản của 2 xã, và vai trò của hồ Suối Rồng cũng như hiệu quả khai thác của hệ thống hồ Suối Rồng còn sẽ được tăng lên khi mà dự án thuỷ sản của huyện được thực hiện vào năm 2003 và Sơn Thuỷ, với Hoàng Xá được xác định là vùng trọng điểm của dự án.
Tóm lại, để tất cả hệ thống các công trình thuỷ nông đạt hiệu quả cao nhất trong khai thác và sử dụng thì các cấp chủ quản và những người hưởng lợi từ công trình cần phải kết hợp chặt chẽ với nhau để bảo vệ, bảo dưỡng công trình làm cho công trình hoạt động ngày càng tốt hơn, cung cấp nước và thoát nước đúng lịch; đúng kế hoạch, góp phần nâng cao sản lượng; nâng cao năng suất cây trồng, ...và nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thuỷ nông.
4.2.2 Tình hình tưới tiêu của huyện Thanh Thuỷ qua 3 năm.
Huyện Thanh Thuỷ là một huyện thuần nông nên việc tưới tiêu phục vụ sản suất nông nghiệp của huyện được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Tình hình tưới tiêu của huyện Thanh Thuỷ được thể hiện cụ thể qua biểu 9.
Năm 1999, diện tích gieo trồng của huyện là 6.516,3 ha thì trong đó chỉ có 40% diện tích gieo trồng được tưới tiêu chủ động và 60% diện tích là tưới tiêu chủ động một phần và phải tạo nguồn. Đến năm 2000 và năm 2001, khi hệ thống thuỷ nông của 10 xã trong giai đoạn I quá trình KCH-KM và nâng cấp cải tạo; làm mới các công trình đầu mối được hoàn thành được đưa vào sử dụng phục vụ tưới tiêu cho sản suất nông nghiệp của huyện. Các xã vùng dự án có điều kiện đưa những giống mới và chuyển dịch cơ cấu cây trồng đã làm cho diện tích gieo trồng của huyện tăng lên 7.232,4 ha (năm2000), 7.359,5 ha (năm2001), với tốc độ tăng bình quân 6,27%/năm. Khi các công trình thuỷ nông của huyện được đưa vào khai thác và sử dụng đã làm cho diện tích chủ động tưới tiêu của huyện ngày càng tăng,với tốc độ tăng 44,96%/năm. Năm 2000,diện tích tưới tiêu chủ động là 5.315,65 ha tăng so với năm 1999 khi các công trình chưa được được hoàn thiện và sử dụng là 203,94%. Diện tích gieo trồng tưới tiêu chủ động một phần và phải tạo nguồn ngày càng giảm. Các diện tích này tập trung chủ yếu ở các xã có hệ thống kênh mương chưa được KCH xong hoặc chưa được KCH.
Cũng qua biểu 9 ta thấy, diện tích tiêu chủ động đang được tăng lên với tốc độ tăng bình quân 18,76%/năm. Diện tích gieo trồng bị ngập úng ngày càng giảm, những nơi úng quá thì được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản và diện tích bị úng giảm bình quân 50,74%/năm, và diện tích này còn giảm khi mà hệ thống thuỷ nông trên toàn huyện được hoàn chỉnh.
Huyện Thanh Thuỷ là một huyện miền núi nên có những lợi thế của một huyện miền núi, với địa hình dốc từ tây sang đông. Do đó, mà huyện hàng năm tiết kiệm được một khoản chi phí lớn trong việc tiêu thoát úng, với diện tích tự tiêu luôn luôn trên 70% diện tích gieo trồng. Và diện tích tự tiêu này sẽ còn tăng khi mà kênh mương của 5 xã còn lại được hoàn thành vào năm 2003.
Từ những phân tích trên cùng với điều tra thực tế và thông qua các số liệu báo cáo so sánh; tổng kết về công tác thuỷ lợi - thuỷ nông của huyện Thanh Thuỷ trước và sau khi khai thác các công trình mới và cũ. Chúng tôi nhận thấy tình hình khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông của huyện là khá tốt, đã phục vụ tích cực cho sản xuất nông nghiệp của huyện, nâng cao đời sống của người dân “ chân lấm tay bùn” và nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện. Nhưng để hệ thống thuỷ nông của huyện phát huy hết tác dụng và nâng cao hiệu quả kinh tế hơn nữa trong việc khai thác các công trình thuỷ nông thì huyện cần phải nhanh chóng hoàn thành giai đoạn II quá trình KCH - KM và tích cực tìm kiếm, nghiên cứu ra các giống cây ngắn ngày cho năng suất; sản lượng cao, phù hợp với đồng ruộng của huyện. Có như vậy thì hiệu quả kinh tế mà các công trình thuỷ nông mang lại cho huyện, xã và các hộ trong việc sản xuất nông nghiệp và các ngành kinh tế khác ngày càng tăng.
4.3 Đánh giá chung về hiện trạng và quá trình khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ.
Trong những năm qua được sự đầu tư của Nhà nước, của tỉnh bằng ngân sách và bằng các nguồn vốn vay, huyện Thanh Thuỷ đã thực hiện KCH-KM trên 10 xã của giai đoạn I quá trình KCH -KM và nâng cấp; xây dựng các công trình đầu mối của huyện. Vì vậy, mà hệ thống thuỷ nông của huyện còn rất mới (trừ 5 xã chưa KCH-KM), đây chính là lợi thế để nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp & PTNT, tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp & PTNT, Sở kế hoạch & đầu tư tỉnh Phú Thọ mà các công trình thuỷ nông của huyện Thanh Thuỷ được xúc tiến xây dựng với nguồn vốn lớn trong thời gian ngắn. Vì các công trình thuỷlợi-thuỷ nông của huyện một mặt phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế của huyện, mặt khác nó là một trong những cơ sở hạ tầng cần thiết phục vụ cho mục tiêu là điểm chậm lũ quốc gia. Các công trình mới được xây dựng và được khai thác; vận hành một cách khoa học nên đã nâng cao được hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình thuỷ nông của huyện.
Bên cạnh những thành công mà huyện bước đầu đạt được thì huyện vẫn còn những tồn tại, khó khăn trong quá trình khai thác; quản lý và sử dụng các công trình thuỷ nông cần phải khắc phục trong những năm tiếp theo. Đó là:
_ Nguồn vốn vẫn còn nợ đọng trong dân khi đóng góp để KCH-KM.
_ Trình độ của người quản lý các công trình thuỷ nông còn hạn chế.
_ Hầu hết các công trình đều được các xã quản lý nên sẽ gặp khó khăn trong việc duy tu và sửa chữa lớn các công trình.
_ Còn một bộ phận các xã chưa được KCH-KM.
_ Cây trồng vật nuôi của huyện chưa được phong phú và đa dạng.
4.4 Hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ.
4.4.1 Tác dụng thứ nhất: Tiết kiệm đất đai.
Đất đai đối với sản xuất nông nghiệp đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó vừa là tư liệu sản xuất; vừa là đối tượng sản xuất. Nhu cầu về đất ngày càng tăng nhưng diện tích đất đai lại hạn hẹp. Vì vậy, tiết kiệm được đất đai có ý nghĩa rất to lớn.
Theo số liệu báo cáo của các xã, số liệu tổng kết giai đoạn I quá trình KCH - KM và cải tạo; nâng cấp làm mới các công trình thuỷ nông của huyện Thanh Thuỷ trong thời gian qua và sau khi công trình được đưa vào khai thác sử dụng thì diện tích đất mà huyện tiết kiệm được là 325.736,7 m2. Diện tích đất tiết kiệm này được chuyển sang diện tích sử dụng khác như mở rộng đường giao thông nội đồng, mở rộng diện tích đất canh tác. Các xã sau khi thực hiện KCH-KM đã tiết kiệm được diện tích đất chiếm dụng là trên 60%. Tính bình quân cho toàn huyện thì diện tích đất tiết kiệm được là 65,14% diện tích kênh mương trước khi KCH. Diện tích đất tiết kiệm được là do sau khi KCH thì 1 m kênh mương chiếm dụng diện tích là:
_ Kênh cấp I là từ 1,5-2 m2.
_ Kênh cấp II là từ 1-1,5 m2.
_ Kênh cấp III là từ 0,5-1 m2.
Còn 1 m kênh mương khi chưa KCH thì chiếm diện tích là:
_ Kênh cấp I là từ 5-7 m2.
_ Kênh cấp II là từ 3-5 m2.
_ Kênh cấp III là từ 1,5-2 m2.
Biểu 10: Diện tích đất đai tiết kiệm được.
STT
Tên xã
Chiều dài KM (Km)
Diện tích đất trước khi KCH (m2)
Diện tích đất sau khi KCH (m2)
Diện tích đất tiết kiệm được
M2
%
1
2
3
4
5 = 4- 3
6 =(5/3)*100
1
La Phù
9,645
29.447,5
10.389,0
19.058,5
64,72
2
Đào Xá
20,760
49.486,0
18.174,0
31.011,0
63,05
3
Trung Nghĩa
24,800
70.475,0
24.090,0.
46.385,0
65,82
4
Trung Thịnh
6,808
28.687,0
9.049,8
19.637,2
68,45
5
Thạch Đồng
14,600
44.000,0
15.300,0
28.700,0
65,23
6
Hoàng Xá
17,630
63.530,0
20.877,0
42.653,0
67,14
7
Sơn Thuỷ
14,970
48.655,0
16.602,0
32.053,0
65,89
8
Tân Phương
7,460
24.940,0
8.376,0
16.564,0
66,42
9
Xuân Lộc
15,350
48.025,0
16.710,0
31.315,0
65,21
10
Đồng Luận
35,400
93.100,0
34.740,0
58.360,0
62,69
Tổng
167,423
500.044,5
174.307,8
325.736,7
65,14
Nguồn số liệu: Phòng NN & PTNT huyện Thanh Thuỷ.
Một mét kênh mương chiếm diện tích lớn hay nhỏ còn phụ thuộc công suất của các công trình đầu mối, lưu lượng nước trên kênh và nhu cầu nước của khu vực cần tưới tiêu.
Qua điều tra thực tế và phỏng vấn trực tiếp các hộ nông dân đều cho thấy rằng khi hệ thống thuỷ lợi - thuỷ nông được đưa vào khai thác sử dụng thì giao thông nội đồng thuận tiện hơn rất nhiều, tiết kiệm được thời gian vận chuyển sản phẩm khi thu hoạch, bởi những công trình thuỷ nông được sửa chữa; làm mới nên họ có thể đưa xe thồ vào tận nơi để thồ; để chở còn trước kia phải thồ gánh từ đường lớn vào.
Diện tích đất tiêt kiệm được nếu đưa vào trồng lúa, năng suất tính theo mức bình quân của huyện thì mỗi vụ số thóc thu được là 141,04 tấn ( hay 32,97 * 4,33 tấn / ha/ vụ ).Trừ các khoản đầu tư cho sản xuất thì lãi khoảng 131 triệu đồng/vụ. Nếu hệ thống kênh mương của 5 xã còn lại của huyện được KCH hết thì thì thu nhập bình quân của huyện còn được tăng lên hơn nữa.
Vì vậy, để khai thác và sử dụng hệ thống thuỷ nông có hiệu quả kinh tế cao hơn nữa thì đòi hỏi huyện, các xã và các hộ phải sử dụng đầy đủ, hợp lý diện tích đất hiện có và diện tích đất tiết kiệm được. Cũng trên diện tích đất tiết kiệm được là nơi để trồng các loại cây xanh góp phần làm đẹp cảnh quan, môi sinh môi trường nông thôn và cũng có thể cho thuê, đấu thầu để tạo nguồn vốn cho việc tu bổ bảo dưỡng các công trình hàng năm.
4.4.2 Tác dụng thứ hai: Nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng của huyện.
Thực hiện nhiệm vụ chính trị của đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Thuỷ nhiệm kỳ 2000-2005 là phấn đấu đến năm 2005 sản lượng quy thóc của huyện đạt 28.220 tấn (cây có hạt: 26.880 tấn). Bình quân lương thực đầu người là 370 kg ( lúa và ngô là 353,7 kg/người/năm ).
Để đạt được mục tiêu đó của đại hội trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Thuỷ đã tận dụng hết tiềm năng của huyện và tranh thủ sự giúp của các bộ ban ngành từ trung ương đến địa phương.Trong điều kiện thuận lợi đó, huyện Thanh Thuỷ đã hoàn thành việc nâng cấp; làm mới hệ thống thuỷ nông giai đoạn I trên phạm vi toàn huyện, góp phần phục vụ đắac lực sản xuất nông nghiệp của huyện.
Thông qua biểu 11 ta thấy, kết quả sản xuất một số cây trồng chính của huyện trong 3năm (1999-2001) là khá tốt. Khi các công trình thuỷ nông của huyện được đưa vào khai thác sử dụng đã góp phần làm tăng diện tích gieo trồng từ 6.513,3 ha ( Năm 1999, khi mà các công trình thuỷ nông chưa được đưa vào khai thác sử dụng ) lên 7.359,5 ha ( Năm 2001, khi mà các công trình thuỷ nông đã được đưa vào khai thác sử dụng). Nước tưới được cung cấp đầy đủ, thường xuyên đã làm diện tích cây lúa tăng khá nhanh từ 3.386 ha năm 1999 lên 4.329 ha năm 2001. Đặc biệt diện tích lúa chiêm xuân bình quân tăng 17,95%/năm. Nước tưới đầy đủ tạo điều kiện cho huyện đưa các giống lúa mới vào sản xuất như: Nhị ưu 838, Nhị ưu 63, Bồi tạp sơn thanh,... có năng suất, chất lượng cao. Do đó, năng suất lúa bình quân và sản lượng lúa của huyện không ngừng tăng lên. Năm 2001, năng suất lúa bình quân là 43,3 tạ/ha/vụ; tốc độ tăng bình quân năng suất là 16,18%/năm.Sản lượng lúa đạt 18.876,22 tấn năm 2001 tăng so với năm 2000 là 111,72%; tốc độ tăng bình quân trong 3 năm (1999-2001) là 31,44%/năm. Ngoài ra, nước tưới chủ động cũng đã làm năng suất, sản lượng tăng lên khá nhanh, năng suất tăng bình quân 13,41%/năm và sản lượng tăng bình quân 14,3%/năm.
Khi diện tích các loại cây trồng tăng lên đã làm tăng hệ số quay vòng đất của huyện từ 1,73 lần ( Năm 1999, khi chưa khai thác các công trình thuỷ nông) lên 2,03 lần ( Năm 2001, khi các công trình thuỷ nông được đưa vào khai thác sử dụng). Thuỷ lợi - thuỷ nông tốt đã góp phầnlàm tăng năng suất, sản lượng, diện tích của các loại cây trồng từ đó làm tổng sản lượng quy thóc của huyện ngày càng tăng từ 16.683 tấn (năm 1999) lên 26.261,91 tấn (năm 2001), vượt kế hoạch năm 2001 của huyện là 2.151,91 tấn, tốc độ tăng bình quân là 25,46%/năm.
Để có những thành tựu như trong thời gian qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Thuỷ đã cố gắng không ngừng cộng với sự phục vụ đắc lực của hệ thống các công trình thuỷ nông đã làm cho diện tích, năng suất,sản lượng của các loại cây trồng trên địa bàn huyện được nâng lên. Muốn thực hiện thắng lợi mục tiêu của đại hội Đảng bộ huyện và vượt kế hoạch đại hội thì huyện Thanh Thuỷ vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra để làm trong thời gian tới. Đó là: nhanh chóng hoàn thành giai đoạn II quá trình KCH-KM và tích cực nghiên cứu và tìm kiếm các giống cây mới có năng suất, sản lượng cao và thời thu hoạch gian ngắn để đưa vào sản xuất, góp phần nâng cao đời sống của người nông dân đồng thời nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thuỷ nông của huyện.
4.4.3 Tác dụng thứ ba: Làm tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp huyện.
Sau khi các công trình thuỷ nông của huyện được đưa vào khai thác sử dụng đã làm cho năng suất, sản lượng các loại cây trồng tăng lên và giá cả thị trường có lợi cho sản xuất một số loại cây trồng nên đã làm cho giá trị sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Thuỷ có những biến đổi sâu sắc, được thể hiện cụ thể tại biểu 12.
Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân 8,03%/năm. Giá trị ngành trồng trọt chiếm 63,16% năm 2001 (giá trị: 67.908,54 triệu đồng). Qua biểu 12 ta thấy, giá trị sản xuất cây lúa chiếm tỷ lệ khá cao trong ngành trồng trọt từ 40-60% mỗi năm, điều này cho thấy hiệu quả của việc khai thác các công trình thuỷ nông đem lại, nhưng cũng cho thấy cơ cấu cây trồng của huyện vẫn còn hạn chế chưa được đa dạng và phong phú. Trong ngành trồng trọt giá trị sản xuất của cây ăn quả và các loại cây khác đang có xu hướng giảm xuống đó là bị ảnh hưởng của thời tiết và giá cả thị trường tác động tiêu cực đến quá trình tiêu thụ sản phẩm các loại cây này. Mặt khác cho thấy, việc phát triển kinh tế vườn-ao- chuồng và mô hình kinh tế vườn đồi của huyện trong những năm qua chưa được đầu tư thích đáng.
Dịch vụ cho trồng trọt của huyện luôn duy trì ở mức 4-5% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Trực tiếp là phòng Nông nghiệp & PTNT cùng với trạm Khuyến nông đã chuyển giao kỹ thuật, cung cấp phân bón, giống cho các hộ nông dân với giá ưu đãi. Bằng nguồn ngân sách tỉnh, huyện đã trợ giá đầu vào cho các hộ nông dân, điều này đã khuyến khích nhân dân hăng hái sản xuất và đóng góp vào sự phát triển nông nghiệp của huyện.
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên đã làm cho GTSX/ 1 ha đất canh tác, đất nông nghiệp và thu nhập của các hộ nông nghiệp tăng lên với tốc độ tăng bình quân trên 7% mỗi năm.
Từ những kết quả đạt được trong sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Thuỷ cho thấy, việc khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho huyện. Vì vậy, để hiệu quả khai thác công trình ngày càng cao hơn nữa thì huyện cần phải giải quyết tốt khâu tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nông dân và có nhiều chính sách khuyến khích các hộ nông dân phát triển sản xuất đồng thời tạo điều kiện cho thương mại - dịch vụ huyện phát triển.
4.4.4 Tác dụng thư tư: Thúc đẩy kinh tế cơ sở phát triển.
4.4.4.1 Một số chỉ tiêu trước và sau khi khai thác các công trình thuỷ nông tại các xã điều tra.
Quá trình cải tạo, nâng câp và làm mới hệ thống các công trình thuỷ nông giai đoạn của huyện Thanh Thuỷ đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng. Tất cả các công trình sau khi được đầu tư xây dựng xong đã bàn giao cho UBND xã và HTX xã của các xã tự quản lý và sử dụng. Vì vậy để xác định được hiệu quả kinh tế của việc khai thác các công trình thuỷ nông, chúng tôi tiến hành nghiên cứu; tìm hiểu cụ thể tại 3 xã điển hình của huyện Thanh Thuỷ trong khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông. Đó là: xã Đồng Luận, xã Xuân Lộc và xã Trung Nghĩa.
Tại 3 xã điều tra chúng tôi nhận thấy rằng: khi các công trình thuỷ nông được đưa vào khai thác sử dụng thì tình hình tưới tiêu của các xã đều có những thay đổi so với trước khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông ( năm 1999). Thông qua biểu 13 ta thấy: hao phí nước tưới/ha/năm của 3 xã sau khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông đều giảm. Đồng Luận tiết kiệm được 796,54 m3/ha/năm, Xuân Lộc là 2.099,95 m3/ha/ năm và Trung Nghĩa tiết kiệm được 2.052,95 m3/ha/năm. Đây là thành quả mà hệ thống kênh mương của các xã khi được KCH mang lại bởi lượng rò rỉ, thẩm lậu được hạn chế tới mức thấp nhất và đặc biệt hiện tượng sạt lở.vỡ kênh mương gây hao phí nước lớn không còn xảy ra như trước khi khai thác.
Tình trạng rò rỉ không còn, các công trình vận hành, hoạt động tốt và thời gian dẫn nước giảm làm cho hao phí điện năng trên 1ha tưới trong một năm giảm xuống. Cụ thể: Đồng Luận giảm 19 số/ha, Xuân Lộc giảm 91số/ha. Riêng Trung Nghĩa được hồ Phượng Mao tưới tiêu cho phần lớn diện tích nên không tiêu tốn điện năng, nhưng trạm bơm dầu của xã tiết kiệm được 50.000 đồng/ha. Và điều quan trọng đối với các xã là tỷ lệ tưới tiêu chủ động của mỗi xã đều tăng lên. Trước khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông (năm 1999) tỷ lệ tưới tiêu chủ động của 3 xã là rất thấp 45-50%, hao phí nước và điện năng lớn, nhưng sau khi hệ thống các công trình thuỷ nông được đưa vào khai thác sử dụng thì tỷ lệ tưới chủ động là trên 80% diện tích và hao phí nước tưới; điện năng giảm. Tỷ lệ diện tích được tiêu cũng tăng lên trên 90% diện tích gieo trồng. Các công trình khai thác vận hành tốt nên đã giảm rất được rất nhiều hao phí so với trước khi khai thác.Vì vậy thuỷ lợi phí của các xã giảm từ 4-5 kg/sào và từ đó làm giảm bớt chi phí cho các hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.
Thuỷ lợi - thuỷ nông tốt góp phần tăng diện tích gieo trồng, tăng hệ số quay vòng đất của các xã. Vì vậy khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông mang lại là rất lớn. Do đó cần phải có kế hoạch bảo dưỡng các công trình thường xuyên để các công trình phục vụ tưới tiêu ngày càng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn và tăng tuổi thọ cho các công trình.
4.4.4.2 Khả năng phục vụ của các công trình được nâng cao.
Hệ thống thuỷ nông được khai thác đã làm cho diện tích gieo trồng của các xã qua 3 năm tăng lên, Đồng Luận tăng bình quân 2,62%/năm; Xuân Lộc tăng bình quân 5,6%/năm và Trung Nghĩa tăng bình quân 6,28%/năm.
Qua biểu 14 chúng ta thấy, diện tích gieo trồng mỗi vụ của 3 xã đều tăng so với trước khi khai thác năm 1999. Năm 2000, các công trình cũng đã được đưa vào sử dụng nhưng đến năm 2001 thì hoạt động của hệ thống mới thực sự được ổn định. Diện tích tưới chủ động ở mỗi xã đều được tăng lên, diện tích tưới chủ động một phần và phải tạo nguồn giảm xuống. Cụ thể xã Xuân Lộc vụ mùa năm 2000 diện tích tưới chủ động tăng 31,9 ha so với năm 1999 và tốc tăng bình quân 3 năm là 8,33%/năm; diện tích chủ động một phần giảm bình quân 48,45%/năm; diện tích phải tạo nguồn giảm 69,8%/năm. Xã Trung Nghĩa, diện tích tưới chủ động năm 2001 so với năm 1999 (khi chưa khai thác ) tăng 260,34 ha; diện tích tưới chủ động một phần giảm 128,73 ha; diện tích phải tạo nguồn giảm 73,81 ha. Diện tích tưới chủ động một phần và phải tạo nguồn của các xã còn nhiều, trong khi hệ thống thuỷ nông của mỗi xã đã cơ bản hoàn chỉnh là do đặc điểm địa hình của mỗi xã mà hệ thống thuỷ nông không thể tới tận nơi để chủ động tưới được. Các xã đều có diện tích trồng sắn ở đồi thấp và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác ở ven đồi nên diện tích này không được tưới chủ động, mà hoàn toàn phụ thuộc vào nước trời.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả tưới hơn nữa trong những năm tới mỗi xã cần ít nhất 3 máy bơm lưu động để tưới tiêu cho những vùng mà hệ thống thuỷ nông không thể tới được.
4.4.4.3 Kết quả sản xuất một số loại cây trồng chính tại các hộ điều tra.
Năng suất và sản lượng cây trồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, chế độ luân canh cây trồng,lượng phân bón,...Chủ động tưới tiêu cũng sẽ làm tăng năng suất, sản lượng và diện tích cây trồng.Vì vậy, chúng tôi tiến hành điều tra 60 hộ trên 3 xã về tình hình sản xuất nông nghiệp của hộ từ trước và sau khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông. Khi được hỏi tác dụng của việc khai thác các công trình thuỷ nông là làm tăng năng suất, sản lượng cây trồng thì có trên 90% chủ hộ đồng ý, còn lại một số hộ trả lời họ không nắm rõ sự thay đổi năng suất; sản lượng cây trồng. Để tìm hiểu cụ thể diện tích, năng suất và sản lượng cây trồng trước và sau khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông. Chúng tôi đã tiến hành điều tra và được thể hiện cụ thể ở biểu 15.
Sau khi các công trình thuỷ nông được đưa vào khai thác thì điều kiện cung cấp nước và tiêu thoát nước tốt đã góp phần làm thay đổi cơ cấu cây trồng. Từ đó diện tích, năng suất và sản lượng cây trồng đươc tăng lên. Qua tổng hợp, tính toán số liệu điều tra để so sánh thực tế trước khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông (năm 1999) và sau khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông (năm 2001) chúng tôi nhận tháy:
+ Diện tích, năng suất và sản lượng lúa sau khi khai thác so với trước khi khai thác hệ thống thuỷ nông đều cao hơn, diện tích tăng 20 - 40 sào; năng suất tăng 50 - 60 kg/sào và sản lượng tăng 50 - 100 tạ.
+ Đối với cây ngô tuy có xã diện tích giảm nhưng năng suất và sản lượng đều tăng, năng suất tăng 60-140 kg/sào; sản lượng tăng từ 100- 200 tạ.
Tưới tiêu ổn định là điều kiện cho các hộ đưa các giống lúa mới như: Tạp Giao; CR 203; Nhị Ưu 63; Nhị Ưu 838; Bồi tạp sơn thanh, các giống ngô mới năng suất cao như: DK 888; VN 10; B 999;...và các giống cây khác vào sản xuất. Đồng thời diện tích hoang hoá, lầy thụt và trồng các loại cây khác không cho năng suất cao dã được chuyển sang trồng lúa, ngô và các loại cây trồng khác có năng suất cao hơn. Vì vậy, mà diện tích trồng lúa, ngô ngày càng được mở rộng.
Tóm lại: khai thác hệ thống thuỷ lợi - thuỷ nông tốt đã góp phần nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, tiết kiệm đất, tiết kiệm nước,... từ đó tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong việc khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông mang lại.
4.4.4.4 Hiệu quả kinh tế của việc sản xuất một số loại cây trồng chính của các hộ điều tra.
Công trình thuỷ nông được đưa vào khai thác sử dụng làm cơ sở cho các hộ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chế độ luân canh cây trồng và đưa các giống mới vào sản xuất đã làm cho kinh tế của hộ có những biến đổi sâu sắc. Để đảm bảo tính chặt chẽ; chính xác và thống nhất của đề tài, chúng tôi sử dụng bảng tính công lao động của huyện để xác định công lao động bình quân đối với cây lúa từ khi làm đất đến khi có được sản phẩm hết 6,5 công/sào (giá thuê một công lao động nông nghiệp ở địa phương là 8000 đồng/công); cây ngô là 4 công/sào và các yếu tố đầu vào; đầu ra khác là theo giá thị trường năm 2001 tại địa phương,
Qua biểu 16 ta thấy, giá trị sản xuất của một số loại cây trồng chính của các hộ điều tra trước và sau khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông có những thay đổi đáng mừng. Cụ thể tại xã Đồng Luận giá trị sản xuất của các hộ điều tra tăng 67,58 triệu đồng, xã Xuân Lộc tăng 45,76 triệu đồng, xã Trung Nghĩa tăng 86,36 triệu đồng so với trước khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông. Chi phí sản xuất trên một sào giảm, chủ yếu là giảm do thuỷ lợi phí. Lợi nhuận trên một sào gieo trồng tăng lên từ 138.000 đồng/sào đến 210.000 đồng/sào.
Tác dụng của khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho việc sản xuất các loại cây trồng của hộ. Với một đồng chi phí bỏ ra hộ có thể thu về từ 3-4,5 đồng giá trị sản phẩm, tăng so với trước khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông từ 1-2 đồng giá trị sản phẩm. Và để có một đơn vị sản phẩm thì lượng chi phí bỏ ra ngày càng giảm như xã Đồng Luận trước khi hệ thống công trình thuỷ nông được đưa vào khai thác sử dụng cần 0,53 đồng chi phí để có một đơn vị sản phẩm, thì sau khi khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông chỉ cần 0,31 đồng chi phí để có một đơn vị sản phẩm, giảm 0,12 đồng chi phí. Và các xã khác cũng như vậy.
Vì vậy, việc khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông đã góp phần làm tăng năng suất; sản lượng; giá trị sản xuất; giá trị gia tăng; thu nhập và giảm chi phí sản xuất trên diện tích gieo trồng. Ngoài ra, khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông còn làm tăng hiệu quả đầu tư trên diện tích gieo trồng, nâng cao đời sống của người dân và góp phần xoá đói giảm nghèo,
4.4.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong việc khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông huyện Thanh Thuỷ.
4.4.5.1 Chính sách đầu tư.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng chịu tác động 2 chiều của chính sách, chính sách đúng sẽ khai thác và phát huy hết mọi tiềm năng, đặc biệt là vốn cho thuỷ lợi-thuỷ nông và vốn hỗ trợ cho các hộ nông dân sản xuất. Trong quá trình khai thác sử dụng vận hành các công trình thuỷ nông cần phải có một nguồn vốn để thường xuyên tu bổ, sửa chữa và bảo dưỡng các công trình làm cho hiệu quả khai thác và khả năng phục vụ của các công trình ngày càng cao. Ngược lại, chính sách đầu tư không đảm bảo và thoả đáng sẽ hạn chế đến khả năng khai thác của các công trình, từ đó dẫn tới làm giảm hiệu quả kinh tế mà các công trình này mang lại.
Vì vậy, chính sách đầu tư cũng là một trong những nhân tố làm giảm hiệu quả kinh tế của việc khai thác hệ thống các công trình thuỷ nông. Ngoài ra, còn các chính sách khác cũng gây ảnh hưởng tới hiệu quả khai thác như: chính sách về thị trường, chính sách thuế, chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn,....
4.4.5.2 Yếu tố kỹ thuật.
Kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến việc khai thác và sử dụng các công trình.
Các công trình được khai thác và sử dụng đúng kỹ thuật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Nếu sử dụng và khai thác không đúng kỹ thuật sẽ làm hạn chế khả năng cung cấp nước, hao phí nước lớn, từ đó làm chochi phí khai thác tăng lên và đồng nghĩa với nó là hiệu quả kinh tế trong việc khai thác các công trình này cũng giảm xuống.
Việc thiết kế, xây dựng hệ thống thuỷ nông cần phải theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Nhưng qua một số công trình trên địa ban huyện chung tôi thấy kỹ thuật của một số công trình chưa bảo đảm, kênh mương còn nhỏ hơn thiết kế, thậm chí một số công trình do ý thức của người xây dựng đã bòn rút từ công trình như: sử dụng gạch non; bớt lượng xi măng trong vữa; bớt săt thép trong kết cấu bê tông. Chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16209.DOC