Đề tài Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay

Tài liệu Đề tài Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay: Lời cảm ơn Để luận văn đạt kết quả tốt đẹp, trước hết em xin gửi tới toàn thể các thầy cô khoa Ngân Hàng - Tài Chính lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc nhất.Với sự quan tâm, dạy dỗ chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn, đến nay em đã có thể hoàn thành - luận văn tốt nghiệp, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay”. Để có được kết quả này em xin đặc biêt gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo - TS .Nguyễn Thị Bất- đã quan tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch hướng dẫn em hoàn thành một cách tốt nhất luận văn tốt nghiệp trong thời gian qua. Không thể không nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suất thời gian thực tập tại Tổng Cục Thuế. Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên thực tập nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thi...

doc99 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn Để luận văn đạt kết quả tốt đẹp, trước hết em xin gửi tới toàn thể các thầy cô khoa Ngân Hàng - Tài Chính lời chúc sức khoẻ, lời chào trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc nhất.Với sự quan tâm, dạy dỗ chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cô, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bạn, đến nay em đã có thể hoàn thành - luận văn tốt nghiệp, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay”. Để có được kết quả này em xin đặc biêt gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo - TS .Nguyễn Thị Bất- đã quan tâm giúp đỡ, vạch kế hoạch hướng dẫn em hoàn thành một cách tốt nhất luận văn tốt nghiệp trong thời gian qua. Không thể không nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suất thời gian thực tập tại Tổng Cục Thuế. Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên thực tập nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này. Lời nói đầu Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp. Thực hiện công cuộc đổi mới các thành phần kinh tế NQD hình thành và phát triển góp phần quan trọng và việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, VII, VIII đề ra. Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế pháp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh XHCN, dân chủ văn minh”. Để đạt được mục tiêu này cần phải sử dụng các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay. Theo xu hướng phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, nên kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế trong đó có 5 thành phần kinh tế cơ bản đựơc phân tích trong Kinh tế Chính trị Mác- Lênin Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của quy luật khách quan của một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường.. Có thể phân chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành hai khu vực là khu vực Kinh tế Nhà nước và khu vực Kinh tế Ngoài quốc doanh. Trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế NQD, mà hẹp hơn là đối với 2 thành phần kinh tế là tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ, cụ thể là khu vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp NQD và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Lý do em chọn đề tài này là do khu vực kinh tế có phạm vi rộng nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời 2 thành phần kinh tế này mới được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI chính thức thừa nhận tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ. Luận văn được kết cấu như sau: Chương I: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nội dung của quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốcdoanh ở nước ta hiện nay. Chương I khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh và Nội dung của quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh Đặc điểm của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh 1.Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh Thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ trải qua một thời gian dài trong lịch sử. Trong suốt thời kỳ đó vẫn tồn tại các thành phần kinh tế phi CNXH cạnh tranh gay gắt với thành phần kinh tế CNXH. Nhà nước XHCN có vai trò to lớn trong việc làm cho các thành phần kinh tế XHCN ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của CNXH. Vậy quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN không thể không quan tâm đến sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác trong đó có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (NQD). Nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế còn chưa mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng nhất giữa các ngành các vùng, trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém lại vừa qua khỏi chiến tranh. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất đang hết sức gay gắt. sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó có kinh tế NQD hay không có tính chất quyết định. Tuy nhiên chấp nhận sự tồn tại của kinh tế NQD không có nghĩa là để quan hệ sản xuất TBCN xác lập thống trị xã hội mà chỉ để quan hệ sản xuất tồn tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển của các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế. Do đó bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất chứ không có nghĩa xoá bỏ hoàn toàn kinh tế NQD. Nhưng muốn quan hệ sản xuất TBCN không trở thành thống trị trong nền kinh tế của xã hội thì không phải bằng con đường bóp nghẹt như đã làm trước đây, mà phải bằng cách xoá bỏ dần dần bằng sự tác động của các nhân tố khác trong đó kinh tế nông nghiệp là quan trọng nhất. Vậy sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ đã được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu được và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số định kiến xã hội trước đây đối với khu vực kinh tế NQD vẫn còn khá nặng nề. Khuôn khổ pháp luật để phát triển kinh tế NQD đang xây dựng, chưa hoàn chỉnh. Song từ khi có Luật Doanh nghiệp (DN) có hiệu lực, môi trường kinh doanh đã bước đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã được xoá bỏ, nhiều doanh ngiệp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tận dụng được hết năng lực vốn có và tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển sản xuất, kinh doanh... Vậy định hướng đi lên XHCN, bỏ qua chế độ TBCN tất yếu khách quan phải trải qua thời kỳ quá độ bên cạnh đó khẳng định sự tồn tại tất yếu khách quan của kinh tế NQD và xu hướng nền kinh tế này phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong thời nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH, công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là thành phần kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát huy được vai trò của mình trong tình hình kinh tế hiện nay. 2.1. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực kinh tế NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là: khu vực thu hút nhiều lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường...mà vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường. Vậy khu vực kinh tế NQD là khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra. 2.2. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động là rất lớn. Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi lao động phải có văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc trong khu vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao động không thể làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình độ cao đến những lao động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế. 2.3. Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn định và ngày càng tăng Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD mới đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày càng tăng và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu vực này còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện hưởng ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thương binh, gia đình liệt sĩ, xây dựng trường học, đường xá đóng góp vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nước rất lớn. 2.4. Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu tư cho xã hội Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh tế, nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực NQD đã hình thành và huy động một lượng vốn đầu tư lớn cho xã hội. Đây là một nguồn vốn quan trọng, song khai thác chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD càng phát triển thì nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng, đóng góp vào sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy động vốn. 2.5. Ngoài những vai trò trực tiếp nêu trên, khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển còn có tác dụng trên nhiều mặt sau - Khu vực NQD phát triển thoả mãn một phần nhu cầu tiêu dùng xã hội, giúp cho Nhà nước trong điều kiện vốn còn hạn hẹp, có thể tập trung đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng đến toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội, tránh đầu tư phân tán, dàn trải...Thực tiễn cho thấy có khu vực này nhiều ngành nghề, mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh Nhà nước không cần phải đầu tư hoặc chỉ đầu tư có hạn còn về cơ bản khu vực kinh tế NQD đã đảm đương các chức năng bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng và tổ chức các dịch vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc biệt ở địa bàn nông thôn và miền núi. - Khu vực kinh tế NQD tồn tại và phát triển góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường, thúc đẩy kinh tế Nhà nước tăng cường hạch toán kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Trước đây trong điều kiện chỉ có kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, sản phẩm hàng hóa dù sản xuất ra với bất kỳ chất lượng nào, giá cả ra sao đều được tiêu thụ. Nhưng từ khi có kinh tế NQD với đặc điểm tư hữu cao, khu vực này rất linh hoạt năng động với tinh thần trách nhiệm rất cao trong sản xuất, tìm kiếm thị trường đồng thời luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Để cạnh tranh với khu vực NQD thì buộc khu vực kinh tế quốc doanh phải cải tiến hàng hoá sản xuất ra nếu không sẽ không được thị trường chấp nhận. Bên cạnh sự cạnh tranh đó thì nếu hai khu vực này không còn hợp tác, thúc đẩy nhau để sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng cao hơn. Vậy hợp tác và cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của hai khu vực kinh tế này. - Khu vực kinh tế NQD hình thành và phát triển còn tác động cả vào cơ chế quản lý làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, thay đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức nhà nước, của người lao động. Trước hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nước, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp không còn thích hợp nữa vì Nhà nước không thể ra lệnh cho các đơn vị kinh tế NQD phải sản xuất cái gì, phải bán theo giá quy định, mà cho quy luật giá trị, do thị trường do nhu cầu xã hội quyết định. Với khu vực kinh tế NQD các cơ quan quản lý, công chức Nhà nước không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Đây chính là những tiền đề đặt ra cần phải đổi mới cơ chế quản lý và phải luôn hoàn thiện cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Phát triển khu vực kinh tế NQD cũng có tác động và làm thay đổi ý thức, tác phong làm việc của công chức các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì khu vực kinh tế NQD toàn bộ vốn và tài sản thuộc sở hữu tư nhân, họ có quyền quyết định phương án sản xuất kinh doanh và chỉ chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Cán bộ công chức Nhà nước không có quyền can thiệp vào công việc kinh doanh của họ. Quan hệ giữa đơn vị kinh tế NQD và công chức Nhà nước là quan hệ bình đẳng trước pháp luật. Đối với người lao động và những người quản lý sản xuất kinh doanh, câu hỏi đặt ra là làm sao thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá chất lượng cao, giá thành hạ. Quan hệ giữa người bán hàng dịch vụ và người mua hàng dịch vụ được thay đổi từ quan niệm “bán như cho” thời bao cấp bằng quan niệm coi “khách hàng là thượng đế” đã được hình thành. Khu vực kinh tế NQD phát triển tác động cả vào các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính. Vậy chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó vai trò của khu vực kinh tế NQD đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và phản ánh đúng quy luật khách quan của thời kỳ qua độ. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) đã đánh giá: “Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy được nhiều tiềm năng va sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo việc làm và sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường”. Ngoài ra góp phần vào phát triển và tăng trưởng kinh tế ngoài quốc doanh có sự tham giam tích cực của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính đồng thời Nhà nước đã ban hành 51 luật, pháp lệnh và các Nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ điều chỉnh và quản lý mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển và lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội. 3. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế NQD và các chính sách kinh tế của Nhà nước 3.1.Quan điểm của Đảng về phát triển khu vực kinh tế NQD Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, các luận điểm của Mác - Ang ghen - Lênin về thời kỳ quá độ có thể vận dụng vào nước ta vì giai đoạn này là giai đoạn Nhà nước của giai cấp công nhân đang đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất, một nhiệm vụ đáng lẽ ra giai cấp tư bản phải làm. Mặt khác do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các ngành, các vùng, vì vậy tất yếu tồn tại kinh tế NQD. Tuy nhiên để có được nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ không phải là dễ dàng, đã có thời kỳ ta chủ trương sớm xoá bỏ kinh tế NQD bằng làn sóng quốc doanh hóa, hợp tác hoá, tạo nên bức tường ngăn cách giữa kinh tế XHCN và kinh tế NQD dẫn đến những hậu quả tiêu cực làm cho tiềm lực kinh tế của đất nước không được khai thác, lực lượng sản xuất bị lãng phí, kinh tế bị kìm hãm không phát triển được, đời sống nhân dân gặp khó khăn. Qua đánh giá quá trình cải tạo các thành phần kinh tế và vận dụng luận điểm của Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới CNXH một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức và tính toán lại hình thức, và bước đi của quá trình cải tạo XHCN, làm sao để phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giầu mạnh và cái đích vẫn là CNXH. Từ những phê bình về những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra nhiệm vụ đẩy mạnh cải tạo XHCN là một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH với những bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cần phải “phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần”. Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần còn được tiếp tục xác định tại Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng CSVN lần IX khẳng định. “Kinh tế cá thể ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức HTX tự nguyện làm vệ tinh cho các doanh nghiệp phát triển lớn hơn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân rộng rãi, trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế NQD phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước.” Ngoài ra còn nêu rõ ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau: + Kinh tế tư bản Nhà nước. + Kinh tế cá thể, tiểu chủ. + Kinh tế tư bản tư nhân. + Kinh tế Nhà nước. + Kinh tế Hợp tác. Thành phần kinh tế Nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuấtchủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm phần khống chế. Kinh tế quốc doanh hiện nay vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, được hình thành do Nhà nước đầu tư xây dựng các cơ sở kinh tế trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra còn được hình thành bằng con đường quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân. Thành phần kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm các dơn vị kinh tế do nhũng người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Hợp tác xã là hình thức chủ yếu của nền kinh tế tập thể, bao gồm hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng. Những loại hình hợp tác xã trên được hình thành với quy mô và mức độ khác nhau phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sản xuất và đời sống. Xu hướng vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo hướng kinh thành những cơ sở, tổ hợp kinh tế công nông nghiệp để đi lên sản xuất lớn. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê, mặc dù không còn nguyên nghĩa như xã hội cũ. Nó tồn tại trong những ngành có lợi trong quốc kế dân sinh, được Nhà nước khuyến khích, kiểm soát và hướng theo con đường kinh tế tư bản Nhà nước. Thành phần này bao gồm các đơn vị kinh tế phần lớn vốn của tư nhân (cả trong và ngoài nước) đầu tư, hoạt động dưới hình thức xí nghiệp tư doanh, hoặc công ty cổ phần được luật pháp quy định. Thành phần này có ưu điểm mạnh về vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Nó có vai trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập kinh tế quốc dân, nâng cao đời sống. Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất. Đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế này là tư liệu sản xuất và sức lao động được kết hợp trực tiếp bởi cùng một chủ thể. Mặc dù người sản xuất được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn chịu tác động trực tiếp của các thành phần kinh tế khác và của thị trường. Trong suốt thời kỳ quá độ, đặc biệt chặng đường đầu, thành phần kinh tế cá thể có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất dịch vụ, tư liệu sinh hoạt phục vụ đời sống và sản xuất. Kinh tế cá thể tồn tại độc lập, có thể liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế của các thành phần kinh tế khác bằng nhiều hình thức, hoặc tham gia hợp tác xã tự nguyện nếu người lao động thấy cần thiết. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: là thành phần kinh tế mà chủ thể của nó là tư bản Nhà nước cùng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh; gồm các đơn vị kinh tế ở các ngành, các lĩnh vực dưới các hình thức công ty hợp doanh, gia công, thuê tài sản...Có thể khẳng định rằng trong thời kỳ quá độ, đây là hình thức kinh tế trung gian thích hợp nhất để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta. Các thành phần kinh tế cơ bản trên tồn tại trên cơ sở ba loại sở hữu chủ yếu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Ngoài ra, còn có những hình thức tổ chức kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế nào như hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty, xí nghiệp cổ phần, liên doanh, liên kết hai bên và nhiều bên giữa các chủ thể, giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Trên giác độ nghiên cứu, có thể phân chia khu vực kinh tế trong nước thành hai khu vực nhỏ hơn: khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cho phù hợp với những thuật ngữ đang được sử dụng phổ biến trong nhiều văn bản của Nhà nước và trong các cuộc hội thảo. Điểm khác biệt căn bản giữa thành phần kinh tế quốc doanh (KTQD) và thành phần kinh tế NQD là tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu của Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh dựa trên sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân với tập thể hay giữa các tư nhân với nhau. Đảng và Nhà nước ta qua các kỳ Đại hội đã khẳng định kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế ngoài quốc doanh giữ vai trò mở đuờng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. 3.2.Các chính sách kinh tế của Nhà nước để phát triển kinh tế NQD Quán triệt đường lối đổi mới kinh tế của Đảng nêu tại đại hội Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ VI, lần thứ VII, lần thứ VIII và Nghị quyết các hội nghị Trung ương. Nhà nước đã nhanh chóng cụ thể hóa thành những chính sách cụ thể và luật hoá để thực hiện. Trước hết cần phải được thể chế thành điều luật trong hiến pháp, điều 15 Hiến pháp năm 1992 đã qui định “ Nhà nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Về kinh tế NQD, điều 21 Hiến pháp năm1992 qui định: “kinh tế ngoài quốc doanh được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính sách kinh tế của Nhà nước còn nhằm giải phóng năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bằng các qui định của Hiến pháp, Nhà nước và xã hội đã chính thức thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế NQD trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, nếu chỉ công nhận khu vực kinh tế NQD tồn tại thôi thì chưa đủ mà cần phải định hướng cho khu vực kinh tế NQD phát triển theo đúng đường lối của Đảng, đúng mục đích đã định ra không để kinh tế NQD phát triển tự phát, chệch hướng. Vì vậy cần tiếp tục thể chế đường lối của Đảng, Hiến pháp thành những chính sách cụ thể. Trong những năm qua Nhà nước đã nghiên cứu, ban hành các chính sách cụ thể tạo hành lang pháp lý cho kinh tế NQD phát triển, đồng thời liên tục chỉnh lý cho các chính sách thật phù hợp với đời sống thực tiễn, khơi dậy mọi tiềm năng của khu vực kinh tế này. Trong các chính sách đó đáng chú ý là: - Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua năm 1990 và được thay thế bằng Luật doanh nghiệp được Quốc hội khoá X thông qua ngày 16/6/1999 và thống nhất thực hiện từ 1/1/2000. - Luật doanh nghiệp ra đời qui định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp. Từ Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân nay là Luật doanh nghiệp (Bao gồm các công ty Cổ phần, công ty TNHH, công ty Hợp doanh và Doanh ngiệp tư nhân) vừa thể hiện được tính nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, vừa thể hiện sự phát triển về nhận thức và hành động nhằm khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này. So với Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây, Luật doanh nghiệp mới có nhiều sửa đổi bổ xung cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống, tạo môi trường thoáng cho doanh nghiệp thành lập và hoạt động nên tuy mới chỉ sau một vài năm đã phát huy những tác dụng to lớn. - Nghị định của Chính phủ về cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh công thương nghiệp dịch vụ: qui định về đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động của cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp. Theo Nghị định này mọi cá nhân, nhóm cá nhân có nguyện vọng sản xuất kinh doanh chỉ thực hiện thủ tục khai báo đơn giản, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm phải cấp đăng ký kinh doanh, nếu cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh những ngành nghề không thuộc loại cấm. - Ban hành các luật thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức - sau này thuế doanh thu thay thế bằng thuế gía trị gia tăng, thuế lợi tức thay bằng thuế thu nhập doanh nghiệp, được áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế. Việc ban hành các luật thuế áp dụng cho mọi thành phần kinh tế là sự thể hiện rõ nét nhất tính chất bình đẳng của các thành phần kinh tế trong cạnh tranh. Trước năm 1990 nhằm phục vụ công cuộc cải tạo XHCN, Nhà nước ta áp dụng ba chính sách thu ngân sách cho ba khu vực khác nhau: Khu vực kinh tế Nhà nước áp dụng chính sách thu quốc doanh và phân phối lợi nhuận, khu vực công thương nghiệp và dịch vụ NQD áp dụng chính sách thu thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá, khu vực nông nghiệp áp dụng chính sách thu thuế nông nghiệp. Ngay khu vực ngoài quốc doanh công thương nghiệp và dịch vụ cũng có sự phân biệt giữa kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, theo khuynh hướng khuyến khích kinh tế tập thể bằng ưu đãi khi tính thuế, miễn giảm thuế... Để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, cần phải có một chính sách thuế thống nhất để tạo điều kiện cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Do đó việc ban hành các luật thuế áp dụng chung cho mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là kịp thời và cần thiết. Về nguyên tắc chung, hệ thống chính sách thuế mới đã đảm bảo sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khuyến khích sản xuất phát triển, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý. - Ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, thể hiện cụ thể về chủ trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh. Trong luật khuyến khích đầu tư trong nước cũng ban hành luôn các danh mục ngành nghề, danh mục các địa bàn khuyến khích đầu tư và chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng ngành nghề và từng địa bàn. Trong đó đặc biệt là các chính sách ưu đãi miễn giảm thuế được các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế NQD quan tâm và hoan nghênh. Ngoài ra các chính sách về tín dụng như áp dụng chung một mức lãi suất, chính sách về xuất nhập khẩu quy định mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia trực tiếp xuất nhập khẩu, chính sách về lao động quy định mọi công dân đến tuổi lao động ở mọi hình thức, mọi thành phần kinh tế đều có quyền lợi ngang nhau, chính sách về tiền lương cũng được ban hành mới và sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đồng thời Nhà nước cũng chỉ đạo mạnh mẽ việc cải tiến thủ tục hành chính tạo môi trường sản xuất kinh doanh, môi trường đầu tư lành mạnh, thông thoáng đã góp phần quyết định cho sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 4. Đặc điểm của khu vực kinh tế NQD tác động đến quản lý thu thuế - Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế NQD dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân, toàn bộ vốn, tài sản... đều thuộc sở hữu tư nhân. Trong hầu hết trường hợp chủ sở hữu là người quản lý và ra quyết định kinh doanh và chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Mục tiêu lớn nhất của tất cả các doanh nghiệp NQD là lợi nhuận. Vì vậy các doanh nghiệp rất nhanh nhậy trong tìm hiểu đầu tư và đầu tư có thể sẵn sàng bằng bất cứ giá nhào để kiếm được thật nhiều lợi nhuận với những phương án kinh doanh rất táo bạo và mạo hiểm. Đôi khi để đạt được mục đích họ có thể xem thường pháp luật kể cả trốn thuế... gây hậu quả cho xã hội. - Đối tượng kinh doanh lớn, kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực nhưng về mặt quy mô còn nhiều hạn chế, một số hoạt động ở lĩnh vực sản xuất do trình độ công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp... Đối tượng kinh doanh vừa lớn lại trải trên diện rộng ở khắp các địa phương trong cả nước làm cho việc quản lý đối tượng thêm phức tạp. - Khu vực kinh tế NQD có số đông người lao động là trình độ văn hoá thấp dẫn đến trình độ quản lý, trình độ công nghệ thấp trong số những người lao động ở khu vực này có cả những người già, cán bộ công nhân viên nghỉ hưu, nghỉ mất sức hoặc không có công việc làm phải kinh doanh để kiếm sống... Do đó việc tuyên truyền giải thích chính sách gặp nhiều vấn đề khó khăn, công tác quản lý có nhiều trở ngại do hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thông tin về thị trường... vì vậy khó ứng phó được với tác động thị trường bên ngoài. - Khu vực kinh tế NQD có ý thức chấp hành pháp luật rất kém. Tình trạng kinh doanh không có giấy phép hay vi phạm điều lệ đăng ký kinh doanh tương đối phổ biến. Theo số liệu điều tra liên ngành thì năm 1997 có 65% số hộ kinh doanh là không đăng ký, 25% số doanh nghiệp kinh doanh vi phạm về đăng ký kinh doanh... Đa số doanh nghiệp có sử dụng lao động vi phạm chế độ sử dụng lao động như không đóng bảo hiểm xã hội...Cũng tương tự như trên có 1 bộ phận không nhỏ số hộ kinh doanh không xin cấp mã số thuế, không đăng ký nộp thuế đối với các doanh nghiệp NQD cũng có tình trạng tương tự, nhiều doanh nghiệp xin thành lập nhưng không hoạt động, còn tình trạng lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ không đúng thực tế nhằm mục đích trốn thuế diễn ra phổ biến. - Khu vực kinh tế NQD có mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh gọn nhẹ, năng động và nhậy bén, là khu vực chiếm phần đông trong nền kinh tế song quy mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự tiến bộ không ngừng khoa học kỹ thuật, đồng thời trong các doanh nghiệp số lượng lao động ít và thường đảm nhận chức vụ theo kiểu đa năng giúp cho chi phí nhân công thấp tạo lợi thế cạnh tranh về giá và sản phẩm cung cấp cho thị trường trong nước nhưng do quy mô quá nhỏ bé dẫn đến khó cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của các thành phần kinh tế NQD. Từ đó ta có thể thấy được những ưu, nhược điểm để tìm cách tạo điều kiện phát huy thế mạnh cho khu vực kinh tế NQD góp phần vào quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước. Nội dung quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD Các sắc thuế áp dụng đối với khu vực kinh tế NQD 1.1. Thuế môn bài Thuế môn bài thu một năm một lần nhằm mục đích hoàn thiện việc kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với các cơ sở kinh doanh qua đó có căn cứ phân loại cơ sở kinh doanh theo quy mô lớn, vừa hay nhỏ để có biện pháp quản lý thích hợp với từng đơn vị và động viên một phần đóng góp của cơ sở kinh doanh ngay từ đầu mỗi năm để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho ngân sách Nhà nước trong khi nhiều khoản thuế chưa phát sinh nguồn thu. Thuế môn bài hiện nay đang áp dụng theo Nghị định số 52/CP ngày 9/9/1996 quy định: - Về đối tượng nộp thuế môn bài bao gồm: + Các cơ sở kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập (DNNN, công ty, DN tư nhân, xí nghiệp tư nhân, DN hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, tổ chức, các cá nhân người nước ngoài đang kinh doanh tại Việt nam, các tổ chức hành chính sự nghiệp, đoàn thể đăng ký hoạt động kinh tế) nộp thuế theo mức 850 nghìn đồng/năm. + Các cơ sở kinh doanh, cửa hàng, cửa hiệu hạch toán phụ thuộc hoặc báo sổ, Hợp tác xã, nộp thuế môn bài theo mức 550 nghìn đồng/ năm + ở các cơ sở kinh doanh trên có cửa hàng, điểm kinh doanh dịch vụ ở nhiều nơi khác nhau, thì cửa hàng đó phải nộp thuế môn bài theo mức 325 nghìn đồng/năm. - Các đối tượng khác nộp thuế môn bài theo biểu sau. Các đối tượng khác gồm: + Hộ sản xuất kinh doanh cá thể. + Cán bộ công nhân viên, xã viên hợp tác xã, người lao động trong các doanh nghiệp NQD nhận khoán tự trang trải mọi khoản chi phí, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. + Nhóm cán bộ công nhân viên, nhóm xã viên Hợp tác xã, nhóm người lao động nhận khoán nhưng từng cá nhân trong nhóm nhận khoán lại kinh doanh riêng rẽ, từng cá nhân trong nhóm còn phải nộp thuế môn bài riêng. + Các cơ sở kinh doanh trên danh nghĩa là các công ty Cổ phần, công ty TNHH...nhưng từng thành viên của công ty vẫn kinh doanh độc lập chỉ nộp một khoản tiền nhất định cho công ty để phục vụ yêu cầu quản lý chung thì thuế môn bài thu theo từng thành viên. Bảng 1: Biểu thuế môn bài áp dụng cho đối tượng khác nộp thuế Đơn vị tính: nghìn đồng Bậc thuế Thu nhập/ tháng Mức thuế cả năm 1 Trên 1250 850 2 Trên 900 đến 1250 550 3 Trên 600 đến 900 325 4 Trên 350 đến 600 165 5 Trên 150 đến 350 60 6 Dưới 150 25 Nguồn: Thông tư số 69 TC/TCT - Bộ Tài chính ngày 5/11/1996 - Thời gian nộp thuế môn bài: + Cơ sở kinh doanh có hoạt động sản xuất trong khoảng thời gian của 6 tháng đầu năm thì nộp thuế môn bài cả năm. + Cơ sở kinh doanh có hoạt động sản xuất trong khoảng thời gian của 6 tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm. + Cơ sở đang sản xuất kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng đầu của năm dương lịch + Cơ sở mới ra kinh doanh thì nộp thuế môn bài ngay tháng bắt đầu kinh doanh. - Nơi nộp thuế môn bài:Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế cấp nào thì nộp thuế môn bài tại cơ quan thuế cấp đó. Thuế Giá trị gia tăng (GTGT). Luật thuế GTGT thay thế luật doanh thu được áp dụng thống nhất kể từ 1/1/1999. Thuế GTGT tính từ trên khoản GTGT thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng nên khắc phục được nhược điểm đánh thuế trùng lặp của thuế doanh thu. Thuế được hoàn đối với hàng hóa xuất khẩu sẽ phát huy hết tác dụng khi xuất khẩu, tạo điều kiện cho xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị truờng quốc tế. Thuế GTGT kết hợp với hàng nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, góp phần tích cực bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước tăng cường hạch toán kế toán kinh doanh, thúc đẩy việc mua bán hàng hóa thực hiện tốt chế độ hóa đơn để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, khuyến khích hiện đại hoá, chuyên môn hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ gía thành sản phẩm... - Đối tượng đánh thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ở nước ta kể cả hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, hàng tiêu dùng nội bộ hay làm quà biếu, tặng, đem trao đổi trừ 26 mặt hàng được quy định trong luật thuế GTGT. - Đối tượng nộp thuế là mọi tổ chức, cá nhân (không phân biệt thành phần kinh tế) có hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Đối tượng phải kê khai thuế GTGT từng tháng và nộp thuế theo hạn thời hạn ghi trong báo cáo nộp thuế của cơ quan thuế, chậm nhất không quá ngày 25 của tháng tiếp theo. Hết năm phải kê khai để quyết toán thuế. - Giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế GTGT. Khi bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ trên hoá đơn phải ghi rõ giá bán hàng chưa có thuế GTGT, tiền thuế GTGT phải nộp và giá bán gồm cả thuế GTGT. - Về thuế suất: Có 4 mức thuế suất áp dụng đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ. + Mức 0% áp dụng cho hàng hoá xuất khẩu. + Mức 5% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ cần khuyến khích sản xuất tiêu dùng cần thiết cho nhu cầu đời sống. + Mức 10% áp dụng đối với các hàng hoá và dịch vụ phổ thông. + Mức 20% áp dụng cho các loại hàng hoá, dịch vụ không khuyến khích cần điều tiết cao - Về phương pháp có 2 phương pháp: Khấu trừ thuế và tính trực tiếp trên GTGT: + Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng đối với mọi cơ sở kinh doanh phải thực hiện chế độ hoá đơn GTGT và sổ sách kinh doanh, có căn cứ xác định thuế đầu ra và thuế đầu vào để thực hiện chế độ khấu trừ thuế: Thuế GTGT = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào + Phương pháp trực tiếp được thực hiện đối với các cơ sở kinh doanh không có điều kiện thực hiên chế độ sổ sách hoá đơn GTGT, chủ yếu áp dụng đối với các hộ nhỏ, thuế tính theo tỷ lệ GTGT trên doanh thu khoán trong một thời gian 6 tháng đến một năm. Thuế GTGT = GTGT x Thuế suất. + Về nguyên tắc: Thuế GTGT là thuế gián thu mà cơ sở kinh doanh đã thu hộ Nhà nước khi bán hàng nên không có chế độ miễn giảm thuế cho cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên trong bước đầu chuyển từ thuế doanh thu có 11 mức thuế sang thuế GTGT có 4 thuế suất, một số cơ sở kinh doanh phải nộp thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu trong những năm đầu bị lỗ thì được xét giảm thuế GTGT trong từng năm dương lịch. Thời gian được xét giảm thuế tối đa từ 3 năm kể từ khi luật thuế GTGT tương ứng với số lỗ của năm xét giảm thuế, nhưng tối đa không quá 50% số thuế GTGT phải nộp trong năm và theo thêm quyền xét giảm thuế GTGT được quy định cho từng cấp. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) Thuế TNDN thay thế Luật thuế lợi tức được thi hành từ 1/1/1999 nhằm bao quát và điều tiết tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của cơ sở kinh doanh trong cơ chế thị trường, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước tiết kiệm vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh qua các chế độ miễn giảm thuế từng bước thu hẹp sự khác biệt về chính sách thuế để đảm bảo sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, hệ thống hoá những quy định ưu đãi về thuế. - Về giá tính thuế: Điều 7 Nghị định 54 của Chính phủ ngày 28/8/1993 quy định. Giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu nhập (bao gồm cả phí vận chuyển, phí bảo hiểm...) theo hợp đồng. Còn với hàng xuất nhập khẩu không đủ điều kiện xác định giá tính thuế theo hợp đồng hay giá ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua bán tối thiểu tại cửa khẩu và đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu theo phương thức khác không phải là mua, bán, không thanh toán qua ngân hàng) thì giá tính thuế là giá mua, bán tối thiểu tại cửa khẩu. - Về chính sách miễn giảm thuế: Ngoài các đối tượng được miễn giảm thuế sau khi đã làm thủ tục hải quan như: hàng Viện trợ không hoàn lại, hàng là tài sản di chuyển, hàng trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của khách nhập cảnh... Luật thuế xuất, nhập khẩu hiện hành còn quy định những đối tượng sau được xét miễn giảm thuế: hàng chuyên dùng cho an ninh quốc phòng, nghiên cứu giáo dục và đào tạo... Quy định nói trên cho thấy chính sách miễn giảm thuế hiện nay còn khá rộng rãi so với các nước trong khu vực làm cho chính sách thuế thiếu tính minh bạch, giảm tính trung lập của thuế. Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) Như các luật thuế khác, luật thuế TTĐB quy định mọi tổ chức cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế có sản xuất kinh doanh hàng hoá và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB là đối tượng nộp thuế TTĐB. Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và thuế suất. Các sắc thuế khác Ngoài các sắc thuế nói trên, các cơ sở sản xuất kinh doanh còn phải nộp các khoản thuế khác như thuế nhà đất, thuế tài nguyên...Tuy nhiên vì các khoản này không phát sinh thường xuyên hay rất nhỏ nên không trình bày kỹ mục đích ý nghĩa, nội dung chính sách thu. 2- Nội dung quản lí thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 2.1 Qui trình quản lí thu thuế đối với các doanh nghiệp 2.1.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế 1- Doanh nghiệp lập đăng ký thuế: Doanh nghiệp mới ra kinh doanh phải đăng ký với Cục thuế. Sau đó doanh nghiệp gửi tờ khai đăng ký thuế tới cơ quan thuế. 2- Tiếp nhận đăng ký thuế: Phòng Hành chính nhận tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp, từ các chi cục gửi lên sau đó phân loại tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp theo từng phòng quản lý thu sau đó chuyển cho Phòng quản lý thu và Phòng máy tính. 3- Kiểm tra tờ khai đăng ký thuế - Phòng quản lý thu thực hiện. 4- Nhập đăng ký thuế và cấp mã số thuế - phòng máy tính thực hiện: 5- Chuyển dữ liệu đăng ký thuế về tổng cục thuế: Phòng máy tính của Tổng cục thuế truyền dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục Thuế để tránh sự trùng lập mã số thuế trên phạm vi toàn quốc. 6- Kiểm tra tại Tổng cục: Tổng cục kiểm tra dữ liệu đăng ký thuế các cục thuế trên phạm vi toàn quốc để tránh việc đăng ký trùng lắp đồng thời kiểm tra quan hệ doanh nghiệp chủ quản với đơn vị trực thuộc thông qua mã số thuế. 7- In giấy chứng nhận cấp mã thuế. 2.1.2 Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế 1- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lập tờ khai thuế: Phòng quản lý thu hướng dẫn các doanh nghiệp lập và khai thuế theo mẫu và gửi cơ quan thuế theo đúng hạn quy định của luật thuế. 2- Tiếp nhận tờ khai: Phòng Hành chính tiếp nhận tờ khai và chuyển đến phòng quản lý thu. 3- Kiểm tra tờ khai ban đầu: Phòng quản lý nhận tờ khai và phát hiện lỗi của đối tượng nộp sau đó gửi xuống phòng máy tính. 4- Nhập tờ khai: Phòng máy tính tiến hành xử lý kiểm tra sau đó thông báo cho phòng quản lý thu biết để báo cho ĐTNT về những sai sót trên tờ khai mà cơ quan thuế đã sửa. 5- Sửa lỗi kê khai: ĐTNT liên hệ với cơ quan thuế để sửa với thuế GTGT trước ngày 15 hàng tháng, với thuế TNDN trước ngày 28/2 của năm. 6- ấn định thuế: Phòng quản lý thu theo dõi ĐTNT không nộp tờ khai hoặc quá hạn sửa lỗi thì thực hiện việc ấn định thuế. 7- In thông báo thuế: + Thông báo thuế lần 1: Phòng máy tính tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính nợ phải nộp kỳ này đưa vào danh sách ấn định thuế và in thông báo thuế thời gian đối với thuế GTTG là in trước ngày 18 hàng thàng và đối với thuế TNDN là ngày 15 của tháng thứ 3. +Thông báo thuế lần 2: phòng quản lý thu theo dõi ĐTNT chưa nộp thuế lần1. Phòng máy tính ra thông báo thuế lần 2 số tiền là: số tiền thuế chưa nộp + số tiền phạt của thuế. 8- Xử lý nộp phạt: + Tính phạt nộp chậm: Phòng KH - KT - TK(MT) tính phạt 0,1%/ ngày trên số tiền thuế nộp chậm đối với các đối tượng nộp thuế nộp chậm tiền thuế. Việc tính phạt nộp chậm căn cứ vào số ngày và số tiền thuế chậm. + Phạt hành chính: Phòng Quản lý thu hoặc phòng TT-XLTT xem xét, lựa chọn đối tượng nộp thuế cần phạt thuế theo quy định tại thông tư số 128/1998/TT-BTC về xử phạt hành chính để trình lãnh đạo Cục duyệt. 9- Lập lệnh thu: Phòng Quản lý thu theo dõi tình hình nợ đọng thuế, lựa chọn và lập danh sách các đối tượng nộp thuế. 10- Nộp thuế: Đối tượng nộp thuế căn cứ vào tờ khai tính thuế của mình để nộp thuế vào Kho bạc, phòng Quản lý thu có trách nhiệm theo dõi đối tượng nộp thuế theo đúng hạn định. 11- Thu thuế tại Kho bạc: 12- Nhận giấy nộp tiền: 13- Lập kế hoạch kiểm tra đối tượng nộp thuế về kê khai thuế: Phòng Thông tin - Xử lý thông tin và các phòng Quản lý thu khai thác danh sách đối tượng nộp thuế có nghi vấn về kê khai thuế trên máy tính. 14- Xử lý danh sách đối tượng nộp thuế nghi vấn: 15- Kiểm tra trực tiếp đối tượng nộp thuế: Phòng TT – XLTT phối hợp với phòng quản lý thu thực hiện kiểm tra trực tiếp theo quy trình quy định. 16- Nhập kết quả sau kiểm tra: 17- Lập sổ thuế, báo cáo kế toán: 2.1.3 Xử lý hoàn thuế: 1- Lập và gửi hồ sơ đề nghị hoàn thuế: Đối tượng hoàn thuế lập hồ sơ theo quy định để đề nghị hoàn thuế và gửi đến cơ quan thuế trực tiếp thu. 2- Tiếp nhận hồ sơ: 3- Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế được hoàn: Phòng Quản lý thu kiểm tra các thủ tục hoàn thuế của đối tượng nộp thuế. Sau khi kiểm tra hồ sơ đề nghị hoàn thuế phòng Quản lý thu thông báo cho đối tượng nộp thuế để bổ sung chỉnh sửa kịp thời. 4- Lãnh đạo duyệt. 5- Gửi và lưu các Quyết định hoàn thuế. 6- Lập danh sách ĐTNT được hoàn thuế. Phòng Quản lý thu căn cứ vào quyết định hoàn thuế để lập danh sách kết quả hoàn thuế, lãnh đạo Phòng Quản lý thu ký xác nhận danh sách. 7- Kho bạc hoàn thuế. 8- Nhập chứng từ hoàn thuế: Có hai cách là: + Nhập số thuế được hoàn theo Quyết định. + Nhập số đã hoàn theo chứng từ kho bạc. 2.1.4 Xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế: 1- Lập, gửi hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm, tạm giảm thuế: ĐTNT thuộc diện được miễn, giảm thuế theo Luật thuế phải lập hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế theo qui định để gửi tới cơ quan thuế. 2- Tiếp nhận hồ sơ. 3- Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế miễn hoặc giảm, tạm giảm thuế. Phòng Quản lý thu nhận hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế của ĐTNT, tiến hành kiểm tra thủ tục hồ sơ để xác định số thuế được miễn, giảm, tạm giảm. 4- Duyệt hồ sơ, ký quyết định miễn thuế, tạm giảm hoặc giảm thuế. 5- Gửi quyết định miễn thuế, tạm giảm hoặc giảm thuế . 6- Lập danh sách miễn, giảm, tạm giảm thuế. 7- Điều chỉnh số thuế phải nộp. Phòng KH-KT-TK(MT) nhận danh sách kết quả quyết định miễn thuế, nhập số thuế được miễn, tạm giảm hoặc giảm để điều chỉnh số thuế phải nộp từng kỳ của ĐTNT. 8- Lưu hồ sơ. 2.1.5 Xử lý quyết toán thuế: 1- ĐTNT lập và gửi quyết toán. 2- Nhận quyết toán thuế. 3- Kiểm tra số liệu quyết toán thuế. Kiểm tra ban đầu: Phòng Quản lý thu nhận quyết toán thuế, kiểm tra phát hiện các chỉ tiêu kê khai sai trong quyết toán thuế. Kiểm tra xác minh số liệu quyết toán thuế: Đối với các bản quyết toán thuế kê khai rõ ràng, đầy đủ chứng từ chứng minh số liệu, Phòng Quản lý thu kiểm tra tính chính xác của các số liệu kê khai trên quyết toán. 4- Xác định kết quả quyết toán thuế: 5- Điều chỉnh thuế phải nộp: Phòng KH-KT-TK (MT) điều chỉnh số thuế phải nộp vào tháng hoặc quý hiện tại. 6- Lưu hồ sơ quyết toán: Phòng Quản lý thu lưu vào hồ sơ doanh nghiệp 2.1.6 Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế: Phòng Quản lý thu: Có nhiệm vụ tạo lập và quản lý hồ sơ các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một cặp hồ sơ riêng lưu trữ các tài liệu như: 1- Đăng ký thuế. 2- Thông báo thuế. 3- Các hồ sơ và quyết định hoàn thuế, giảm, tạm giảm thuế. 4- Quyết toán thuế. 5- Các biên bản kiểm tra, quyết định xử lý kiểm tra. 6- Các quyết định phạt hành chính thuế. 7- Lệnh thu. 8- Các tài liệu, giấy tờ có liên quan đến doanh nghiệp 2.2. Qui trình quản lý thu thuế: (đối với hộ cá thể kinh doanh công thương nghiệp) 2.2.1 Đăng ký thuế 1- Quản lý địa bàn: Đội thuế có trách nhiệm phối hợp với chính quyền phường, xã nắm số hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. 2- ĐTNT kê khai đăng ký thuế: Có hai trường hợp: - Cá nhân (hộ) ra kinh doanh lần đầu phải tiến hành kê khai đăng ký thuế để được cấp mã số thuế. - Cá nhân (hộ) trước đó đã được cấp mã số thuế, nhưng nghỉ kinh doanh dài hạn, sau đó lại kinh doanh lại vẫn phải thực hiện đăng ký nộp thuế lại cơ quan thuế, nhưng cấp mã số thuế mới (ĐTNT sử dụng mã số thuế đã có). 3- Nhận tờ khai đăng ký thuế: Đội thuế nhận tờ đăng ký thuế của các ĐTNT. Kiểm tra các chỉ tiêu kê khai và trực tiếp liên hệ với ĐTNT chỉnh sửa tờ khai đăng ký thuế nếu có lỗi . 4- Nhận Giấy chứng nhận đăng ký thuế: 5- Gửi giấy chứng nhận đăng ký thuế (ĐKT) cho ĐTNT: Các đội thuế nhận giấy chứng nhận đăng ký thuế và lập sổ theo dõi việc phát giấy chứng nhận ĐKT theo mẫu số 02/NQD . 2.2.2 Điều tra doanh số ấn định: Giao chỉ tiêu phấn đấu 2- Phân loại ĐTNT Hướng dẫn ĐTNT kê khai thuế 4- Điều tra xác định doanh số của ĐTNT: Trực tiếp điều tra hoặc phối hợp với hội đồng tư vấn thuế phường, xã tổ chức điều tra xác định doanh số điển hình theo mẫu số 03/NQD để làm căn cứ tham khảo khi xác định doanh số chung của các hộ. 5 -Thực hiện công khai hoá doanh số dự kiến. 6 -Tham khảo ý kiến của hội đồng tư vấn thuế. 7- Duyệt mức doanh số ấn định: Sau khi hội đồng tư vấn thuế xem xét và tham gia ý kiến về mức doanh số dự kiến ấn định cho các hộ mới phát sinh và hết hạn ổn định thuế, tổ KH-NV tập hợp, kiểm tra lại kết quả của ấn định. 2.2.3 Xét miễn giảm thuế: 1- ĐTNT nộp đơn đề nghị miễn, giảm thuế: Các hộ kinh doanh trong diện được miễn thuế và các hộ tạm nghỉ kinh doanh trên 15 ngày phải viết đơn đề nghị cơ qua thuế xét miễn, giảm thuế. 2 -Kiểm tra, giải quyết đơn đề nghị miễn, giảm thuế: Tổ kiểm tra Chi cục phối hợp với các đội thuế tổ chức tiến hành kiểm tra các hộ có đơn nghỉ kinh doanh. 2.2.4 Tính thuế, lập sổ bộ thuế (đối với hộ ấn định thuế): 1- Tập hợp các căn cứ tính thuế: Tổ Kế hoạch - Nghiệp vụ (KH- NV) thu nhập danh sách dự kiến doanh số ấn định của các hộ mới ra kinh doanh và các hộ dự kiến điêù chỉnh doanh số ấn định để làm căn cứ tính thuế cho kỳ thuế tới. 2- Tính thuế, tính nợ và phạt (nếu có) và lập sổ bộ thuế: - Đối với các hộ còn trong thời hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV thực hiện chuyển sổ, giữ nguyên mức doanh số, thuế và tính tiền nợ, tiền phạt ngay từ đầu tháng, sau đó thực hiện in thông báo ngay. - Đối với các hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế: Tổ KH-NV căn cứ vào bảng dự kiến doanh số ấn định của từng hộ mới phát sinh hoặc hết hạn ổn định thuế, dựa vào bảng tỷ lệ giá trị gia tăng... để tính thuế cho từng hộ này. Đồng thời tính nợ thuế và phạt nộp chậm đối với các hộ hết hạn ổn định thuế. - Tính phạt: Tổ KH-NV và tổ kiểm tra Chi cục qua theo dõi việc nộp thuế của các hộ, đề xuất danh sách các hộ phạt hành chính thuế về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. 3- Tổ chức duyệt sổ bộ thuế: 4- Công khai thuế: Các đội thuế thực hiện niêm yết công khai hoá mức thuế của các hộ này tại trụ sở UBND phường, xã, các tổ ngành hàng để các ĐTNT được biết. 5- Thông báo thuế Thông báo thuế ghi đầy đủ mã số ĐTNT (do Cục thuế cấp), số thuế nợ tháng trước chuyển qua, số thuế phải nộp tháng này, địa điểm nộp thuế và các chỉ tiêu khác. 6- Công tác kiểm tra: Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp, giám sát quá trình tính thuế, lập bộ để kịp thời phát hiện các trường hợp có hiện tượng trốn, lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra lại cơ sở. 2.2.5. Xử lý tờ khai: 1. ĐTNT lập tờ khai thuế: Hộ kinh doanh phải lập các tờ khai thuế theo mẫu quy định và gửi cơ quan thuế. 2. Nhận và kiểm tra tờ khai: Đội thuế nhận tờ khai thuế từ các hộ kinh doanh. Ghi sổ theo dõi việc nhận tờ khai. Sau đó tiến hành kiểm tra tờ khai để phát hiện các lỗi như: + Ghi sai tên ĐTNT. + Không ghi mã số thuế. + Khai thiếu chỉ tiêu hoặc sai mẫu tờ khai. + áp thuế suất sai, tính toán sai. + Các chỉ tiêu tiền bằng ngoại tệ chưa quy đổi ra tiền việt. ấn định thuế: Tổ KH - NV lập danh sách ấn định thuế cho kỳ thuế trước ngày 15 của tháng để trình lãnh đạo duyệt. 4. Tính thuế, tính nợ, tính phạt và lập sổ bộ thuế: Tổ KH - NV căn cứ vào tờ khai thuế, danh sách ấn định thuế, các kết quả kiểm tra, quyết định phạt hành chính,... để tiến hành tính thuế, tính nợ kỳ trước chuyển qua và tính phạt nộp chậm tiền thuế. Sau đó lập sổ bộ thuế. 5. Thông báo thuế: - Thông báo thuế lần 1: Tổ KH - NV tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính thuế phải nộp tháng này dựa vào tờ khai và danh sách ấn định thuế, tính phạt và in thông báo thuế. - Thông báo thuế lần 2: Qua theo dõi thu nộp của ĐTNT, tổ KH - NV lựa chọn ĐTNT cần phát hành thông báo thuế lần 2. Số tiền trong báo lần 2 gồm: số tiền chưa nộp và số tiền phạt của số thuế nộp chậm. 6. Phạt hành chính thuế: Trong quá trình quản lý thu, nếu phát hiện ĐTNT vi phạm quy định về phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực thuế, các đội thuế hoặc tổ kiểm tra Chi cục để xuất và dự thảo quyết định phạt hành chính thuế trình lãnh đạo Chi cục duyệt. 7. Lập lệnh thu: Tổ KH - NV phối hợp với đội thuế và tổ kiểm tra Chi cục lập danh sách ĐTNT nợ thuế lớn, kéo dài đề nghị lập lệnh thu trình lãnh đạo duyệt. 8. Công tác kiểm tra: Tổ kiểm tra khai thác thông tin về tình hình thu nộp để lựa chọn các đối tượng nộp thuế trong diện kê khai cần kiểm tra tại cơ sở. Lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo duyệt và tiến hành kiểm tra tại cơ sở kinh doanh. 9. Quyết toán thuế: Hộ kê khai lập quyết toán thuế và nộp cho cơ quan thuế. Đội thuế nhận quyết toán và chuyển quyết toán cho tổ KH - NV để xác định số thuế phải nộp để tổ KH - NV điều chỉnh số thuế trong kỳ thuế hiện tại. 2.2.6. Xử lý giấy nộp tiền, lập báo cáo KT - TK thuế: 1. Nộp thuế: ĐTNT căn cứ vào thông báo thuế để nộp thuế. 2. Thu thuế tại Kho bạc: 3. Theo dõi tình hình nộp thuế (chấm bộ thuế): Tổ KH - NV hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ Kho bạc. Căn cứ vào số liệu trên giấy nộp tiền để chấm sổ bộ thuế, theo dõi tình hình nộp thuế và nợ đọng thuế của các ĐTNT. 4. Kiểm tra các ĐTNT nợ đọng thuế: Qua việc theo dõi tình hình thu nộp thuế, tổ kiểm tra phối hợp với các đội thuế lựa chọn các ĐTNT nợ đọng thuế lớn, nợ kéo dài hoặc có hiện tượng nghi ngờ về trốn lậu thuế để lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo Chi cục duyệt, sau đó, tiến hành kiểm tra ĐTNT theo kế hoạch. 5. Chuyển chứng từ nộp thuế của ĐTNT theo phương pháp khấu trừ về Cục thuế. 6. Thẩm hạch biên lai 7. Lập báo cáo kế toán, thống kê Theo kỳ hạn quy định, tổ KH - NV lập các báo cáo kế toán, thống kê theo chế độ để gửi lãnh đạo Chi cục và cấp trên để phục vụ cho công tác chỉ đạo thu. Chương II Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay I. Khái quát về bộ máy quản lý thu thuế 1. Giới thiệu chung về bộ máy quản lý thu thuế Lịch sử ngành thuế Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phát triển để thành lập nên ngành thuế Nhà nước thống nhất vào ngày 7/7/1990. Nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đổi mới của hệ thống chính sách thuế. Hội đồng Chính phủ đã ban hành nghị định số 281-HĐBT về việc thành lập ngành thuế Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) được hợp nhất từ ba hệ thống tổ chức: Thu Quốc doanh, Thu Công thương nghiệp, thuế Nông nghiệp thành một hệ thống thuế thống nhất từ TW đến địa phương, kiện toàn bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảm bảo các mục tiêu cải cách của hệ thống thuế mới với hiệu quả cao nhất. Ngành thuế Nhà nước được tổ chức qua 3 cấp từ Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế; được xác đinh rõ quyền hạn, trách nhiệm và sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế với ngành dọc cấp trên và chính quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, chế độ thuế chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc song trung lãnh đạo Hệ thống bộ máy tổ chức ngành thuế được xây dựng theo nguyên tắc sau. - Hệ thống thu thuế Nhà nước được thống nhất thành hệ thống dọc từ Trung ương đến quận, huyện, thị xã: + ở Trung ương: Có Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính là bộ máy quản lý thu thuế cao nhất trong hệ thống thu thuế Nhà nước, có nhiệm vụ giúp Bộ Tài chính soạn thảo các Luật, Pháp lệnh, các văn bản pháp quy liên quan đến chính sách, chế độ thuế đông thời hướng dẫn chỉ đạo việc thực hiện chính sách, chế độ quản lý thu thuế và thu khác trong cả nước. + ở cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương: Cục thuế. Nhiệm vụ chính là hướng dẫn tổ chức việc chỉ đạo, thực hiện thống nhất các chính sách, chế độ, nguyên tắc về quản lý thu thuế trên địa bàn theo đúng pháp luật, pháp lệnh, các quy định của hội đồng Nhà nước, hội đồng Bộ trưởng và hướng dẫn Bộ Tài chính và cơ quan thuế cấp trên: Tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách thuế cho các đối tượng nộp thuế, các ngành, các cấp và toàn dân chấp hành. + ở các quận, huyện và các cấp hành chính tương đương: Có chi cục thuế. Nhiệm vụ là tổ chức việc triển khai thực hiện chính sách, chế độ thuế trên địa bàn (như tổ chức các biện pháp thu thuế, tính thuế. đến từng đối tượng nộp thuế, tổ chức công tác, kiểm tra chống khai man, lậu thuế..., tổ chức công tác thống kê, kế toán, thông tin). 2. Bộ máy quản lý thu thuế khu vực kinh tế NQD - ở cấp TW: Có phòng thuế NQD của Tổng cục Thuế. Phòng nghiệp vụ thuế khu vực kinh tế NQD có chức năng giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế hướng dẫn chỉ đạo cơ quan thuế địa phương tổ chức thực hiện công tác quản lý và thu thuế khu vực kinh tế NQD. Nhiệm vụ cụ thể: + Phối hợp, tham gia với phòng chính sách và các phòng nghiệp vụ có liên quan nghiên cứu, xây dựng, hướng dẫn các chính sách, chế độ về thuế đối với khu vực kinh tế NQD bao gồm mọi loại hình doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể, các HTX để trình bày các cấp có thẩm quyền để ban hành. + Nghiên cứu, xây dựng các quy trình, quy chế và các biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với khu vực này đảm bảo thực hiện chính sách chế độ thuế, chống thất thu có hiệu quả, chống buôn lậu trốn thuế. + Hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra cơ quan thuế các cấp trong việc thực hiện chính sách, quy chế, quy trình và biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với khu vực NQD (như quy trình tách 3 bộ phận, tổ chức thu thuế qua Kho bạc, triển khai kế toán tư nhân, tổ chức duyệt sổ bộ thuế tổng hợp, quy trình điều chỉnh thuế v.v...). + Xem xét, giải quyết những vướng mắc của cơ sở kinh tế NQD trong quá trình thi hành pháp luật, pháp lệnh thuế; xem xét đề nghị và kiểm tra việc giảm thuế, miễn thuế của cơ quan thuế các cấp địa phương trong khu vực kinh tế NQD. + Phối hợp với các phòng có liên quan trong Tổng cục Thuế để xây dựng kế hoạch thu, tổng hợp đánh giá, phân tích tình hình kết quả thu, đề xuất với Tổng cục, Bộ có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo thích hợp trong lĩnh vực thuế khu vực kinh tế NQD nhằm tăng thu cho ngân sách. + Phối hợp với phòng ấn chỉ nghiên cứu biểu mẫu, biên lai chỉ thuế phù hợp với đối tượng quản lý cũng như kiểm tra quá trình quản lý, sử dụng các loại biên lai, ấn chỉ thuế tại các địa phương. + Tham gia với các ngành, các cấp về chủ trương, biên pháp khuyến khích phát triển kinh doanh sản xuất NQD, mở rộng giao lưu hàng hoá, chống buôn lậu kinh doanh hàng hoá trái phép v.v... + Tham gia biên soạn các tài liệu, giáo án cũng như giảng dạy cho các lớp đào tạo, bồi dưỡng của ngành. + Tổ chức công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ các văn bản pháp quy của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lýcủa phòng theo đúng quy định của ngành; quản lý và điều hành cán bộ, nhân viên trong phòng thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước và làm tốt nhiệm vụ được giao. - ở cấp Tỉnh, Thành phố: Có phòng NQD, phòng nghiệp vụ, phòng thanh tra của Cục Thuế: Các phòng này đều có những nhiệm vụ riêng trong việc thực hiện, chấp hành các chế độ chính sách của Tổng cục Thuế, BTC đưa ra đối với khu vực kinh tế NQD. - ở cấp quận, huyện: Có các tổ nghiệp vụ, tổ thanh tra, các đội thuế chủ yếu là quản lý các hộ kinh doanh trên địa bàn. II. Thực trạng công tác quản lí thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay Kết quả công tác thu thuế Về số lượng 1.1.1.Đối với các doanh nghiệp: - Trước khi có Luật Doanh nghiệp: Từ năm 1990 ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, đồng thời một số chỉ thị quyết định, chính sách khác đã được triển khai. Nhờ đó số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty CP, cụ thể năm 1991 có tất cả 494 doanh nghiệp hoạt động thì năm 1992 có 5198 doanh nghiệp, năm 1993 có 6808 doanh nghiệp, năm 1994 có 10881 doanh nghiệp, năm 1996 có 15.276 doanh nghiệp, năm 1999 có 37.577 doanh nghiệp. Như vậy tính bình quân từ 1991-1999 mỗi năm tăng hơn 3000 doanh nghiệp. Có thể nói rằng với nền kinh tế gồm 80 triệu người thì số DNNQD ở mức 37575 DN là quá ít. Trong đó số lượng các DNNQD hoạt động thương mại, dịch vụ hầu như luôn tăng nhanh hơn số các DNNQD hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, cụ thể: Bảng 2: Cơ cấu các doanh nghiệp NQD Đơn vị: doanh nghiệp Năm Tổng số DN NQD(1) DN trong lĩnh vực TMDV(2) Tỷ lệ (3)=(2)/(1) (%) DN trong lĩnh vực SX (4) Tỷ lệ (5)=(4)/(1) (%) 1991-1996 15.276 5.958 39 5.347 35 1997-1998 28.708 14.067 49 6.316 22 1999-2000 51.468 27.793 54 7.720 15 Nguồn: Báo cáo của Phòng Thương mại và công nghiệp. - Sau khi có Luật DN (năm 2000): Nhờ xoá bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập DN loại bỏ 165 loại giấy phép kinh doanh, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh mà trong vòng chỉ 1 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực 13.891 DN mới được thành lập bằng 1/5 tổng số doanh nghiệp thành lập từ năm 1990 đến 1999. Và một điểm đáng chú ý là trong một thời gian này có khoảng hơn 500 công ty Cổ phần mới được thành lập lớn hơn tổng số công ty Cổ phần được thành lập suốt 9 năm trước cộng lại vì từ năm 1991 đến 1999 có 214 công ty CP. Theo số liệu tổng hợp của DNNQD đã đăng ký nộp thuế (đã được cấp mã số thuế) của Bộ Tài Chính thì số DNNQD đang hoạt động thấp hơn mức cơ quan đăng ký kinh doanh ghi nhận được. Bảng 3: Tổng hợp số DNNQD đăng ký nộp thuế Đơn vị tính: nghìn doanh nghiệp Loại DN 31/12/98 31/12/99 Đến 31/12/2000 Đến 31/12/2001 Tổng số đăng ký Đang HĐ Nghỉ KD Tổng số đăng ký Đang HĐ Nghỉ KD Cty TNHH 9.375 13.850 21.031 20.255 776 30.160 29.356 804 Cty CPhần 582 933 1.178 1.668 50 3.986 3.928 58 DNTN 18.751 22.794 28.719 27.277 1.442 34.925 33.459 1.466 Tổng số 28.708 37.577 51.468 49.200 2.268 69.071 66.743 2.328 Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê. Như vậy số DN nêu trên chưa kể HTX, quỹ tín dụng, các chi nhánh của các công ty. Số liệu quản lý thu thuế thấp hơn so với số liệu cấp đăng ký kinh doanh số liệu cấp đăng ký kinh doanh là cộng theo luỹ kế chưa loại trừ các trường hợp có đăng ký kinh doanh nhưng không khai báo nộp thuế hoặc tạm nghỉ kinh doanh, do vậy số DN đăng ký hoạt động lớn hơn nhưng số lượng DN thu thuế thì ít hơn. 1.1.2. Đối với hộ cá thể: Ta xét bảng sau: Bảng 4: Số hộ kinh doanh trong các năm Đơn vị tính: nghìn hộ. Năm Số hộ kinh doanh 1990 750 1995 1.150 1997 1.400 2000 1.700 2001 1.954 Nguồn: Tổng cục Thuế Nổi lên trong những năm gần đây do Chính Phủ khuyến khích thành lập doanh nghiệp, vì vậy nhiều hộ kinh doanh lớn đã chuyển lên thành lập DN, tức là có sự chuyển dịch thu từ cá thể sang DN. Theo phản ánh của các địa phương, trong năm 2000 có đến 2/3 số doanh nghiệp mới thành lập và chuyển từ hộ kinh doanh cá thể lên. 1.2. Về vốn đầu tư Theo số liệu điều tra liên bộ năm 1997 tổng số vốn đăng ký toàn ộ khu vực kinh tế NQD là 26.845 tỷ đồng. Trong đó khu vực doanh nghiệp là 18.945 tỷ đồng, khu vực hộ cá thể là 7.900 tỷ đồng. Số vốn thực tế đưa vào hoạt động sản xuất là 47.676 tỷ đồng. Trong đó: - Khu vực Doanh nghiệp : 2.436tỷđồng. - Khu vực Hộ cá thể : 15.134 tỷ đồng. Cũng theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, trong năm 2000 các DN NQD đã đăng ký vốn lên đến 37.000 tỷ đồng, tài sản cố định (TSCĐ) với số vốn gần 7 tỷ đồng, và là một trong những thành phần kinh tế có tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển vào loại cao. Điều đó được thể hiện ở bảng sau Bảng 5: Vốn theo đăng ký tính đến 31/12/1999. Loại hình DN Vốn đăng ký(Tỷ đồng) Tỷ lệ(%) DN Nhà nước 113.562 80,626 DN Tư nhân 6.177 4,385 Cty TNHH 13.373 9,495 Cty Cổ phần 5.280 3,749 HTX phi nông nghiệp 254 0,180 DN của các tổ chức 2.203 1,564 Tổng 140.849 100 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Vốn đầu tư của các hộ kinh doanh năm 1999 đạt 30.000 tỷ đồng chiếm 19,7% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, tuy nhiên chỉ có khoảng 50% trong tổng số vốn này dùng cho phát triển hoạt động sản xuất, 50% còn lại là dùng vào xây nhà ở làm cơ sở vật chất cho các năm sau. Số vốn trên còn thấp xa so với số vốn thực tế cần được huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vì tính chung hàng năm khu vực NQD đầu tư vào hoạt động sản xuất chỉ chiếm 14-15% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Tình hình này cho thấy, trong thời gian tới cần có nhiều chính sách, giải pháp phù hợp để khuyến khích khu vực này tăng cường đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh. . Về lao động Theo số liệu điều tra thống kê liên bộ giữa Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Tổng cục Thống kê thực hiện theo chỉ thị 675 của Thủ tướng Chính phủ. Đến 31/12/1996 khu vực kinh tế NQD đã thu hút: 2.978.600 lao động trong đó: - Khu vực Doanh nghiệp: 560.000 lao động. - Khu vực Hộ cá thể : 2.418.800 lao động. Số lao động trên chưa kể lao động thời vụ, nếu tính cả số lao động này có thể lên đến 4-4,5 triệu lao động. Hiện nay tính đến 31/12/2001 khu vực này đã có khoảng 7-8 triệu lao động. Nếu so với khu vực DNNN và DN có vốn đầu tư nước ngoài thì số lượng lao động làm việc ở khu vực NQD là không nhỏ. Bảng 6: Tốc độ tăng trưởng việc làm trong các khu vực doanh nghiệp Đơn vị tính: % Khu vực DN 1996 so với 1995 1997 so với 1996 1998 so với 1997 DNNN 21,7 4,7 0,3 Hộ cá thể 3,4 3,1 3,4 DN khối tư nhân 13,7 12,0 16,2 HTX 20,1 16,9 - 3,7 Nguồn: Tổng cục thuế 1.4. Về đóng góp cho ngân sách Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD mới đúng bản chất là “ thuế”. Vì khác với DNNN, nhà nước không phải là chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Nhà nước thu thuế của các khu vực kinh tế NQD mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Ta có bảng sau: Bảng 7: Thu ngân sách của khu vực kinh tế NQD Năm Số thu (tỷ đồng) Tốc độ tăng (%) 1995 4.330 100 1996 5.187 119,7 1997 5.665 109,2 1998 5.828 102,8 1999 5.581 95,7 2000 5.830 104,5 2001 6.643 113,9 Nguồn: Tổng cục Thuế. Trong đó thu từ khu vực DN có xu hướng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong khi khu vực hộ cá thể chiếm tỷ trọng ngày càng giảm. Cụ thể là số thu DNNQD năm 1995 chiếm 15% tổng số thu NQD, năm 1996 chiếm 27,4% tổng số thu, khu vực DN NQD năm 2000 chiếm 40% tổng số thu, năm 2001 chiếm 45% tổng số thu. Trong khi thu từ hộ kinh doanh tăng 3%, số thu này chưa bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế nhà đất, thuế xuất nhập khẩu, lệ phí, thuế GTGT nhập khẩu, thuế thu nhập của người có thu nhập cao. Năm 1999 số thu về thuế có giảm so với năm 1998 vì một phần thuế gián thu (GTGT) đối với hàng hóa nhập khẩu chuyển cho ngành Hải quan thu. Những số liệu trên chỉ là số phản ánh vào ngân sách nhà nước, thực tế khu vực NQD còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước thông qua các hoạt động như ủng hộ lũ lụt, thương binh liệt sĩ, đóng góp cho quỹ an ninh, xây dựng trường học.... 1.5. Về đóng góp vào GDP Theo số liệu của Tổng cục Thuế, từ năm 1995-2000 GDP ( Tổng sản phẩm quốc nội) khu vực kinh tế NQD thường chiếm trên 10% tổng GDP xã hội. Ta có bảng sau Bảng 8: Đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế NQD. Đơn vị: Nghìn tỷ đồng Năm GDP NQD GDP xã hội Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng trưởng (%) 1995 29.268 228.656 12,80 100,0 1996 31.675 271.888 11,65 108,2 1997 39.740 312.913 12,70 125,4 1998 44.090 361.393 12,20 110,9 1999 47.339 399.485 11,85 107,3 2000 52.734 462.579 11,40 111,3 Nguồn: Tổng cục Thuế. Cũng theo số liệu thống kê của Tổng cục Thuế, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực NQD năm nào cũng đạt cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế chung và tăng cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước. Cụ thể trong 5 năm từ 1996-2000 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 6,94% trong đó khu vực kinh tế NQD có tốc độ tăng như trên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực kinh tế NQD góp phần vào việc thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do nhà nước đề ra hàng năm, làm cho bức tranh kinh tế xã hội cả nước ngày càng sáng sủa, lành mạnh. Tình hình thực hiện các biện pháp quản lý thu thuế trong thời gian qua Để hoàn thành công tác quản lý thu thuế năm 2001, từ tháng 11,12/2000 và liên tục trong một vài tháng đầu năm 2001 Tổng cục Thuế đã chỉ đạo tập trung vào một số biện pháp sau đây: - Rà soát nắm hoạt động đối tượng kinh doanh đưa vào diện quản lý thuế. - Điều chỉnh ngay doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán, ổn định, phấn đấu mức thuế mới tăng bình quân 10% so với mức thuế tháng 12/2000. - Đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh đưa tất cả hộ kinh doanh có môn bài bậc 1, bậc 2 vào diện triển khai. - Tăng cường quản lý các doanh nghiệp NQD, thu đúng, thu đủ số thuế phát sinh. - Đẩy mạnh kiểm tra, phát hiện các trường hợp gian lận thuế, lập hoá đơn, chứng từ không đúng giá thực tế thanh toán. - Thực hiện nghiêm túc các qui trình quản lý thu.... Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế đã tích cực triển khai và đã đạt được một số kết quả góp phần tăng thu nhập Ngân sách, chấn chỉnh công tác quản lý, khai thác nguồn thu.... thể hiện ở một số điểm sau. Về quản lý đối tượng kinh doanh 2.1.1 Về quản lý các DN NQD Công tác quản lý các DNNQD đã có chuyển biến đáng kể, các cục thuế đều bám sát tiến độ cấp đăng ký kinh doanh (ĐKKD)của Sở Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện đăng ký thuế, cấp mã số thuế đưa vào diện quản lý điển hình. Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc thực hiện, tức là người xin thành lập DN chỉ nộp hồ sơ cho Sở KH-ĐT. Cục thuế phối hợp với Sở KH- ĐT ngay từ khi xem xét cấp đăng ký kinh doanh đảm bảo khi được cấp ĐKKD, doanh nghiệp được cấp ngay mã số thuế. Với tốc độ thành lập tương đối nhiều nhưng bằng cách này, Cục Thuế đã bám rất sát tiến độ cấp ĐKKD, đảm bảo cấp ĐKKD đến đâu là có tên ngay trong danh bạ quản lý thuế. Nhưng cũng có nhiều địa phương chưa có điều kiện thực hiện được theo phương án trên nên các cơ quan thuế đã chủ động liên hệ với Sở KH - ĐT định kì nắm số doanh nghiệp đã được cấp ĐKKD để thông báo kịp thời cho DN đến đăng ký thuế xin cấp mã số thuế, do đó cơ sở đã được cấp ĐKKD và cơ sở được cấp mã số thuế tương đối khớp nhau. Như Hải Phòng có 1138 DN được cấp ĐKKD thì có 1132 cơ sở được cấp mã số thuế, Bến Tre có 367 DN được cấp ĐKKD thì có 366 DN được cấp mã số thuế, ngoài ra còn có Bắc Giang, Khánh Hoà, Bắc Cạn... doanh nghiệp được cấp đăng ký đến đâu thì cấp ngay mã số thuế đến đấy. Với các biện pháp phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp ĐKKD ngay từ đầu khi DN xin cấp ĐKKD các địa phương đã phát hiện ngay nhiều trường hợp có những dấu hiệu không lành mạnh, như khai khống địa chỉ, trụ sở, người đứng tên điều hành công ty không đủ năng lực và trách nhiệm dân sự. Không đủ trình độ quản lý để chỉ đạo tiếp các biện pháp nhằm ngăn ngừa các hành vi lợi dụng.... Cũng do thực hiện tốt việc rà soát các DN nên các cục thuế đã nắm chắc hơn số lượng DN đã giải thể, số lượng DN ngưng hoạt động, số DN đã rời địa bàn chuyển đi nơi khác kinh doanh để có các biện pháp ngăn chặn tiêu cực xảy ra, như chỉ đạo quyết toán thuế, thu hồi hoá đơn, thông báo hoá đơn bị thất thoát, thông báo DN đã chuyển địa điểm chưa tìm thấy, thông báo DN không đến cơ quan thuế để khai nộp thuế... Như cục thuế Hà Nội qua rà soát có 158 DN không tìm thấy,448 DN không hoạt động, 82 DN giải thể. Hà Tây qua rà soát có 43 DN đã bỏ kinh doanh chưa thu hồi giấy phép, 41 doanh nghiệp tạm nghỉ. Tiền Giang cũng có 22 DN đã phá sản còn ở Đồng Tháp đã phát hiện 54 doanh nghiệp giải thể, 20 doanh nghiệp không hoạt động, 6 doanh nghiệp không tìm thấy.... Qua đó Cục thuế phối hợp kịp thời với các cơ quan chức năng khác có biện pháp giải quyết như thu hồi ĐKKD, tạm đình chỉ kinh doanh.... 2.1.2. Về quản lý hộ kinh doanh cá thể Mặc dù nhà nước bảo hộ nhiều giấy phép ảnh hưởng đến quản lý của ngành thuế nhất là với một số ngành như vận tải tư nhân, khách sạn tư nhân, nhà nghỉ, thuê nhà... Nhưng do chỉ đạo tập trung rà soát lại đối tượng kinh doanh nên một số hộ quản lý thu thuế vẫn tăng hàng tháng. Nhiều địa phương có số hộ ghi thu môn bài năm 2001 tăng cao hơn so với năm 2000 và cao hơn cả số hộ điều tra thống kê. Như Hà Nam số hộ môn bài năm 2001 tăng hơn số hộ thu môn bài năm 2000 là 400 hộ, Hưng Yên là 400 hộ, Bắc Ninh 400 hộ, Phú Thọ 800 hộ, Bến Tre 1500 hộ, Quảng Trị 1200 hộ, Phú Yên là 1600 hộ. Bạc Liêu số hộ ghi thu môn bài là 1200 hộ so với điều tra thống kê, Bắc Ninh tăng 2500 hộ, Bắc Cạn tăng 300 hộ, Quảng Bình tăng 1800 hộ... Theo số liệu tổng hợp nhiều địa phương đã kịp thời báo cáo UBND chỉ đạo các ngành có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Thuế để quản lý đối với một số khu vực khó quản lý như: Cục thuế Nghệ An phối hợp với cơ quan đăng ký phương tiện ô tô (cơ quan đăng kiểm) ô tô nắm số lượng phương tiện ô tô, phân loại xác đinh đối tượng sử dụng, mục đích kinh doanh. Trên cơ sở đó rà soát đối chiếu với số phương tiện đang quản lý thu thuế môn bài, thuế tháng sau đó trình bày với UBND để chỉ đạo buộc phải đến trình báo với cơ quan thuế. Kết quả đã truy thu được gần 500 triệu đồng tiền thuế của các chủ phương tiện lâu nay kinh doanh không nộp thuế. Cũng tương tự việc quản lý thu thuế đối với một số khu vực khó quản lý thì Cục thuế các tỉnh như Phú Yên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang... đã có văn bản hướng dẫn quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh đánh bắt thuỷ hải sản. Các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hoá, Hải Phòng... có khu du lịch cũng cần phối hợp với cơ quan thuế và các ngành chức năng để có biện pháp quản lý thu, chống thất thu đối với khu vực NQD. Về xác định doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán Qua nắm tình hình cho thấy, ngoài những địa phương do ảnh hưởng của lũ lụt cuối năm 2000, các hộ hoạt động mới ổn định kinh doanh, chưa kịp xác định lại doanh thu, mức thuế ngay từ đầu năm. Còn lại các địa phương đều đã chỉ đạo điều chỉnh lại doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán. Vì vậy, mặc dù một số lượng lớn các hộ kinh doanh lớn chuyển lên DN và số hộ triển khai kế toán tăng lên chuyển nộp thuế theo kê khai nhưng doanh thu, mức thuế hộ khoán vẫn tăng, tuy chưa đạt yêu cầu của Tổng cục Thuế đề ra. Một số địa phương có mức tăng cao là Hà Nam 15%, Quảng Bình gần 10%. Việc quản lý doanh thu, mức thuế đối với hộ kê khai cũng được các địa phương tập trung chỉ đạo, khắc phục tình trạng bán hàng nhưng không xuất hóa đơn, lập sổ sách kế toán hình thức. Vì vậy doanh thu hộ kê khai nhiều địa phương cũng tăng. Điển hình như là Hải Dương tăng 50%, Hưng Yên tăng 80%, Bắc Ninh 40%, An Giang tăng 40%, Bạc Liêu tăng 70%.... Vậy để đạt được những kết quả đó, công tác quản lý thu thuế hộ kinh doanh đã được đẩy mạnh công khai, dân chủ trong việc xác định doanh thu, tính thuế các biện pháp của Bộ Tài chính đã hướng dẫn việc thành lập các Hội đồng tư vấn Thuế ở các phường xã, ban hành quy chế phối hợp giữa chi cục thuế, đội thuế với hội đồng tư vấn, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo cũng như sự giám sát của cấp Uỷ và chính quyền phường xã địa phương đối với công tác quản lý thu thuế. Ngành thuế đã nghiên cứu, xây dựng các quy trình nghiệp vụ và chỉ đạo thực hiện các quy trình đề ra Tổng cục Thuế đã xây dung các quy trình: - Quản lý thu thuế các doanh nghiệp nộp theo phương pháp khấu trừ. - Quản lý thu thuế với hộ kinh doanh khoán ổn định. - Quản lý hộ xin nghỉ kinh doanh. - Xét miễn giảm thuế đối với hộ có thu nhập thấp. Việc phân cấp quản lý đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn chứng từ 2.4.1. Về quản lý đối với các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Ngành thuế đã chỉ đạo cho tất cả các doanh nghiệp đều phải thực hiện chế độ kế toán hoá đơn chứng từ theo phương pháp kê khai để đảm bảo công tác tự tính thuế của doanh nghiệp. Đặc biệt từ năm 1999 cùng với việc triển khai luật thuế GTGT, thuế TNDN và đổi mới tổ chức quản lý thu đã có những chuyển biến tích cực; theo đánh giá của các cục thuế từ chỗ chỉ có 40-50% doanh nghiệp thực hiện kế toán nay lên đến 80 - 85% doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán và 100% doanh nghiệp thực hiện kê khai nộp thuế trong đó 90% đã lập và nộp tờ khai đúng thời hạn. Đã cơ bản chấm dứt được tình trạng nộp thuế khoán trong các doanh nghiệp... Theo thống kê số thu thì khu vực doanh nghiệp NQD chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thu của khu vực NQD. Do vậy phản ánh kết quả quản lý doanh nghiệp tương đối tốt. Nguyên nhân thu ở khu vực NQD tăng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NQD là do số lượng doanh nghiệp tăng nhiều nhưng về cơ bản vẫn là công tác quản lý đã có chất lượng cao hơn. Thể hiện ở những điểm sau: - Trong việc quản lý đối tượng kinh doanh (trình bày ở mục 2.1.1). - Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục thuế phân cấp một số doanh nghiệp cho các chi cục quản lý, một mặt tạo điều kiện cho cục thuế có điều kiện để đi sâu quản lý các doanh nghiệp lớn, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các biểu hiện gian lận thuế, đồng thời tập trung nguồn thu hơn, mặt khác đối với các doanh nghiệp được phân cấp cho chi cục, các chi cục quản lý sát hơn nên số thu cũng tăng. - Cục thuế đã chú ý hơn đến việc kiểm tra quyết toán thuế, đối chiếu hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp lợi dụng trốn lậu thuế, hoàn thuế không đúng... nhất là đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nông sản. Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh, có số lượng doanh nghiệp NQD rất lớn, qua công tác xét cấp kinh doanh, cấp mã số thuế và quản lý, cục Thuế đã tổng hợp và đưa ra một số dạng, hình thức kinh doanh trốn lậu thuế giúp cho phòng quản lý, các Chi cục Thuế sớm nhận diện để có biện pháp ngăn ngừa. Thực hiện chỉ đạo của Tổng cục Thuế về quản lý chống hành vi lập hóa đơn, chứng từ không đúng giá thanh toán, cục Thuế đã sớm có văn bản hướng dẫn và chỉ đạo xử lý thống nhất trên địa bàn thành phố vì vậy nhiều doanh nghiệp kinh doanh xe máy đã lập hóa đơn tương đối trung thực, nộp thuế GTGT đầu ra và thuế TNDN đều đặn... Cục thuế Thành phố Hà nội ngay từ đầu năm đã chỉ đạo đôn đốc các doanh nghiệp kê khai tạm nộp thuế TNDN, tổ chức kiểm tra tờ khai, thực hiện ấn định thuế TNDN đối với các doanh nghiệp kê khai không trung thực nên kết quả thu 6 tháng từ khu vực doanh nghiệp đạt khá. Đồng thời qua kiểm tra quyết toán thuế, cũng chỉ đạo đối chiếu tờ khai để điều chỉnh kịp thời. Do đó nhiều doanh nghiệp kê khai lỗ nhưng qua kiểm tra quyết toán, đấu tranh vẫn chấp nhận phải nộp thuế TNDN theo số liệu ấn định của cơ quan Thuế. Cục thuế Thành phố Đà nẵng, Đồng nai... chú trọng kiểm tra, đối chiếu việc lập chứng từ mặt hàng nông sản của các doanh nghiệp, phát hiện nhiều trường hợp lập không đúng, truy thu hàng tỷ đồng. Các cục Thuế Thái Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Cần Thơ cũng chỉ đạo kiểm tra, xử lý các cơ sở kinh doanh xe máy ghi hoá đơn không đúng giá trị thực tế góp phần tăng thu ngân sách. Để chống thất thu ngân sách đối với doanh nghiệp kinh doanh nhà nghỉ, khách sạn, Cục thuế Quảng Ninh, Khánh Hoà, Lâm Đồng đã tham mưu trình UBND ban hành bảng giá tính thuế áp dụng cho từng loại phòng nghỉ, yêu cầu khách sạn, nhà nghỉ phải nộp hồ sơ, phòng nghỉ, khách đến nhà nghỉ phải đánh dấu vào sơ đồ để tiện cho công tác kiểm tra. Về quản lý đối với các hộ kinh doanh cá thể Đối với hộ cá thể ngành thuế cũng đã triển khai việc thực hiện kế toán hộ kinh doanh, khuyến khích mọi hộ kinh doanh thực hiện kế toán và lập hoá đơn, chứng từ. Để thúc đẩy các địa phương đẩy mạnh triển khai kế toán hàng năm, Tổng cục Thuế đều giao chỉ tiêu cho các Chi cục Thuế phải tổ chức triển khai. Theo số liệu tổng hợp đến hết năm 2000 có trên 100 ngàn hộ kinh doanh thực hiện chế độ kế toán chiếm khoảng 70% số hộ kê khai kinh doanh lớn, trong đó khoảng 50% số hộ làm kế toán đã được cơ quan thuế chấp thuận chuyển sang nộp thuế theo kê khai ở các mức độ khác nhau. Số còn lại tuy đã kê khai nhưng do nội dung kê khai chưa đúng, thiếu trung thực nên cơ quan thuế phải áp dụng việc ấn định thuế. Về số hộ kinh doanh triển khai hết tháng 6/2001, theo số liệu kiểm tra của 48 địa phương số hộ được giao triển khai là 85.570 hộ, số hộ đã triển khai là 72.100 hộ đạt 85% số hộ được giao và so với tháng 12/2000 số lượng hộ kinh doanh đã triển khai kế toán tăng 2 lần. Theo thống kê số hộ lớn chiếm 45% tổng số hộ kinh doanh nhưng số thuế chiếm trên 80% tổng số thuế ở khu vực hộ cá thể. Vì vậy cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai kế toán và tập trung chống thất thu vào những hộ này, còn lại 55-60% hộ vừa và nhỏ sẽ tiếp tục thực hiện ổn định thuế để họ yên tâm kinh doanh. Vậy qua triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh kết quả thu thuế đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai tăng lên rõ rệt (như nêu ở phần trên) nhiều hộ kinh doanh qua triển khai thực hiện sổ sách kế toán, số thuế tăng gần gấp nhiều lần so với số thuế thu khoán. Ngoài ra qua doanh thu phản ánh trên sổ sách kế toán còn giúp cho cơ quan Thuế đánh giá đầy đủ hơn tình hình quản lý doanh thu, thất thu về doanh thu, làm cơ sở để điều chỉnh doanh thu đối với hộ khoán. Để triển khai tốt chế độ kế toán hộ kinh doanh các địa phương đã tập trung chỉ đạo kiên quyết vừa chú trọng công tác cán bộ, từ giao nhiệm vụ cụ thể cho đội trưởng đội thuế chịu trách nhiệm triển khai đến việc tăng cường chế độ báo cáo định kỳ để nắm tình hình, rút kinh nghiệm và chỉ đạo kịp thời vừa kết hợp với các biện pháp khác như kết hợp triển khai chế độ kế toán với việc sử dụng hoá đơn của hộ kinh doanh, thành lập và mở rộng các loại dịch vụ kế toán, tăng cường kiểm tra xử lý vi phạm, tháo gỡ kịp thời các khó khăn trong quá trình triển khai... nên kết quả vừa tăng về số hộ, doanh thu mức thuế kê khai cũng tăng. 2.5 Tình hình quản lý và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế khu vực kinh tế NQD Đối với hộ kinh doanh cá thể Để tránh cho cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu tiền của từng hộ kinh doanh dễ dẫn đến tiêu cực, từ nhiều năm nay ngành Thuế đã phối hợp với Kho bạc tổ chức cho hộ kinh doanh nộp tiền trực tiếp vào Kho bạc. Theo báo cáo của các địa phương về cơ bản các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh lớn, hộ sản xuất kinh doanh ở những địa bàn tập trung đều đã thực hiện nộp thuế trực tiếp vào Kho bạc, cơ quan Thuế chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc và kiểm tra việc nộp thuế, cơ quan Kho bạc trực tiếp thu tiền thuế. Trường hợp cơ quan Kho bạc chưa tổ chức thu trực tiếp thì cơ quan Thuế mới tổ chức thu. Tuy nhiên do lực lượng của Kho bạc còn mỏng nên ở một số nơi để hỗ trợ thu thuế nhanh nên cơ quan Thuế phải cử cán bộ cùng tham gia với Kho bạc tổ chức thu nộp thuế. Với những biện pháp chủ đạo nêu trên, công tác quản lý thu thuế NQD trong những năm qua đã có những chuyển biến tương đối tích cực, giảm dần thất thu thuế cả về đối tượng và về doanh số. Theo thống kê số hộ quản lý thu thuế trong mấy năm gần đây đạt khoảng 1,6 triệu hộ bằng khoảng 85% số hộ điều tra thống kê. Số hộ chưa quản lý thu thuế tập trung vào những loại hộ sản xuất trong các làng nghề, hộ kinh doanh sớm tối, hộ hành nghề xe ôm, xích lô, xe súc vật kéo. Tất cả các hộ kinh doanh có địa điểm cố định về cơ bản đã được đưa vào diện quản lý thu thuế thường xuyên. Đối với khu vực doanh nghiệp Cơ quan thuế đã phối hợp với kho bạc tổ chức cho doanh nghiệp nộp thuế qua kho bạc đồng thời để giám sát chặt chẽ hơn việc thành lập, hoạt động và ngừng hoạt động của doanh nghiệp. Từ năm 1999 chuyển giao lên cục Thuế quản lý đã xác định được 5.000 doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh nhưng thực tế không hoạt động hoặc giải thể, nhưng cơ quan cấp đăng ký kinh doanh vẫn không thu hồi giấy phép. Năm 2001 dự toán từ NQD nhà nước giao tăng trên 10% so với thực thu năm 2000. Để thực hiện được dự toán trên, ngay từ tháng 12/2000 Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan Thuế các cấp tập trung hoàn thiện các biện pháp đã nêu trên: III. Một số tồn tại về công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế NQD ở nước ta hiện nay A. Những tồn tại chung Một số tồn tại trong các chính sách thuế Thuế GTGT Theo quy định tại Luật thuế GTGT thì mọi tổ chức, cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô kinh doanh đều là đối tượng nộp thuế GTGT và đòi hỏi mọi đối tượng nộp thuế phải thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ. Nhưng trên thực tế, việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ tại các doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể không nghiêm, đa số không thực hiện, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách thuế. Theo thông lệ quốc tế, thuế GTGT thường chỉ áp dụng đối với các tổ chức kinh tế đạt đến một quy mô kinh doanh nhất định. Luật thuế GTGT hiện hành áp dụng với tất cả các đối tượng, nhất là các đối tượng chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ vừa làm công tác quản lý thuế thêm phức tạp, vừa ảnh hưởng đến nghĩa vụ và quyền lợi của các tổ chức kinh doanh. Về thuế suất thuế GTGT: Nguyên tắc của thuế GTGT là thuế suất được xây dựng và áp dụng theo mặt hàng. Qua một số lần điều chỉnh, bổ sung nguyên tắc này đã không được duy trì, thuế suất thuế GTGT một số hàng hoá, dịch vụ vừa theo mặt hàng, vừa theo công dụng. Cùng là sản phẩm cơ khí nhưng máy móc thiết bị thì áp thuế 5%, sản phẩm cơ khí tiêu dùng thì áp dụng thuế suất 10%, dẫn đến có mặt hàng nếu cơ sở kinh doanh mua về thì được coi là máy móc thiết bị, nhưng đối tượng khác mua về thì bị coi là sản phẩm tiêu dùng. Ví dụ: Máy in nếu bán đồng bộ với máy tính thì được coi là máy móc thiết bị và được áp dụng thuế suất 5%, nhưng nếu bán rời thì áp dụng thuế suất 10%. Việc phân biệt các máy móc, dụng cụ chuyên dùng cho y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh rất phức tạp. Ví dụ: Bảng nếu bán cho nhà trường được coi là dụng cụ để giảng dạy được áp dụng thuế suất 5%, các đối tượng khác mua thì áp dụng thuế suất 10%. Về kê khai nộp thuế: Theo Luật thuế GTGT, mọi tổ chức và cá nhân kinh doanh hàng tháng đều phải nộp tờ khai gửi cơ quan thuế, không phân biệt quy mô, có phát sinh doanh số hay không... Cùng với việc kê khai cơ sở kinh doanh còn phải lập bảng kê hoá đơn, chứng từ liên quan đến hàng hoá mua vào, bán ra. Đối với khu vực kinh tế NQD, nhất là đối với những cơ sở có quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, không có người chuyên trách, việc lập tờ khai và bảng kê hàng tháng như vậy gặp nhiều khó khăn và tăng chi phí. Theo luật thuế GTGT hiện hành cho áp dụng khấu trừ theo tỷ lệ đối với một số hàng hoá, chủ yếu là hàng nông sản là nhằm hỗ trợ cho các đối tượng nộp thuế mua hàng hoá nông sản. Nhưng trên thực tế đang bị lợi dụng, trong khi việc đối chiếu, xác minh của cơ quan thuế không thể thực hiện được đối với mọi trường hợp, do đó đã có nhiều đối tượng nộp thuế lợi dụng quy trình này kê khai tăng giá mua, lập bảng kê khống, tăng số thuế đầu vào nhằm mục đích trốn thuế hoặc hoàn thuế khống, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp kinh doanh nghiêm túc. Việc thực hiện tính thuế theo hai phương pháp: khấu trừ và trực tiếp đã dẫn đến cùng kinh doanh một mặt hàng nhưng mức thuế phải nộp khác nhau, có mặt hàng thực hiện theo phương pháp khấu trừ thì số thuế phải nộp lớn hơn nếu tính theo phương pháp trực tiếp hoặc ngược lại, điều này vừa gây bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, vừa sơ hở để đối tượng kinh doanh lợi dụng. Về hoá đơn chứng từ: Luật thuế GTGT chỉ được phát huy đầy đủ tính ưu việt nếu thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ. Thực tiễn ở nước ta, việc thực hiện hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá chưa nghiêm túc, chưa phải là yêu cầu bắt buộc đối với mọi đối tượng mua hàng. Vì vậy nhiều tổ chức và cá nhân kinh doanh không xuất hoá đơn giao cho người mua, làm ảnh hưởng đến việc xác định nghĩa vụ thuế. Nhiều doanh nghiệp còn vi phạm việc lập và sử dụng hoá đơn như: ghi hoá đơn không đúng phát sinh kinh tế, mua bán và sử dụng hoá đơn của cơ sở khác để lập giao cho khách hàng... cũng ảnh hưởng đến việc xác định nghĩa vụ thuế của bên mua. Thuế TNDN - Các doanh nghiệp NQD hiện nay đang áp dụng thuế suất thuế TNDN 32% cao hơn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài nước đang được hưởng thuế suất TNDN 25%. - Theo quy định chi phí tiền lương đối với kinh tế NQD được xác đinh tính vào chi phí căn cứ vào hợp đồng lao động và phải phù hợp với định mức tiền lương được áp dụng cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động cùng lĩnh vực, ngành nghề, không được chấp nhận một khoản chi phí có tính chất tiền công, tiền lương nào. Tuy nhiên trong thực tế để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, các doanh nghiệp phải trả lương cho người lao động theo mức độ cống hiến và đòi hỏi của họ, dẫn đến không phản ánh đúng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp + Đối với các trường hợp không có hợp đồng lao động về nguyên tắc được xác định theo mức lương do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định cho từng ngành nghề. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng lập danh sách lao động khống nhằm mục đích tăng chi phí, giảm thu nhập chịu thuế. + Đối với hộ kinh doanh cá thể không được tính vào chi phí giá trị sức lao động của bản thân chủ hộ bỏ ra để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Tiền công trả cho người lao động khác thường không được xác định rạch ròi trong chi phí vì hộ kinh doanh áp dụng biện pháp khoán do không thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Điều này ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách thuế. - Chi phí khác: Thường trong qúa trình kinh doanh ngoài các chi phí như KH TSCĐ, tiền lương, cơ sở kinh doanh còn phải chi các hoạt động có tính chất tự nguyện như: lũ lụt, tiếp khách... Những khoản này đều bị khống chế khi chi cao hơn thì không được tính vào chi phí. Vì vậy thuế TNDN đã tính khống mà cơ sở kinh doanh vẫn phải nộp. - Về miễn thuế đối với hộ kinh doanh có thu nhập thấp theo quy định hộ kinh doanh có thu nhập dưới mức lương tối thiểu là 210.000 đồng/ tháng thì được miễn thuế, nếu thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế. Điều này mâu thuẫn với mức miễn thuế theo chính sách thuế thu nhập của người có thu nhập cao, chính sách này quyết định khởi điểm đánh thuế là 2 triệu trở lên/ tháng/người. - Thuế TNDN bổ sung: Theo quy định thì căn cứ vào lợi thế khách quan của doanh nghiệp để xác định với mức thuế suất là 25%, nhưng trong thực tế điều này khó xác định nên mọi đối tượng có thu nhập cao đều phải nộp thuế thu nhập bổ sung. Thuế XNK Thuế xuất nhập khẩu trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu kinh tế của Đảng và Nhà nước trong 10 năm đổi mới là khuyến khích sản xuất trong nước thay thế cho hàng nhập khẩu, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, bước đầu phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên chính sách Thuế XNK của ta đã bộc lộ những hạn chế là. - Việc xác định các mức thuế bảo hộ còn thiếu chọn lọc chưa tính đến lợi thế so sánh của nền kinh tế, chưa tính đến điều kiện và thời hạn bảo hộ, một mặt đã tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ yếu hướng vào sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, không vươn rộng lên mở rộng thị trường ra bên ngoài. - Biểu thuế nhập khẩu hiện hành còn tương đối phức tạp với nhiều mức thuế khác nhau, tạo kẽ hở để các doanh nghiệp trốn lậu thuế gây khó khăn cho quản lý thuế. - Chính sách miễn giảm thuế còn khá rộng rãi một mặt tạo kẽ hở cho việc trốn, lách thuế làm thất thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác làm cho chính sách thuế XNK thiếu tính minh bạch. Thuế Môn bài Thuế môn bài một năm thu một lần nhằm mục đích kiểm kê, kiểm soát, phân loại cơ sở kinh doanh. Thuế môn bài hiện đang có 6 mức: 850.000 đồng, 550.000 đồng, 325.000 đồng, 165.000 đồng, 60.000 đồng, 25.000 đồng, không phân biệt tổ chức kinh tế hay hộ kinh doanh cá thể nên đã bộc lộ những nhược điểm. - Thuế môn bài chưa thể hiện được đầy đủ mục đích phân loại cơ sở kinh doanh vì tổ chức kinh tế có thu nhập hàng chục tỷ đồng/năm cũng nộp thuế môn bài theo mức 850.000 đồng/năm trong khi hộ kinh doanh cá thể thu nhập từ 1.250.000 đồng trở lên đều phải nộp theo mức thuế môn bài trên. Như vậy đã không khuyến khích được đối tượng nộp thuế một cách công bằng. - Thuế môn bài đang áp dụng chỉ phù hợp với thuế doanh thu và thuế lợi tức của những năm 1996. Từ năm 1999 thực hiện luật thuế GTGT và thuế TNDN thì thuế môn bài đã không còn phù hợp nữa. 2. Về nhận thức tư tưởng vẫn còn sự phân biệt đối xử. Thực tiễn đến nay vẫn chưa thay đổi nhiều trong cả các cơ quan quản lý Nhà nước và nhân dân. Báo Doanh nghiệp 4/2001 trong bài “có sự phân biệt đẳng cấp trong kinh doanh ở Việt nam” tác giả đã đăng một chuyên đề khoa học của Viện nghiên cứu về Đào tạo và quản lý. Qua 11 chỉ tiêu đưa ra để đánh giá cho thấy. Bảng 10: Phân loại tiêu chí so sánh các loại hình doanh nghiệp Tiêu chí so sánh DNNN DN vốn F.D.I DNNQD 1- Về thành lập và đăng ký kinh doanh C B A 2- Về giải thể doanh nghiệp. C B A 3- Về phá sản doanh nghiệp. A A A 4- Về vay vốn và tham gia thị trường A B C 5- Tuyển dụng lao động A B C 6- Chính sách tiền lương, tiền công B A C 7- Thuế và các chính sách tài chính B A C 8- Chính sách về đất đai. A B C 9- Hợp tác kinh doanh và liên doanh với nước ngoài. B A C 10- Xuất, nhập khẩu và xúc tiến thương mại. A B C 11- Thanh tra, kiểm tra. B A C Nguồn: Báo Doanh nghiệp số 4 - 2000 Nếu quy định sự thuận lợi cao nhất là A, sự thuận lợi ở mức trung bình là B và sự khó khăn là C thì với 11 tiêu chí đã nêu cho thấy các doanh nghiệp NQD chỉ có 3 tiêu chí là giành được sự thuận lợi cao, 3 tiêu chí này có thể do bản thân doanh nghiệp tự quyết định còn 9 tiêu chí khác có liên quan đến các cơ quan quản lý thì đều thuộc loại C. Bảng so sánh phản ánh sự nhận thức của cơ quan quản lý vừa thể hiện sự phân biệt đối xử của bản thân cơ quan quản lý và các thành phần kinh tế. Trong dân cư quan niệm rằng kinh tế NQD vẫn gắn liền với ý nghĩ “buôn gian bán lậu” vẫn chưa phải đã hết, thể hiện qua việc mua sắm hàng hoá vẫn muốn mua của Nhà nước, con em xin việc làm cũng muốn trở thành công chức hoặc cán bộ công nhân viên Nhà nước... Bản thân các ông chủ kinh doanh cũng chưa tự thoát được những mặc cảm mà xã hội đã gán cho từ đó chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nhiều người kinh doanh vẫn còn có ý thức nghe ngóng chờ đợi. Bên cạnh đó trong chính sách thuế và tổ chức quản lý thuế cũng còn thực hiện tương đối rõ nét sự đối xử này. 3.Các chính sách chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chồng chéo gây khó khăn cho hoạt động kinh tế NQD Trước hết nói về Luật Doanh nghiệp đã được thực hiện từ 1/1/2000 nhưng đến nay còn nhiều văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành hoặc chưa có hướng dẫn cụ thể làm cho cơ sở kinh tế NQD lúng túng khi thực hiện, các cơ quan quản lý gây phiền hà sách nhiễu như qui định các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và những điều kiện để kinh doanh các ngành nghề đó; các lĩnh vực kinh doanh bỏ giấy phép và chuyển thành điều kiện kinh doanh; thế nào là ngành nghề mới... Danh mục các ngành nghề khu vực kinh tế NQD được ban hành từ năm 1993 đã lạc hậu so với thực tế nhưng chưa được sửa đổi lại. Hệ thống phân loại và đăng ký mã số ngành nghề, mặt hàng có sự khác biệt và không thống nhất giữa các ngành gây khó khăn cho cơ sở đăng ký khi nhập khẩu, khi áp thuế suất. Nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp cuối cùng các cơ sở kinh tế NQD vẫn là người thiệt nhất. Trong chính sách thuế có tình trạng tương tự. Các luật và các văn bản hướng dẫn chuyên ngành thường đưa nội dung thuế nhưng mâu thuẫn với các luật thuế hiện hành, làm cho doanh nghiệp rất lúng túng khi triển khai thực hiện. Do đó ngày 24/4/2001 Thủ tướng Chính phủ đã phải có chỉ thị 07/2001-CT-TTg yêu cầu tất cả các ngành khi xây dựng các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực chuyên ngành không được đưa nội dung quy định về thuế trong các văn bản đó đồng thời phải rà soát ngay nội dung quy định về thuế trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, phát những điểm không phù hợp với luật thuế để kiến nghị Bộ Tài chính và Chính phủ xem xét quyết định. 4. Khu vực kinh tế NQD thiếu thông tin, dịch vụ tư vấn thuế Trước hết, đó là các thông tin liên quan đến luật pháp điều chỉnh và chi phối quá trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Theo phản ánh của các doanh nghiệp họ đều biết được các văn bản pháp quy qua hệ thống thông tin báo chí và đến khi các văn bản pháp luật họ tiếp nhận được thường rất chậm. Không có cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm phổ biến và hướng dẫn họ. Trong các trường hợp xảy ra tranh chấp, chưa có cơ quan pháp luật nào đứng ra trung gian giải quyết hoặc tư vấn cho họ giải quyết. Phát triển kinh tế thị trường đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu những thông tin về thị trường, giá cả và dự báo diễn biến rủi ro của thị trường và giá cả là rất quan trọng giúp họ có thể tránh được rủi ro. Tuy nhiên đến nay chưa có cơ quan nào tư vấn giúp họ trong việc này dẫn đến nhiều trường hợp bán hàng bị ép giá, mua hàng bị nâng giá... Tư vấn về kỹ thuật cũng đang là vấn đề nổi cộm, nhiều cơ sở kinh doanh do không nắm được tính năng tác dụng của các thiết bị trên nên thường bị khách hàng lừa, thậm chí phải mua cả máy móc, thiết bị cũ lạc hậu bằng giá của máy mới mà không biết. Trong lĩnh vực thuế đến nay chưa hình thành các trung tâm dịch vụ về thuế, về kế toán để người kinh doanh có thể qua đó được hướng dẫn, giúp đỡ mà vẫn tập trung gặp tìm hiểu trực tiếp qua cơ quan thuế. Tư vấn thuế là một loại hình tư vấn nằm trong tư vấn tài chính, vì công tác thuế là một cấu thành của công tác tài chính xét ở phạm vi doanh nghiệp hay trên phạm vi xã hội. Dịch vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, cách thức sử lý các mối quan hệ liên quan đến các đối tượng nộp thuế, tính thuế, thuế suất thủ tục khai nộp, thời hạn nộp thuế, điều kiện miễn giảm thuế, hoàn thuế: Cho các đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn về thuế. Dịch vụ tư vấn thuế tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: Thứ nhất: Tư vấn thuế là dịch vụ công do các cơ quan thuế cung cấp cho các đối tượng nộp thuế để họ thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Thứ hai: Tư vấn thuế còn là một dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn thuế cung cấp cho khách hàng theo hợp đồng. Cơ sở tạo nên tư vấn thuế suất phát từ các đối tượng nộp thuế, từ hệ thống pháp luật về thuế và từ chính các cơ quan thuế. Trước hết, số lượng các đối tượng nôp thuế tạo nên nhu cầu không nhỏ dịch vụ tư vấn thuế. Hiện nay, cả nước có hơn 5.700 DNNN, khoảng 60.000 DNTN, CTHH, Công ty Cổ phần và trên 1,6 triệu hộ kinh doanh đang tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước, phục vụ nhu cầu xã hội. Nhưng việc hiểu biết đầy đủ các quy trình như kê khai, tính thuế, nộp thuế và việc áp dụng hai sắc thuế mới không phải tất cả các đối tượng nộp thuế và không bị lúng túng trong quá trình thực hiện. Do vậy nhu cầu về tư vấn thuế là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó dịch vụ tư vấn còn có một số tồn tại: Thứ nhất: Các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn thuế chưa phát triền, dịch vụ tư vấn thuế mơi định dạng rõ nét ở dạng dịch vụ công nhưng hoạt động chưa đủ “độ sâu” mới chỉ ở hình thức tuyên truyền phổ biến trên phương tiện thông tin đai chúng, dịch vụ tư vấn thuế tư chưa được phát triển có tổ chức, hoạt động tư vấn chủ yếu là dịch vụ kế toán, kiểm toán, xác định cơ cấu tài chính… Về cán bộ tư vấn khôngchỉ thiếu về số lượng mà năng lực tư vấn cũng là một vấn đề bất cập dẫn đến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về thuế. Thứ hai: Về hình thức dịch vụ tư vấn còn quá đơn điệu chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tư vấn đa dạng của doanh nghiệp. Nội dung tư vấn mới chỉ dừng lại ở thông tin về thuế suất, thủ tục đăng ký, kê khai thuế, chưa thực sự thể hiện tính cách một quá trình hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu lập sổ sách kế toán đến các khoản thuế phải nộp. 5. Các cơ quan quản lý Nhà nước, thuế gây nhiều phiền hà cho khu vực kinh tế NQD Theo báo cáo điều tra do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH102.DOC
Tài liệu liên quan