Đề tài Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử

Tài liệu Đề tài Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử: Lời cảm ơn Nhân dịp hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô trường Đại học Ngoại Thương đã dìu dắt và dạy dỗ tôi trong bốn năm học tập tại trường. Tôi cũng muốn nhân dịp này để được cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và ủng hộ, động viên tôi trong quá trình viết khoá luận tốt nghiệp này. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS Nguyễn Như Tiến, người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình viết bài khoá luận này. Mục lục Lời mở đầu 1 Mục lục CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I.Khái niệm thương mại điện tử 4 1. Lịch sử hình thành và phát triển của thương mại điện tử 4 2.Khái niệm thương mại điện tử 5 3. Các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử 10 3.1 B2B 10 3.2 B2C 11 3.3 B2A 11 3.4 C2A 13 II.Lợi ích của thương mại điện tử 13 1.Đối với doanh nghiệp 13 1.1Giảm chi phí 14 1.2Hoạt động hiệu quả hơn 18 1.3Nâng cao tính cạnh tranh 20 2.Đối với người tiêu dùng 21 2.1Luôn ...

doc108 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn Nhân dịp hoàn thành khoá luận tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô trường Đại học Ngoại Thương đã dìu dắt và dạy dỗ tôi trong bốn năm học tập tại trường. Tôi cũng muốn nhân dịp này để được cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và ủng hộ, động viên tôi trong quá trình viết khoá luận tốt nghiệp này. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS Nguyễn Như Tiến, người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình viết bài khoá luận này. Mục lục Lời mở đầu 1 Mục lục CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I.Khái niệm thương mại điện tử 4 1. Lịch sử hình thành và phát triển của thương mại điện tử 4 2.Khái niệm thương mại điện tử 5 3. Các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử 10 3.1 B2B 10 3.2 B2C 11 3.3 B2A 11 3.4 C2A 13 II.Lợi ích của thương mại điện tử 13 1.Đối với doanh nghiệp 13 1.1Giảm chi phí 14 1.2Hoạt động hiệu quả hơn 18 1.3Nâng cao tính cạnh tranh 20 2.Đối với người tiêu dùng 21 2.1Luôn được thông tin đầy đủ về sản phẩm 21 2.2Gía cả thấp hơn và chất lượng cao hơn 22 2.3Thuận tiện hơn trong giao dịch 23 3.Đối với toàn bộ nền kinh tế 23 3.1Góp phần vào sự thay đổi thị trường 24 3.2Thương mại điện tử góp đóng vai trò là chất xúc tác 25 3.3Tác động đến các hoạt động tương tác 25 3.4 Thương mại điện tử góp phần tạo ra tính mở 26 3.5 Tạo điều kiện sớm tiếp cận với nền kinh tế tri thức 27 III. Xu hướng phát triển của thương mại điện tử 27 1. Nền kinh tế Dot Com 31 2. Vấn đề trung gian kinh doanh 31 3.Mua bán đấu giá trực tuyến 34 4.Cổng thông tin doanh nghiệp 35 5. Nguyên lí mới của marketing trên mạng Internet 36 CHƯƠNG II: RỦI RO TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I.Khái niệm chung về rủi ro 38 1. Rủi ro là gì? 38 2. Đặc điểm 38 2.1Luôn có khả năng xảy ra 38 2.2Tồn tại khách quan 38 2.3Xảy ra trong tương lai 38 3. Phân loại 39 3.1Theo nguồn gốc 39 3.2Theo bảo hiểm 39 II. Các loại rủi ro trong thương mại điện tử 40 1.Khái niệm 41 2.Phân loại 41 2.1 Rủi ro có tính khách quan 41 2.2 Rủi ro có tính chủ quan 46 III.Ảnh hưởng của rủi ro trong thương mại điện tử 54 1.Tác hại của thương mại điện tử 54 1.1Rủi ro có thể gây ra thiệt hại về vật chất 54 1.2 Rủi ro có thể làm hạn chế hiệu quả trong kinh doanh. 54 1.3 Rủi ro có thể làm mất đi cơ hội trong kinh doanh của của DN. 55 1.4Rủi ro gây ảnh hưởng tới uy tín kinh doanh của DN. 55 2.Tính tất yếu của Bảo hiểm các rủi ro trong thương mại điện tử 57 2.1An toàn trong kinh doanh là trên hết 58 2.2Thương mại điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ 65 2.3Các rủi ro trong thương mại điện tử rất đa dạng và luôn thay đổi 70 CHƯƠNG III: BẢO HIỂM RỦI RO TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I. Khái quát về tầm quan trọng của Bảo hiểm trong công tác quản trị rủi ro Thương mại điện tử của doanh nghiệp. 76 1. Thế nào là công tác quản trị rủi ro trong Thương mại điện tử ? 77 2. Các bộ phận cấu thành nên công tác quản trị rủi ro Thương mại điện tử 77 2.1 Đánh giá mức độ rủi ro 78 2.2 Giảm thiểu rủi ro 78 2.3 Mua bảo hiểm 78 2.4 Giám sát việc quản lí hệ thống 78 2.5 Khắc phục những hậu quả do các loại rủi ro gây ra 79 3.Tầm quan trọng của Bảo hiểm trong công tác quản trị rủi ro trong Thươn g mại điện tử 79 II.Tác dụng của Bảo hiểm rủi ro trong thương mại điện tử 80 1. Đề phòng và hạn chế tối thiểu rủi ro xảy ra 81 2.Hạn chế và khắc phục những tổn thất xảy ra nhằm đảm bảo an toàn trong Thương mại điện tử 82 2.1Tổn thất về tài sản 83 2.2Tổn thất qua việc bồi thường bên thứ ba, các chi phí từ những vụ kiện pháp lí 84 2.3 An toàn về những tài sản vô hình mà chủ yếu tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp 89 3.Hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm 90 3.1 Hỗ trợ về mặt kĩ thuật 90 3.2 Hỗ trợ về đào tạo nhân lực 91 4.Tạo tâm lí ổn định cho người tham gia bảo hiểm trong kinh doanh 92 III. Nội dung của bảo hiểm rủi ro trong thương mại điện tử 92 1.Đối tượng bảo hiểm 93 2.Các rủi ro được bảo hiểm 93 3.Thủ tục mua bảo hiểm 97 4.Cách tính giá trị, phí, số tiền bảo hiểm 98 5.Khiếu nại, giám định tổn thất và bồi thường 99 6. Những vấn đề cần lưu ý khi tham gia bảo hiểm rủi ro trong thương mại điện tử 101 6.1Tránh bảo hiểm cho những rủi ro không cần thiết 101 6.2.Lựa chọn công ti bảo hiểm và mẫu hợp đồng bảo hiểm 102 6.3.Yêu cầu sự hỗ trợ của công ti bảo hiểm 103 6.4.Lựa chọn luật điều chỉnh 103 6.5.Lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam tham gia bảo hiểm các rủi ro trong thương mại điện tử 104 Kết luận 105 Tài liệu tham khảo 106 Phụ lục 107 LỜI MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Công nghệ thông tin hiện đang là một trong những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất. Đồng thời tác động của công nghệ thông tin tới đời sống xã hội nói chung và thương mại nói chung. Chính vì vậy mà Thương mại điện tử đã ra đời và phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Thương mại điện tử đã làm thổi một luồng gió hoàn toàn mới vào cách thức tiến hành kinh doanh truyền thống. Thương mại điện tử đã đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế hơn nhiều người vẫn thường nghĩ. Do vậy, việc chuyển dần sang Thương mại điện tử ở các mức độ khác nhau đang là một hiện tượng phổ biến của các doanh nghiệp trên toàn cầu và là một xu thế tất yếu của thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, cũng không ít doanh nghiệp đã không nhận thức được những rủi ro tiềm ẩn trong môi trường kinh doanh Thương mại điện tử. Những rủi ro này có thể coi là đặc thù cho việc kinh doanh trên mạng. Do vậy, công việc quản trị rủi ro của một doanh nghiệp tham gia vào Thương mại điện tử là luôn là một công tác quan trọng hàng đầu. Trong đó, việc mua Bảo hiểm cho những rủi ro trong Thương mại điện tử là một yếu tố cơ bản có tầm quan trọng quyết định chất lượng của công tác quản trị rủi ro. Hiện nay, các công ty bán bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử đã xuất hiện khá nhiều. Các tên tuổi lớn trong bảo hiểm truyền thống như AIG vẫn là những nhà Bảo hiểm có uy tín nhất. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng ý thức được sự cần thiết của việc mua loại hình Bảo hiểm đặc thù này. Hơn nữa, việc lựa chọn một nhà Bảo hiểm phù hợp cùng với hợp đồng Bảo hiểm có lợi cho doanh nghiệp cũng là một bài toán khó hiện nay. Vì lẽ đó, tác giả của bài khoá luận đã lựa chọn đề tài “Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử” nhằm góp phần nhấn mạnh sự cần thiết của việc mua loại hình Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử đối với công tác quản trị rủi ro của doanh nghiệp Thương mại điện tử , đồng thời cũng là bước đầu nghiên cứu về loại hình Bảo hiểm này. II. Mục đích của khoá luận *Đề cập tới những vấn đề cơ bản của Thương mại điện tử. *Nghiên cứu những loại rủi ro trong Thương mại điện tử và mức độ nguy hiểm cũng như những tổn thất mà chúng có thể gây ra cho doanh nghiệp. *Đề cập tới công tác quản trị rủi ro trong Thương mại điện tử, cũng như các bộ phận cấu thành nên công tác quản trị rủi ro Thương mại điện tử. *Nhấn mạnh sự cần thiết và vai trò của việc mua Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử đối với công tác quản trị rủi ro trong Thương mại điện tử. *Đề cập tới một số yếu tố cơ bản của loại hình Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử và những lưu ý đối với doanh nghiệp Thương mại điện tử khi tham gia loại hình Bảo hiểm này. III. Kết cấu khoá luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, cũng như phụ lục, khoá luận được chia làm ba phần chính: Chương I: Khái quát về Thương mại điện tử Chương II: Rủi ro trong Thương mại điện tử Chương III: Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử là một loại hình Bảo hiểm còn rất mới và đang được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp đối với từng loại khách hàng trên toàn cầu. Do thời gian hạn hẹp, kiến thức chưa sâu và thiếu về chuyên môn thực tế, tác giả chỉ mong khoá luận là một bước đầu nghiên cứu về Bảo hiểm rủi ro trong Thương mại điện tử cũng như cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quát về loại hình Bảo hiểm đặc thù này. Do vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung từ quý độc giả để có thể có những nghiên cứu sâu hơn về đề tài này. Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2003 Đinh Hải CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I.Thương mại điện tử là gì? 1.Lịch sử hình thành và phát triển của Thương mại điện tử Sự hình thành và phát triển của Thương mại điện tử gắn liền với sự ra đời và phát triển của Internet. Mạng máy tính đầu tiên được ra đời tại nước Mĩ vào năm 1969 với chức năng là mạng trao đổi thông tin dự khuyết của Bộ quốc phòng (Ministry of Defence). Mạng thông tin này có tên là ARPANET (Advanced Research Projects Agency Network). Cho tới năm 1972 đã có tới khoảng 40 Websites kết nối vào ARPANET và vào năm 1980 một mạng máy tính có tên CSNET (Computer Science Research Network) cũng kết nối vào ARPANET, đó chính là sự ra đời của mạng Internet toàn cầu ngày nay. Tuy nhiên, vào những năm 1960 việc trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange) và thư điện tử (E-mail) đã được các doanh nghiệp trên thế giới thực hiện trên các mạng nội bộ (Intranet) của mình. Cũng bắt đầu từ thời kì này, các dịch vụ tài chính đã dần được tự động hoá, chẳng hạn như quá trình xử lí séc ra đời vào những năm 1960 và sau đó là sự ra đời của phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tử. Tiếp theo đó là sự ra đời của các trạm giao dịch tự động vào những năm 1980 mà tiêu biểu là Máy rút tiền tự động-ATMs (Automated Teller Machines) và Máy bán hàng tự động (Point-of-Sale Machines). Hiện nay các khái niệm về tiền điện tử, giao dịch điện tử, thanh toán điện tử, chứng từ điện tử …đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Bước sang thập kỉ 90 của thế kỉ trước, sự phát triển bùng nổ của ngành Công nghệ thông tin nhất là việc máy tính cá nhân được sử dụng một cách phổ biến rộng rãi cả ở nơi làm việc và ở gia đình, nhiều tổ chức tài chính đã khai thác những tiến bộ của ngành công nghệ thông tin để tạo ra các dịch vụ mới dựa trên việc sử dụng máy tính cá nhân. Các tổ chức tài chính luôn nghiên cứu cải tiến sao cho các giao dịch được thực hiện thuận tiện và với một chi phí thấp và rút ngắn thời gian giao dịch. Nhờ có sự cạnh tranh trong việc phát triển công nghệ Thương mại điện tử và các công nghệ cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ đã thúc đẩy sự phát triển của Thương mại điện tử. Sự phát triển của mạng Internet, cụ thể là số lượng tăng vọt của số lượng máy chủ, đã góp phần làm động lực cho sự tăng trưởng của Thương mại điện tử. (Biểu đồ 1) 2.Khái niệm Thương mại điện tử Từ khi các ứng dụng của Internet được khai thác phục vụ cho mục đích thương mại, nhiều thuật ngữ khác nhau đã xuất hiện để chỉ các hoạt động kinh doanh trên mạng Internet như: Thương mại điện tử (Electronic commerce hay e-commerce hay e-business); Thương mại trực tuyến (Online trade hay Cyber Trade); Thương mại không giấy tờ (Paperless commerce); Thương mại Internet (Internet trade); Thương mại số hoá (Digital commerce). Tuy nhiên, thuật ngữ Thương mại điện tử (Electronic commerce) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất và được các tổ chức kinh tế công nhận trong các tài liệu nghiên cứu của họ. Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp quốc về Luật thương mại quốc tế-UNCITRAL (đã được Liên hợp quốc thông qua) cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về Thương mại điện tử mà chỉ quy định phạm vi áp dụng của luật. Cụ thể Luật này quy định cụm từ Thương mại trong Thương mại điện tử như sau: “Thuật ngữ thương mại - commerce cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối;đại diện hoặc đại lí thương mại; uỷ thác(factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình;tư vấn;kỹ thuật công trình(engineering);đầu tư;cấp vốn;ngân hàng;bảo hiểm;thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng;liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh;chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”Bộ thương mại: Thương mại điện tử, NXB Thống kê. Hà Nội, 1999. Tuy thuật ngữ Thương mại điện tử đã được thống nhất sử dụng nhưng vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ và thống nhất về Thương mại điện tử. Với mục đích đề cao hoạt động thương mại giữa các quốc gia đối với các hàng hoá hữu hình, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) định nghĩa Thương mại điện tử là: “…hoạt động sản xuất, quảng cáo, tiêu thụ và phân phối các sản phẩm thông qua các mạng viễn thông”. Đối với tổ chức tài chính Merill Lynch với ý thức đề cao vai trò của các hoạt động dịch vụ thì đã đưa ra định nghĩa về Thương mại điện tử như sau: “…Các giao dịch này có thể bao gồm hoạt động buôn bán điện tử các hàng hoá hoặc dịch vụ giữa các doanh nghiệp; các hoạt động thanh toán tài chính; các hoạt động sử dụng thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, máy rút tiền tự động và chuyển tiền điện tử; việc phát hành và xử lí các loại thẻ tài chính; các hóa đơn thanh toán và đề nghị thanh toán; cung cấp dịch vụ du lịch cùng các dịch vụ thông tin khác”PriceWaterhouse Cooper: E-Business technology forecast, PriceWaterhouse Coopers Technology Center, California 1999. Bên cạnh đó, nhiều quan điểm còn cho rằng Thương mại điện tử được hiểu theo nhiều nghĩa tuỳ vào góc độ nghiên cứu. Chẳng hạn như theo R.Kalakota và A.Winston, Thương mại điện tử còn có thể hiểu theo các khía cạnh được mô tả ở Bảng 2. Ravi Kalakota, Andrew B.Whinston: Electronic commerce:A manager’s guide, Addison Wesley Publisher. Bảng 2. Khái niệm Thương mại điện tử từ các góc độ Góc độ Mô tả Công nghệ thông tin Thương mại điện tử là việc cung cấp, phân phối thông tin, các sản phẩm/dịch vụ, các phương tiện thanh toán qua đường dây điện thoại, các mạng truyền thông hoặc qua các phương tiện điện tử khác. Kinh doanh Thương mại điện tử là việc ứng dụng công nghệ (chủ yếu là công nghệ thông tin) để tự động hoá các giao dịch kinh doanh và các kênh thông tin kinh doanh. Dịch vụ Thương mại điện tử là công cụ để các doanh nghiệp, người tiêu dùng, các nhà quản lý cắt giảm các chi phí dịch , đồng thời nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ và tăng tốc độ cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Trực tuyến Thương mại điện tử cung cấp khả năng tiến hành các hoạt động mua, bán hàng hoá, trao đổi thông tin trực tiếp trên Internet cùng nhiều dịch vụ trực tuyến khác. Cuối cùng người viết xin được tổng hợp và đưa ra một định nghĩa về Thương mại điện tử như sau: Thương mại điện tử là việc ứng dụng các công nghệ thông tin để tiến hành các giao dịch mua-bán các sản phẩm, dịch vụ và thông tin thông qua các mạng máy tính có sử dụng các tiêu chuẩn truyền thông chung. Tuy Thương mại điện tử được hiểu theo nhiều các khác nhau nhưng tất cả các khái niệm đều nêu bật bản chất chung của Thương mại điện tử như sau: Giao dịch Thương mại điện tử được thực hiện trên cơ sở các giao dịch thương mại truyền thống, dù vậy nhiều công việc và quá trình giao dịch Thương mại điện tử có liên quan đến thương mại truyền thống. Khác với các giao dịch thương mại truyền thống được tiến hành trên giấy, qua điện thoại, qua những người môi giới hoặc người đưa tin, bằng các phương tiện giao thông, các giao dịch Thương mại điện tử được tiến hành trên các mạng điện tử. Để tiến hành các giao dịch Thương mại điện tử, cần có một chương trình máy tính được cài đặt tại ít nhất một điểm cuối của giao dịch hoặc quan hệ thương mại. Tại điểm chuối khác có thể là một chương trình máy tính, một người sử dụng một chương trình máy tính hay sử dụng một kỹ thuật truy cập mạng máy tính nào đó. Giao dịch Thương mại điện tử được xây dựng trên có sở những ưu điểm và cấu trúc của thương mại truyền thống cùng với sự linh hoạt, mềm dẻo của các mạng điện tử, cho phép loại bỏ những trở ngại, những cản trở vật lí khi thực hiện các giao dịch. Ví dụ, các hệ thống máy tính trên Internet có thể được thiết lập để cung cấp dịch vụ hỗ trợ khách hàng 24 giờ mỗi ngày và 7 ngày mỗi tuần; các đơn đặt hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cũng có thể được chấp nhận ở bất cứ nơi nào và bất kì lúc nào. Thương mại điện tử là một hệ thống bao gồm nhiều giao dịch thương mại. Các giao dịch này không chỉ tập trung vào việc mua-bán hàng hoá và dịch vụ để trực tiếp tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp, mà bao gồm nhiều giao dịch hỗ trợ tạo ra lợi nhuận như khích thích, gợi mở nhu cầu đố với các hàng hoá và dịch vụ, hỗ trợ việc chào bán, cung cấp các dịch vụ khách hàng hoặc tạo diều kiện thuận lợi cho quá trình thông tin, liên lạc giữa các đối tác kinh doanh…(Hình 3) Truy cập Khách hàng Quảng cáo trực tyến Đơn đặt hàng trực tuyến Đơn đặt hàng tiêu chuẩn Phân phối Trực tuyến: Hàng hoá vô hình, thông tin. Giao hàng:Hàng hoá hữu hình Tìm kiếm Thắc mắc Các dịch vụ hỗ trợ khách hàng điện tử Qúa trình bán hàng tiếp theo Sơ đồ 3: Chu trình Thương mại điện tử Thương mại điện tử phụ thuộc vào sự phát triển của công nghệ thông tin, định nghĩa về Thương mại điện tử không thể là duy nhất mà sẽ phải cập nhật theo sự ra đời của các công nghệ mới. Hơn nữa, với các công nghệ hiện nay, chúng ta chưa chắc đã khai thác và ứng dụng hết những khả năng mà nó đem lại. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CÁC QUÁ TRÌNH Marketing Bán hàng Thanh toán Thực hiện Hỗ trợ Ng CÁC MẠNG MÁY TÍNH Mạng của doanh nghiệp Mạng Internet Các mạng thương mại tài chính Ng CÁC TỔ CHỨC Chính phủ Người sản xuất Người phân phối Người bán hàng Khách hàng Ng Hình 4. Các hợp phần của Thương mại điện tử 3.Các loại hình giao dịch trong Thương mại điện tử Trước hết ta cần phải hiểu giao dịch trong Thương mại điện tử là một hệ thống bao gồm không chỉ các giao dịch liên quan đến mua bán hàng hoá và dịch vụ, tạo thu nhập, mà còn là các giao dịch có khả năng trợ giúp quá trình tạo ra thu nhập: kích thích nhu cầu đối với hàng hoá và dịch vụ, cung ứng dịch vụ trợ giúp bán hàng, trợ giúp người tiêu dùng, hoặc trợ giúp trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp. Từ cách hiểu như trên về Thương mại điện tử ta có thể chia giao dịch trong Thương mại điện tử thành ba loại cơ bản nhất: giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng (Business to Consumer - B2C), giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business to Business - B2B), giao dịch giữa doanh nghiệp với chính quyền (Business to Administration – B2A) và giao dịch giữa người dân với chính quyền (Consumer to Administration – C2A). C2A B2A B2A B2C B2C DOANH NGHIỆP DOANH NGHIỆP NGƯỜI TIÊU DÙNG CHÍNH QUYỀN Hình 5: Các loại hình giao dịch trong Thương mại điện tử 3.1 Giao dịch Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C) Các doanh nghiệp bán hàng hoá và cả các dịch vụ tới người tiêu dùng cuối cùng. Các trang Web tiêu biểu cho loại hình giao dịch này là trang Amazon.com và Ebay.com, hai trang Web bán lẻ hàng hoá đến tận người tiêu dùng. Giao dịch B2C đang ngày chiếm tỉ trọng lớn hơn trong giá trị giao dịch của Thương mại điện tử, theo dự đoán của Forrester Research ( thì thị trường bán lẻ qua mạng tại Mĩ sẽ tăng từ 38,8 tỉ đôla Mĩ năm 2000 tới 184,5 tỉ đôla Mĩ vào năm 2004. Giao dịch B2C bao gồm nhiều hoạt động như quảng cáo, xúc tiến bán hàng, marketing một tới một, xử lí đơn đặt hàng, thực hiện đơn đặt hàng, tính thuế... 3.2 Loại hình giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau (B2B) Loại hình giao dịch thương mại giữa các doanh nghiệp với nhau B2B chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị giao dịch của Thương mại điện tử. Công ty dự báo FORRESTER.COM đã dự báo giá trị giao dịch B2B sẽ đạt 7,29 nghìn tỉ USD vào năm 2004, trong đó các công ty Mĩ chiếm tới 40%. Nhiều hoạt động thu hút khách hàng của giao dịch thương mại bán lẻ B2C cũng được áp dụng cho thương mại bán buôn B2B. Vấn đề là người bán phải thu hút được sự chú ý của khách hàng qua trang Web của mình, thúc đẩy người mua với hành động mua hàng và người bán phải gây được cảm tình, chiếm được lòng tin của khách hàng với phong cách chuyên nghiệp cao. 3.3 Loại hình giao dịch giữa Doanh nghiệp với Chính quyền (Business to Administration – B2A): Loại hình giao dịch này bao gồm tất cả các giao dịch giữa doanh nghiệp với chính quyền thông qua mạng Internet. Chẳng hạn như ở Hoa Kì những nhu cầu mua hàng hoặc đấu thầu các công trình do chính phủ tài trợ đều được đưa công khai lên mạng Internet và các doanh nghiệp có thể liên hệ hoặc trả lời thông qua mạng Internet. Mặc dù loại hình này vẫn còn đang trong giai đoạn manh nha nhưng trong tương lai nó sẽ còn phát triển mạnh khi mà các mô hình Chính phủ điện tử (E-government) được áp dụng rộng rãi và khi các chính phủ ý thức sâu hơn về Thương mại điện tử. Trong tương lai mô hình này còn có thể phát triển với các giao dịch như hoàn thuế VAT, nộp thuế doanh nghiệp, đăng kí kinh doanh, xin cấp giấy phép đầu tư… 3.4 Loại hình giao dịch giữa Người dân với Chính quyền (Consumer to Administration – C2A) Loại hình giao dịch này chưa thực sự hình thành. Tuy nhiên dưới tác động từ sự phát triển ngày càng mạnh của hai loại hình B2C và B2A, các chính phủ ngày càng quan tâm hơn tới loại hình giao dịch này với các loại giao dịch như thanh toán các khoản phúc lợi cho người dân, phản hồi kê khai thuế thu nhập cá nhân…. II. Lợi ích của Thương mại điện tử 1.Đối với doanh nghiệp 1.1 Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí: Thương mại điện tử ảnh hưởng tới bốn loại chi phí lớn của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiến hành các giao dịch thương mại. Giảm chi phí trong khâu tiêu thụ: Tác động lớn nhất về chi phí khi áp dụng Thương mại điện tử là cho phép doanh nghiệp có thể thay thế hàng loạt các cửa hàng vật lý ( các cửa hàng thực) bằng những cửa hàng ảo trên các trang Web. Các trang Web hoạt động 24 giờ một ngày, 7 ngày trong một tuần và có hiệu lực với thị trường toàn cầu ở bất kì một thời điểm nào. Vì vậy doanh nghiệp có thể tiếp xúc với một tập hợp khách hàng rộng lớn mà không cần phải xây dựng các cơ sở vật chất như cửa hàng, đại lí, chi nhánh…Hơn thế, qua đó doanh nghiệp còn có thể cắt giảm chi phí quản lí phát sinh từ các cửa hàng, chi nhánh và cả chi phí kiểm kê hàng hoá. Hơn nữa, việc bán hàng 24h một ngày đang trở thành một ưu thế lớn của hoạt động kinh doanh trên mạng Internet. Thương mại điện tử còn có thể giúp doanh nghiệp giảm chi phí trong khâu tiêu thụ thông qua việc giảm các sai sót và tăng tính hiệu quả trong cấu trúc của các đơn đặt hàng. Điển hình là trường hợp của hai công ty General Electronic (GE) và Cisco Systems. Trước khi áp dụng việc đặt hàng qua mạng Internet, cả hai công ty này đều phải sửa lỗi của khoảng 25% các đơn đặt hàng, cụ thể của General Electronic là 1.000.000 đơn đặt hàng. Sau khi cho phép khách hàng đặt hàng qua Websites của mình, hai công ty đã giảm được tỉ lệ các đơn đặt hàng phải sửa lại xuống đáng kể, như Cisco thì tỉ lệ này giờ chỉ còn 2% E-Business technology forecast PriceWaterhouse Coopers Technology Centre posted on www.economist.com tiết kiệm cho công ty khoảng 500 triệu USD, tương đương 9% tổng doanh thu và 17% tổng chi phí hoạt động. Sau đây là bảng thống kê cho thấy việc phân phối qua mạng Internet đã giảm được chi phí so với các phương thức truyền thống. Bảng 6: Tác động của Thương mại điện tử tới chi phí phân phối “The Internet Economy”, Time, July 20 1998, p. 19. Mặt hàng Phương thức Vé máy bay Dịch vụ ngân hàng Thanh toán hoá đơn Bảo hiểm nhân thọ Phần mềm Truyền thống 8 1,08 2,22 đến 3,32 400 đến 700 15 Điện thoại 0,54 5 Internet 1 0,13 0,65 đến 1,1 200 đến 350 0,2 đến 0,5 Tỉ lệ tiết kiệm 87% 89% 67 đến 71% 50% 97 đến 99% Đơn vị: USD trên một giao dịch Theo những số liệu thống kê của Mỹ năm 2001 Theo www.thuongmaidientu.com , 23% doanh thu từ việc bán hàng trên các trang Web thu được từ khách hàng nước ngoài. Con số này gần như đã tăng gấp đôi so với năm 2000. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định rằng khách hàng tiềm năng trên mạng chính là khách hàng toàn cầu. Giảm chi phí trong khâu mua hàng: Thông qua mạng Internet, doanh nghiệp có thể trực tiếp liên hệ với người bán, loại bỏ tối đa trung gian, đồng thời doanh nghiệp có thể so sánh giá cả cũng như các điều khoản mua bán khác giữa nhiều nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ. Theo công ty viễn thông hàng đầu của Anh quốc, British Telecom thì việc mua hàng hoá và dịch vụ trên mạng Internet giảm tới 90% chi phí để tiến hành một cuộc giao dịch so với phương thức giao dịch truyền thống được tiến hành thông qua điện thoại, thư từ, fax, người trung gian…Theo ngân hàng đầu tư Golden Sach thì mua hàng qua mạng Internet có thể giảm chi phí khâu mua của ngành than 2%, ngành công nghiệp sản xuất ôtô là 14% và ngành sản xuất linh kiện điện tử tới 40% (Biểu đồ 7). General Electronic thì còn cho biết hệ thống TPN(Trading Post Network) của họ đã xử lí các yêu cầu của khách hàng hoàn toàn tự động và đã làm giảm mạnh tỉ lệ sai sót trong các đơn đặt hàng, đồng thời giảm 5-10% chi phí cho nguyên vật liệu đầu vào do sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà cung cấp. Giảm chi phí thanh toán: Tiết kiệm chi phí thông qua việc áp dụng các hình thức thanh toán trực tiếp qua Websites cũng là con số đáng kể đối với nói chung doanh nghiệp và đặc biệt với doanh nghiệp Thương mại điện tử. Mặc dù khoản phí dịch vụ ngân hàng cho việc thanh toán bằng séc giấy giữa các ngân hàng và người bán là không lớn hơn 1,2 USD cho một giao dịch thanh toán, thanh toán bằng thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ trung bình chỉ khoảng 0,4 đến 0,6 USD, song chi phí cho qúa trình thanh toán điện tử qua Internet có thể giảm xuống còn khoảng 0,01 USD hoặc thấp hơn. Theo thống kê của báo Economist thì chi phí cho một lần giao dịch qua máy rút tiền tự động – ATM vào khoảng 0,27 USD, 0,52 USD thông qua điện thoại và 1,14 USD thông qua một ngân hàng thông báo. (Biểu đồ 8) (Đơn vị: Cent) Tiết kiệm chi phí liên đến các hoạt động hậu cần (Logistic) Thương mại điện tử đã làm thay đổi hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp trong đó có cả hoạt động logistic như đóng gói, chuyển dịch hàng hoá…và biến nó thành một lĩnh vực kinh doanh thông tin. Tác động của Thương mại điện tử đối với chi phí hoạt động hậu cần doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực này như Federal Express – FedEx hay DHL. FedEx là một thí dụ điển hình. Hãng này bắt đầu nhận đơn đặt hàng trực tuyến vận chuyển các gói bưu kiện và theo dõi chúng qua mạng riêng của mình từ năm 1983, phải mất gần 12 năm số lượng khách hàng của hãng mới đạt tới con số 50.000. Nhưng chỉ sau ba năm từ 1995 đến 1998, sau khi FedEx áp dụng dịch vụ tương tự nhưng thông qua trang Web, số lượng khách hàng đã tăng lên tới con số 1 triệu. Hiện nay, theo ước tính của hãng, có tới hơn 70% trong số 3 triệu gói bưu kiện mỗi ngày của hãng được bắt đầu từ các đơn đăng kí trên mạng Internet. Những thay đổi trong lĩnh vực kinh doanh logistic của các hãng đứng đầu lĩnh vực này trên thế giới như FedEx và DHL bắt đầu bằng những mối quan hệ mật thiết với các hãng vận tải hàng hoá, và với khách hàng thông qua các yêu cầu vận tải điện tử, sự xác nhận kiểm kê điện tử, theo dõi phân phối điện tử. Giờ đây, các hãng kinh doanh trong lĩnh vực logistic đã bắt đầu cho phép các hãng vận tải và khách hàng có thể truy cập trực tiếp vào hệ thống thông tin của mình. Với việc ứng dụng Internet, ngày càng có nhiều doanh nghiệp hướng các mô hình, cách thức kinh doanh của mình theo các đơn đặt hàng, và áp dụng các phương pháp có mức chi phí kiểm kê thấp; do đó giá trị của các hoạt động này ngày càng tăng với việc thực hiện nhanh chóng, chính xác các hoạt động hậu cần từ nước ngoài hoặc ra nước ngoài. Với khả năng đáp ứng nhanh các đơn đặt hàng có tính phức tạp cao cũng như khả năng theo dõi, giám sát các đơn đặt hàng, ngày càng có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên cơ sở Web như DHL, FedEx, United Parcel Service (UPS) thực hiện kinh doanh các dịch vụ logistic như vận chuyển, phân phối (bao gói, bốc xếp) các gói bưu kiện và các dịch vụ hỗ trợ khách hàng khác trên cơ sở Web. 1.2 Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn Thông qua việc tác động làm giảm chi phí của doanh nghiệp, Thương mại điện tử đã góp phần giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, Thương mại điện tử còn tác động đến cơ cấu chi phí, mô hình hoạt động và cả cơ cấu lao động của doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp lựa chọn xây dựng một mô hình hoạt động tối ưu để đạt được hiệu quả hơn trong kinh doanh. Trong phần này, người viết xin được đề cập tới tác động của Thương mại điện tử tới mức hiệu quả của doanh nghiệp thông qua các chỉ số về lao động và doanh thu của một số doanh nghiệp cụ thể. Việc chuyển sang các cửa hàng ảo đã ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng và cơ cấu lực lượng lao động của doanh nghiệp. Hơn nữa số lượng lao động lại ngày càng được yêu cầu cao về chất lượng để có thể tiếp cận, sử dụng và khai thác hết các ưu thể của Thương mại điện tử. Chẳng hạn như cửa hàng ảo bán lẻ sách Amazon.com có 614 nhân viên với doanh thu 148 triệu đô la một năm, trong khi hãng Barnes & Noble, một hãng bán lẻ sách qua cửa hàng thực thì có tới 27.200 nhân viên với doanh thu 2,8 tỉ đô la How Safe is the Net?”, Business Week, 22 June 1998. . Rõ ràng ta có thể so sánh được sự hiệu quả trong công việc kinh doanh nói chung và sử dụng nhân sự nói riêng: chỉ số doanh thu trên mỗi nhân viên của Amazon.com là 267.000 USD/người và của Barnes & Noble là 103.000 USD/người. Một ví dụ khác về hiệu quả trong kinh doanh trên mạng Internet là trường hợp của hai công ty NECX và CompUSA, hai công ty bán lẻ máy tính cá nhân trên thị trường Hoa Kì. Vào năm 1996, CompUSA có 106 cửa hàng với doanh thu trung bình 38,4 triệu USD và có 103 nhân viên mà chủ yếu là nhân viên thu ngân, nhân viên bán hàng và công nhân của kho hàng. Trong khi đó NECX đạt được doanh thu 50 triệu USD thông qua Website của mình vào năm 1997, nhưng chỉ với 38 nhân viên mà phân nửa làm các công việc kĩ thuật như quản lí Website (webmaster), quản trị hệ điều hành Unix,nhân viên trợ giúp bán hàng, 4 nhân viên tư vấn EDI và 12 lập trình viên Form 10-K, US Securities and Exchange Commission, 22 April 1998. . FedEx (Federal Express) còn cho biết hệ thống phục vụ khách hàng qua mạng của họ đã tiết kiệm được 20.000 lao động mới hàng năm (tương đương khoảng 14% tổng số nhân viên của hãng). Hãng Cisco cũng cho biết nhờ vào trang Web Thương mại điện tử của hãng mà hàng năm Cisco đã không phải tuyển mộ thêm 1000 nhân viên mới vào các vị trí bán hàng hoặc yểm trợ bán hàng ( vốn đã lên tới 4500 nhân viên bán hàng và marketing trong tổng số 11000 nhân viên). 1.3 Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, những rào cản về thương mại đang dần được rỡ bỏ. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Hơn nữa, chúng ta đang dần bước vào nền kinh tế tri thức nên các hàng hoá có hàm lượng kĩ thuật cao đang ngày càng chiếm một tỉ trọng lớn. Do vậy, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã có nhiều biến đổi. Cạnh tranh về giá cả ngày càng dần trở thành một xu hướng lỗi thời mà đổi lại dịch vụ chăm sóc khách hàng và dịch vụ hậu mãi lại trở thành các yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh. Từ trước đây, các dịch vụ này thường bao gồm các hoạt động cử đại diện tới gặp khách hàng, thiết lập trung tâm điện thoại chăm sóc khách hàng, phát hành các tài liệu bổ sung hay các chương trình phần mềm. Đối với nhiều hãng chi phí cho những hoạt động này là khá lớn và chiếm trên 10% tổng chi phí hoạt động. Qua đó, ta thấy để nâng cao sức mạnh cạnh tranh thông qua hai loại dịch vụ này, doanh nghiệp đã phải cố gắng như thế nào. Gìơ đây, Thương mại điện tử đã thay đổi tất cả, các hoạt động của hai dịch vụ chăm sóc khách hàng và dịch vụ hậu mãi đã được chuyển phần lớn lên mạng Internet. Do đó, khách hàng có thể tiếp cận với các dịch vụ này liên tục không bị giới hạn về không gian và thời gian và doanh nghiệp có thể gửi và nhận các thông tin phản hồi nhanh chóng và chi tiết từ khách hàng .Đồng thời, với trình độ phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các Websites luôn được cải tiến về dung lượng, nội dung, giao diện và tốc độ đường truyền, dịch vụ hỗ trợ và chăm sóc khách hàng luôn được đảm bảo hoàn hảo và chuyên nghiệp.. Hơn nữa, doanh nghiệp còn tiết kiệm được chi phí so với phương thức chăm sóc khách hàng truyền thống. Bảng 9. Tiết kiệm từ việc chuyển các dịch vụ hỗ trợ khách hàng lên mạng Internet của Cisco System (Đơn vị: triệu USD) Chi phí cho công tác xuất bản 270 Chi phí phân phối các chương trình phần mềm 130 Hỗ trợ kĩ thuật qua điện thoại 125 Tổng cộng 525 Nguồn: Meeker, 1999. Tiết kiệm được chi phí nghĩa là doanh nghiệp đã nâng cao được chất lượng và hiệu quả của công tác hỗ trợ và chăm sóc khách hàng, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của mình trước các đối thủ khác. Hơn nữa, Thương mại điện tử đã mở ra một thế giới mới cho hàng loạt các hoạt động tăng cường sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp như e-marketing, e-brochure… 2. Đối với người tiêu dùng Thương mại điện tử đã dần thay đổi hành vi mua hàng của người tiêu dùng, vì giờ đây người tiêu dùng đã có thể tiếp cận với đầy đủ các thông tin về sản phẩm mà họ có nhu cầu, hơn nữa sự lựa chọn của người tiêu dùng bây giờ mở rộng tới toàn bộ các nhà cung cấp trên thế giới. Thương mại điện tử đã thực sự nâng người tiêu dùng lên thành những “Thượng đế”. 2.1 Thương mại điện tử đã giúp người tiêu dùng luôn được thông tin đầy đủ về sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp thiết lập trang Web để bán hàng qua mạng đều tạo catalogue về các chi tiết từng sản phẩm: quy cách, chất liệu, giá cả và những điều kiện mua hàng khác. Khách hàng có thể ngay lập tức có những thắc mắc hoặc bình luận qua mục “Contact us” hoặc “FAQs” (Frequently Asked Questions) để có thể tìm hiểu thêm về các sản phẩm mình quan tâm. Hơn nữa, thông qua các công cụ tìm kiếm trên mạng như Google, người tiêu dùng có thể tìm hiểu về nhiều sản phẩm cùng loại mà mình qua tâm. Qua đó, họ có thể so sánh và lựa chọn được sản phẩm cũng như nhà cung cấp thích hợp nhất. 2.2 Thương mại điện tử giúp người tiêu dùng có được các sản phẩm rẻ hơn và chất lượng cao hơn Rõ ràng thông qua mạng Internet người tiêu dùng có thể lựa chọn được sản phẩm đáp ứng được yêu cầu về chất lượng cũng như giá cả tốt nhất. Đặc biệt là các sản phẩm cũng như những dịch vụ có thể được cung cấp trực tiếp qua mạng Internet như dịch vụ ngân hàng điện tử (E-banking), đấu giá qua mạng(online auction), dịch vụ giải trí như download fim, ca nhạc… hoặc các sản phẩm phần mềm, dịch vụ hội nghị qua Internet, điện thoại Internet…Như đã nêu ở phần 1.1.3 người viết đã đưa ra Biểu đồ 7 chi phí của việc thanh toán qua mạng là thấp nhất so với các phương thức khác. Hơn nữa, các dịch vụ này ngày càng rẻ đi khi mà số người sử dụng tăng , cũng như tốc độ đường truyền được cải thiện. Nhờ Thương mại điện tử, người mua có thể trực tiếp liên hệ với nhà cung cấp và do vậy cắt giảm chi phí trung gian. Thương mại điện tử đồng thời góp phần làm cho sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp trở nên gay gắt hơn góp phần làm giảm giá hàng hoá nói chung. Có thể nói, Thương mại điện tử đã thực sự đứng về người tiêu dùng. 2.3 Thương mại điện tử giúp người tiêu dùng có thể tiến hành các giao dịch thuận tiện hơn nhiều lần so với trước. Nếu như trước đây, việc đặt hàng, thanh toán, mua hàng …đều phải tiến hành vào thời điểm và địa điểm mà nhất định thì giờ đây người tiêu dùng có thể đặt hàng, mua hàng và thanh toán ở bất kì thời điểm nào cũng như từ bất kì địa điểm nào. Các giao dịch truyền thống như đặt hàng, yêu cầu bảo hành… giờ đây đều được tiến hành qua mạng Internet. Chỉ với một cú click vào chuột người tiêu dùng có thể tự mình tiến hành giao dịch và loại bỏ hoàn toàn những chi phí cũng như thời gian lãng phí chờ đợi khi sử dụng các phương thức giao dịch truyền thống. 3.Đối với toàn bộ nền kinh tế 3.1 Thương mại điện tử góp phần làm thay đổi thị trường Thương mại điện tử làm thay đổi cách thức tiến hành kinh doanh: chức năng trung gian truyền thống sẽ được thay thế; các sản phẩm và thị trường mới sẽ được phát triển; các mối quan hệ mới giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng ở gần cũng như xa sẽ được tạo lập và ngày càng mật thiết hơn. Tổ chức công việc sẽ thay đổi: những kênh phổ biến kiến thức mới và hoạt động tương tác của con người ở những nơi làm việc sẽ được mở ra, đòi hỏi phải có khả năng thích ứng và sự linh hoạt trong công việc, chức năng và kỹ năng của người lao động cần phải có định nghĩa lại. 3.2 Thương mại điện tử đóng vai trò là chất xúc tác Thương mại điện tử góp phần thúc đẩy và phổ biến ngày càng rộng rãi những thay đổi đang được tiến hành của nền kinh tế, như việc cải cách các quy định; thiết lập những liên kết điện tử giữa các doanh nghiệp, toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế và làm xuất hiện nhu cầu mới về lao động có thay nghề cao. Cũng như vậy, nhờ có Thương mại điện tử , nhiều xu hướng thuộc các lĩnh vực cũng đang được tiến hành như ngân hàng điện tử, đặt chỗ du lịch trực tuyến, marketing tới từng khách hàng (one to one marketing)… Thương mại điện tử tác động tới các hoạt động tương tác Thương mại điện tử trên Internet làm tăng mạnh mẽ các hoạt động tương tác trong nền kinh tế. Những liên kết này hiện đang được mở rộng tới cả các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các hộ gia đình và trải rộng trên khắp thế giới. Việc truy cập cũng sẽ có những bước chuyển lớn từ việc sử dụng những máy tính ca nhân với chi phic cao tới những loại thiết bị chi phí thấp hơn và dễ sử dụng như Tivi, điện thoại cũng như nhiều loại thiết bị khác sẽ được phát minh trong tương lai. Với sự hỗ trợ của kỹ thuật, con người có thể thông tin liên lạc và thực hiện các giao dịch kinh doanh ở mọi lúc và mọi nơi. Chính điều này là một ảnh hưởng sâu rộng làm xói mọn ranh giới giữa các khu vực kinh tế cung như giới hạn địa lý giữa các quốc gia. 3.4 Thương mại điện tử góp phần tạo ra tính mở Tính mở là một nguyên lí bao gồm cả cơ sở kỹ thuật và cơ sở triết học của việc mở rộng Thương mại điện tử. Internet được chấp nhận rộng rãi đã làm nền tảng cho các hoạt đoọng kinh doanh chính bởi tính không độc quyền các tiêu chuẩn, bởi tính chất mở cũng như được sự hỗ trợ của một ngành công nghiệp lớn đang phát triển. Sức mạnh kinh tế của ngành công nghiệp này được bắt nguồn từ việc kết nối một mạng máy tính lớn, và đảm bảo rằng những tiêu chuẩn mới ra đời vấn duy trì được tính mở của nó. Quan trọng hơn là tính mở này nổi lên như một chiến lược, cùng sự thành công của nhiều dự án Thương mại điện tử cho phép các đối tác kinh doanh và người tiêu dùng thực hiện những truy cập chưa từng có tới các công việc nội bộ, tới cơ sở dữ liệu của các tổ chức, doanh nghiệp và của từng các nhân. Điều này làm dịch chuyển vai trò của người tiêu dùng, làm tăng tính liên quan (gắn kết họ chặt chẽ hơn) như là đối tác của doanh nghiệp trong quá trình thiết kế và hình thành nên những sản phẩm mới. Tuy nhiên, đứng về phía người tiêu dùng – những công dân – sự kỳ vọng về tính mở cũng tạo ra những biến đổi hoặc tích cực ( như tăng sự rõ ràng, minh bạch, tăng tính cạnh tranh) hoặc tiêu cực (khả năng xâm phạm tới quyền lợi cá nhân) trong nền kinh tế và trong xã hội. Thương mại điện tử tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế tri thức Trước hết, Thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, khai phá dữ liệu và phát hiện tri thức, do vậy, tạo điều kiện sớm tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau một thập kỉ nữa, nước đang phát triển có thể bị hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước chưa công nghiệp hoá. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sớm chuyển sang kinh tế tri thức thì một nước đang phát triển có thể taọ được một bước nhảy vọt tiến kịp các nước đi trước với thời gian ngắn hơn. Đây chính là một vấn đề mà Việt Nam, một nước đang phát triển, cần phải nghiên cứu và áp dụng. III. Xu hướng phát triển của Thương mại điện tử Nền kinh tế trực tuyến thế giới, qua thương mại điện tử, tiếp tục làm biến đổi các ngành công nghiệp và thương mại. Internet ảnh hưởng ngày càng sâu sắc tới cách thức hoạt động của ngành thương nghiệp, các công ty và người tiêu dùng tương tác với nhau như thế nào trong thế kỷ XXI. Internet đã thay đổi các mô hình kinh doanh, tuy vậy vẫn chưa có mô hình nào chiếm ưu thế. Internet đưa vào hai yếu tố tư duy kinh doanh: nó có thể biến đổi các mối quan hệ với khách hàng, và có thể đổi chỗ các nguồn giá trị kinh doanh truyền thống. Biến đổi các mối quan hệ với khách hàng: theo truyền thống, một khách hàng có ít điểm tiếp xúc với doanh nghiệp. Internet cho phép xây dựng lại hoàn toàn từ bên ngoài mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, chuyển doanh nghiệp từ chỗ đặt trọng tâm nội bộ sang đặt trọng tâm vào khách hàng. Đổi chỗ các nguồn giá trị kinh doanh truyền thống: Internet chuyển tư duy củadoanh nghiệp từ chỗ quan hệ với các đồ vật sang quan hệ trước hết với thông tin. Kinh tế theo quy mô ( economies of scale) chuyển sang kinh tế theo khả năng ( economies of the scope). Phân phối sẽ trở thành một cơ hội hơn là một hạn chế. Hiệu ứng của nó sẽ là một sự đảo lộn nền tảng cạnh tranh. Những yếu tố trên đòi hỏi xem xét lại một cách cơ bản chiến lược kinh doanh dựa trên sự đánh giá đúng mức sức mạnh của mối quan hệ với khách hàng của doanh nghiệp và những ý tưởng mới về nguồn giá trị. Thực tiễn giao dịch đã chứng minh chính khách hàng chứ không phải doanh nghiệp, là người quyết định số phận của thương mại trên Internet. Nếu như Internet có hiệu quả đối với khách hàng, doanh nghiệp cần tìm các cách thức phân phối giá trị với nó. Trong quá trình này, có những doanh nghiệp mới thành lập đạt được thành công, nhưng cũng có doanh nghiệp thất bại. Hiện nay, Internet được coi là lĩnh vực kinh doanh mới mẻ và nhiều hứa hẹn, khích lệ các hãng tìm kiếm các chiến lược mới có khả năng hoạt động trong một môi trường kinh tế và công nghệ luôn thay đổi. Những người muốn thành công trong thương mại điện tử sẽ phải đối mặt với ba đặc trưng, đó là tính phổ biến, tính tương tác và tốc độ. Mọi nơi trên Internet đều có thể tiếp cận được với người sử dụng, để có nó, cần một cơ sở không hạn chế và bình đẳng - đó là tính phổ biến. Người sử dụng có thể đi đến mọi địa điểm trên Internet, và không có lý do công nghệ nào khiến người sử dụng phải bắt đầu từ một nơi hay một website nào đó. Vì Internet là tương tác, nó động viên phát triển tất cả các hình thức tương tác mới. Phần mềm được phân phối và thử nghiệm trực tuyến, thông tin được trao đổi và thay đổi dễ hơn, dữ liệu được bảo đảm trực tuyến và các tổ chức ảo có thể hoạt động hiệu quả hơn thông qua tương tác toàn cầu trong bất kỳ thời gian nào trong ngày. Tốc độ chủ yếu tố cần đặc biệt nhấn mạnh trong thương mại điện tử. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp dựa trên Internet ( các doanh nghiệp Dot Com) đã phát triển trên cơ sở hạ tầng đang tồn tại. Nền kinh tế Dot Com ra đời đã làm giảm chi phí khởi sự và thời gian cần thiết để phát triển doanh nghiệp. Vì Internet cung cấp một kênh phù hợp, nhanh chóng cho nghiên cứu, làm việc, truyền thông, thay đổi và lựa chọn thông tin, nên thương mại trên Internet hiện nay cho phép các doanh nghiệp xem xét lại chức năng nào doanh nghiệp nên tự thực hiện, và chức năng nào nên uỷ thác cho bên ngoài. Hãng Forrester Research đã sáng tạo ra thuật ngữ “ người cung ứng ngoại nguồn” và định nghĩa “người cung ứng ngoại nguồn” là người cung ứng các dịch vụ hỗ trợ, quản lý các quá trình và công nghệ đa công ty qua Internet. ở Ôxtraaylia, công ty Com Tech và Iternet Security Systems đã thành lập một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ chống virus và chống tin tặc, quản lý định tuyến và bức tường lửa, lọc nội dung và phân tích đăng ký hàng tháng. Các mối quan hệ mới đang được thiết lập định hướng và khích lệ các quá trình thuộc chuỗi cung ứng. Những công ty như FedExpess và UPS nhận thấy vai trò của họ như các trung gian hậu cần đang được mở rộng, và vấn đề thiết thực là làm thế nào để hàng hoá trực tuyến được phân phối nhanh chóng. American Express là ví dụ về một trung gian tài chính, hiện đang cung cấp thẻ mua hàng và hỗ trợ mua hàng trực tuyến bằng cách tạo thuận lợi cho quá trình đặt hàng, thực hiện, điều phối, quản lý dữ liệu và bảo trì chương trình. Các thay đổi trong quá trình này có thể dẫn tới tiết kiệm chi phí đáng kể. Sự thay đổi nhanh chóng chính là điều bất di bất dịch duy nhất trong thế giới hôm nay. Các công ty trong tất cả các ngành sẽ phải lo lắng về tương lai phát triển của mình trong thế kỷ XXI, nếu như họ bắt đầu với mức thu nhập trực tiếp từ các kênh thương mại điện tử nhỏ hơn 25% ( so với tổng thu nhập). Các công ty thất bại trong việc gia nhập công đồng kinh doanh trực tuyến có thể bị bỏ lại phía sau và mất đi một phương tiện kinh doanh hiệu quả trong thế kỷ tới. David Jonas, Giám đốc kinh doanh của công ty ETC ( Electronic Trading Concepts), đã phác hoạ một vài xu hướng phát triển của Thương mại điện tử trong 2 đến 3năm tới như sau: Internet sẽ tiếp tục phát triển theo cấp số mũ trên các phương diện số người sử dụng, số site, băng tần, khối lương thương mại và phổ biến thông tin; Tiếp tục định hình lại doanh nghiệp, ngành công nghiệp và ngay cả nền kinh tế quốc dân trên toàn cầu thông qua việc phá vỡ các rào cản, các chuỗi giá trị truyền thống, và phổ biến chúng thành các mạng giá trị, tạo thuận lợi cho việc tạo dựng các doanh nghiệp mới, củng cố các liên minh và các cộng đồng ảo, vượt qua các biên giới quốc gia; Thời gian tăng lên của các nhà lập pháp và quan chức chính phủ sẽ giành cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội phức tạp, và điều đó làm tăng tốc độ phát triển của xã hội thông tin, nhiều vấn đề trong số đó sẽ được xã hội giải quyết trên cơ sở liên quốc gia hoặc quốc tế. Dưới đây chúng ta sẽ đề cập tới một số mô hình kinh doanh số hoá, phác thảo một xu hướng mưói trong phát triển thương mại Internet trong thế kỷ XXI, mối quan tâm của chính phủ tới toàn cầu hoá kinh tế,.... 1. Nền kinh tế Dot Com Các công ty Dot Com đang hình thành ở nhiều nơi trên thế giới. Một cuộc cách mạng kinh tế đang xuất hiện trong mọi ngành công nghiệp, từ lớn đến nhỏ. Các công ty đang kết hợp công nghệ Internet với marketing tích cực nhằm cạnh tranh với các công ty được thành lập trước khi có Web. Các công ty lớn quá quan tâm đến các vấn đề cũ của họ và quá chậm chạp trong cuộc cạnh tranh với nền kinh tế Dot Com mới. Một ví dụ kinh điển là phản ứng của công ty Bares and Noble trước Amazon. Các nhà sáng lập của các công ty Dot Com mới này tin rằng, họ có thể sử dụng chữ cái “ e” trong e- business ( kinh doanh điện tử), hoặc “m” trong mobile e- commerce ( thương mại điện tử di động), hoặc “w” trong wireless e-commerce ( thương mại điện tử vô tuyến) để tạo lập ragiá trị mới cho người tiêu dùng và mang lại lợi ích cho người đầu tư trước khi các công ty lớn. truyền thống nắm bắt được cơ hội này. Một vài phân tích dự đoán rằng, khi các công ty lớn chậm chạp, nhận thức được các nỗ lực đòi hỏi để khởi sự kinh doanh điện tử, thì họ sẽ đuổi kịp các công ty Dot Com. Các công ty Dot Com này có lưọi thế bởi sự linh hoạt, mềm dẻo, có cách tiếp cận dựa trên nguồn kinh doanh rủi ro, đồng thời có thể đem đến cơ hội cho nhân viên của họ nhanh chóng kiếm được nhiều tiền. Tuy nhiên, làn sóng thành công tiếp theo sẽ đến với những ai có thể đem đến được cho các nhà kinh doanh và khách hàng một chuỗi cung ứng liên tục qua mạng thương mại điện tử toàn cầu. 2. Vấn đề trung gian kinh doanh Trong thương mại điện tử, xảy ra các quá trình phi tập trung hoá và tái trung gian hoá. Học thuyết thương mại điện tử thời kỳ đầu cho rằng, chức năng thương mại của Internet đơn giản là cắt bỏ các khâu trung gian, cho phép các công ty thiết lập website có thể bán hàng trực tiếp đến khách hàng của mình, bỏ qua các trung gian. Website Meetchina.com với cơ sở dữ liệu về các nhà sản xuất, cho phép các khách hàng nước ngoài có thể nhận được trực tuyến các mô tả hàng hoá, các tài liệu trích dẫn, và do vậy có thể mua hàng trực tiếp từ Trung Quốc. Giai đoạn phát triển tiếp theo cho thấy thương mại điện tử tạo nên sự ra đời của các tầng lớp trung gian kinh doanh hoàn toàn mới. Hãng Forrester Rearch phân nhóm các hoạt động kinh doanh mới này thành 3 loại: những nhà kết tập ( aggregator), bán đấu giá ( auction) và trao đổi (exchange).Các hoạt động này hướng tới mục đích khắc phục tính thiếu hiệu quả của thị trường và tạo ra các cơ hội kinh doanh khác nhau: Bảng 10. Các hoạt đông kinh doanh mới Hoạt động Mục đích Chiến lược/ưu thế Thí dụ Kết tập Thành lập các công đồng doanh nghiệp Nội dung cung ứng được tổng hợp nhằm tạo ra phạm vi rảo chợ một bước, với giá cả định trước của công đồng doanh nghiệp dành cho người mua www.supplysearch.com.au www.meetchina.com Đấu giá Tạo lập thị trường và giảm chi phí của người bán Người bán và người mua được động viện tham gia đồng thời vào nhiều hoạt động đấu giá trong thời gian thực, không có sự đổ dồn tìm kiếm và chi phí đi lại như trong thế giới thực www.gofish.com.au www.stuf.com.au www.priceline.com Trao đổi Cung cấp một sân chơi với các luật lệ rõ ràng, thông tin thị trường mở cho những người tham gia được định trước Chi phí của thị trường trực tuyến trong ngành công nghiệp chỉ bằng một phần chi phí trong thế giới thực www.telegeography.com www3..mids.ogrg Hai mô hình trung gian kinh doanh đặc thù trong thương mại điện tử được nói nhiều tới là cổng chung và nhà kết tập. Các cổng chung ( Portal) trong thương mại B2B xuất phát từ các cộng đồng ảo doanh nghiệp. Trong lĩnh vực kinh doanh, các công chung tập trung vào việc tập hợp thông tin của các nhóm quyền lợi riêng biệt có liên quan tới các công đồng kinh doanh trực tuyến theo chiều dọc. Chemdex.com là một ví dụ về cổng chung công nghiệp đặc trưng, nó cho phép các nhân viên phòng thí nghiệm tìm kiếm một catalog lớn các sản phẩm hoá học của nhiều nhà cung ứng khác nhau. America Online, Yahoo và RealEstat đang biến đổi từ cổng chung trở thành nhà tập kết (aggregator), mang lại cho hàng triệu người tiêu dùng các sản phẩm bảo hiểm rẻ hơn Visa Card. Chiến lược của Citybank dựa trên cơ sở tập hợp một tỷ khách hàng. Sự cạnh tranh hợp tác có thể sẽ tiếp tục thể hiện như một mô hình hoạt động của nền kinh tế mới. Với các mô hình của nền kinh tế mạng mới như cổng chung, phố chợ ảo hiện đại, Internet đã thành công khi đem lại cho người tiêu dùng nhiều lợi ích như: mua hàng được rẻ hơn, nhanh hơn, và có thể mua được tất cả hàng hoá và sử dụng dịch vụ ở một nơi. Trao đổi kinh doanh ( business exchanges), cụ thể là trong giới kinh doanh tài chính, đang được thiết lập. Charles Schwab và Fidelity đã hợp tác để xây dựng một mạng thương mại điện tử rộng lớn ( gọi là ECN). Mạng này sẽ hoạt động như thị trường chứng khoán. Trong tương lai, mạng ECN toàn cầu sẽ cho phép dân chúng mọi nơi mua và bán sản phẩm tài chính 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần. John Du Pre Gauntt đưa ra ý tưởng rằng, băng thông( bandwidth), nếu như được chấp nhận là chi phí kinh doanh, cần phải được tư bản hoá và mua bán. Đó có một số hãng, như Arbinet (www.arbinet.com), Band – X(www.bank- x.com) và RateXchange ( www.rateXchange.com), đã bắt đầu mua bán trao đổi băng thông. 3.Mua bán đấu giá trực tuyến Mua bán đấu giá trực tuyến đã thay đổi bộ mặt của thương mại điện tử. Trong nhiều trường hợp chúng là các hình thức kinh doanh bổ sung đối với các nhà bán lẻ, một phương thức tương tác khác với người mua. Các site đấu giá trực tuyến đã xác định lại hoạt động kinh doanh đối với người sưu tầm, người mua bán lại, người tiêu dùng và các hãng vận tải. Chúng có thể thiết lập thị trường quốc tế liên kết giữa khắp các cá nhân kể trên ở khắp các châu lục trong cộng đồng quyền lợi. Người dân Mỹ có thể bán đấu giá trực tuyến các bộ phận sưu tập tạp chí, như Saturday Evening Post và tìm thấy người mua tại Nhật Bản. Người khổng lồ của mua bán đấu giá trực tuyến – eBay - đã thu hút 84 triệu cú “ nhắp chuột” của các khách mua hàng trên những trang Web của mình trong quý I năm 1999. Họ chỉ thua sau Yahoo về số phút mà khách hàng viếng thăm đã chi phí khi thăm viếng site của họ. Sử dụng mô hình kinh doanh, khi mà những người bán hàng trả chi phí cho site, eBay luôn thu hút được lợi nhuận, mặc dù công ty không tiến hành mua bán hàng hoá. Bất kỳ ai bán đấu giá đều phải trả cho eBay một khoản chi phí nhất định, ngoài ra còn phải trả một lượng phần trăm trên doanh số bán hàng. Priceline.com là một mô hình bán đấu giá trực tuyến theo kiểu “ hãy nói giá của anh”. Mô hình này cho phép người mua đưa ra giá cao nhất đối với vé máy bay, sau đó kiểm tra xem các tuyến bay chính có bán vé theo giá định mua hay không. Kết quả của mua bán đấu giá định hướng người tiêu dùng có thể được phổ biến sang mua bán đấu giá trong thương mại B2B. Trong mô hình này, các công ty bán hàng tồn kho và hàng hoá dư thừa, mhư điện năng hoặc thiết bị y tế, cho những thương gia được mời đến hoặc các đối tác được chọn lọc trước. Những người mua bán đấu giá trực tuyến đang được mở rộng tồn kho của họ bao gồm rất nhiều loại hàng hoá để thu hút khách hàng quay trở lại. Các nhà mua bán đấu giá động vật sống thuộc Cattle Offerings Worldwide ( COW) đã chuyển sang mua bán đấu giá từ năm 1995. Các nhà bán đấu giá trực tuyến mở rộng hoạt động của họ thông thường với sự hợp tác của các đối tác trên Internet. Mua bán đấu giá trực tuyến không phải chịu nhiều áp lực từ phía các cơ quan quản lý, cung như từ phía các tổ chức, nhóm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, lĩnh vực kinh doanh mới này trên Internet phải giải quyết nhiều yếu tố mang tính cạnh tranh, như sự lừa đảo, đánh thuế và mua bán các mặt hàng nằm trong diện phải quản lý, từ rượu vang cho tới vũ khí, trước khi trở thành một thực thể tồn tại thường xuyên. 4.Cổng thông tin doanh nghiệp ( EIP - Enterprice Information Portal) Mạng nội bộ công ty ( Internet), được gọi là cổng thông tin doanh nghiệp, được sử dụng để quản lý tri thức trong nội bộ tổ chức. Những người sử dụng Internet đã quen với giao diện trình duyệt Web, do vậy mạng nội bộ công ty sử dụng cùng một mô hình như vậy để phân phối thông tin tới các nhân viên của họ. Mạng nội bộ công ty đôi khi còn được gọi là cổng tri thức kinh doanh ( BIP – Business Intelligence Portal). Thách thức đối với mạng nội bộ công ty là quản lý tri thức trong nội bộ tổ chức. Một site mạng nội bộ công ty có thể bao gồm một công cụ tìm kiếm bao phủ toàn bộ mạng nội bộ, phân loại thông tin các nguồn tin mới trên site, liên kết tới các site nội bộ và các website thông dung bên ngoài. Mạng nội bộ công ty có thể giúp cung cấp một khuôn khổ cho dữ liệu, biến thông tin thành tri thức sao cho các nhân viên công ty có thể sử dụng. Người sử dụng có thể đăng ký, thiết kế, thiết lập, hợp tác, công bố và phân phối thông tin một cách có hiệu quả trên cổng thông tindoanh nghiệp. 5. Nguyên lý mới của marketing trên Internet Thế giới mạng đang viết lại các quy tắc về vấn đề xây dựng lại các công ty, tiếp thị các sản phẩm ( marketing điện tử) và tạo ra giá trị. Cái gọi là hiệu ứng mạng là cơ sở cho một cách tiếp cận đối với kinh doanh marketing, bao gồm các thị trường khác nhau, các mô hình kinh doanh khác nhau và các chiến lược kinh doanh hoàn toàn khác nhau. Một ví dụ kinh điển là Hotmail, giờ đây là một phần của Microsoft, đã được khai trương vào tháng 7 – 1996 . Hotmail đã có 12 triệu người đăng ký sau 18 tháng hoạt động. Năm 1999, với 50 triệu người đăng ký sử dụng, Hotmail đã trở thành dịch vụ thư điện tử dựa trên cơ sở Web lớn nhất trên Internet. Ví dụ về Hotmail đã được nhiều người biết tới, và hiện tượng marketing điện tử do Hotmail tạo nên hiện nay được biết đến như marketing virus. Người sử dụng Hotmail, đơn giản là thông qua gửi thư điện tử, đã giúp công ty quảng bá thêm tin tức về ưu thế của thư điện tử miễn phí. Nguyên tắc của nền kinh tế Internet mới: Các công ty hãy đừng bán hàng cho khách hàng của mình, các khách hàng hiện tại sẽ bán hàng cho khách hàng tương lai. Đổi lại cho dịch vụ miễn phí, các khách hàng đồng ý giới thiệu tiện ích của dịch vụ đó. Hotmail tỏ ra đặc biệt hấp dẫn đối với các khách hàng trẻ tuổi đang du lịch vòng quanh thế giới. Họ đến các quán cafe Internet, đọc và gửi thư điện tử. Trong thế giới marketing, mọi người đều biết rằng, một thông điệp sẽ trở nên mạnh hơn nếu như nó được truyền đi bởi những mối quan hệ giao tiếp. Những người nhận thông điệp Hotmail là bạn bè, khách du lịch, họ chính là những đối tượng mà các quảng cáo nhằm đến. Như vậy, Thương mại điện tử đã dần biến đổi các cách thức tiến hành kinh doanh truyền thống. Những phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin làm sự phát triển của Thương mại điện tử đa dạng vừa làm cho Thương mại điện tử tăng trưởng mạnh về chiều sâu. Cho đến nay, những thay đổi của cả đời sống nhân loại nói chung và kinh tế nói riêng đều chịu sự tác động của khoa học công nghệ, trong đó công nghệ thông tin tỏ ra có tác động rõ rệt và mạnh mẽ nhất. Tóm lại, sự phát triển của Thương mại điện tử về dài hạn không thể dự đoán một cách cụ thể được nhưng những tác động tích cực là điều không thể phủ nhận. Do vậy, chúng ta hãy kiễn nhẫn và tận hưởng những lợi ích mà Thương mại điện tử đang mang lại. CHƯƠNG II: RỦI RO TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I.Khái niệm chung về rủi ro 1. Rủi ro là gì? Rủi ro là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên hoặc những mối đe doạ nguy hiểm khi xảy ra thì gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm. 2. Đặc điểm: 2.1 Rủi ro luôn có khả năng xảy ra: Rủi ro là những sự cố, tai nạn, tai hoạ mà luôn có thể xảy ra với chúng ta. Chính vì vậy con người luôn tìm cách tránh rủi ro, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, tự khắc phục rủi ro và chuyển nhượng rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra với bất kì ai trong mọi hoàn cảnh. 2.2 Rủi ro xảy ra một cách khách quan: Rủi ro là những gì có tính ngẫu nhiên xảy ra ngoài ý muốn của con người. Con người nếu không thể chế ngự được rủi ro thì buộc phải hạn chế và ngăn ngừa nó. Tuy nhiên, con người không thể triệt tiêu rủi ro một cách tuyệt đối vì rủi ro bắt nguồn từ những hiện tượng khách quan. 2.3 Rủi ro xảy ra trong tương lai: Rủi ro là những gì có khả năng xảy ra. Nếu như nó đã xảy ra rồi thì nó không còn là rủi ro nữa mà lại là tổn thất. Rủi ro là mối đe doạ, là nguy cơ thì tổn thất là cái xảy ra rồi và là hậu quả của rủi ro. Chính vì vậy, trong các hợp đồng bảo hiểm việc quy định mốc thời gian hợp đồng bắt đầu và hết hiệu lực là một trong những điều khoản quan trọng. 3. Phân loại bảo hiểm: Việc phân loại bảo hiểm có thể dựa vào nhiều cơ sở, nhưng nhìn chung thì phân loại theo nguồn gốc và theo bảo hiểm là cách phân loại phổ biến nhất. 3.1 Căn cứ vào nguồn gốc xảy ra: Thiên tai (Act of God) là những hiện tượng thiên nhiên nằm ngoài tầm kiểm soát của con người như bão lụt, sét đánh, bão từ trường, động đất, núi lửa… Các tai nạn bất ngờ khác xảy ra do tác động của các yếu tố khách quan như mất điện, mất cắp, hư hỏng bất ngờ (sudden break down)… Rủi ro do các hiện tượng chính trị, xã hội hoặc do lỗi của người được bảo hiểm gây nên như chiến tranh, bạo động, đình công, khủng bố… 3.2 Phân loại rủi ro theo bảo hiểm: Rủi ro thông thường là những rủi ro được bảo hiểm theo quy định của công ty bảo hiểm như: thiên tai, tai nạn bất ngờ… Rủi ro phải bảo hiểm riêng là những rủi ro mà người được bảo hiểm muốn được bảo hiểm thì phải thoả thuận riêng với công ty bảo hiểm như rủi ro khủng bố, rủi ro mất cắp… Rủi ro loại trừ là những rủi ro không được công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm hoặc bồi thường trong mọi trường hợp. Đó là những rủi ro xảy ra một cách đương nhiên hoặc do lỗi của chính người được bảo hiểm. II. Rủi ro trong Thương mại điện tử: Thương mại điện tử được xây dựng và phát triển dựa trên mạng Internet. Mạng Internet lại luôn hàm chứa những rủi ro bất ngờ như cháy máy chủ servers do sét đánh hay chập điện, virus, hacker…Do vậy, các rủi ro này cũng chính là rủi ro mà con người gặp phải khi tiến hành giao dịch trong Thương mại điện tử. 1.Khái niệm về rủi ro trong Thương mại điện tử Rủi ro trong Thương mại điện tử là những tại nạn, sự cố, tai hoạ xảy ra một cách ngẫu nhiên, khách quan ngoài ý muốn của con người mà gây ra tổn thất cho các bên tham gia trong quá trình tiến hành giao dịch trong Thương mại điện tử. Tên tiếng Anh của rủi ro này là Electronic Risks hoặc Cyber Risks hoặc Digital Risks. 2.Phân loại rủi ro trong Thương mại điện tử: Rủi ro trong Thương mại điện tử rất đa dạng và luôn có chiều hướng biến đổi cùng với sự phát triển của ngành công nghệ thông tin. Do vậy, việc nhận thức được các loại rủi ro và những tác hại của chúng trong Thương mại điện tử là điều cần thiết. Dựa vào nguồn gốc phát sinh của chúng ta có thể phân ra làm hai loại: loại có nguồn gốc khách quan và loại có nguồn gốc chủ quan. 2.1 Rủi ro trong Thương mại điện tử có nguồn gốc khách quan: Nhóm rủi ro có nguồn gốc khách quan có thể chia làm nhiều loại theo các nguyên nhân khách quan. Rủi ro do thiên tai: Thiên tai là những tai hoạ do thiên nhiên gây ra đối với con người và Thương mại điện tử cũng không phải là một ngoại lệ. Các rủi ro do thiên tai có thể kể ra như bão lụt, sét đánh, động đất, núi lửa phun, sóng thần, bão từ trường…Một trận lụt có thể làm hư hỏng hết các ổ cứng và xoá sạch các dữ liệu của công ty về các giao dịch, về khách hàng gây ra thiệt hại làm đình trệ hoạt đông của doanh nghiệp. Hay một cú sét có thể làm cháy toàn bộ một hệ thống máy tính đang tiến hành hàng nghìn giao dịch, do vậy làm cho toàn bộ các giao dịch bị huỷ bỏ và thiệt hại cũng thật ghê gớm. Hay mỗi đợt bão từ làm biến đổi từ trường của Trái đất gây ra thiệt hại lớn cho ngành viễn thông như phá hoại các vệ tinh, làm tê liệt các trạm Servers Internet không dây… Rủi ro do các tai nạn bất ngờ: Tai nạn bất ngờ là những tai hoạ mà xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người và không thể lường trước được. Những rủi ro do tai nạn bất ngờ có thể kể ra như :mất điện, sự cố bất ngờ (sudden breakdown), hoả hoạn, chập điện…Chẳng hạn như trong mấy ngày mất điện trên toàn bang New York tháng 9/ 2003 vừa rồi, trong số tổng thiệt hại 30 tỉ đô la một ngày thì thiệt hại gây ra cho mạng máy tính cũng là một con số không nhỏ Theo . Bởi vì khi mất điện toàn bộ hệ thống mạng cục bộ, cũng như các máy chủ đều phải ngừng hoạt động hoặc hoạt động hạn chế làm cho các giao dịch hầu như không thực hiện được, đó còn chưa kể đến những thiệt hại khi mà điện mất giữa lúc các giao dịch đang diễn ra. Rủi ro do các hiện tượng xã hội gây nên: Đó là những rủi ro gây ra bởi chiến tranh, khủng bố, bạo loạn, đình công…Chẳng hạn như trong sự kiện khủng bố 11/9, bên cạnh các thiệt hại về sinh mạng và vật chất thì còn các thiệt hại về những dữ liệu trong máy tính của các công ty có văn phòng ở toà nhà, những máy chủ trong toà nhà bị phá huỷ còn gây ra những thiệt hại cho các bên có quan hệ giao dịch qua mạng với các công ty trong toà nhà này. Hay các cuộc đình công của nhân viên tin học của các hãng hàng không hoặc du lịch còn gây thiệt hại cho doanh nghiệp bằng cách không xử lí các đơn đặt vé hoặc đặt phòng… Rủi ro do những hành động cố ý của các cá nhân: Đó là những hành động của các hacker hay các tác giả của những virus máy tính nguy hiểm… Hacker bắt nguồn từ tiếng Anh là động từ “ Hack” có nghĩa là “đốn, chặt, đẽo”; “hack” là một hoạt độngcó kỹ xảo và như vậy, Hacker có nghĩa là trò chơi phá phách, đặc biệt chỉ thủ thuật khéo léo, kỹ thuật cao. Định nghĩa Hacker là: Thích khám phá sự huyền bí của trật tự phần mềm, từ đó tăng thêm sự tải của người sử dụng, họ không giống như đại bộ phận những người sử dụng chỉ hiểu theo quy tắc do người khác khám phá ra. Những Công ty phần mềm nổi tiếng toàn cầu trong Bách khoa toàn tập xuất bản 1996 định nghĩa: Bắt đầu từ thập kỷ 20 đến thập kỷ80 Hacker được định nghĩa như sau: là người ham mê chơi, họ xuất hiện trong phần mềm máy tính và kỹ thuật máy tính. Hacker có hàm ý khinh miệt, thông thường là chỉ những người thích thông qua máy tính cá nhân , tìm cách lên mạng, xâm nhập, tìm những bí ẩn về mạng và máy tính, sau đó kiểm tra và phá hỏng trật tự hoặc số liệu trong đó. Hay nói một cách chính xác hơn Hacker chính là kẻ thông qua con đường bất hợp pháp xâm nhập vào mạng của người khác để tìm những thoả mãn. Trong con mắt của mọi người Hacker chính là sự kết hợp của những phần tử phá hoại máy tính.Từ một vài định nghĩa trên, chúng ta thấy hình tượng Hacker trong con mắt của mọi người không ngừng thay đổi. Nhưng lịch sử phát triển của Hacker như thế nào?Nói chung mọi người đều cho rằng nguồn gốc của Hacker có từ trong phòng thí nghiệm của học viện Marker từ những năm 50 của thế kỷ 20. Đến những năm 60 người ta hiểu Hacker là những người nghiện máy tính có suy nghĩ độc lập, tuân theo pháp luật, phục vụ việc công, họ lợi dụng thời cơ kỹ thuật cho phép phân thành những hộ dùng đồng thời chấp hành trật tự nhiều chương trình, mở rộng phạm vi sử dụng máy tính và mạng. Những năm 70, Hacker đề xướng ra một cuộc cách mạng máy tính cá nhân, họ phát hiện ra máy tính cá nhân, xoá bỏ cục diện máy tính chỉ nằm trong tay một vài người và đề ra những quan điểm về máy tính. trong giai đoạn này, Hacker cũng phát minh ra một vài kỹ xảo xâm nhập vào hệ thống máy tính như: phá giải mật khẩu, cửa sập... Đến những năm 80, một đại biểu của Hacker đã thiết kế ra các loại phần mềm ứng dụng. Trong thời điểm đó cùng với việc nâng cao tầm quan trọng của máy tính, máy có cấu hình cao ngày càng nhiều, tin tức lại tập trung vào trong tay một ít người. Hacker bắt đầu lấy tin tức. Lúc này Hacker bắt đầu liên tiếp xâm nhập vào hệ thống máy tính lớn. Đội ngũ Hacker càng ngày càng đông. Có kẻ với thiện ý lấy phát hiện lỗ hổng của hệ thống máy tính làm thú vui. Cũng có kẻ có những trò chơi, hành động ngạo đời; còn những kẻ thuần tuý với mục đích riêng của mình tuỳ tiện sửa đổi số liệu phi pháp để đạt được tin tức gọi là Craker.Vì vậy để có một định nghĩa tương đối chuẩn xác về Hacker là rất khó. Đội ngũ Hacker càng nhiều càng phức tạp, họ luôn luôn thích đưa ra những cách thức lập dị, rất khác với mọi người. Cuốn sách này ra đời dưới góc độ lý giải Hacker, loại bỏ những khái niệm phức tạp. Và Hacker được hiểu với nghĩa rộng là lợi dụng những kỹ thuật, xâm nhập với thiện ý hay ác ý vào không gian máy tính ngoài quyền hạn. Bên cạnh hacker thì các loại mã nguy hiểm (malicious) bao gồm các loại virus, sâu máy tính, những “con ngựa thành Tơroa”(Trojan) Study on Computer Crime, International Computer Security Association, 2000 . Virus máy tính là những chương trình được có kích thước nhỏ, độ lây nhiễm nhanh chủ yếu qua đĩa mềm khi mà khả năng lưu trữ của máy tính chưa cao. Sau này sự phát triển của Internet và thư điện tử đã tạo ra một môi trường phát tán mới cho virus. Vì thư điện tử có thể chứa các file đính kèm với kích thước lớn nên người ta đã mượn khái niệm “sâu máy tính” để chỉ trường hợp này. Sâu có đặc điểm là kích thước lớn hơn virus, sinh sôi nhanh, nhiều và có tính phá hoại lớn hơn. Thông qua hệ thống thư điện tử, một con sâu máy tính có thể tự sinh sôi ra hàng nghìn bản sao và phát tán khắp toàn địa cầu chỉ trong vòng mấy phút thông qua e-mail như trường hợp Melissa năm 1999 và LoveLetter năm 2000 hoặc thông qua các lỗ hổng trong phần mềm như CodeRed và Nimda năm 2001. “ Con ngựa thành Tơroa” (Trojan) là các chương trình gián điệp ẩn trong máy tự động sao các mã khoá, dữ liệu gửi tới một địa chỉ nhất định, thậm chí có thể cho phép đột nhập vào máy để thay đổi dữ liệu. Do vậy, Trojan là một phương tiện phổ biến nhằm đánh cắp các thông tin cá nhân, dữ liệu mật nhất là các chương trình mã nguồn của các sản phẩm phần mềm và các thông tin bí mật của các đối thủ cạnh tranh. 2.2 Rủi ro trong Thương mại điện tử có nguồn gốc chủ quan: Rủi ro có nguồn gốc chủ quan ngày càng phổ biến hơn do số lượng người sử dụng Internet tăng mạnh. Tuy nhiên, nhóm rủi ro này có thể gồm một số loại sau: Rủi ro do lừa đảo: Lừa đảo trong Thương mại điện tử là việc tin tặc sử dụng các địa chỉ thư điện tử giả hoặc mạo danh một người nào đó thực hiện những mưu đồ bất chính. Sự lừa đảo cũng có thể liên quan đến việc thay đổi hoặc làm chệch hướng các liên kết Web tới một địa chỉ káhc với địa chỉ thực hoặc tới một Website giả mạo Website thực cần liên kết. Những liên kết này có thể sẽ hướng người sử dụng tới những website vô bổ, ngoài mong muốn nhằm thực hiện những mưu đồ tin tặc. Hiện nay, liên tục các vụ lừa đảo trên mạng xảy ra dưới hình thức giả mạo các ngân hàng có dịch vụ trực tuyến như Citibank ở Hoa Kì, Halifax và Barlay ở Anh, ANZ, ASB, BNZ ở NewZealand để ăn cắp tên và mật khẩu truy cập tài khoản. Thủ đoạn của bọn lừa đảo là gửi các thư điện tử có xuất xứ na ná với Websites của các ngân hàng với nội dung như vì lý do an ninh hoặc có thay đổi trong hệ thống tài khoản nên yêu cầu người nhận thư cung cấp tên và mật khẩu của tài khoản để đăng nhập lại. Thậm chí, chúng còn đưa các đường dẫn vào trong thư điện tử hoặc thiết lập trang Web giả mạo cùng các đường dẫn kê khai như trường hợp của ngân hàng ANZ và người nhận sẽ tự để lộ tên tài khoản và mật khẩu vào tay chúng khi nhấp chuột vào các đường dẫn này.Hay gần đây nhất là vụ lừa đảo qua mạng ở NewZealand, trang web có địa chỉ làwww.devancy.com tự xưng là đối tác của các ngân hàng nổi tiếng trong khu vực như ANZ, ASB, BNZ, National Bank và Westpac.Thủ đoạn của những kẻ lừa đảo là thuyết phục khách hàng chấp nhận một số khoản tiền gửi qua tài khoản của họ rồi sẽ được chuyển tiếp tới một bên thứ ba, sau khi trừ đi một khoản phí giao dịch khá hời cho chủ tài khoản. Ví dụ, Devancy thông báo sẽ chuyển nhờ qua tài khoản của bạn 10.000 USD và bạn hãy giữ lại 500 USD cho mình rồi chuyển tiếp 9.500 USD tới một ai đó trong cùng ngày. Ngay khi tiền của bạn chuyển đi, chúng sẽ ra lệnh ngừng gửi khoản tiền đầu tiền. Nhiều người bị mất những khoản tiền khá lớn khi gửi tiền của mình tới những địa chỉ mà website "ma" nói trên thông báo. Điều quan trọng nhất trong thủ đoạn lừa đảo này là tội phạm phải thiết kể một Website trông sao cho thật giống một trang web dịch vụ tài chính thực sự. Rủi ro do nghẽn mạng giao dịch: Nói là kinh doanh mạng người ta có thể giao dịch tự do bất cứ lúc nào với thời gian cực nhanh. Song thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra như vậy. Trong kinh doanh trên mạng, rất nhiều giao dịch không thực hiện được do tắc nghẽn mạng hay do bị khống chế của “Hải quan ảo”. Rất nhiều website nổi tiếng thường bị tắc nghẽn không truy cập được do quá nhiều người muốn vào nhưng cửa thì có hạn. Rủi ro này cũng phương hại tới lợi nhuận kinh doanh trên mạng của các doanh nghiệp.ở Việt Nam, rủi ro tắc nghẽn mạng giao dịch cũng thường xuyên xảy ra, ví dụ như: tắc nghẽn mạng cả mạng điện thoại cố định cũng như di động trong dịp Worldcup, nhịp cầu âm nhạc…, tắc nghẽn mạng Internet dịp thông báo kết quả thi đại học vừa qua. Rủi ro do vi phạm quyền sở hữu trí tuệ: Đây là loại rủi ro đang nổi cộm trên mạng Internet. Rủi ro này thường xảy ra do tính địa phương về sở hữu trí tuệ. Tên giao dịch hay nhãn hiệu sản phẩm của một công ty nước ngoài có thể trùng với tên giao dịch hay nhãn hiệu của một công ty nước khác cùng kinh doanh trên mạng. Đặc biệt khi trùng lắp với công ty đã tạo lập được uy tín và danh tiếng và đang làm ăn có hiệu quả trên mạng thì nhất định công ty kia sẽ bị kiện cho dù không cố ý nhái tên hay nhãn hiệu sản phẩm.Ví dụ nhãn hiệu Cà phê Trung Nguyên của Việt Nam chắc chẵn sẽ không được giao dịch trên mạng Internet bởi vì đã có người đăng ký bản quyền. Hay tên giao dịch của sàn giao dịch hàng thủ công Mỹ nghệ của VCCI lúc đầu là Handivn. com.vn đã phải thay đổi lại thành vn.craft.com.vn vì tên ban đầu đã trùng với tên giao dịch của một trang web thuộc một công ty trên thế giới cũng đang kinh doanh trên mạng. Ngay cả cái tên vịnh Hạ Long, một điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam cũng bị đăng kí nhan nhản trên mạng, do vậy Sở du lịch tỉnh Quảng Ninh không còn cách nào khác phải đăng kí tên Vịnh Hạ Long với một địa chỉ rất dài http:\\halongbay.halong.net. Rủi ro an toàn bảo mật: Tính bảo mật trên đường truyền là một nôi dung quan trọng để có thể kinh doanh trên mạng.Các thông tin trong giao dịch và khoá số trên mạng rất dễ bị thất thoát bởi vì được truyền đi khắp thế giới. Ai có thể đảm bảo chắc chắn rằng các dữ liệu truyền cho nhau trong giao dịch đảm bảo tuyệt đối tính bí mật. Nguyên nhân của sự thất thoát có thể do chủ quan cũng có thể do khách quan.Chẳng hạn như trong trường hợp những kẻ trôm trên mạng (sniffer) là một dạng của chương trình gián điệp (Trojan) chuyên được sử dụng nhằm ăn cắp các thông tin có giá trị như dữ liệu kinh doanh của các doanh nghiệp… Đối với Thương mại điện tử, sự an toàn trên mạng là một vấn đề luôn cần phải lưu ý. Nạn nhân của nó không chỉ là các doanh nghiệp mà cả những cá nhân, những người có tham gia Thương mại điện tử. Khi gặp rủi ro này, giao dịch trên mạng có thể không đạt kết quả hoặc kết quả không đạt như mong muốn hay sẽ bị thiệt hại khi thực hiện…. Rủi ro do sự bất cẩn của người sử dụng: Trong giao dịch trên mạng, rủi ro này cũng thường xuyên gặp phải, ví dụ như: tắt máy, tắt nguồn điện hay nhấp ”nhầm chuột”…Một công ty Hồng kông đưa giá chào bán trên mạng lô hàng máy điều hoà National 9000 BTU của Nhật Bản với giá 130 USD/chiếc. Ngay sau đó có hàng trăm hợp đồng ký kết có hiệu lực bởi vì giá chào hàng quá rẻ. Sau khi thấy hiện tượng bất thường, kiểm tra lại đơn chào bán thì giá chào bán chỉ bằng 1/3 so với giá quy định. Nguyên nhân giá chào thấp là do người giao dịch đã nhấp “chuột” nhầm vào phần giá cả nên giá đã được chia ba. Nhưng hợp đồng đã được ký kết và đã có hiệu lực nên không thể thay đổi được nữa.Hay do bất cẩn của người sử dụng khi truyền dữ liệu đặc biệt là những con số qua dấu chấm hoặc dấu phẩy đằng sau những con số. Sự bất cẩn của người truyền dữ liệu có thể làm tăng hoặc làm giảm giá trị của con số truyền đi đã gây ra nhiều tác hại trong giao dịch và đôi khi gây ra những thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp. Rủi ro khước từ phục vụ (Dos-Denial of Service): Sự khước từ phục vụ của một Website là hậu quả của việc tin tặc sử dụng những giao thông vô ích làm tràn ngập và dẫn tới tắc nghẽn mạng truyền thống, hoặc sử dụng số lượng lớn máy tính tấn công vào một mạng (dưới dạng các yêu cầu phân bố dịch vụ) từ nhiều điểm khác nhau gây nên sự quá tải về khả năng cung cấp dịch vụ. Những cuộc tấn công Dos có thể là nguyên nhân khiến cho mạng máy tính ngưnừg hoạt động và trong thời gian đó, người sử dụng sẽ không thể truy cập vào các website. Đối với những trang Web Thương mại điện tử náo nhiệt như eBay.com hay Buy.com hay Amazon.com, những cuộc tấn công này cũng đồng nghĩa với những khoản chi phí vô cùng lớn, vì trong thời gian website ngừng hoạt động, khách hàng không thể thực hiện các giao dịch mua bán. Và sự gián doạn hoạt động này sữ ảnh hưởng tới uy tín và tiếng tăm của doanh nghiệp, những điều không dễ dàng gì lấy lại được. Mặc dù những cuộc tấn công này không phá huỷ thông tin hay truy cập vào những vùng cấm của máy chủ nhưng tạo ra nhiều phiền toái, gây trở ngại cho hoạt động của nhiều doanh nghiệp. Thí dụ, tháng 2 năm 2000, các vụ tấn công Dos từ bọn tin tặc là nguyên nhân dẫn tới ngừng hoạt động hàng loạt website trên thế giới trong nhiều giờ: eBay ngừng hoạt động trong 5 giờ, Amazon gần 4 giờ, CNN gần 3,5 giờ , E-Trade gần 3 giờ, Yahoo. Buy.com và ZDNet cũng ngừng hoạt động từ 3-4 giờ Mike McConnelL, Security and the Internet,Wall Street Journal, 17-2-2000 , ngay cả người khổng lồ Microsoft cũng đã phải gánh chịu hậu quả của những cuộc tấn công này. Cho đến nay, cả thế giới đang hy vọng tìm ra biện pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công tương tự trong tương lai. Rủi ro trong việc sử dụng và quản lý mạng: Việc truy cập mạng để gửi các thông điệp điện tử phục vụ giao dịch với khách hàng là những công việc bình thường của các công ty kinh doanh trên mạng. Rủi ro ở đây chính là việc trao đổi các thông tin qua lại giữa các bên. Do vô tình hay nhầm lẫn, người giao dịch có thể xoá đi những tệp dữ liệu hoặc làm mất đi những chương trình dày công thiết kế và xây dựng của công ty trong lúc truy cập mạng. Thiệt hại xảy ra là khó xác định.Giao dịch trên mạng, việc thành bại của công ty cũng còn phụ thuộc nhiều vào chương trình quản lý mạng. Nếu trong giao dịch điện tử, khách hàng cảm thấy khó khăn trong việc liên hệ hay truy cập thì cho dù một lần cũng có thể làm giảm uy tín của công ty hay mất cơ hội trong kinh doanh. Rủi ro gian lận thẻ tín dụng: Trong thương mại truyền thống, gian lận thẻ tín dụng có thể xảy ra trong trường hợp thẻ tín dụng bị mất, bị đánh cắp; các thông tin về số thẻ, mã số định danh cá nhân (PIN- Personal Identification Number), các thông tin về khách hàng bị tết lộ và sử dụng bất hợp pháp …Trong Thương mại điện tử, các hành vi gian lận thẻ tín dụng xảy ra đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với trong thương mại truyền thống. Nếu như trong thương mại truyền thống, việc mất thẻ hoặc thẻ bị đánh cắp là mối đe doạ lớn nhất đối với khách hàng, thì trong Thương mại điện tử mối đe doạ lớn nhất là bị mất các thông tin liên quan đến thẻ hoặc các thông tin về giao dịch sử dụng thẻ trong quá trình diễn ra giao dịch. Các tệp chứa dữ liệu thẻ tín dụng của khách hàng thường là những mục tiêu hấp dẫn đối với tin tặc khi tấn công bào các website. Hơn thếnữa, những tiên tội phạm có thể đột nhập vào các website Thương mại điện tử, lấy cắp các thông tin cá nhân cả khách hàng như tên, địa chỉ, điện thoại…Với những thông tin này, chúng có thể mạo danh khách hàng thiết lập các khoản tín dụng mới nhằm phục vụ những mục đích đen tối. Và cuối cùng, đối với người bán, một trong những đe doạ lớn nhất có thể xảy ra đó là sự phủ định đối với các đơn đặt hàng quốc tế. Trong trường hợp một khách hàng quốc tế đặt hàng và sau đó từ chối hành động này, người bán hàng trực tuyến thường không có cách nào để xác định rằng thực chất hàng hoá đã được giao tới tay khách hàng hay chưa và chủ thẻ tín dụng có thực sự là người đã thực hiện đơn đặt hàng hay không. Đây đang là hiện tượng tội phạm khá nổi cộm ở ngay Việt Nam, và Cục phòng chống tội phạm kĩ thuật cao-Bộ Công An đã phải vào cuộc. Vì hiện nay hiện tượng ăn cắp mã số thẻ tín dụng của các hacker Việt Nam quá phổ biến đến mức các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ nước ngoài thường xuyên từ chối các giao dịch có nguồn gốc từ Việt Nam mà thanh toán bằng thẻ tín dụng. Rủi ro về mặt pháp lý: Một trong những lợi ích lớn nhất của mạng Internet đó chính là tính quốc tế của phạm vi hoạt động. Truy cập Internet, người ta có thể vào bất cứ địa chỉ website nào của các công ty trên thế giới. Lợi ích này cũng chính là rủi ro đầu tiên của mạng Internet. Bởi vì khi thiết kế tạo lập các trang web trên mạng giới thiệu về công ty của mình để tiến hành kinh doanh, các công ty phải tuân thủ luật pháp của nước nơi đặt website đó. Song website đó lại có thể vi phạm hoặc trái với luật pháp của một số quốc gia khác. Rủi ro này rất khó tránh khi tiến hành kinh doanh trên mạng. Ví dụ, Việt Nam đã thiết lập các bức tường lửa (firewall) nhằm ngăn cản việc truy cập vào một số trang web có nội dung không lành mạnh từ Việt Nam. Rủi ro pháp lý cũng có thể bao gồm các chi phí kiện tụng, bào chữa của doanh nghiệp trước những vụ kiện do bên thứ ba tiến hành và cả những khoản bồi thường cho bên thứ ba. Những nguyên nhân khiến cho bên thứ ba khởi kiện có thể xuất phát từ những nội dung trên trang web của doanh nghiệp vi phạm bản quyền, trang web hay hệ thống máy tính của doanh nghiệp là nơi phát tán các loại virus hay sâu nguy hiểm (dù doanh nghiệp có cố ý hay không) gây thiệt hại cho bên thứ ba, thậm chí trang web hay hệ thống máy tính của doanh nghiệp bị hacker khống chế để gửi các quảng cáo khiêu dâm hay có nội dung đồ truỵ tới những địa chỉ email của chính khách hàng có trong dữ liệu của doanh nghiệp, những mất mát về thông tin cá nhân như mã số thẻ tín dụng, thông tin về sức khoẻ của khách hàng... Rủi ro do sự tấn công từ bên trong doanh nghiệp: Trong kinh doanh, chúng ta thường cho rằng những mối đe doạ an toán có nguồn gốc từ những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, nhưng thực chất những đe doạ này không chỉ đến từ bên ngoài mà có thể bắt nguồn từ chính những thành viên làm việc trong doanh nghiệp. Trong Thương mại điện tử cũng vậy. Có nhiều trang Web Thương mại điện tử bị phá huỷ, nhiều doanh nghiệp Thương mại điện tử phải gánh chịu hậu quả do dịch vụ bị ngưng trệ, do bị lộ các thông tin cá nhân hay các dữ liệu tín dụng của khách hàng mà thủ phạm là chính các nhân viên làm việc trong doanh nghiệp, những người từng được tin tưởng và trọng dụng. Những nhân viên làm việc trong doanh nghiệp có thể truy cập các thông tin bí mật, hoặc xâm nhập tới mọi nơi trong hệ thống thông tin của tổ chức nếu như những biện pháp bảo mật thông tin của doanh nghiệp thiếu thận trọng. Theo Network News thì tới 70% những sai sót trong hệ thống máy tính của doanh nghiệp và tổ chức tại Anh quốc bắt nguồn từ chính các nhân viên trong doanh nghiệp và tổ chức đó. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp, hậu quả của những đe doạ loại này còn nghiêm trọng hơn những vụ tấn công từ bên ngoài doanh nghiệp. Ví dụ, trong trường hợp của Joe Oquendo, một chuyên gia bảo mật máy tính của Collegeboardwalk.com, người được phép làm việc cùng văn phòng và chia sẻ thông tin trên mạng máy tính của hãng Five Partner Asset Management, một nhà đầu tư của Collegeboardwalk.com. Lợi dụng quyền hạn của mình, Oquendo đã thay đổi các câu lệnh khởi động mạng của Five Partner Asset Management để hệ thống này tự động gửi các tệp mật khẩu tới một địa chỉ thư điện tử do anh ta kiểm soát mỗi khi hệ thống của Five Partner Asset Management khởi động lại. Sau khi Collegeboardwalk.com phá sản, Oquendo đã bí mật cài đặt lại một chương trình gián điệp nhằm ngăn chặn và ghi lại các thông điệp điện tử trên mạng của Five Partner Asset Management trong đó có cả những mật khẩu không mã hoá. Oquendo bị bắt khi đang sử dụng chương trình gián điệp để bẫy mật khẩu mạng máy tính của một công ty khác với mục đích xoá toàn bộ cơ sở dữ liệu của công ty này. III.Ảnh hưởng của rủi ro trong Thương mại điện tử 1.Tác hại của Thương mại điện tử 1.1Rủi ro có thể gây ra thiệt hại về vật chất: Thiệt hại vật chất đối với doanh nghiệp có thể do bất cẩn của nhân viên như báo giá sai dẫn đến thiệt hại, hoặc do thiên tai gây ra các thiệt hại về dữ liệu trong máy tính hoặc làm gián đoạn các giao dịch đang diễn ra… Hơn nữa, doanh nghiệp còn có thể bị lừa đảo bởi các công ty ma trên mạng. Ví dụ: Một doanh nghiệp Việt Nam giao dịch qua mạng nhập một lô hàng 300 tấn nhôm thành phẩm khung cửa theo điều kiện CFR Incoterms 1990 cảng Hải Phòng. Tháng 5-2001, 17 container về đến Hải Phòng nhưng khi mở toàn bộ bên trong là phân bón. Một vài lần giao dịch qua mạng không thành công, khiếu nại phát sinh. Người mua Việt Nam gửi toàn bộ hồ sơ qua fax cho người bán Hồng Kông để đòi bồi thường, Bưu điện Hà Nội trả lời fax không gửi được vì số fax người bán cung cấp trong hợp đồng điện tử không có ở Hồng kông. Nhờ Interpol Hồng Kông điều tra, tên công ty xuất khẩu ở Hồng Kông không có. Địa chỉ e-mail của người xuất khẩu không thể hiện tên miền (domain) là Hồng kông. Như vậy, chỉ có qua mạng giao dịch như trên không thể truy tìm được người xuất khẩu thực. Rủi ro có thể làm hạn chế hiệu quả trong kinh doanh: Tháng 3 năm 2003, chiến dịch tấn công Iraq do Mĩ đứng đầu lúc làm dấy lên một làn sóng tấn công trên mạng của cả hai phep phản đối và ủng hộ cuộc chiến này. Khoảng 3.000 đến 5.000 trang web của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trên khắp thế giới bị tê liệt hoặc ngừng hoạt động trong thời gian này, kể cả website của hãng tin Ảrập nổi tiếng Al-Jazeera. Như vậy, cuộc chiến ảo trên mạng Internet cũng đã hạn chế hoạt động của khá nhiều trang Web Thương mại điện tử do vậy làm cho hoạt động của các doanh nghiệp này bị đình trệ trong một thời gian nhất định dẫn tới giảm hiệu quả kinh doanh. 1.3 Rủi ro có thể làm mất đi cơ hội trong kinh doanh của của DN Tiêu biểu cho loại tác hại này là thiệt hại của các cuộc tấn công từ chối phục vụ Dos (Denial of service)gây ra nghẽn mạng giao dịch như trường hợp của các trang Web thương mại điện tử. Tháng 2/2000, một tin tặc 15 tuổi tự xưng là Mafiaboy tấn công các địa chỉ Internet của Yahoo, Dell, CNN, Amazon.com và eBay. Virus của người này đó tấn công máy tính của những hãng trên bằng cách tạo ra lệnh gửi các yêu cầu giả liên tục trong suốt 6 ngày, làm tê liệt hệ thống trong 16 giờ liền. Theo ước tính mỗi ngày Amazon.com có tới hàng nghìn đơn đặt hàng lớn nhỏ với doanh thu trung bình xấp 500.000 USD/ ngày thì việc hệ thống máy tính tê liệt trong vòng 16 giờ đồng hồ sẽ làm hãng mất rất nhiều đơn đặt hàng, đó còn chưa kể những thiệt hại về mặt uy tín của hãng đối với khách hàng. 1.4Rủi ro gây ảnh hưởng tới uy tín kinh doanh của DN: Uy tín của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hơn nữa, một khi uy tín của doanh nghiệp được đặt cược trên mạng Internet toàn cầu thì bất kì một sự suy giảm uy tín nào cũng là đáng kể và gây ra hậu quả lớn. Microsoft là một ví dụ điển hình, người khổng lồ này không những phải gánh chịu những đợt tấn công của các hacker mà còn bị chính các hacker khai thác các lỗ hổng của các hệ điều hành như Windows2000, Windows Server 2000 và các bộ Office nổi tiếng của hãng để tạo ra các virus có sức công phá và mức độ lây lan kinh khủng. Vì các phần mềm của hãng Microsoft được sử dụng rộng rãi nên hậu quả đối với các mạng máy tính trên toán thế giới là rất lớn. Chẳng hạn như vào tháng 7/2001, Virus CodeRed tấn công phần mềm mạng của Microsoft. Con bọ này phát hiện điểm yếu trong hệ thống máy tính và tự nhân bản trong quá trình truy nhập. Tổng thiệt hại trong sự cố mà nó gây ra lên đến 2,6 tỷ. Sobig.E ảnh hưởng tới PC chạy Windows 95/98/Me/NT và 2000. Nó phát tán bằng cách tự gửi tới những địa chỉ e-mail tìm thấy trong hộp thư, ổ cứng và thậm chí trong các file cache ở trình duyệt. Các chuyên gia bảo mật đang cảnh báo người dùng về một loại virus mới mang tên MBlast (hay cũn gọi là San), khai thác lỗ hổng trong giao diện RPC ở phần mềm Windows. Sau đang lây nhiễm vào hàng trăm nghìn máy tính trên thế giới. MBlast mang theo thông điệp: "I just want to say Love you San! Billy gates why do you make this possible? Stop making money and fix your software!!". Khi lây nhiễm, virus cài các lệnh tấn công từ chối dịch vụ website cập nhật chương trình mới của Microsoft. Đây cũng là site mà người dựng được khuyến cáo để tải các bản sửa lỗi bảo vệ hệ thống của họ. Hay gần đây tập đoàn ngân hàng nổi tiếng của Australia vừa thông báo xác định thêm một trang web giả mạo xuất xứ từ Trung Quốc. Địa chỉ này sử dụng e-mail lừa khách hàng để lộ thông tin cá nhân như mã truy nhập và password. Ngân hàng cho biết, sau khi xác định được website "nhái", đến nay họ đã có biện pháp để đóng cửa. Thủ đoạn của những kẻ mở trang web này là gửi tới khách hàng của ANZ một thư giả mạo, mời họ click vào đường link nối tới trang của chúng. Tại đây, khách hàng được yêu cầu cung cấp mã số truy nhập và password cá nhân. Như vậy, ANZ đã phần nào bị giảm uy tín qua vụ việc này mặc dù đã sớm khắc phục được sự cố. Rủi ro trong thương mại điện tử quả thật là những tai họa có tính thường trực đối với các doanh nghiệp thương mại điện tử. Những thiệt hại do chúng gây ra cũng khó có thể dự đoán trước được, do vậy các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế các loại rủi ro này. Rủi ro trong Thương mại điện tử quả thật là những tai họa có tính thường trực đối với các doanh nghiệp Thương mại điện tử. Những thiệt hại do chúng gây ra cũng khó có thể dự đoán trước được, do vậy các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế các loại rủi ro này. 2.Tính tất yếu của Bảo hiểm các rủi ro trong Thương mại điện tử Thế giới ngày càng có những biến đổi nhờ vào sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đã tạo ra một phương thức giao dịch thương mại mới thông qua mạng Internet toàn cầu, đó là Thương mại điện tử . Mặc dù Thương mại điện tử không còn là phương thức mới mẻ và lượng giao dịch Thương mại điện tử đã tăng mạnh nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng ý thức được rằng các giao dịch qua mạng Internet luôn tiềm ẩn những rủi ro. Mỗi lần virus hay sâu máy tính tàn phá hệ thống máy tính toàn cầu dường như cả thể giới như gặp phải một thiên tai lớn. Các giao dịch trên mạng bị ngưng trệ gây thiệt hại hàng triệu đô la cho các công ty.Theo số liệu điều tra mới nhất của Assurex International, một công ty môi giới bảo hiểm thương mại lớn nhất Hoa Kì, hầu như các công ty Mĩ, không chỉ bao gồm các công ty cỡ nhỏ và trung bình mà kể những tên tuổi lớn, vẫn chưa chuẩn bị tốt các nguồn lực như tài chính, nhân lực và kĩ thuật cho việc quản lí toàn diện các rủi ro điện tử. Cũng theo Assurex International thì hầu hết các công ty đều cho rằng họ bảo vệ mình đơn giản bằng cách cài đặt chương trình chống virus (khoảng 98%), tạo ra bức tường lửa (96%) hoặc sử dụng các chương trình bảo mật (69%). Tuy nhiên, việc quản lí rủi ro điện tử hiệu quả phải đạt được hai mục tiêu : Một là phải ngăn ngừa và hạn chế các rủi ro điện tử ; Hai là phải giảm thiểu những chi phí hoặc thiệt hại do các rủi ro điện tử gây ra. Hay theo một cuộc điều tra mới nhất của Network News thì hầu hết các doanh nghiệp ở Anh quốc không tham gia Bảo hiểm rủi ro trong thương mại điện tử. Quan điểm của những doanh nghiệp này là tin tưởng vào các loại hình bảo hiểm thương mại truyền thống. Tuy nhiên, theo cuộc điều tra này thì đã có tới 11% số doanh nghiệp đã tham gia Bảo hiểm các rủi ro trong thương mại điện tử và số lượng doanh nghiệp này đang ngày càng tăng lên. Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm truyền thống cũng đã bổ sung thêm các điều khoản riêng về rủi ro trong thương mại điện tử vào các bản hợp đồng bảo hiểm thương mại truyền thống. Như vậy, Bảo hiểm các rủi ro trong thương mại điện tử đã đáp ứng được hai mục tiêu cơ bản của công tác quản trị rủi ro điện tử và ngày càng được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến. Hơn nữa, tính tất yếu của loại hình bảo hiểm này còn xuất phát từ những lý do hết sức thuyết phục sau. 2.1An toàn trong kinh doanh là trên hết Một điều kiện tiên quyết trong kinh doanh đó sự an toàn. Hơn nữa, trong một môi trường kinh doanh hàm chứa nhiều rủi ro như Thương mại điện tử thì bảo đảm an toàn trong kinh doanh lại càng trở nên quan trong hơn cả. Trước tiên, ta cần hiểu an toàn trong thương mại truyền thống và trong Thương mại điện tử là gì. Trong thương mại truyền thống, khi đi mua hàng, mgười mua có thể gặp những rủi ro như không nhận được những hàng hoá mà mình đã mua và thanh toán. Nguy hiểm hơn, khách hàng có thể bị những kẻ xấu lấy cắp tiền trong lúc mua sắm. Nếu là người bán hàng, thì có thể không nhận được tiền thanh toán. Thậm chí, kẻ xấu có thể lâý trộm hàng hoá hoặc các rủi ro khách như thiên tai, cháy nổ, tai nạn bất ngờ… trong quá trình vận chuyển giao hàng hoá tới tay người mua, hoặc có thể bị lừa đảo như thanh toán bằng thẻ tín dụng ăn cắp được hoặc bằng tiến giả…Nhìn chung, tất cả các loại tội phạm diễn ra trong thương mại truyền thống đều xuất hiện trong Thương mại điện tử dưới nhiều hình thức tinh vu và phức tạp hơn. Trong khi đó, việc giảm các rủi ro trong Thương mại điện tử là một quá trình phức tạp liên quan đến nhiều công nghệ mới, nhiều thủ tục và các chính sách tổ chức, liên quan đến những đạo luật mới và những tiêu chuẩn công nghệ (Hình 9) Các giải pháp công nghệ Dữ liệu Các thủ tục và chính sách của tổ chức Luật pháp và các tiêu chuẩn công nghiệp Hình 9: Môi trường an toàn Thương mại điện tử Để đạt được mức độ an toàn cao trong Thương mại điện tử, chúng ta phải sử dụng nhiều công nghệ mới. Song, bản thân các công nghệ mới này không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Cần có các thủ tục và chính sách, tổ chức…để đảm bảo cho các công nghệ trên không bị phá hỏng. Các tiêu chuẩn công nghệ và các đạo luật mới, phù hợp của các chính phủ cũng cần được áp dụng để tăng hiệu quả hoạt động của các kỹ thuật thanh toán và để theo dõi, đưa ra xét xử những vi phạm luật pháp trong Thương mại điện tử. Đa số tội phạm Internet quốc tế đều thoát tội vì sự không thống nhất giữa các quốc gia về quyền hạn xử lí. An toàn luôn chỉ mang tính tương đối. Lịch sử an toàn giao dịch thương mại đã chứng minh rằng, bất cứ hệ thống an toàn nào cũng có thể bị phá vỡ nếu không đủ sức để chống lại các cuộc tấn công. Hơn nữa, một sự an toàn vĩnh viễn là không cần thiết trong thời đại thông tin. Thông tin đôi khi chỉ có giá trị trong một vài giờ, một vài ngày hoặc một vài năm và cũng chỉ cần bảo vệ chúng trong khoảng thời gian đó là đủ. An toàn luôn đi liền với chi phí, càng an toàn thì chi phí sẽ càng cao. Vì vậy, cần cân nhắc các khoản chi phí an toàn cho những đối tượng cần bảo vệ và an toàn là một chuỗi liên kết và nó thường đứt ở những điểm yếu nhất. Cũng giống với việc chúng ta sử dụng khoá, ổ khoá bao giờ cũng chắc chắn và có độ an toàn cao hơn việc quản lý các chìa khoá. Bản chất của an toàn là một vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau. Đối với an toàn Thương mại điện tử, có sáu khía cạnh cần phải giải quyết, bao gồm: tính toàn vẹn, chống phủ định, tính xác thực của thông tin, tính tin cậy, tính riêng tư và tính ích lợi (Bảng 10). Tính toàn vẹn: Tính toàn vẹn đề cấp đến khả năng đảm bảo an toàn cho các thông tin được hiển thị trên một website hoặc chuyển hay nhận các thông tin trên Internet. Các thông tin này không bị thay đổi nội dung bằng bất cứ cách nào bởi người không được phép. Thí dụ, nếu một kẻ cố tình xâm nhập trái phép, chặn và thay đổi nọi dung các thông tin truyền trên mạng, thid dụ như thay đổi địa chỉ nhận đối với một chuyển khoản điện tử của ngân hàng và do vậy chuyển khoản này được chuyển tới một tài khoản khác. Trong những trường hợp như vậy, tính toàn vẹn của thông điệp đã bị xâm hại bởi việc truyền thông diễn ra không đúng với những gì người gửi mong muốn. Trong Thương mại điện tử, nếu khách hàng có bất cứ nghi ngờ vào về nội dung thông điệp hoặc sự trung thực của người gửi, họ có quyền đặt câu hỏi chất vấn, và các quản trị viên hệ thống sẽ là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về các vấn đề này. Chính vì vậy, để đảm bảo tính toàn vẹn thông tin, trước tiên, các quản trị viên hệ thống phải xác định chính xác danh sách những người được phép thay đổi dữ liệu trên website của doanh nghiệp. Càng có nhiều người được phép làm điều này cũng nghĩa là càng có nhiều mối đe doạ đối với tính toàn vẹn thông tin từ cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Bảng 10: Những băn khoăn của khách hàng và người bán hàng về các khía cạnh khác nhau của an toàn Thương mại điện tử. Khiá cạnh Băn khoăn của khách hàng Băn khoăn của người bán hàng Tính toàn vẹn Thông tin truyền hoặc nhận được có bị thay đổi không? Dữ liệu trên máy chủ (site) có bị thay đổi trái phép không? Các dữ liệu nhận được từ khách hàng có chắc chắn và có giá trị không? Chống phủ định Một đối tác có thể thực hiện một hành động và sau đó lại từ chối các hành động đã thực hiện được không? Một khách hàng có thể từ chối đã đặt mua các sản phẩm không? Tính xác thực Người giao dịch với tôi là ai? Làm sao có thể đảm bảo đối tác đó là đích thực? Làm thế nào để nhận biết chính xác một khách hàng của doanh nghiệp là ai? Tính tin cậy Một người khác (ngoài những người được phép) có thể đọc các thông điệp của tôi không? Một ai đó, ngoài những người được phép, có thể xem các thông điệp hoặc tiếp cận với các thông tin bí mật của doanh nghiệp không? Tính riêng tư Có thể kiểm soát được các thông tin cá nhân khi gửi nó cho người bán hàng trong các giao dịch Thương mại điện tử hay không Sử dụng các thông tin cá nhân mà khách hàng cung cấp như thế nào? Làm thế nào để ngăn chặn việc sử dụng trái phép các thông tin đó? Tính ích lợi Tôi có thể truy cập vào website của doanh nghiệp hay không ? Các website của doanh nghiệp hoạt động tốt không? Chống phủ định: Chống phủ định liên quan đến khả năng đảm bảo rằng các bên tham gia Thương mại điện tử không phủ định các hành động trực tuyến mà họ đã thực hiện. Chẳng hạn như một người có thể dễ dàng tạo lập một hộp thư điện tử qua một dịch vụ miễn phí, từ đó gửi đi những lời phê bính, chỉ trích hoặc các thông điệp và sau đó lại từ chối những việc làm này. Thậm chí, một khách hàng với tên và địa chỉ thư điện tử có thể dễ dàng đặt hàng trực tuyến và sau đó từ chối hành động mà mình đã thực hiện. Trong hầu hết các trường hợp như vậy, thông thường người phát hành thẻ tín dụng sẽ đứng về phía khách hàng vì người bán hàng không có trong tay bản sao chữ ký của khách hàng cũng như không có bất cứ bằng chứng hợp pháp nào chứng tỏ khách hàng đã đặt hàng mình. Và tất nhiên, rủi ro sẽ thuộc về người bán hàng. Tính xác thực: Tính xác thực liên quan đến khả năng nhận biết các đối tác tham gia giao dịch trực tuyến trên Internet, như làm thế nào để khách hàng chắc chắn rằng, các doanh nghiệp bán hàng trực tuyến là những người có thể khiếu nại được; hay những gì khách hàng nói là sự thật ; làm thế nào để biết được một người khi khi khiếu nại có nói đúng sự thật, có mô tả đúng sự việc hay không?.. Tính tin cậy (confidentiality) và tính riêng tư: Tính tin cậy liên quan đến khả năng đảm bảo rằng, ngoài những người có quyền, không ai có thể xem các thông điệp và truy cập những dữ liệu có giá trị. Trong một số trường hợp, người ta chó thể dễ nhầm lẫn giữa tính tin cậy và tính riêng tư. Thực chất, đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Tính riêng tư liên quan đến khả năng kiểm soát việc sử dụng các thông tin cá nhân mà khách hàng cung cấp về chính bản thân họ. Có hai vấn đề mà người bán hàng phải chú ý đối với tính riêng tư : * Người bán hàng cần thiết lập các chính sách nôi bộ để có thể quản lý việc sử dụng các thông tin về khách hàng *Họ cần bảo vệ các thông tin đó tránh sử dụng vào những mục đích không chính đáng hoặc tránh sử dụng trái phép các thông tin này. Ví dụ, khi tin tặc tấn công vào các website Thương mại điện tử, truy nhập các thông tin về thẻ tín dụng và các thông tin khác của khách hàng, trong trường hợp đó, không chỉ xâm phạm đến tính tin cậy của dữ liệu mà còn vi phạm riêng tư của các cá nhân, những người đã cung cấp các thông tin đó. Tính ích lợi: Tính ích lợi liên quan đến khả năng đảm bảo các chức năng của một website Thương mại điện tử được thực hiện đúng như mong đợi. Đây cũng là vấn đề mà các website hay gặp phải và là trở ngại không nhỏ đối với việc thực hiện các giao dịch trực tuyến trên Internet. Tóm lại, vấn đề an toàn trong Thương mại điện tử đựơc xây dựng trên cơ sở bảo vệ sáu khía cạnh trên, khi nào một trong số các khía cạnh này chưa được đảm bảo, sự an toàn trong Thương mại điện tử vẫn coi như chưa được thực hiện triệt để. Như vậy, an toàn trong Thương mại điện tử, trong một môi trường kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro, luôn là một vấn đề quan trọng và xuyên suốt trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp Thương mại điện tử nhất là khi Thương mại điện tử đang phát triển mạnh mẽ. 2.2 Thương mại điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ Internet đã và đang phát triển rất nhanh, không chỉ về phạm vi bao phủ mà cả phạm vi ứng dụng và chất lượng vận hành; đồng thời ngày càng khẳng định được tầm quan trọng. Những số liệu thống kê của các chuyên gia và các nhà phân tích đã gây ngạc nhiên cho rất nhiều người và thay đổi quan niệm của những người trước đây đã từng nhìn nhận Internet chỉ là nhất thời. Năm 1991 mới có 31 nước nối mạng Internet, tới giữa năm 1997 đã có 171 nước, số trang web vào giữa năm 1993 là 130, tới cuối năm 1998 đã là 3,69 triệu. Số lĩnh vực sử dụng Internet/Web vào giữa năm 1991 là 1600, tới giữa năm 1997 đã lên tới 1,3 triệu. Giữa năm 1994, toàn thế giới có 3,2 triệu địa chỉ Internet (chủ yếu là ở Mĩ), tới giữa năm 1996 đã lên tới 12,9 triệu điạ chỉ, với khoảng 67,5 triệu người sử dụng ở khắp các châu lục, giữa năm 1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng. Hàng trăm nghìn công ty và trên 1500 ngân hàng trên thế giới đang thực hiện Thương mại điện tử qua mạng Internet. Theo Thương mại điện tử – NXB Thống kê 1999 và www.oecd.org/statistic/justnumber (Xem biểu đồ 12) Ngày nay, để đưa ra chính xác số người truy cập Internet là một công việc khó, nhưng theo www.thuongmaidientu.com thì con số đó là vào khoảng 520 triệu người, trong đó một phần ba là người Mĩ và Canada. Theo bản báo cáo năm 2001 của tổ chức Internet UCLA, hiện nay ở Mỹ việc sử dụng Internet đang được phát triển rất rộng rãi. Số người hiện đang s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB7843o hi7875m r7911i ro trong Th432417ng m7841i 273i7879n t7917.doc
Tài liệu liên quan