Đề tài Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt

Tài liệu Đề tài Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt: LỜI MỞ ĐẦU --&œ-- Hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với chính sách mở cửa nền kinh tế trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang được đẩy mạnh thì hoạt động thương mại quốc tế nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trên thế giới, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không đã ra đời từ lâu, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng. Còn ở Việt Nam, tuy nghiệp vụ này đã được triển khai từ trước nhưng mới chỉ chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển ngành vận tải hàng không còn chậm, khối lượng hàng hoá vận chuyển chưa nhiều. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định làm cho nhu cầu về vận tải hàng không ngày càng lớn. Khối lượng cũng như giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng khô...

doc100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1048 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU --&œ-- Hiện nay nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với chính sách mở cửa nền kinh tế trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang được đẩy mạnh thì hoạt động thương mại quốc tế nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trên thế giới, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không đã ra đời từ lâu, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng. Còn ở Việt Nam, tuy nghiệp vụ này đã được triển khai từ trước nhưng mới chỉ chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển ngành vận tải hàng không còn chậm, khối lượng hàng hoá vận chuyển chưa nhiều. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta luôn tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định làm cho nhu cầu về vận tải hàng không ngày càng lớn. Khối lượng cũng như giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tăng lên đáng kể kéo theo nhu cầu bảo hiểm cho hàng hoá cũng tăng lên. Do vậy, đây chính là nghiệp vụ đầy tiềm năng mà ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Việt nói riêng cần nghiên cứu và xem xét. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, trước sự ra đời của một loạt các công ty bảo hiểm mới cùng với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường thì việc nghiên cứu nghiệp vụ bảo hiểm mới mẻ này là yêu cầu cấp thiết đối với Bảo Việt để đứng vững và duy trì được thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của mình. Đó chính là lý do mà em chọn đề tài "Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt " làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. Đề tài được kết cấu theo 3 chương: Chương I: Khái quát về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không Chương II: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt Chương III: Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận. Xin cám ơn các cán bộ thuộc Phòng bảo hiểm Hàng hoá - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khoá luận này. Tuy nhiên, do nhận thức còn hạn chế, lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến phê bình của các thầy cô giáo để khoá luận này được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2002 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Xuân CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NGUYÊN TẮC VỀ BẢO HIỂM 1. Sự ra đời, khái niệm và bản chất của bảo hiểm 1.1. Khái niệm rủi ro và sự ra đời của bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng, nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân như: do môi trường thiên nhiên, các sự cố xảy ra do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cả từ phía môi trường xã hội. Vậy : thế nào là rủi ro? "Rủi ro là những đe doạ nguy hiểm, không lường trước được, và là khả năng xảy ra tổn thất". Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con nguời những khó khăn trong cuộc sống. Chính vì vậy, đã có rất nhiều phương pháp đối phó với những rủi ro được con người áp dụng mà phương pháp có thể coi là ưu việt nhất là san sẻ rủi ro. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người có thể chế ngự và hạn chế được phần nào những hậu quả mà thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Tuy nhiên, những tổn thất về người và của hàng năm con người phải gánh chịu vẫn còn rất lớn. Do vậy, để đủ sức đương đầu với thiên nhiên, khắc phục nhanh chóng hậu quả - tổn thất thì con người phải đoàn kết - hợp sức nhau lại. Một trong những cách hợp sức như vậy là tiến hành bảo hiểm, nghĩa là nhiều người cùng nhau góp tiền lập ra một quỹ chung để khi có rủi ro bất ngờ xảy ra thì trích từ quỹ chung đó bù đắp cho người bị nạn. Chỉ có như vậy, người bị nạn mới có thể nhanh chóng khắc phục được hậu quả nặng nề do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Ý tưởng về việc hình thành một quỹ chung là tiền để đưa bảo hiểm trở thành một lĩnh vực kinh tế mới : "kinh tế bảo hiểm". Không giống như hình thức bảo hiểm sơ khai khi nhiều người cùng liên doanh khi có lợi nhuận thì chia nhau, có tổn thất thì cùng nhau san sẻ. Ngày nay, có các tổ chức bảo hiểm chuyên môn chịu trách nhiệm về các rủi ro trên cơ sở người chuyển nhượng rủi ro nộp một khoản phí bảo hiểm. Và như thế bảo hiểm đã ra đời cùng với sự xuất hiện của khái niệm rủi ro. Bảo hiểm ra đời là do đòi hỏi khách quan của cuộc sống và của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an toàn về tính chất cũng như các nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Xã hội ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng. 1.2. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm Cho đến nay đã có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm được đưa ra, như : - Bảo hiểm là một hệ thống các biện pháp kinh tế nhằm tổ chức các quỹ bảo hiểm huy động từ các đơn vị và cá nhân tham gia bảo hiểm để bồi thường những tổn thất, thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. - Hay có thể định nghĩa : bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro, nhờ đó, việc chuyển giao, phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện thông qua các công ty bảo hiểm. - Bảo hiểm là chế độ cam kết bồi thường về mặt kinh tế, trong đó người được bảo hiểm phải đóng góp một khoản tiền được gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm đã được quy định, còn người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường những tổn thất của đối tượng bảo hiểm do các rủi ro đã bảo hiểm gây nên. Điều này có nghĩa là : người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Đây là một khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm. Từ một số khái niệm trên, ta có thể thấy bảo hiểm chính là một ngành kinh doanh rủi ro mà đối tượng của nó chính là những rủi ro, sản phẩm là sự bồi thường và giá cả của ngành kinh doanh này chính là phí bảo hiểm. Một vấn đề đặt ra là : các công ty bảo hiểm làm sao để có nguồn vốn đủ lớn để chi trả, bồi thường thiệt hại khi các rủi ro xảy ra? Ở đây, quy luật ‘‘số lớn’’ đã được vận dụng. Nghĩa là, với sự đóng góp tuy ít của nhiều người đã đem lại lượng vốn đủ lớn để trang trải cho một số ít người bị rủi ro. Như vậy bản chất cuối cùng của bảo hiểm là sự phân tán rủi ro, chia nhỏ tổn thất của một hoặc một số ít người ra cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Hay nói cách khác, đó chính là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngời xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm. Rõ ràng là không phải tất cả những người mua bảo hiểm đều gặp rủi ro mà chỉ một số ít người. Những người không bị tổn thất hiển nhiên bị mất không số phí bảo hiểm đã đóng góp. Vậy : lý do gì khiến người ta mua bảo hiểm? Đó chính là do sự cần thiết của bảo hiểm. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm Trong đời sống xã hội, con người phải thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại với tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ đó, con người luôn phải chịu sự tác động của các quy luật khách quan của tự nhiên và của các điều kiện kinh tế - xã hội. Những tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Đối với những tác động tiêu cực, có những điều con người có thể khống chế và điều chỉnh được song cũng tồn tại những điều nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Rủi ro thuộc loại thứ hai. Vì vậy con người đã dùng nhiều biện pháp để đối phó với những rủi ro ấy : a) Tránh rủi ro : tức là không làm một việc gì đó quá mạo hiểm, không chắc chắn. Dùng biện pháp này để đối phó với rủi ro là rất tiêu cực. Vì nếu muốn tránh rủi ro con người sẽ không dám làm bất cứ một việc gì và như vậy họ cũng sẽ chẳng thu được gì. Hơn nữa, tránh rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được mà trong cuộc sồng lại luôn có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh được. b) Ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, tổn thất: bằng những biện pháp đề phòng và hạn chế những hậu quả của nó. Biện pháp này có thể hạn chế được phần nào những hậu quả của rủi ro nhưng cũng vẫn không giải quyết hết được những thiệt hại. c) Tự khắc phục rủi ro : là việc các công ty hay cá nhân dự trữ một khoản tiền nhất định để khi có rủi ro xảy ra thì dùng khoản tiền đó để bù đắp, khắc phục hậu quả. Biện pháp này còn được gọi là tự bảo hiểm. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hay nếu có đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất. d) Chuyển nhượng rủi ro - bảo hiểm : là việc một cá nhân hay công ty khi tự mình không thể đương đầu với một hoặc một số rủi ro lớn, có tính chất thảm hoạ thì san sẻ bớt cho những công ty chuyên nghiệp bằng cách thuê các công ty chuyên nghiệp đó chịu trách nhiệm về các rủi ro thay mình. Khi người nhận trách nhiệm về các rủi ro là các công ty bảo hiểm thì biện pháp này gọi là bảo hiểm. Khi nhận trách nhiệm về các rủi ro, các công ty bảo hiểm phải bồi thường những thiệt hại do những rủi ro đã thoả thuận gây ra còn người chuyển nhượng rủi ro phải trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Biện pháp này không những khắc phục được những hạn chế của những biện pháp trên mà trong thực tế, nó đã mang lại lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị tham gia. 3. Vị trí, tác dụng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân. Với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá như hiện nay, hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Nó có một ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với các doanh nghiệp và đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu bảo hiểm càng lớn và đa dạng thì bảo hiểm càng phát huy rộng rãi những tác dụng của mình. Tuy nhiên, xét về tổng thể, bảo hiểm có những tác dụng cơ bản sau : 3.1. Bảo hiểm là một phương thức giúp tập trung được một nguồn vốn lớn, nguồn vốn này đầu tư lại vào nền kinh tế và giúp cho quá trình tái sản xuất xã hội phát triển Quá trình tập trung vốn diễn ra dưới hình thức huy động sự đóng góp của các tổ chức, các cá nhân người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm tập trung. Ở các nước có thị trường bảo hiểm phát triển cao thì các quỹ bảo hiểm có nguồn vốn lớn, là một trong những nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, là một phần quan trọng của thị trường tài chính. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây hoạt động của bảo hiểm ngày càng phát triển, chỉ tính riêng năm 1987 - là năm đầu nước ta bắt đầu thực hiện chính sách mới về kinh tế - toàn ngành bảo hiểm đã thu được xấp xỉ 1 tỷ đồng, gần bằng doanh thu suốt cả 20 năm hoạt động trước đó. Tiếp tục đà phát triển đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhiều loại hình bảo hiểm phong phú, tổng doanh thu bảo hiểm năm 1999 trên 2000 tỷ đồng với mức đầu tư trở lại nền kinh tế chiếm 0,5% GDP (khoảng 1648 tỷ đồng). Toàn bộ số vốn bảo hiểm tập trung được gửi vào tài khoản ngân hàng và ngân hàng sử dụng để đầu tư cho các ngành sản xuất. Để minh họa cho điều này, ta có bảng số liệu sau : Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm giai đoạn 1995 - 1999 (Đơn vị : tỷ đồng) Năm 1995 1996 1997 1998 1999 1. Tổng doanh thu - % GDP 1027 0,46 1253 0,47 1401 0,48 1811 0,56 2000 0,58 2. Bồi thường - Tỷ lệ bồi thường (%) 604 58,8 663 52,9 630 45 632 34,9 650 32,5 3. Đầu tư trở lại nền kinh tế - Chiếm tỷ lệ GDP (%) 75 0,03 157 0,06 962 0,3 1399 0,43 1648 0,48 4. Nộp ngân sách 84 100 105 110 120 (Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam, số 2/2000) 3.2. Thông qua việc giải quyết bồi thường thiệt hại, bảo hiểm có tác dụng góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống Thông thường, người tham gia bảo hiểm chỉ thấy được vai trò này của bảo hiểm khi phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm. Khi đối tượng bảo hiểm bị tổn thất thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ hay một phần số tiền thiệt hạI, lúc đó lợi ích của việc tham gia bảo hiểm mới rõ ràng. Ngược lại, khi chưa có tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm chưa thấy được sự cần thiết tất yếu của việc đóng góp hình thành nên quỹ bảo hiểm. Do thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít nên hoạt động bảo hiểm tập trung được một lượng tiền khá lớn dùng để bù đắp những thiệt hại, mất mát về người và tài sản do các rủi ro, tai nạn bất ngờ xảy ra. Do đó, doanh nghiệp hay cá nhân người bị thiệt hại có thể phục hồi lại năng lực tài chính của mình, ổn định tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống. Việc thực hiện tốt giải quyết bồi thường sẽ khiến cho nhiều người thấy được vai trò của bảo hiểm trong cuộc sống của mình, và từ đó lôi cuốn được nhiều người hơn tham gia bảo hiểm. Nhờ đó, quỹ bảo hiểm ngày càng lớn và việc bồi thường lại càng được thực hiện tốt hơn. 3.3. Bảo hiểm còn góp phần tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người Do đặc thù kinh doanh của mình, các công ty bảo hiểm thông qua việc thống kê thường xuyên các vụ tai nạn và tổn thất trong các lĩnh vực của đời sống, phát hiện nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Mặt khác, với chức năng của mình, các tổ chức bảo hiểm tích cực đôn đốc người tham gia bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản của mình nhằm hạn chế số vụ rủi ro và mức độ thiệt hại. Về phía người tham gia bảo hiểm muốn được hưởng quyền lợi bồi thường khi có tổn thất xảy ra, bên cạnh trách nhiệm đóng phí, họ còn phải thực hiện trách nhiệm đề phòng và hạn chế tổn thất. Nếu người tham gia bảo hiểm thực hiện không tốt công tác bảo vệ và phòng tránh tổn thất do đối tượng bảo hiểm thì khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm có thể không bồi thường cho tổn thất hoặc giảm mức bồi thường. Điều này phù hợp với nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm : bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho người bảo hiểm. Với vai trò này, bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả, thiệt hại. 3.4. Bảo hiểm làm tăng tích luỹ và tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước, góp phần tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho cán cân thanh toán Với tính chất hoạt động kinh doanh dịch vụ, bảo hiểm phải tính đến hiệu quả và lợi nhuận thể hiện ở chênh lệch thu chi sau khi đã tổng hợp các khâu trong hoạt động bảo hiểm. Ngoài ra, phần chính của lợi nhuận lại là ở sự quay vòng vốn sinh lời trong phần nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư kinh doanh của các công ty bảo hiểm đem lại cho các công ty này một nguồn thu đáng kể. Theo báo "Thời báo kinh tế Việt Nam - ngày 12/8/2002" : hết 6 tháng đầu năm nay, doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính của Bảo Việt đạt 137 tỷ đồng, tăng 68% so với cùng kỳ năm 2001. Tổng nguồn vốn đầu tư tăng bình quân 50% so với cùng kỳ năm 2001, đến nay đạt gần 4.000 tỷ đồng. Bảo Việt còn đầu tư vào các lĩnh vực khác như : trái phiếu Chính phủ, cho vay theo dự án. Qua hoạt động đầu tư sinh lời, bảo hiểm nộp một phần vào ngân sách Nhà nước theo luật định góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách, do đó chi tiêu cho phúc lợi tăng, đời sống nhân dân được cải thiện. Phần còn lại để phát triển, mở rộng hoạt động bảo hiểm phục vụ cho lợi ích chung của nền kinh tế. Mặt khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm đều tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Từ đó, Nhà nước giảm bớt được gánh nặng về y tế, làm lại các công trình công cộng … Ngân sách Nhà nước sẽ tiết kiệm được một khoản lớn để đầu tư vào những ngành sản xuất chính, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động cũng như thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với Bảo Việt, một doanh nghiệp Nhà nước lớn trong lĩnh vực bảo hiểm, tổng nộp ngân sách trong 5 năm gần đây được thể hiện qua đồ thị sau : Bảng 2 : Tổng nộp ngân sách Nhà nước của Bảo Việt từ 1997 - 2001 (Nguồn : report) Thêm vào đó, khi mở rộng và phát triển các loại hình bảo hiểm trong nước, các công ty, doanh nghiệp trong nước sẽ không phải mua bảo hiểm của nước ngoài, các công ty nước ngoài tại Việt Nam cũng có thể mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam. Do đó làm tăng thu và giảm chi ngoại tệ cho Nhà nước. 3.5. Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm Xu thế đổi mới của hoạt động sản xuất và giao lưu hàng hoá với nước ngoài ở nước ta ngày càng phát triển, đòi hỏi nhu cầu bảo hiểm càng lớn nhằm làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển ổn định, đảm bảo đủ khả năng trang trải khi thiệt hại rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo hiểm có trường hợp giá trị của đối tượng bảo hiểm vượt quá khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, đặc biệt là các công ty bảo hiểm Việt Nam - với khả năng tài chính còn hạn chế, nên các công ty bảo hiểm phải thực hiện hình thức tái bảo hiểm - mà chủ yếu là với các công ty bảo hiểm lớn hơn của nước ngoài. Khi thực hiện tái bảo hiểm thì rủi ro sẽ được san sẻ và cũng làm cho các mối quan hệ hợp tác ngày càng được mở rộng. Từ những phân tích trên, ta có thể thấy rõ vị trí quan trọng của bảo hiểm đối với nền kinh tế quốc dân. Với những tác dụng thiết thực của mình, bảo hiểm đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện những vai trò này, tất cả các bên tham gia vào hoạt động bảo hiểm đều phải tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của bảo hiểm. 4. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm Giống như các ngành kinh doanh khác, bảo hiểm cũng có những nguyên tắc hoạt động riêng. Nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít, san sẻ và phân tán rủi ro. Quỹ bảo hiểm được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do những người tham gia bảo hiểm đóng góp, sau đó nó được phân phối lại cho một số ít người gặp rủi ro. Phí bảo hiểm chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với giá trị bảo hiểm, do vậy, phải tính toán chính xác sao cho vừa đảm bảo kinh doanh bảo hiểm có lãi vừa đảm bảo được khách hàng chấp nhận. Ngoài nguyên tắc trên thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn phải tôn trọng các nguyên tắc cơ bản sau : 4.1. Nguyên tắc bảo hiểm rủi ro chứ không bảo hiểm cái chắc chắn Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm rủi ro tức là bảo hiểm một sự cố tai nạn, tai hoạ xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, có thể lường trước được cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại do rủi ro gây ra chứ không bồi thường những thiệt hại chắc chắn hay đương nhiên xảy ra. 4.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải tiến hành trên cơ sở trung thực và tin tưởng lẫn nhau giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm thể hiện ở : - Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, biểu phí cho người được bảo hiểm biết; không được nhận bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đã đến nơi an toàn hay đã bị tổn thất. - Người được bảo hiểm phải kê khai chính xác các chi tiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm và các rủi ro hay hiểm hoạ có thể gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm; phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo hiểm; không được mua bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm đã bị tổn thất. Hợp đồng bảo hiểm còn là hợp đồng của sự tín nhiệm: "contract of goodfaith", do đó, nếu một bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực. 4.3. Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm Theo nguyên tắc này, chỉ có những người có lợi ích bảo hiểm thực sự thì mới được kí kết hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng đó mới hợp pháp. Ở đây, lợi ích bảo hiểm là lợi ích của quyền lợi gắn liền với, liên quan đến, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Như vậy, người có lợi ích bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Do đó, chỉ những người có lợi ích bảo hiểm mới được mua bảo hiểm và khi có tổn thất xảy ra, chỉ những người được bảo hiểm đã có lợi ích bảo hiểm mới được bồi thường. 4.4. Nguyên tắc bồi thường Theo nguyên tắc này, bảo hiểm phải bồi thường đầy đủ kịp thời cho người được bảo hiểm trong một thời gian quy định khi xảy ra tổn thất thuộc một rủi ro được bảo hiểm, để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi xảy ra tổn thất, không hơn không kém. Cũng có nghĩa là, nếu người được bảo hiểm mua bảo hiểm quá giá trị của đối tượng bảo hiểm thì khi có tổn thất anh ta cũng chỉ được bồi thường đúng bằng giá trị của đối tượng bảo hiểm mà thôi. Nguyên tắc này nhằm tránh sự trục lợi của các bên. 4.5. Nguyên tắc thế quyền Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm - sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm - có quyền thay mặt người được bảo hiểm đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Để thực hiện nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các biên bản chứng từ cần thiết cho người bảo hiểm. 4.6. Nguyên tắc đóng góp Theo nguyên tắc này, nếu một người đi mua bảo hiểm của nhiều công ty bảo hiểm thì người được bảo hiểm chỉ được bồi thường tối đa tới số tiền bảo hiểm, hạn mức trách nhiệm hay trị giá bảo hiểm. 4.7. Nguyên tắc quyền lợi và nghĩa vụ phải tương xứng 4.8. Nguyên tắc bảo hiểm không có nghĩa là trút hết trách nhiệm cho nguời bảo hiểm 5. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng, qua đó một người (được bảo hiểm) tự cam kết trả một khoản tiền (phí) để mình hay một người thứ ba (người thụ hưởng), trong trường hợp rủi ro xảy ra (sự cố bất ngờ và gây ra thiệt hại) có trợ giúp bởi một người khác (người bảo hiểm). Đó chính là thoả thuận giữa một người bảo hiểm và một người được bảo hiểm để kí hợp đồng : nguời bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho rủi ro được yêu cầu và người được bảo hiểm trả phí theo thoả thuận. II. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG Bảo hiểm là một ngành kinh tế đặc biệt đã được con người biết đến từ hàng nghìn năm nay, trong đó, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm cổ xưa nhất trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 600 năm. Người ta biết đến đơn bảo hiểm hàng hoá đầu tiên đã được cấp cho chuyến hàng xếp trên tàu Santa Clara từ Giơnoa đến Marjorca vào năm 1347). Trong thương mại quốc tế ngày nay, có lẽ khó mà tìm được một hoạt động nào mà lại không có bảo hiểm. Có chăng chỉ còn xuất khẩu điện bằng dây cáp hay xuất khẩu nhiên liệu bằng đường ống là chưa được bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu chiểu theo luật của một số nước thì những trường hợp trên cũng phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu đường dây điện hay đường ống đối với những tổn thất bất ngờ có thể xảy ra trên đường vận chuyển, gây thiệt hại co người thứ ba hay đối với môi trường xung quanh. Sự cần thiết phải có bảo hiểm cho các loại hàng hoá, sản phẩm giờ đây đã thực sự là điều không ai có thể nghi ngờ được. Bảo hiểm là phương thức linh hoạt nhất, thuận tiện nhất để bù đắp cho chủ hàng bị tổn thất trong quá trình sản xuất, vận chuyển hay sử dụng trong các trường hợp thiên tai hay tai nạn bất ngờ, là tấm lá chắn hữu hiệu nhất để bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp. Là một loại hình của bảo hiểm thương mại, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không cũng có những tác dụng và vị trí quan trọng như đã trình bày ở phần trên. Hơn nữa, do tính chất đặc thù của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá cũng như quá trình chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không, hoạt động bảo hiểm này lại đóng một vai trò không nhỏ đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường và ngành hàng không phát triển mạnh mẽ như ở nước ta hiện nay. 1. Đặc điểm quá trình chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không Do sự phân bố không đồng đều về tài nguyên thiên nhiên và sức lao động nên mỗi quốc gia đều có một lợi thế so sánh. Cùng với sự phát triển của phân công lao động và hợp tác quốc tế, các quốc gia có quan hệ kinh tế với nhau nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình. Sự buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước mà cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hoá đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, hàng hoá sản xuất ra không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường nước ngoài, đem lại một nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Ngược lại, đối với những loại hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hay kém lợi thế so sánh hơn, ta có thể nhập khẩu từ nước ngoài. Nói chung, xuất nhập khẩu hàng hoá không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền thương mại có tổ chức nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hoá là một hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả cao song cũng có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không thể khống chế được. Như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu thực sự là một hoạt động có tính rủi ro cao. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ công đoạn nào của hoạt động xuất nhập khẩu, từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau như thiên nhiên, kỹ thuật, môi trường kinh doanh, chính sách của Nhà nước, ... Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng, người ta không chỉ quan hệ buôn bán với những nước láng giềng nữa mà còn với tất cả các nước trên thế giới. Khoảng cách về không gian và thời gian càng rộng tất yếu sẽ kéo theo xác suất về rủi ro tăng lên. Chính vì vậy, việc mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu là một công việc không thể thiếu trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá và hiện nay nó đã trở thành thông lệ quốc tế. Hàng hoá xuất nhập khẩu hiện nay có thể được chuyên chở bằng nhiều phương thức vận tải khác nhau như : máy bay, ô tô, tàu hoả, ... trên nhiều tuyến đường khác nhau như : đường không, đường sắt, đường biển, ... và còn có nhiều phương thức vận tải hiện đại như : vận tải liên hợp, vận tải đa phương thức, ... Trong thực tế, phương thức vận chuyển đường biển được áp dụng nhiều hơn cả, chiếm tới khoảng 90% tổng khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của thế giới do những ưu điểm riêng của phương thức vận tải này như : năng lực vận tải lớn, cước phí thấp, ... Tuy nhiên, phương thức vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không trong buôn bán quốc tế vẫn chiếm một vị trí không thể thiếu. Tuy chỉ chuyên chở khoảng 1% tổng khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế nhưng lại chiếm khoảng 20% trị giá hàng hoá trong mua bán quốc tế. Đối với các nước phát triển, chuyên chở hàng hoá bằng đường hàng không chỉ chiếm một lượng nhỏ hơn 1%, nhưng lại chiếm khoảng 30% trị giá. Điều này cho thấy : nếu nói về khối lượng hàng hoá thì rất nhỏ nhưng về giá trị, vận tải hàng không chiếm vị trí tương đối quan trọng; và chứng tỏ rằng : hàng hoá được chuyên chở bằng đường hàng không chủ yếu là hàng hoá có giá trị cao. Bên cạnh đó, do đặc điểm về tốc độ của vận chuyển hàng không là nhanh nhất so với các phương thức khác nên hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không còn có thể là những hàng hoá có sự nhạy cảm với thời gian, hàng hoá bán theo mùa vụ, … 2. Sự cần thiết và tác dụng Từ khi chiếc máy bay đầu tiên ra đời năm 1903 và chuyến bay quốc tế đầu tiên được thực hiện từ London đi Paris năm 1919 thì ngành hàng không trên thế giới đã có những bước phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã cho ra đời những chiếc máy bay hiện đại có thể chở tới hơn 400 hành khách như Boeing 767, kèm theo đó là sự tăng lên không ngừng của giá trị các loại máy bay và khối lượng hàng hoá chuyên chở. Vì vậy, khi có tai nạn xảy ra thì thiệt hại về vật chất là rất lớn, điều này không những ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tài chính của các hãng hàng không mà còn ảnh hưởng đến hành khách đi trên máy bay cũng như là các chủ hàng hoá. Ngành vận tải hàng không là một ngành sử dụng công nghệ cao với đội ngũ nhân viên lành nghề nhằm đạt đuợc tốc độ cao, khả năng bay xa; bên cạnh đó, mỗi chuyến bay cũng đòi hỏi sự an toàn rất cao bởi vì tính mạng con người và giá trị tài sản của máy bay, hàng hoá mà nó mang theo. Các chuyến bay dân dụng cũng còn đòi hỏi một sự an toàn rất cao bởi tính mạng con người, giá trị tài sản của chiếc máy bay và hàng hoá mà nó mang theo, và bởi không thể dừng lại để sửa chữa trên không khi máy bay bị trục trặc. Vì vậy, hoạt động hàng không đòi hỏi sự nghiêm ngặt tuân thủ nội quy, quy định nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất cho mỗi chuyến bay. Tuy nhiên, trên thực tế thì vẫn xảy ra tai nạn dù rất ít, nhưng mức độ tổn thất thì lại rất lớn. Giá trị tổn thất của toàn ngành hàng không nếu xét trên toàn thế giới từ năm 1982 là 520 triệu USD thì nay đã lên tới 3.000 triệu USD. Một phần không nhỏ trong giá trị tổn thất đó là trách nhiệm bồi thường đối với hàng hoá được vận chuyển trên máy bay. Bởi vậy, ngay từ năm 1929 Công ước quốc tế đầu tiên về vận chuyển hàng không đã được ký tại Vac-sa-va quy định trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với hành khách, hành lý, hàng hoá và các bên thứ ba khác. Về sau, các mức trách nhiệm này lại được nâng lên dần theo sự phát triển của nền kinh tế và ngành hàng không và đến nay có thể lên đến hàng trăm triệu USD một vụ tổn thất. Với đặc điểm riêng có của hình thức vận tải hàng không như : tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung và hầu như là đường thẳng không phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải đầu tư xây dựng; tốc độ vận tải cao, thời gian vận tải ngắn; an toàn nhất trong các phương thức vận tải;... thì dường như chuyên chở hàng hoá bằng đường hàng không đã khắc phục được những hạn chế cố hữu gây ra nhiều tổn thất cho hàng hoá của hình thức vận tải đường biển. Tuy nhiên, do giá trị của mặt hàng trong vận tải hàng không thường rất lớn nên việc lựa chọn tất yếu của các chủ hàng để đảm bảo công việc kinh doanh của mình ổn định, nếu có tổn thất xảy ra, chính là mua bảo hiểm. Hơn nữa, ngày nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, ngành hàng không phát triển với tốc độ rất nhanh và trở nên vô cùng quan trọng không chỉ về mặt vận chuyển hành khách mà còn đáp ứng cả nhu cầu ngày càng cao về vận chuyển hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất nhập khẩu. Đi kèm với nó, dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không cũng ngày một phát triển và thiết yếu hơn bao giờ hết. III. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG Khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá bằng đường hàng không, mỗi một chủ hàng đều có thể mua bảo hiểm cho hàng hoá của mình theo hai cách : mua trực tiếp từ hãng hàng không thông qua cước phí vận chuyển phải trả cho hàng hoá đó, hoặc là mua bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm chuyên ngành. Trong nội dung bài viết này, chỉ đề cập đến cách thứ hai : đó là bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không được mua từ hãng bảo hiểm. 1. Đặc điểm của hàng hoá xuất nhập khẩu và trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu 1.1. Đặc điểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Hàng hoá xuất ra và nhập vào đều phải đi qua các cửa khẩu biên giới quốc gia. Vì vậy, nó phải tuân thủ các quy chế của từng quốc gia về số lượng, chủng loại hàng hoá, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của hải quan, của cơ quan kiểm dịch. - Xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các cá nhân, các tổ chức thương mại giữa các nước đều phải thực hiện theo hợp đồng mua bán ngoại thương. Hợp đồng này đồng thời phải theo đúng thông lệ quốc tế và những quy định của quốc gia của người bán và người mua. Trong hợp đồng phải quy định về quy cách, phẩm chất, số lượng, ký mã hiệu, đóng gói bao bì, giá cả, cước vận chuyển, phí bảo hiểm, đồng tiền thanh toán, ... theo thoả thuận giữa bên mua và bên bán. - Hàng hoá được vận chuyển theo thông lệ quốc tế phải mua bảo hiểm. Việc mua bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho lô hàng được vận chuyển. Hợp đồng bảo hiểm có thể thực hiện giữa bên bán hoặc bên mua với cơ quan bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm, có thể nhượng lại quyền lợi bảo hiểm bằng cách kí nhận cho người mua hàng để khi hàng nhập khẩu, nếu bị tổn thất thì có thể đòi cơ quan bảo hiểm bồi thường. - Hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng các phương tiện khác nhau theo hợp đồng. Người vận chuyển hàng hoá cũng đồng thời là người giao hàng cho người mua. Do đó, người vận chuyển có trách nhiệm rất cao trong việc bảo đảm an toàn cho số hàng hoá được vận chuyển. Để có những chứng cứ về mối ràng buộc trách nhiệm, khi vận chuyển hàng phải có vận đơn (trong đó thể hiện bằng chứng của hợp đồng chuyên chở), bằng chứng về quyền sở hữu hàng hoá và bằng chứng hoàn thành nhiệm vụ chuyên chở và giao hàng theo đúng hợp đồng mua bán. Người vận chuyển chỉ giao hàng cho người sở hữu hàng hoá, tức là người có vận đơn gốc. Như vậy, trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá chủ yếu có 4 bên liên quan là : người bán, người mua, người vận chuyển và người bảo hiểm. 1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Người bán hàng (người xuất khẩu hàng) có trách nhiệm : + chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng đã kí kết về số lượng, chất lượng, ... + làm thủ tục hải quan và kiểm dịch + nếu người bán mua bảo hiểm thì khi hàng qua khỏi biên giới, địa phận quốc gia phải chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm sang cho người mua Người mua hàng (người nhập khẩu hàng) có trách nhiệm : + nhận hàng từ người chuyên chở theo số lượng, chất lượng, chủng loại trong vận đơn hay hợp đồng mua bán + kiểm tra các loại giấy tờ có liên quan như biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, bên mua phải tiến hành các thủ tục pháp lý để bên bán xác định thiệt hại (nếu có) + nhận phần chuyển nhượng bảo hiểm từ người bán hay tự mua bảo hiểm và theo dõi cho đến khi hàng về tới kho + nếu hàng hoá có vấn đề tổn thất thì phải kịp thời thông báo cho các bên liên quan để giải quyết Người chuyên chở hàng hoá có trách nhiệm : + chuẩn bị phương tiện và con người để nhận và đảm bảo chuyên chở hàng hoá theo hợp đồng với bên bán và giao hàng cho bên mua + về số lượng hàng hoá trong quá trình chuyên chở + khi có tổn thất xảy ra phải kịp thời ghi chép lại, thông báo cho các bên liên quan biết, là người trực tiếp đứng ra làm chứng trong khâu giám định Người bảo hiểm nhận tiền bảo hiểm từ bên mua hay bên bán, có trách nhiệm : + bảo hiểm cho số hàng hoá được vận chuyển + kiểm tra các chứng từ về hàng hoá, kiểm tra lịch trình và phương tiện, ... + khi nhận được thông báo tổn thất, người bảo hiểm phải kịp thời cử nhân viên hay người đại diện cho mình đi giám định, sau đó xem xét bồi thường cho các chủ hàng theo đúng nguyên tắc : chính xác, khách quan và trung thực theo hợp đồng đã kí kết. Như vậy, từ đặc điểm của quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá và trách nhiệm của các bên liên quan đã phân tích ở trên, chúng ta thấy cần phải nghiên cứu thêm về đối tượng, phạm vi và những điều khoản riêng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không. Từ đó, có thể với tư cách người bảo hiểm hay người được bảo hiểm kí hợp đồng với những điều kiện hợp lý, có những biện pháp hạn chế tổn thất hữu hiệu đối với nghiệp vụ này. 2. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không là những loại hàng hoá được chuyên chở bằng máy bay; trừ thư, bưu kiện bưu phẩm, và hàng chuyển phát nhanh. Trong vận tải hàng không quốc tế, hàng hoá thông thường được chuyên chở bằng máy bay chiếm khoảng 80%, còn lại 16% là hàng chuyển phát nhanh, 4% là bưu phẩm bưu kiện. Hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thường gồm những loại chính sau đây : Hàng có giá trị cao (high value commodity) : là những loại hàng : + hàng giá trị cao (có giá trị vận chuyển từ 1.000 USD/kg trở lên) + vàng, bạch kim, đá quý hay các sản phẩm bằng vàng, bạch kim + tiền, séc du lịch, thẻ tín dụng, các loại chứng từ có giá + kim cương và các đồ đá quí, đồ trang sức, ... Hàng dễ hư hỏng do thời gian (perisable) : bao gồm hoa quả tươi, thực phẩm đông lạnh, ... Hàng nhạy cảm với thị trường (market sensitive air freight) : như các loại hàng bán theo mùa, hàng mốt, hàng thời trang (fashion goods) Động vật sống (alive animals) : loại này gồm động vật nuôi trong nhà, động vật ở các vườn thú. Động vật sống cần có yêu cầu về kiểm dịch, chăm sóc đặc biệt, đòi hỏi vận chuyển nhanh để không ảnh hưởng tới sức khoẻ. 3. Các điều khoản bảo hiểm hàng hoá chuyên chở bằng đường hàng không Điều kiện, điều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là những quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá. Hàng hoá mua bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản nào thì chỉ những rủi ro xảy ra trong điều kiện, điều khoản đó mới được bồi thường. Khác với các loại hình bảo hiểm hàng không khác như : bảo hiểm thân máy bay; bảo hiểm trách nhiệm đối với hành khách, hành lý và hàng hoá; bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm; … do hãng hàng không mua từ các công ty bảo hiểm, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không có thể do các chủ hàng mua từ các công ty bảo hiểm chuyên ngành, nó tương tự như hình thức xuất nhập khẩu hàng hoá bằng đường biển. Do vậy, điều khoản bảo hiểm này không nằm trong các Công ước hay các Nghị định thư của vận tải hàng không mà được ban hành trong điều khoản bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của ICC. Trên thế giới đã có 2 lần ban hành và sửa đổi điều kiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vào năm 1963 và 1982. Lần thứ nhất: ở Anh, ngày 1-1-1963 ban hành 3 điều kiện cơ bản là bảo hiểm miễn tổn thất riêng (FPA), bảo hiểm tổn thất riêng (WA), điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (AR), được áp dụng rộng rãi. Nhưng do giao lưu thương mại quốc tế ngày một thay đổi và phát triển, ngày1-1-1982, Viện những người bảo hiểm Luân Đôn (ILU) lại ban hành những điều kiện bảo hiểm mới thay thế điều kiện bảo hiểm cũ. Trong đó các điều kiện bảo hiểm hàng hoá bao gồm: điều kiện bảo hiểm C, B, A và điều kiện bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công. Đối với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì điều khoản bảo hiểm của ICC 1982 (do Viện những người bảo hiểm Luân đôn ban hành ngày 1/1/1982) hiện là phổ biến nhất và trở thành điều kiện áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới (với hơn 200 nước tham gia trong đó có Việt Nam). Ở Việt Nam hiện nay, ngoài điều kiện áp dụng cho bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu theo những quy tắc của ICC còn có những quy tắc riêng của Bảo Việt (Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam). Tuy nhiên, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì hiện Bảo Việt vẫn chưa có quy tắc riêng mà việc áp dụng chủ yếu theo “điều khoản bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường không” của ICC 1982. 3.1. Những rủi ro được bảo hiểm (điều khoản rủi ro) Theo ICC 1/2/1982 : người bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường hàng không chịu trách nhiệm bảo hiểm mọi rủi ro, tổn thất với đối tượng bảo hiểm, trừ các trường hợp quy định cụ thể sau đây : 3.2. Loại trừ bảo hiểm (điều khoản loại trừ chung, điều khoản loại trừ chiến tranh, điều khoản loại trừ đình công) Tổn thất hay chi phí do lỗi của người được bảo hiểm Rò chảy thông thường, mất mát thông thường về trọng lượng, thể tích (ordinary loss in weight or volume), khối lượng hay hao mòn và rách thông thường của đối tượng bảo hiểm Mất mát, hư hại hay chi phí do bao bì không đầy đủ hay không phù hợp của đối tượng bảo hiểm Tổn thất hay chi phí do nội tỳ hay bản chất của đối tượng bảo hiểm Tổn thất hay chi phí phát sinh từ sự không phù hợp của máy bay, phương tiện vận chuyển, container hay băng chuyền (unfitness aircraft conveyor container or liftman), đối với việc vận chuyển an toàn đối tượng bảo hiểm, khi người được bảo hiểm hay người làm công của họ đã biết trước sự không phù hợp như vậy vào lúc xếp hàng Mất mát, hư hại hay chi phí do chậm trễ, dù chậm trễ gây ra bởi một rủi ro được bảo hiểm Mất mát, hư hỏng hoặc phát sinh chi phí do tình trạng thua lỗ tài chính mất khả năng chi trả (loss damage or expensive arising from insolvency financial default) của những người chủ, người quản lý, người thuê hay người khai thác máy bay (owners, managers, chatterers or operators) Mất mát, hư hại do việc sử dụng vũ khí chiến tranh, hạt nhân nguyên tử Chiến tranh, nội chiến, cách mạng Bị bắt, tịch thu, câu thúc, câu lưu Bom, mìn và các vũ khí chiến tranh Tổn thất do những người đình công, cấm xưởng, bạo động nổi loạn dân sự Tổn thất do những người khủng bố (terrorist), hay bất cứ người nào hành động vì mục đích chính trị. Như vậy, nếu như bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển có các đIều kiện A, B, C tuỳ theo mức độ rủi ro thì bảo hiểm hàng hoá bằng đường không chỉ có đIều khoản về những rủi ro được bảo hiểm và loại trừ. Các rủi ro loại trừ bao quát hơn nên người ta thường gọi đIều khoản bảo hiểm hàng hoá bằng đường không là “covering institute cargo clause” 3.3. Thời hạn bảo hiểm (điều khoản vận chuyển, điều khoản kết thúc hợp đồng vận chuyển, điều khoản thay đổi hành trình) a) Không gian bảo hiểm - Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi đối tượng bảo hiểm rời khỏi kho, nơi chứa hàng hay nơi lưu giữ có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong quá trình vận chuyển bình thường và hết hiệu lực tại một trong các thời điểm sau đây, tuỳ theo trường hợp nào xảy ra trước : - Khi giao hàng vào kho người nhận hàng hay kho hoặc nơi chứa hàng cuối cùng khác hay lưu kho ở nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm - Khi giao hàng vào bất kỳ một kho hay nơi chứa hàng nào khác hay nơi lưu kho, cho dù trước khi đến hay tại nơi đến có ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn dùng hoặc : + để lưu kho ngoài quá trình vận chuyển bình thường hoặc + để phân phối hay cung cấp hàng hoá. b) Thời hạn bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm là 30 ngày sau khi dỡ hàng hoá ra khỏi máy bay tại nơi dỡ hàng cuối cùng. Nếu một trong hai điều trên xảy ra thì điều còn lại không có giá trị. Nghĩa là : nếu hàng hoá được vận chuyển về kho an toàn ngay sau khi dỡ ra khỏi máy bay thì bảo hiểm sẽ hết hiệu lực, không cần chờ 30 ngày. Ngược lại, sau 30 ngày kể từ ngày dỡ xong hàng mà không đưa được hàng về kho thì bảo hiểm cũng hết hiệu lực, không cần chờ mang vào kho. c) Kết thúc hợp đồng vận chuyển Ngoài ra, về thời hạn bảo hiểm ICC còn quy định về việc kết thúc hợp đồng vận chuyển: nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo hiểm mà hợp đồng vận chuyển kết thúc tại một nơi khác nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo cách khác trước khi giao hàng thì bảo hiểm này cũng sẽ kết thúc trừ khi có giấy báo gửi ngay cho người bảo hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với điều kiện phải nộp thêm phí bảo hiểm nếu người bảo hiểm yêu cầu, hoặc cho tới khi hàng được đem bán và giao ngay tại địa điểm đó, hoặc trừ khi có thoả thuận riêng khác, cho tới khi hết thời hạn 30 ngày sau khi hàng hoá được bảo hiểm đến địa điểm đó, tuỳ theo trường hợp nào xảy ra trước, hoặc nếu hàng hoá được gửi đi trong thời hạn 30 ngày nói trên (hoặc bất kỳ thời hạn mở rộng nào đã thoả thuận) tới nơi đến có tên ghi trong hợp đồng bảo hiểm hay tới bất kỳ nơi đến nào khác cho tới khi kết thúc bảo hiểm theo những quy định trên. d) Thay đổi hành trình Sau khi bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực nếu người được bảo hiểm thay đổi nơi đến thì bảo hiểm này vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều kiện người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho người bảo hiểm biết với phí bảo hiểm và những điều kiện được thoả thuận. 3.4. Khiếu nại (điều khoản quyền lợi bảo hiểm, điều khoản chi phí gửi hàng, điều khoản tổn thất toàn bộ ước tính, điều khoản giá trị tăng thêm) a) Quyền lợi bảo hiểm Theo điều khoản này, người được bảo hiểm cần phải có quyền lợi bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm vào thời gian xảy ra tổn thất và sẽ có quyền đòi bồi thường cho những tổn thất được bảo hiểm đó trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Điều khoản này cũng phù hợp với nguyên tắc lợi ích bảo hiểm thực sự. b) Chi phí gửi hàng Theo điều khoản này, nếu có tổn thất do hậu quả của rủi ro đã được bảo hiểm gây ra làm cho hành trình phải kết thúc tại một nơi khác nơi đến ghi trong hợp đồng bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ hoàn trả cho người được bảo hiểm mọi khoản chi phí phát sinh thêm một cách hợp lý và thoả đáng để dỡ hàng, lưu kho và gửi hàng tới nơi đến được bảo hiểm theo hợp đồng. c) Tổn thất toàn bộ ước tính Theo điều khoản này, bảo hiểm sẽ không bồi thường cho các khiếu nại về tổn thất toàn bộ ước tính trừ khi đối tượng được bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý hoặc nếu xét thấy không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế hay do chi phí phục hồi, tu bổ lại và gửi hàng tới nơi đến thuộc phạm vi bảo hiểm sẽ vượt quá giá trị hàng tại nơi đến. d) Về giá trị tăng thêm Ngoài ra, về phần khiếu nại còn có điều khoản về giá trị tăng thêm. Tức là, khi người được bảo hiểm kí kết bất kỳ hợp đồng về giá trị tăng thêm cho hàng hoá được bảo hiểm thì giá trị thoả thuận của hàng hoá sẽ được xem như ngang bằng với tổng số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm gốc và của tất cả các hợp đồng bảo hiểm giá trị tăng thêm cùng bảo hiểm tổn thất đó và trách nhiệm thuộc phạm vi bảo hiểm này sẽ được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm này và tổng số tiền bảo hiểm đã nói tới. Trong trường hợp có khiếu nại, người được bảo hiểm phải cung cấp cho người bảo hiểm bằng chứng về những số tiền bảo hiểm thuộc tất cả các bảo hiểm khác. 3.5. Quyền lợi bảo hiểm (điều khoản không áp dụng) Hợp đồng bảo hiểm này sẽ không áp dụng đối với quyền lợi của người chuyên chở hay người nhận ký gửi hàng hoá nào khác. 3.6. Giảm nhẹ tổn thất (điều khoản nghĩa vụ của người được bảo hiểm và điều khoản từ bỏ) a) Nghĩa vụ của người được bảo hiểm Theo điều khoản này, người được bảo hiểm, những người làm công và đại lý của họ là: phải thực hiện mọi biện pháp được coi là hợp lý nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ tổn thất đó và phải bảo lưu và thực hiện các quyền khiếu nại đối với người chuyên chở, người nhận ký gửi hàng hoá hay người thứ ba khác và người bảo hiểm ngoài trách nhiệm đối với tổn thất thuộc phạm vi bồi thường sẽ hoàn cho người được bảo hiểm bất kỳ chi phí nào đã chi ra một cách hợp lý và thoả đáng để thực hiện nghĩa vụ này. b) Điều khoản từ bỏ Mọi biện pháp do người được bảo hiểm hoặc người bảo hiểm thực hiện nhằm mục đích cứu vớt, bảo vệ hoặc khôi phục lại đối tượng được bảo hiểm sẽ không được coi như sự từ chối hoặc chấp nhận từ bỏ hoặc về mặt khác làm tổn hại các quyền lợi của mỗi bên. Ngoài 6 mục điều khoản trên, điều kiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không còn có điều khoản tránh chậm trễ (khẩn trương hợp lý) và luật pháp tập quán (điều khoản luật pháp và tập quán Anh). Bên cạnh điều kiện bảo hiểm trên đang được áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới hiện nay, còn có thêm điều kiện bảo hiểm chiến tranh và điều kiện bảo hiểm đình công. Trước đây hai điều kiện này ít được người tham gia bảo hiểm mua, một phần vì phí cao, một phần vì khả năng xác suất xảy ra rủi ro thấp hơn điều kiện bảo hiểm trên. Tuy nhiên, thảm họa ngày 11/9/2001 tại Mỹ đã tác động bất lợi đến nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là ngành hàng không và bảo hiểm. Một số hãng hàng không và công ty bảo hiểm lớn trên thế giới đã lâm vào tình trạng khủng hoảng hoặc phá sản. Ngành bảo hiểm đã bị tổn thất khoảng 50 tỷ USD, nên buộc phải xem xét lại các điều, khoản bảo hiểm liên quan tới rủi ro chiến tranh và khủng bố.(Theo tạp chí Thông tin hàng không, số 20/2002). Điều kiện bảo hiểm chiến tranh Rủi ro được bảo hiểm : bảo hiểm mất mát, hư hỏng cho đối tượng được bảo hiểm do nguyên nhân : + Chiến tranh, nội chiến, cách mạng … hoặc bất kỳ hành động thù địch nào gây ra hoặc chống lại một bên tham chiến + Chiếm, bắt giữ, kiềm chế hay cầm giữ phát sinh từ những rủi ro được bảo hiểm + Bom, mìn hoặc bất kỳ vũ khí chiến tranh hoang phế khác Điều kiện bảo hiểm đình công Rủi ro được bảo hiểm : bảo hiểm mất mát hoặc hư hỏng cho đối tượng được bảo hiểm gây ra bởi : + những người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gai gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự + bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người nào hành động vì động cơ chính trị Trong ba điều kiện kể trên đều có một điều khoản là “Điều khoản luật pháp và tập quán Anh”, tức là điều kiện bảo hiểm này tuân theo luật pháp và tập quán Anh. Chính vì vậy, điều khoản bảo hiểm hàng hoá bằng đường không là điều khoản bảo hiểm dùng cho nước Anh. Trên thực tế, nó là điều khoản phổ biến nhất trên thế giới và được rất nhiều nước công nhận, nhưng việc áp dụng các điều khoản này cũng có sự thay đổi tuỳ vào từng nước. Ở Việt Nam, thực tế việc áp dụng thường dẫn chiếu theo điều kiện của ICC 1982, kèm theo đó thường là điều khoản chuyển đổi tiền tệ một cách tự động “automatic currency conversion clause”. 4. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là một khoản tiền do người tham gia bảo hiểm nộp cho người bảo hiểm để hàng hoá được bảo hiểm. Phí này được xác định trên cơ sở giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm thường được xác định theo công thức : P = CIF x R (nếu không bảo hiểm lãi dự tính a) hoặc P = CIF x (1 + a) x R (nếu bảo hiểm lãi dự tính a) Trong đó : P : phí bảo hiểm C : số tiền bảo hiểm R : tỷ lệ phí bảo hiểm Như vậy thực chất phí bảo hiểm gồm 2 phần : phí gốc và phí phụ. Còn tỷ lệ phí bảo hiểm (R) thì lại phụ thuộc vào các yếu tố sau : chủng loại hàng hoá, bao bì đóng gói, phương tiện vận chuyển, hành trình vận chuyển và điều kiện bảo hiểm. Việc xác định được mức phí bảo hiểm cụ thể là bao nhiêu, nếu càng thấp sẽ càng nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp bảo hiểm đó lên. Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì việc mua bảo hiểm có thể được thực hiện theo hai cách : mua trực tiếp từ hãng hàng không thông qua cước phí và mua từ công ty bảo hiểm. Hiện nay, phí bảo hiểm của nghiệp vụ này tại Bảo Việt dao động từ 0,3% đến 0,5% tuỳ theo loại hàng hoá, thời gian chuyên chở, hành trình, … Hàng thông thường : 0,3% ¸ 0,42% Hàng dễ tổn thất (dễ vỡ, nhạy cảm với thời gian, …) : 0,35% ¸ 0,5% Hàng nguy hiểm : tuỳ thoả thuận với chủ hàng khi có yêu cầu Bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không nếu mua theo cách thứ hai là mua trực tiếp từ các hãng hàng không thì phí bảo hiểm chiếm một tỷ lệ trong cước phí vận chuyển hàng hoá (thông thường là 0,4%). 5. Giám định tổn thất và bồi thường 5.1. Giám định tổn thất Giám định tổn thất là việc làm của người bảo hiểm hoặc người được uỷ thác nhằm đánh giá, xác định nguyên nhân, mức độ và trách nhiệm đối với tổn thất của đối tượng được bảo hiểm để làm cơ sở cho việc tính toán tiền bồi thường. Khi hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất (hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt,…), yêu cầu giám định trong thời gian quy định. Sau khi giám định xong, cán bộ giám định sẽ cung cấp chứng từ giám định trong đó có xác định mức độ tổn thất hoặc mức giảm giá trị thương mại của hàng hoá làm cơ sở cho việc bồi thường. Mọi tổn thất được khách hàng thông báo đều phải được giám định một cách nhanh chóng để các tang vật và nhân chứng không bị phân tán. Trong quá trình giám định tổn thất phải tạo bầu không khí tin cậy và hợp tác giữa người được bảo hiểm và giám định viên nhưng tuyệt đối không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về số tiền bồi thường hay nói cho khách hàng cách tính toán số tiền thu được để tránh các trường hợp lạm dụng bảo hiểm. 5.2. Nguyên tắc và cách tính toán bồi thường Bồi thường thực chất là kết quả hữu hình của bảo hiểm với mục đích giúp cho người được bảo hiểm có thể khôi phục tình hình tài chính như trước khi xảy ra tổn thất. Việc bồi thường tổn thất phải tuân thủ các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc thứ nhất : chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, các khoản tiền sau cũng được bồi thường: các chi phí đã chi ra để cứu vớt hàng hoá, chi phí cứu nạn, phí giám định, chi phí bán đấu giá hàng bị hư hỏng, tiền đóng góp tổn thất chung dù tổng số tiền bồi thường vượt quá số tiền bảo hiểm. + Nguyên tắc thứ hai : bồi thường bằng tiền, không bồi thường bằng hiện vật. Thông thường nộp phí bảo hiểm bằng loại tiền tệ nào thì sẽ được bồi thường bằng loại tiền tệ đó. + Nguyên tắc thứ ba : người bảo hiểm có quyền khấu trừ những khoản thu nhập của người được bảo hiểm trong việc bán hàng và đòi người thứ ba có lỗi. Để tính toán tiền bồi thường, hiện nay người ta sử dụng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên số tiền bồi thường (STBT) thường được tính theo công thức sau: STBT = STBH x Tỷ lệ tổn thất Trong đó : å giá trị khi hàng còn nguyên - å giá trị hàng hoá còn lại Tỷ lệ tổn thất = å giá trị khi hàng còn nguyên STBH : số tiền bảo hiểm 5.3. Miễn thường Mức miễn thường là một tỷ lệ miễn giảm trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm khi tổn thất xảy ra đối với hàng hoá được bảo hiểm. Có hai loại miễn thường : miễn thường có khấu trừ và miễn thường không có khấu trừ. Theo hợp đồng bảo hiểm có áp dụng miễn thường có khấu trừ x% nếu tổn thất xảy ra vượt quá x% số tiền bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ bồi thường phần tổn thất vượt quá đó. Theo hợp đồng bảo hiểm có áp dụng miễn thường không khấu trừ và miễn thường không có khấu trừ, nếu tỷ lệ tổn thất không vượt quá tỷ lệ miễn thường thì công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất. Trong xuất nhập khẩu hàng hoá thường có 3 hợp đồng : hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển và hợp đồng bảo hiểm. Về thực chất thì hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng là một hợp đồng kinh tế, ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên với nhau. Hợp đồng bảo hiểm này là nội dung cơ bản, chủ yếu nhất của quá trình thực hiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường hàng không. 6. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không 6.1. Khái niệm Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thực chất là các đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Đó là một văn bản thoả thuận giữa hai bên, trong đó người bảo hiểm (công ty bảo hiểm) cam kết sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm (chủ hàng hay người đại diện) các tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã kí kết, còn người được bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm. 6.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm Trên thế giới hiện nay người ta sử dụng 2 loại hợp đồng bảo hiểm là : hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao. a) Hợp đồng bảo hiểm chuyến Là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng được vận chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi một chuyến. Hợp đồng bảo hiểm chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm do người bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng bảo hiểm chuyến đầy đủ. Nội dung gồm 2 phần : mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm. Mặt trước thường ghi các chi tiết về hàng, máy bay, hành trình. Mặt sau thường ghi các điều lệ hay quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Nội dung hợp đồng bảo hiểm chủ yếu bao gồm: Ngày cấp đơn bảo hiểm Nơi kí kết hợp đồng bảo hiểm Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm Tên hàng hoá được bảo hiểm Số vận đơn Tên máy bay (hay số chuyến bay) vận chuyển hàng Sân bay đi, sân bay chuyển tải và sân bay đến Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm và phí bảo hiểm Ngày máy bay đi, đến ... b) Hợp đồng bảo hiểm bao Là hợp đồng bảo hiểm trong đó người bảo hiểm nhận bảo hiểm một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm) hoặc nhận bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định (không kể đến thời gian). Nội dung của hợp đồng bảo hiểm bao gồm các vấn đề chung nhất, có tính nguyên tắc như : nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, việc đóng gói hàng, loại máy bay vận chuyển, giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm và thanh toán phí bảo hiểm, giám định, khiếu nại đòi bồi thường, hiệu lực của hợp đồng, ... Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận chuyển hàng hoá, người được bảo hiểm phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm. Nếu có thay đổi đặc biệt về số lượng, giá trị hàng, ... phải tiến hành kí kết hợp đồng bảo hiểm khác. Sau khi cấp đơn bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm thấy cần bổ sung, sửa đổi một số điều và người bảo hiểm đồng ý thì người bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo hiểm bổ sung. Giấy này cũng có giá trị như một đơn bảo hiểm, là một bộ phận được kèm và không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm (hoặc đơn bảo hiểm) ban đầu. Ngoài ra hợp đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng từ người đứng tên trong đơn cho một người khác được hưởng quyền lợi của hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm chỉ cần ký hậu vào đơn rồi trao lại đơn và các giấy tờ liên quan khác cho người được chuyển nhượng. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG TẠI BẢO VIỆT I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO VIỆT 1. Một vài nét tổng quát Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đang diễn ra rất sôi động, cả nước hiện có tới 16 doanh nghiệp bảo hiểm đang tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong đó Bảo Việt là một doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước lớn nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Bảo hiểm ở Việt Nam ra đời muộn hơn nhiều so với thế giới. Hoạt động bảo hiểm đã xuất hiện từ thời kỳ nước ta vẫn còn bị Pháp đô hộ và ở miền Nam dưới chế độ cũ, song thời điểm thực sự đáng chú ý, đánh dấu sự hình thành của ngành bảo hiểm là sự ra đời của Công ty bảo hiểm Việt Nam. Bảo Việt là tên gọi tắt củaTổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (tiền thân là Công ty bảo hiểm Việt Nam), chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/1/1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tướng Chính phủ với tư cách là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm. Ngày đầu, Bảo Việt có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các thành viên khác trong xã hội nhằm bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm không may bị thiên tai, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại, giúp các tổ chức, cá nhân mau chóng ổn định sản xuất và đời sống. Sau ngày thống nhất đất nước, Bảo Việt tiếp quản cơ sở vật chất của một số Công ty bảo hiểm thuộc chế độ cũ qua việc sát nhập với Công ty bảo hiểm và Tái bảo hiểm miền Nam Việt Nam, bắt đầu mở rộng hoạt động ở một số tỉnh phía Nam. Từ năm 1981, Bảo Việt đã có các tổ chức bảo hiểm trực thuộc đặt tại các tỉnh thành trong cả nước để thực hiện các dịch vụ bảo hiểm. Ngày 17/12/1989, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 27/TCQĐ/TCCB chuyển Công ty Bảo hiểm Việt Nam thành Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (Vietnam Insurance Corporation). Ngày 1/3/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính (theo uỷ quyền của Chính phủ) đã ra Quyết định số 145/TCQĐ/TCCB về việc thành lập lại Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam. Ngày 8/10/1996, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 745/Ttg xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt cho Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam. Về mặt tổ chức, có thể coi Bảo Việt là một tập đoàn bảo hiểm, việc chỉ đạo được tiến hành tập trung, hạch toán thống nhất toàn ngành. Với số vốn ban đầu được giao là 776 tỷ đồng, Bảo Việt hoàn toàn tự chủ về tài chính, có quỹ dự trữ lớn để bồi thường cho khách hàng. Trải qua gần 40 năm phát triển, Bảo Việt đã trở thành tập đoàn bảo hiểm lớn nhất ở Việt Nam, gồm 64 công ty và 1 chi nhánh bảo hiểm trực thuộc, 27 công ty bảo hiểm nhân thọ đặt tại các tỉnh, thành phố trong cả nước với gần 4.000 cán bộ công nhân viên và 200 phòng bảo hiểm khu vực các quận, huyện. Năm 1999, Bảo Việt thành lập Công ty chứng khoán Bảo Việt, công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Bảo Việt còn có đội ngũ đông đảo đại lý, cộng tác viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm. Đặc biệt từ khi triển khai bảo hiểm nhân thọ, gần 6.000 đại lý chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp - lực lượng bán hàng mới đã bổ sung cho đội ngũ cán bộ của Bảo Việt càng thêm lớn mạnh. Ngoài ra, Bảo Việt còn có một trung tâm đào tạo cho riêng mình, đảm bảo đào tạo ra những cán bộ công nhân viên có năng lực làm việc cao. Bảo Việt đã đáp ứng được yêu cầu bảo hiểm của các tổ chức, các nhà đầu tư cũng như mọi thành phần kinh tế và cá nhân bằng việc tiến hành hơn 50 nghiệp vụ bảo hiểm thuộc các loại hình bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm và bảo hiểm nhân thọ. Tại thời điểm hiện nay, Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất tại Việt Nam được phép kinh doanh cả bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Về quan hệ quốc tế của Bảo Việt, ta có thể minh hoạ bằng bảng sau : Bảng 2 : Quan hệ quốc tế của Bảo Việt CHÂU Á Trung Quốc Hongkong Ấn Độ Nhật Bản CHDCND Triều Tiên Hàn Quốc Kuweit Li băng Malaysia Mông Cổ Philippin Singapore Srilanca Đài Loan Thái Lan CHÂU ÂU Anbani Bỉ Bungari Cộng hoà Séc Đan Mạch Pháp Đức Hy Lạp Hungari Hà Lan Italia Na Uy Ba Lan Bồ Đào Nha Rumani Tây Ban Nha Thụy Điển Thụy Sĩ Nga Ucraina Vương quốc Anh CHÂU MỸ Mỹ Canada Cu ba CHÂU ÚC Ôxtrâylia Niu Dilân CHÂU PHI Ai Cập (Nguồn : Báo cáo tổng kết 35 năm thành lập Bảo Việt - 2000) Bảo Việt đã có quan hệ về tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, đại lý giám định, đại lý xét bồi thường với hàng trăm công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thế giới. Trong đó có hầu hết các công ty danh tiếng như: Lloyd’s, CUG, Sedwick, Heath R/I Brockers, TRB, ... (Anh); AIG, CIGNA, AON, AETNA, ... (Mỹ); AXA, GAN, ... (Pháp); Tokyo Marine, Chiyoda, SUMITOMO, ... (Nhật); Munich Re (Đức); Swiss Re, Zurich (Thụy Sĩ); Asia Ins (Singapore); A& A, CHINA MARINERS, ... (Đài Loan); SAMSUNG LG, ... (Hàn Quốc);... Với quy mô hoạt động như vậy, hàng năm Bảo Việt đã nhận bảo hiểm cho hơn 10 triệu học sinh, sinh viên; 5 triệu lượt khách du lịch; 6 triệu người bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm sinh mạng cá nhân; trên 1 triệu xe ô tô được bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe; 1,5 USD tỷ kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu, hơn 2 tỷ USD giá trị tài sản được bảo hiểm tại Bảo Việt. Bảo Việt cũng đã bảo hiểm cho toàn bộ máy bay của công ty bay dịch vụ, các công trình thăm dò và khai thác dầu khí của Vietsovpetro, công ty dầu Anzoil, tổ hợp BHP và tập đoàn dầu khí Petronas Carigalli, các công trình lớn có vốn đầu tư nước ngoài như nhà máy Chinfon Hải Phòng, Morning Star, Hòn Chông Kiên Giang, nhà máy điện Hiệp Phước, Phú Mĩ 2, các trung tâm dịch vụ DAEHA, Hà Nội Tower, các khách sạn lớn như New World, Ocean Palace, Metropole, DAEWOO, ... Đối với loại hình bảo hiểm nhân thọ, tuy đi vào hoạt động chưa lâu nhưng cũng đã có những kết quả đáng kể. Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ năm 2001 đạt gần 1.400 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2002, doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của công ty này lên đến 975 tỷ đồng, bằng 144% so với cùng kỳ năm trước. Số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt có hiệu lực đạt gần 1,2 triệu hợp đồng trong đó có 200.000 hợp đồng mới và chi trả bồi thường đạt trên 81 tỷ đồng. (Theo Thời báo kinh tế Việt Nam, 12/8/2002). Trong những năm qua, Bảo Việt cũng đã thực hiện tốt chức năng bồi thường của mình nhằm góp phần ổn định sản xuất và đời sống. Công tác bồi thường của Bảo Việt thường được thực hiện nhanh chóng và rất có hiệu quả. Trong thực tế, có rất nhiều những vụ tổn thất lớn với trách nhiệm bồi thường lên tới hàng triệu đô la đã được Bảo Việt bồi thường. Như năm 1996, Bảo Việt đã bồi thường 1.600.000 USD cho tổn thất về bột mì chở trên tàu Samudra Samrat bị mất tích, năm 1999 bồi thường tàu Maritime Fidelity đâm va và đăm với số tiền bồi thường lên đến 2.880.000 USD, ... ; và gần đây nhất vào đầu tháng 11/2002, Bảo Việt đã bồi thường 546 triệu đồng cho tổn thất gạo trên tàu Viễn Đông I từ Việt Nam sang CHLB Nga. (Theo Thời báo kinh tế Việt Nam, 5/11/2002). Bên cạnh đó, do xác định rõ hoạt động kinh doanh luôn phải gắn liền với trách nhiệm cộng đồng nên Bảo Việt luôn quan tâm và tham gia vào các hoạt động xã hội, nhân đạo. Một hoạt động mà Bảo Việt luôn quan tâm đó là các chương trình xóa đói giảm nghèo, ủng hộ nhân dân vùng gặp thiên tai, ủng hộ các quỹ từ thiện, … 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Việt trong những năm gần đây 2.1. Tình hình chung Trong vòng 5 năm trở lại đây nền kinh tế xã hội của cả nước nói chung luôn có được sự ổn định và phát triển. Đây là yếu tố thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, nhưng đi cùng với những yếu tố thuận lợi đó, Bảo Việt đã và đang phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Mỗi công ty đều có những thủ thuật, chính sách riêng của mình như giảm phí, tăng hoa hồng, tuyên truyền quảng cáo rầm rộ, ... để giành giật khách hàng, giành giật thị trường. Trước điều kiện khó khăn như vậy, Bảo Việt đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để giữ vững thị phần và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, các quy định của công ty vào hoạt động kinh doanh. Cùng với sự chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ tích cực của các phòng ban, sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên của Tổng công ty, sự tín nhiệm và mến mộ của khách hàng nên Bảo Việt đã đạt được kết quả đáng khích lệ, biểu hiện qua bảng sau : Bảng 3 : Kết quả kinh doanh của Bảo Việt từ năm 1997 – 2001 (Đơn vị : tỷ đồng) STT Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 1 Tổng doanh thu kinh doanh 1.013 1.334 1.616 1.900 2.016 2 Tổng doanh thu phí bảo hiểm (cả nhận tái BH) 918,2 1.234,1 1.408,4 1.853,3 2.083 3 Giá trị tổng tài sản 1.401 1.754 2.158 2.757 3.308 4 Tổng lợi nhuận kinh doanh trước thuế 81,7 105,2 107,7 113,2 119,8 (Nguồn : Financial report of Baoviet, Bảng số liệu trên cho ta thấy, Bảo Việt là một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Bằng chứng cho thấy là tất cả các chỉ số đều tăng tương đối ổn định qua các năm, đặc biệt là năm 1998, tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng so với năm 1997 là 34,5% và tổng lợi nhuận kinh doanh trước thuế tăng 29%. Điều này làm cho tổng tài sản của Bảo Việt không ngừng tăng lên với tốc độ cao khoảng 35%/năm, và luôn ở vị thế doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu ở Việt Nam. 2.2. Những nét chung về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Bảo Việt Sự ra đời khá muộn của bảo hiểm ở Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân xã hội mà chủ yếu vẫn là nguyên nhân chiến tranh. Chiến tranh kéo dài ở Việt Nam đã làm cho việc giao lưu buôn bán với quốc gia khác gặp nhiều khó khăn. Trong những năm chiến tranh, chúng ta chỉ nhận viện trợ hàng hoá từ những nước anh em là chủ yếu. Khi hoà bình lập lại, Việt Nam đã nhanh chóng tham gia vào thị trường thế giới, nhất là từ khi có chính sách mở cửa. Để đáp ứng nhu cầu buôn bán với nước ngoài mà cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hoá, ngay từ khi công ty bảo hiểm đầu tiên ra đời ở Việt Nam là Bảo Việt đã coi nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong 3 nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai chủ yếu cùng với bảo hiểm thân tàu và tái bảo hiểm. Nếu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một nghiệp vụ Bảo Việt khai thác ngay từ khi mới ra đời, thì nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không phải đến những năm gần đây Bảo Việt mới thực sự đưa vào khai thác. Điều này cũng bởi vì những đặc thù của ngành hàng không và sự phát triển chậm hơn của vận tải hàng không so với vận tải đường biển. Tuy trước đây, bên cạnh đơn bảo hiểm đường biển cũng có một số đơn bảo hiểm hàng không nhưng do doanh thu của nó là không đáng kể nên nghiệp vụ này vẫn chưa được chú trọng. Khoảng 5 - 7 năm trở lại đây, do chủ trương phát triển ngành hàng không của Chính phủ, nên ngành vận tải hàng không và kéo theo là bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không đã phát triển rất nhanh, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Thực tế trong thời gian triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng và nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung của Bảo Việt đã gặp phải sự cạnh tranh khá quyết liệt từ phía các công ty bảo hiểm khác. Từ chỗ chiếm vị trí độc tôn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, hiện nay đã có thêm nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nghiệp vụ này, kể cả một số công ty nước ngoài với số vốn tương đối lớn. Song với những lợi thế sẵn có như mạng lưới rộng lớn, kinh nghiệm lâu năm, quỹ bảo hiểm lớn, quan hệ rộng rãi với các công ty trên thế giới, ... và vai trò tích cực của các biện pháp quản lý năng động, Tổng công ty đã và đang vượt qua những khó khăn, xây dựng lòng tin với khách hàng nên doanh thu của nghiệp vụ này đang từng bước tăng lên đáng kể. Trong những năm gần đây, Bảo Việt luôn chiếm được thị phần lớn trong thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam. II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG TẠI BẢO VIỆT 1. Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam và những thuận lợi khó khăn đối với Bảo Việt 1.1. Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay Ngay từ khi ra đời năm 1965, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là một trong những nghiệp vụ được triển khai đầu tiên. Sau năm 1975, Bảo Việt bắt đầu mở rộng chi nhánh ra toàn quốc, các chi nhánh lớn đều tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy nhiên trong giai đoạn đó, nền kinh tế nước ta chưa chuyển đổi, thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu chưa phát triển chủ yếu chỉ là hàng nhập từ các nước Đông Âu về Việt Nam. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới (năm 1986), Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ đó, nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước, mà còn có khả năng vươn ra thị trường ngoài nước, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Kể từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng nhanh, trung bình khoảng 19,6%/năm, năm 1991 đạt 2,087 tỷ USD, năm 2001 tăng lên 15,1 tỷ USD, gấp 7 lần so với năm 1991. Đặc biệt, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của nước ta đạt 180 USD/năm - mức chuẩn quốc gia có nền ngoại thương phát triển ổn định. Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng, được Đảng và Nhà nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu giai đoạn 1991-2000 đạt trung bình khoảng 29%/năm. (Theo tạp chí Tài chính, số 6/2002). Hiện nay tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước bình quân đạt 23 ¸ 25 tỷ USD/năm với số lượng và chủng loại hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng trở nên đa dạng hơn, chất lượng ngày một nâng cao. (Theo Thời báo kinh tế Việt Nam, 12/2001) Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác kinh tế và đầu tư vào Việt Nam. Và chính sự phát triển của thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu đã mở ra cơ hội cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu - bắt đầu trở nên sôi động trong vài năm gần đây. Doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá tăng từ 8,7 triệu USD năm 1995 lên 16 triệu USD năm 2000. Hầu hết các công ty bảo hiểm thương mại trong nước đều tiến hành triển khai nghiệp vụ này. Tính đến năm 2001, thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam có các công ty : Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO, PVIC, Bảo Long, PTI và một số công ty có vốn nước ngoài khác như VIA, ALLIANZ, ... Thị phần về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trên thị trường nước ta năm 2001 thể hiện qua biểu đồ sau : (Nguồn: Tạp chí thông tin thị trường TBH năm 2001) Như vậy, thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay mang tính cạnh tranh rất cao, không chỉ giữa các công ty bảo hiểm trong nước mà cả với các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, nước ngoài. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là các công ty bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa khai thác tối đa khả năng của mình, còn một phần lớn thị trường bảo hiểm “bỏ ngỏ” cho nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Thương mại, kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam không ngừng tăng nhưng tỷ lệ hàng hoá tham gia bảo hiểm trong nước rất thấp. Bảng 4: Tỷ trọng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước Năm Tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu (tr.USD) Kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm trong nước (tr.USD) Tỷ lệ tham gia bảo hiểm trong nước (%) a.Hàng nhập 1995 8.155 1.916 23,49 1996 11.144 2.370 21,27 1997 11.592 2.132 18,39 1998 11.527 2.188 18,98 1999 11.622 2.211 19,02 2000 15.222 3.535 23,22 1995-2000 69.262 14.352 20,72 b. Hàng xuất 1995 5.449 179 3,29 1996 7.256 221 3,05 1997 9.185 272 2,96 1998 9.361 358 3,82 1999 11.540 428 3,71 2000 14.300 666 4,66 1995-2000 57.091 2.124 3,72 (Nguồn : Tạp chí Tài chính, số 6/2002) Như vậy, tổng kim ngạch hàng nhập tham gia bảo hiểm tại thị trường trong nước các năm qua chỉ đạt bình quân 20,72% so với tổng kim ngạch nhập khẩu, còn lại gần 80% là tham gia ở nước ngoài, và một số ít không tham gia bảo hiểm. Về hàng xuất, có tới trên 96% kim ngạch xuất khẩu được bảo hiểm tại nước ngoài với số phí khoảng 35 ¸ 40 triệu USD/năm. Do đó thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam tiềm năng thì rất lớn, nhưng tổng phí bảo hiểm của nghiệp vụ này của ngành bảo hiểm Việt Nam lại rất nhỏ, chỉ đạt 12 ¸ 16 triệu USD, tương đương với 12 ¸ 18%. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do vị trí của ngoại thương Việt Nam còn thấp nên thường bị ép mua bán hàng theo các điều kiện có lợi cho đối tác nước ngoài, công tác khai thác bảo hiểm chưa được tốt, khách hàng chưa thực sự tin tưởng vào các công ty bảo hiểm Việt Nam ... Mặt khác, trong vài năm qua tình hình tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là khá cao, tỷ lệ bồi thường cao cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này ở các công ty. Tóm lại, thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra sôi động và mang tính cạnh tranh cao, nó chịu tác động của các nhân tố khách quan cũng như chủ quan, các nhân tố trong nước cũng như nước ngoài. Và vì thế đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn nhất định đối với các công ty bảo hiểm nói chung và Bảo Việt nói riêng. 1.2. Những thuận lợi và khó khăn mà Bảo Việt gặp phải khi triển khai bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không a) Thuận lợi Thuận lợi đầu tiên đối với Bảo Việt chính là vị trí lâu năm và uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Ra đời từ rất sớm nên Bảo Việt đã thâu tóm được toàn bộ những nguồn hàng xuất nhập khẩu trong những năm trước đây. Hiện nay, tuy thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều công ty mới cũng kinh doanh nghiệp vụ này, nhưng với uy tín của mình, Bảo Việt vẫn chiếm được thị phần lớn nhất hiện nay. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta đang có mức tăng trưởng cao và ổn định. Trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá hiện nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược xuất khẩu hàng đầu. Đồng thời cũng nhập thêm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và tiêu dùng, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nên ngày càng tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu phát triển. Xuất phát từ tính thương phẩm của các loại hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu là vật tư, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, đặc biệt là hàng hoá chuyên chở bằng máy bay thường có giá trị lớn, lại dễ bị hư hỏng, ... trong quá trình vận chuyển cho nên hầu hết các nhà nhập khẩu đều tham gia bảo hiểm để hạn chế rủi ro. Điều này mở ra cơ hội cho các công ty bảo hiểm nói chung và Bảo Việt nói riêng khai thác khách hàng. Mặt khác, thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không ở Việt Nam tuy còn hẹp về mặt hàng tham gia, nhưng do tính chất của nghiệp vụ này là có thời gian bảo hiểm ngắn nên trong một năm các nhà bảo hiểm có thể quay vòng liên tục số khách hàng bảo hiểm. Khi nhà bảo hiểm làm việc có uy tín, họ sẽ khai thác được nhiều hợp đồng bảo hiểm hơn, điểm lợi này Bảo Việt đang khai thác. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không hiện nay còn có một vị trí không thể thiếu còn do ngành vận tải hàng không đang phát triển không ngừng. Nhu cầu về vận tải hàng không hiện nay đang trở nên quan trọng và thiết yếu hơn bao giờ hết. Vận tải hàng không ở Việt Nam hiện nay không chỉ đơn thuần vận chuyển hành khách nữa, mà nó đã từng bước phát triển để thích ứng với cả nhu cầu vận chuyển hàng hoá đang ngày một tăng, đặc biệt là hàng hoá xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, với uy tín lớn và lâu năm trên thị trường, Bảo Việt sẽ gặp nhiều thuận lợi trong nghiệp vụ bảo hiểm không mới mẻ nhưng đầy khó khăn này. Trên đây chỉ là những nhân tố khách quan có tác động thuận lợi đến việc triển khai nghiệp vụ. Còn việc triển khai nghiệp vụ này như thế nào, có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào thực lực của công ty, như là việc công ty có nắm bắt kịp thời cơ để lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý hay không, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc của cán bộ trong công ty, … b) Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi có được, Bảo Việt cũng gặp không ít khó khăn cần phải vượt qua. Đó là việc hiện nay trên thị trường quốc tế, vị thế của ngoại thương Việt Nam còn yếu kém, kinh nghiệm chưa nhiều nên các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam thường bị ép bán theo những điều kiện mà quyền mua bảo hiểm thuộc và người mua nước ngoài (như FOB hay FCA), còn khi mua thì lại thường mua theo giá đã có bảo hiểm (tức là người bán nước ngoài giành quyền mua bảo hiểm với các điều kiện như CIF, CFR). Do vậy, đã làm cho một lượng lớn hàng hoá xuất nhập khẩu tại Việt Nam không tham gia bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam. Theo Tạp chí thông tin tài chính số 18/2002, chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2002, bình quân số phí bảo hiểm xuất nhập khẩu mà tất cả các nhà bảo hiểm trong nước thực hiện trên tổng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu chỉ đạt 10%, số còn lại là của các nhà bảo hiểm nước ngoài. Ngay cả Bảo Việt là một doanh nghiệp bảo hiểm trong nước có uy tín và kinh nghiệm nhiều năm cũng chỉ mới thu được phí bảo hiểm từ 7% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu và 3,37% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Như vậy, đây không chỉ là khó khăn đối với Bảo Việt mà còn là khó khăn chung của toàn thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam hiện nay. Thêm vào đó, các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam còn chưa có thói quen mua bảo hiểm gây nên khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nói chung trong việc khai thác khách hàng. Đối với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì điều này càng được chứng minh. Trong những năm trước đây, số đơn bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không rất ít nếu không nói là rất hiếm. Điều đó một phần là do ngành vận tải hàng không còn chưa phát triển nhưng nguyên nhân chính là quan niệm về bảo hiểm của chủ hàng xuất nhập khẩu. Họ quan niệm máy bay là phương tiện an toàn nhất lại có thời gian vận chuyển nhanh nhất nên không quan tâm đến yếu tố bảo hiểm. Tuy nhiên, với giá trị lớn, và ngày nay hàng không dù hiện đại đến đâu cũng không thể tránh khỏi những rủi ro bất thường, nên quan niệm này cũng ngày một mai một. Hơn nữa, hiện nay trên thị trường có nhiều các công ty bảo hiểm khác cũng triển khai nghiệp vụ này (như PVIC, PJICO, Bảo Minh - CMG, …)nên thị phần và lượng khách hàng tiềm năng của công ty bị thu hẹp . Các công ty này, ngoài việc sử dụng áp lực hành chính để buộc các doanh nghiệp trong ngành mua bảo hiểm của mình, còn tiến hành hạ phí, tăng tỷ lệ hoa hồng. Chính điều này đã tạo ra môi trường cạnh tranh khốc liệt, buộc Bảo Việt cũng phải hạ phí theo, đồng thời phải tính toán và đề ra các biện pháp để đảm bảo kinh doanh không bị thua lỗ. Trước những thuận lợi và khó khăn trên, Bảo Việt đang từng bước nghiên cứu tìm ra cho mình hướng đi thích hợp, làm sao đứng vững trong cạnh tranh, thực hiện được mục tiêu đặt ra là "tăng trưởng và hiệu quả". 2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt Nội dung của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt cũng như nhiều nghiệp vụ khác đều bao gồm các khâu chính : - Khai thác bảo hiểm - Giám định tổn thất - Giải quyết khiếu nại, bồi thường - Đề phòng và hạn chế tổn thất Việc phân chia nội dung cụ thể như vậy giúp công ty có thể đánh giá hiệu quả từng khâu để từ đó tìm ra các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những tồn tại của nghiệp vụ, hoàn thiện hơn nữa nghiệp vụ này. Mỗi khâu trên đóng vai trò nhất định trong toàn bộ quá trình kinh doanh bảo hiểm, được thực hiện theo quy trình riêng. Nhưng giữa các khâu có quan hệ trực tiếp lẫn nhau, chất lượng hoạt động của từng khâu đều có ảnh huởng đến các khâu còn lại, cũng như ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình kinh doanh của nghiệp vụ. Trong 3 khâu trên thì khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của nghiệp vụ. 2.1. Công tác khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt Khai thác là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện các khâu tiếp theo. Khai thác bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung là việc tìm kiếm chủ hàng bảo hiểm hàng hoá của họ tại Bảo Việt. Một doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng sẽ không thể tồn tại được nếu không có khách hàng và các mối quan hệ với khách hàng. Khai thác bảo hiểm của Bảo Việt không chỉ dừng lại ở việc tiến hành kí kết hợp đồng với khách hàng có nhu cầu bảo hiểm ở công ty mà Bảo Việt còn phải tự tìm đến với khách hàng, thuyết phục họ tham gia mua bảo hiểm của công ty mình. Tuy nhiên với bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không thì điều này càng khó khăn hơn. Khai thác tốt sẽ giúp cho Bảo Việt xây dựng được một hệ thống khách hàng phong phú, mở rộng thị phần, tăng doanh thu, nâng cao uy tín trên thị trường. Hoạt động khai thác của công ty luôn có kế hoạch và chiến lược hết sức cụ thể và chặt chẽ. Hàng năm, Bảo Việt đều phân tích tình hình doanh thu phí các năm trước, khả năng cạnh tranh của công ty và khả năng triển khai của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ đó Bảo Việt lập ra một kế hoạch khai thác cho toàn bộ công ty và giao chỉ tiêu kế hoạch khai thác cụ thể cho từng phòng. Đồng thời công ty còn luôn chú trọng tới các biện pháp hỗ trợ cho công tác khai thác bảo hiểm, cũng như luôn luôn đổi mới, hoàn thiện quy trình khai thác cho phù hợp với tình hình hiện tại. Hiện nay Bảo Việt đang tiến hành khai thác bảo hiểm hàng hoá theo sơ đồ sau : Sơ đồ khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu : Phân tích đánh giá rủi ro cung cấp thông tin cho khách hàng Chào phí bảo hiểm , cấp giấy yêu cầu Xem xét đề nghị và chấp nhận bảo hiểm Cấp đơn bảo hiểm Theo dõi thu phí và tiếp nhận giải quyết mới Tìm hiểu nhu cầu bảo hiểm, thu thập thông tin 2.1.1. Thu thập thông tin, tìm hiểu nhu cầu bảo hiểm Trong quá trình này, nhiệm vụ của cán bộ khai thác bảo hiểm rất quan trọng bởi muốn kí kết được hợp đồng bảo hiểm thì trước hết cần có thông tin về nhu cầu bảo hiểm : bao gồm chủ yếu là xác định thời gian phát sinh nhu cầu bảo hiểm, kim ngạch xuất nhập khẩu, hàng hoá xuất nhập khẩu, đòi hỏi của người được bảo hiểm, rủi ro bảo hiểm … Để thu nhận được những thông tin này, mỗi khai thác viên của Bảo Việt đã tự tìm cho mình cách tiếp cận thông tin khác nhau. Có thể họ chủ động khai thác nguồn tin từ các khách hàng quen biết, thường xuyên tiếp xúc với khách hàng để kịp thời nắm bắt những thay đổi và biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng để tư vấn, giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoặc có thay đổi phù hợp. Hoặc họ có thể tiếp cận với thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, các thông báo Chính phủ về hạn ngạch xuất nhập khẩu … Đặc biệt cán bộ khai thác của Bảo Việt đã nhanh chóng thích ứng với việc sử dụng Internet để phục vụ cho việc tìm kiếm và trao đổi thông tin, giới thiệu về hoạt động bảo hiểm của mình trên mạng. Hiện nay, Bảo Việt đã có riêng cho mình một trang Web ( tuy còn chưa đầy đủ nhưng đã bước đầu phát huy hiệu quả trong việc tìm kiếm khách hàng tiềm năng. Khi cán bộ khai thác bảo hiểm đã nắm bắt được thông tin và tìm hiểu nhu cầu khách hàng, việc quan trọng nhất là tiếp cận khách hàng và thực hiện các biện pháp tuyên truyền quảng cáo; bằng sự hiểu biết nghiệp vụ, sự mềm mỏng khôn khéo, để thuyết phục khách hàng mua bảo hiểm tại Bảo Việt. Các cán bộ khai thác của Bảo Việt luôn luôn xác định rằng quá trình tạo dựng mối quan hệ với khách hàng đòi hỏi một thời gian dài và phải bằng chính sự công phu, nhiệt tình của mình trong quá trình theo đuổi khách hàng mới đem lại kết quả. Khách hàng trên thị trường rất phong phú và đa dạng. Bảo Việt trong quá trình hoạt động triển khai nghiệp vụ đã phân tích và phân loại khách hàng cụ thể để với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau cán bộ khai thác của Bảo Việt có những biện pháp cụ thể thích hợp để thu hút khách hàng. Các khách hàng của Bảo Việt được chia làm 4 loại đối tượng sau : + Đối với khách hàng truyền thống Bảo Việt luôn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ. Với khách hàng thường xuyên có hàng hoá xuất nhập khẩu thì công ty vận động họ mua hợp đồng bao, vừa tiện lợi cho công ty trong việc quản lý cũng như khai thác triệt để kim ngạch xuất nhập khẩu của họ. Đồng thời Bảo Việt còn giành nhiều chính sách ưu đãi và hơn thế nữa, để góp phần phục vụ khách hàng tốt hơn, hàng năm công ty đều tổ chức hội nghị khách hàng với sự tham gia của các bên liên quan, để khách hàng có thể góp ý về những điểm được và chưa được của công ty nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng dịch vụ bảo hiểm. + Khách hàng là người đang tham gia bảo hiểm ở các công ty khác trong nước nhưng chưa tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Đối với những khách hàng này thì cán bộ khai thác của Bảo Việt phải giới thiệu về các dịch vụ bảo hiểm, sự phục vụ hoàn hảo, khả năng đảm bảo chi trả bồi thường khi có tổn thất xảy ra và uy tín lâu năm trên thị trường của Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không nói riêng. Tất cả điều đó đều toát lên được ưu thế vượt trội hơn hẳn của Bảo Việt so với các công ty khác. Như vậy sẽ lôi kéo được khách hàng về phía mình và mua sản phẩm của công ty. + Khách hàng chưa bao giờ tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở trong nước (chỉ tham gia ở công ty nước ngoài) Các khách hàng này thường có tâm lý là ngại nhiều giấy tờ, thủ tục rườm rà, phạm vi bảo hiểm không đầy đủ, không tin tưởng vào các công ty bảo hiểm trong nước. Nắm bắt được tâm lý này, cán bộ khai thác của Bảo Việt chủ động giới thiệu với các khách hàng về điều kiện bảo hiểm, các lợi thế khi tham gia bảo hiểm trong nước. Ngoài ra cán bộ khai thác sẽ giải thích cho khách hàng thấy việc mua bảo hiểm trong nước mà cụ thể mua bảo hiểm ở Bảo Việt thì khi tổn thất xảy ra việc tiến hành bồi thường giữa hai công ty trong nước tiện hơn, nhanh hơn, đồng thời còn góp phần giảm chi ngoại tệ, tăng nguồn thu cho đất nước, tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. + Khách hàng là người chưa bao giờ mua bảo hiểm cả Với đối tượng này, cán bộ khai thác của Bảo Việt áp dụng biện pháp thu hút khách hàng là thường đến tận nơi trao đổi, giải thích cho khách hàng biết về vai trò, tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Mục đích của họ là làm sao để cho khách hàng hiểu và tin tưởng vào lợi ích của bảo hiểm, vào việc Bảo Việt là người bạn đồng hành trong hoạt động kinh doanh, sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ khắc phục tình hình tài chính khó khăn khi có rủi ro xảy ra. Để từ đó khách hàng sẽ có nhu cầu tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt cho lô hàng xuất nhập khẩu của mình. Phân khách hàng thành 4 đối tượng như trên, các cán bộ khai thác của Bảo Việt tuỳ từng đối tượng mà có những biện pháp thích hợp nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. 2.1.2. Phân tích, tìm hiểu và đánh giá rủi ro Khi nhận được các thông tin từ khách hàng, cán bộ khai thác của Bảo Việt tiếp xúc, giới thiệu, tuyên truyền về sản phẩm bảo hiểm và công ty nhằm tạo ấn tượng tốt với khách hàng. Đồng thời cán bộ khai thác phải căn cứ vào các thông tin được cung cấp hoặc trực tiếp tiếp xúc với đối tượng bảo hiểm (hàng hoá) để tự đánh giá rủi ro. Những trường hợp đặc biệt, yêu cầu kỹ thuật chuyên môn cao, giá trị bảo hiểm lớn thì Bảo Việt sẽ thuê các giám định viên đánh giá rủi ro của các cơ quan chuyên môn khác hoặc của tổ chức nước ngoài. Ngoài ra còn nghiên cứu về hành trình sân bay đi, sân bay đến, khả năng tài chính của khách hàng. Để từ đó cán bộ khai thác Bảo Việt đánh giá mức độ rủi ro xảy ra, kết hợp với bộ phận bồi thường để tính toán đến hiệu quả bảo hiểm, dự kiến đưa ra tỷ lệ phí tạm thời. 2.1.3. Chào phí, cấp giấy yêu cầu bảo hiểm cho khách hàng. Trên cơ sở các thông tin khách hàng cung cấp, kết hợp với báo cáo đánh giá rủi ro và chính sách khách hàng, cán bộ khai thác sẽ đưa ra tỷ lệ phí bảo hiểm dự kiến với đối tượng bảo hiểm này. Từ đó lập một bản chào phí gửi tới khách hàng. Bản chào phí phải rõ ràng, đầy đủ các chi tiết mà khách hàng muốn biết : tỷ lệ phí, với mức phí đó thì quyền lợi bảo hiểm sẽ được nhận ra sao, … Thông thường khách hàng hay chú ý đến mức phí cao hay thấp nên cán bộ khai thác thường hay dẫn ý, rồi để cho khách hàng tự so sánh thấy mức phí mà Bảo Việt đưa ra với mức phí chung trên thị trường là ngang nhau, thậm chí còn thấp hơn phí của một số công ty khác. Qua đó khách hàng cảm thấy mức giá đó phải chăng, phù hợp với yêu cầu và khả năng của họ. Sau khi nhận được bản chào phí, khách hàng quyết định chọn mua bảo hiểm tại Bảo Việt, cán bộ khai thác viên còn có nhiệm vụ tiếp theo là cung cấp giấy yêu cầu bảo hiểm mà Bảo Việt đã in sẵn, rồi hướng dẫn khách hàng kê khai một cách đầy đủ và hợp lệ, sau đó xem xét, kiểm tra đánh giá lại tính chính xác của giấy yêu cầu bảo hiểm. 2.1.4. Xem xét đề nghị bảo hiểm và chấp nhận bảo hiểm Khi có được giấy yêu cầu bảo hiểm của khách hàng, cán bộ khai thác của Bảo Việt tiến hành xem xét, kiểm tra, đánh giá lại các thông tin mà khách hàng vừa cung cấp, xem xét đã đầy đủ và chính xác chưa. Nếu khai thiếu một trong các đề mục cơ bản như : tên hàng, số tiền bảo hiểm, số hợp đồng hoặc số L/C, … thì phải yêu cầu khách hàng điền đủ mới chấp nhận bảo hiểm được. Bên cạnh giấy yêu cầu bảo hiểm, cán bộ khai thác còn phải xem xét đến các chứng từ khác có liên quan như : + vận đơn hàng không (airway bill) + hoá đơn thương mại + thư tín dụng (nếu việc mua hàng thanh toán bằng tín dụng) …v.v.. Sau khi kiểm tra, nếu thấy giấy yêu cầu bảo hiểm và các chứng từ khác không hợp lệ, không thể căn cứ vào đó để cấp đơn bảo hiểm, thì Bảo Việt sẽ từ chối ngay bằng cách lập công văn từ chối và gửi fax qua đường bưu điện kèm theo là lời giải thích đầy đủ và cặn kẽ. Còn nếu sau khi kiểm tra giấy yêu cầu bảo hiểm, chứng từ có liên quan thấy đã đầy đủ hợp lệ, và đạt yêu cầu, thì Bảo Việt sẽ tiến hành cấp đơn và kí kết hợp đồng bảo hiểm với khách hàng ngay lập tức. 2.1.5. Cấp đơn bảo hiểm Khi đã chấp nhận bảo hiểm thì quy trình cấp đơn bảo hiểm ở Bảo Việt sẽ diễn ra như sau : a) Vào sổ cấp đơn, lấy số đơn Trước khi cấp đơn bảo hiểm phải tiến hành lấy số đơn bảo hiểm theo quy định về phân nhóm và mã nghiệp vụ. Số đơn bảo hiểm lấy theo số thứ tự tăng dần trong sổ cập nhật chi tiết bảo hiểm của phòng bảo hiểm hàng hoá và từng loại hàng hoá xuất hay nhập khẩu. b) Tính phí bảo hiểm Trước khi tính phí bảo hiểm phải xác định số tiền bảo hiểm. Hiện nay tỷ lệ phí mà Bảo Việt cung cấp cho khách hàng thường xê dịch từ mức 0,32% ¸ 0,4%. Tuy nhiên tỷ lệ phí này cũng có thể giảm xuống mức 0,3% đối với khách hàng truyền thống hay khách hàng tham gia với giá trị bảo hiểm lớn; hay có thể tăng tới mức 0,5% và thậm chí có đơn hàng tỷ lệ phí 2% (rất ít) đối với những đơn hàng mà hàng hoá dễ bị tổn thất. c) Lập và cấp đơn bảo hiểm. Khi tính được số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm, tỷ lệ phí thì cán bộ khai thác sẽ tiến hành lập đơn bảo hiểm cho khách hàng của mình. Nội dung của đơn bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không. Chi tiết của đơn bảo hiểm gồm có: - Tên người được bảo hiểm (Name of isured) - Tên máy bay (Name of Plane) - Số L/C (L/C No) - Số vận đơn (AWB No) - Hợp đồng số (Contract No) - Từ sân bay ... đến sân bay (From … to …) - Ngày khởi hành (Date of departure) - Ngày dự tính đến (Estimate date of arrival). - Đối tượng bảo hiểm (subject- matter Insured) - Tổng số tiền bảo hiểm (Sum insure) - Tỷ lệ phí (Rate) - Phí bảo hiểm (Premium) - Thuế giá trị gia tăng (VAT) - Tổng số tiền thanh toán (Total Amount) - Điều kiện bảo hiểm (Condition or Special Coverage) - Nơi và cơ quan giám định tổn thất (Apply for Survey to) - Nơi thanh toán bồi thường (Claims payable at) - Thời gian cấp đơn : ngày…tháng…năm (date on…) (Cụ thể xem mẫu đơn bảo hiểm sẵn ở phần phụ lục) Khi lập xong đơn bảo hiểm cho khách hàng, cán bộ khai thác trình lãnh đạo kí duyệt rồi tiến hành kí kết hợp đồng bảo hiểm với khách hàng. Hiện nay, Bảo Việt đang áp dụng hai loại hợp đồng : hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao. Đối với hợp đồng bảo hiểm bao, công ty đang áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích đối với các khách hàng thường xuyên mua bảo hiểm và ít xảy ra tổn thất. Một trong các biện pháp đó là công ty giảm phí, đưa ra tỷ lệ chiết khấu phù hợp theo thoả thuận. Việc làm này ngày càng tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa khách hàng với Bảo Việt. Như vậy, tuỳ từng khách hàng, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà Bảo Việt phát hành hợp đồng bảo hiểm chuyến hay bảo hiểm bao. Với loại hợp đồng nào thì công ty đều lập và cấp đơn cho khách hàng. Khi đã cấp xong đơn, kí kết xong hợp đồng bảo hiểm thì bước tiếp trong quy trình khai thác đó là theo dõi thu phí và tiếp nhận giải quyết mới phát sinh. 2.1.6. Theo dõi thu phí và tiếp nhận giải quyết mới Thu phí bảo hiểm là một việc rất quan trọng đối với cán bộ khai thác, bởi nó có tác động trực tiếp đến kế hoạch thu phí, tiến độ khai thác, doanh thu, hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nó phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của khách hàng và độ khéo léo của cán bộ khai thác. Hiện nay hình thức thu phí của Bảo Việt rất linh hoạt, có thể thu trực tiếp theo hoá đơn hoặc thu qua chuyển khoản, giấy báo nợ. Nhằm thu hút khách hàng, cũng như giúp đỡ những khách hàng đang gặp khó khăn trong kinh doanh thì Bảo Việt có áp dụng hình thức "giãn nợ phí ". Điều này có nghĩa là với khách hàng nào đang gặp khó khăn trong kinh doanh như hàng bị ứ đọng, không bán được … mà có văn bản chứng minh được điều đó thì công ty sẽ cho nợ phí trong một thời gian nhất định nào đấy. Việc làm này cho thấy Bảo Việt thực sự là người bạn đồng hành của các doanh nghiệp trên con đường kinh doanh. Thu xong phí rồi nhưng trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm còn có giá trị thì cán bộ Bảo Việt vẫn chưa hoàn thành xong nhiệm vụ của mình. Họ tiếp tục theo dõi đối tượng bảo hiểm, sửa đổi bổ sung các điều kiện bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm,… theo yêu cầu của khách hàng và theo phát sinh thực tế. Đồng thời họ còn làm các công tác tuyên truyền, đề phòng hạn chế tổn thất… nhằm phục vụ khách hàng sau khi bảo hiểm và chuẩn bị nắm thông tin phục vụ cho các nhu cầu bảo hiểm tiếp theo của khách hàng. Như vậy, quy trình khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt đã được các cán bộ khai thác thực hiện một cách linh động, nên trong thời gian qua thu được kết quả đáng khích lệ. 2.1.7. Kết quả đạt được trong hoạt động khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt từ 1997-2001 Khai thác là khâu đầu tiên, quan trọng nhất của một nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tuy đã khai thác từ lâu nhưng doanh thu của nó không đáng kể. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngành vận tải hàng không, thì nghiệp vụ này mới được Bảo Việt chú trọng hơn. Kết quả khai thác nghiệp vụ này trong những năm qua đã minh chứng cho sự cố gắng nỗ lực của các cán bộ khai thác. Bảng 5 : Kết quả khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không tại Bảo Việt (1997-2001) STT Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 1 Tổng kim ngạch bảo hiểm tỷ VND 341,77 419,05 435,83 494,04 448,48 2 Tổng doanh thu phí tỷ VND 1,337 1,615 1,579 1,783 1,606 3 Tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân % 0,3912 0,3854 0,3623 0,3609 0,3581 (Nguồn : Báo cáo tổng kết năm 1997-2001 của Bảo Việt) Như vậy, khi đánh giá về tốc độ hoạt động khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường hàng không của Bảo Việt giai đoạn từ 1997 - 2001 ta có bảng chỉ tiêu đánh giá sau : Bảng 6 : Bảng chỉ tiêu đánh giá về tốc độ khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu STT Chỉ tiêu Đơn vị 1997 98/97 99/98 2000/99 2001/00 1 Tốc độ tăng kim gạch bảo hiểm % _ 122,61 104 113,36 90,78 2 Tốc độ tăng doanh thu phí % _ 120,79 97,77 112,92 90,07 3 Tỷ lệ phí bảo hiểm bình quân % 0,3912 0,3854 0,3623 0,3609 0,3581 (Nguồn :Báo cáo tổng kết năm 1997-2001 của Bảo Việt) Qua bảng trên ta thấy : So với năm 1997, năm 1998 nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không có sự tăng trưởng mạnh cả về kim ngạch hàng hoá tham gia bảo hiểm và doanh thu phí bảo hiểm. Kim ngạch hàng hoá tăng 22,61% so với năm 1997 tương đương với 77,28 tỷ đồng; còn doanh thu phí bảo hiểm tăng 20,79% tức là 0,278 tỷ đồng. Có được điều này là do công ty đã thực hiện một số biện pháp để tăng cường công tác khai thác như đào tạo cán bộ, thiết lập thêm mạng lưới đại lý chuyên về hàng không, … Năm 1999, tuy tổng kim ngạch bảo hiểm hàng hoá vẫn tăng 4% (16,78 tỷ đồng) nhưng doanh thu phí bảo hiểm lại giảm 2,23% chỉ đạt 1,597 tỷ đồng. Điều này xảy ra là do năm 1999, một năm đầy khó khăn đối với thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung, tổng doanh thu phí toàn thị trường đều giảm, các công ty bảo hiểm đều tiến hành hạ phí nhằm tăng cạnh tranh, thu hút khách hàng. Do đó, Bảo Việt không chỉ hạ thấp mức phí của bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển mà phí bảo hiểm hàng hoá bằng đường hàng không cũng giảm từ tỷ lệ phí bình quân năm 1998 là 0,3854% xuống còn 0,3623%. Mức phí bảo hiểm hạ, hạ nhanh hơn so với tổng kim ngạch bảo hiểm cho nên làm tổng doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường hàng không của Bảo Việt năm 1999 giảm đi 2,23% tương ứng với 0,036 tỷ đồng. Trước những khó khăn trong năm 1999, bước sang năm 2000, Bảo Vi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB7843o hi7875m hng ho xu7845t nh7853p kh7849u chuyn ch7903 b.doc
Tài liệu liên quan