Tài liệu Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003): PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN , nền kinh tế nước ta có sự biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Hoà chung với xu thế đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng phát triển hết sức sôi động. Trên thị trường bảo hiểm hiện nay đã xuất hiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của người tham gia bảo hiểm. Một trong số những nghiệp vụ mới phải kể tới nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng - một trong những nghiệp vụ bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định - phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy không còn xa lạ nhưng để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này cho phù hợp ...
79 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN , nền kinh tế nước ta có sự biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Hoà chung với xu thế đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng phát triển hết sức sôi động. Trên thị trường bảo hiểm hiện nay đã xuất hiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của người tham gia bảo hiểm. Một trong số những nghiệp vụ mới phải kể tới nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng - một trong những nghiệp vụ bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định - phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy không còn xa lạ nhưng để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam không phải là điều đơn giản. Trong thời gian thực tập tại phòng Marketing thuộc công ty bảo hiểm Hà Nội, được tiếp xúc với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, em nhận thấy đây là một nghiệp vụ mới mẻ nhưng có tiềm năng không nhỏ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Song, quá trình triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội còn gặp khá nhiều khó khăn. Với mong muốn, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng trong loại hình bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, cũng như được tìm hiểu nghiên cứu tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này. Chính vì vậy em chọn “ Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003) ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình.
Kết cấu chuyên đề thực tập, ngoài phần mở đầu và phần kết luận gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Chương II: Thực tiễn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1999-2003
Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội.
Mặc dù rất cố gắng nhưng do thời gian eo hẹp và trình độ nghiên cứu có hạn nên chuyên đề thực tập này không tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập cũng như trong trình bầy. Rất mong nhận được sự đóng góp ý và phê bình từ phía các thày cô và những ai quan tâm đến đề tài này để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH SAU CHÁY
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH SAU CHÁY
1.1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Bảo hiểm là một hoạt động tài chính, có tính chất chuyên ngành mà thông qua hoạt động này các cá nhân và tổ chức kinh tế xã hội cùng tham gia đóng góp một khoản tiền nhất định để tạo lập nên quỹ bảo hiểm. Khi không may gặp rủi ro, tổn thất ngoài mong đợi của các thành viên thì lúc đó quỹ bảo hiểm mới phát huy tác dụng của nó là giúp đỡ các thành viên nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất cũng như đời sống, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh một cách bình thường. Ngày nay, hoạt động bảo hiểm được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của các tổ chức bảo hiểm.
Hoả hoạn là một rủi ro mang tính chất thảm hoạ, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, hậu quả của nó gây ra thường rất nặng nề và kéo dài trong nhiều năm. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới trung bình có khoảng 5 triệu vụ hoả hoạn, gây thiệt hại ước tính hơn 600 tỷ USD.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm, chúng ta thấy bảo hiểm có từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Ở buổi sơ khai, khi mới hình thành nghiệp vụ bảo hiểm không phong phú và đa dạng như hiện nay. Xã hội ngày càng phát triển, hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng dần dần nảy sinh nhiều nhu cầu bảo hiểm mới. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một trong số những nghiệp vụ bảo hiểm mới đó. Nếu so nghiệp vụ bảo hiểm này với các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải hay bảo hiểm cháy thì bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời muộn hơn rất nhiều.
Vào những năm đầu của thế kỷ 20, mặc dù chịu sự thúc ép từ phía chính phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất nhưng các công ty bảo hiểm của Anh vẫn chưa tiến hành bất cứ loại hình bảo hiểm “tổn thất hiệu quả nào”. Có sự chậm trễ này là do tính phức tạp trong việc phân tích các chi phí tài chính, xác định phạm vi bảo hiểm trong điều kiện kinh tế chính trị chưa ổn định. Sau đó, với sự ra đời của hai nguyên tắc Herry Booth & Commircial Union (1923) và PolikoffLtd vs North British and Mercantile (1836) mới thực sự đặt nền móng cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng hình thành và phát triển.
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh còn được biết đến dưới tên gọi khác là “Bảo hiểm mất lợi nhuận” hay “tổn thất hậu quả”, mục đích của nghiệp vụ bảo hiểm này là bồi thường cho người được bảo hiểm đối với trường hợp mất lợi nhuận do doanh thu giảm và chi phí hoạt động gia tăng do hoạt động kinh doanh bị ngừng trệ do hậu quả của một rủi ro hoả hoạn. Tổn thất này thường phát sinh sau một khiếu nại thiệt hại về tài sản do cháy hay do một số rủi ro đặc biệt khác.Trong thực tế, khi một doanh nghiệp không may gặp phải rủi ro hoả hoạn thì doanh nghiệp không những phải gánh chịu những thiệt hại về mặt vật chất mà còn gánh chịu những thiệt hại mang tính chất hậu quả như chi phí hoạt động gia tăng, chi phí trả lương, trả tiền thuê nhà xưởng… Ngoài ra doanh nghiệp còn bị tổn thất do lợi nhuận thuần dự kiến thu được đã bị giảm hoặc mất. Đối với thiệt hại vật chất trực tiếp, doanh nghiệp có thể khắc phục thông qua việc mưa bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt cho tài sản,với số tiền bồi thường nhận được từ phía bảo hiểm, người được bảo hiểm có đủ tài chính để phục hồi cơ sở hạ tầng, sửa chữa, mua lại các máy móc trang thiết bị… phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt không chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại gián tiếp - những thiệt hại mang tính hậu quả - trong khi doanh nghiệp lại có nhu cầu được bảo đảm trước các tổn thất này. Do đó, việc xuất hiện bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một nhu cầu tất yếu khách quan.
Mặc dù, “mầm mống” ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh xuất hiện từ những năm 1923 nhưng phải đến năm 1985 giao dịch bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đầu tiên mới xuất hiện tại Uỷ ban tổn thất hậu quả (một bộ phận của Uỷ ban bảo hiểm hoả hoạn ở Anh). Đây là nơi đánh giấu sự ra đời bản mẫu đơn bảo hiểm đầu tiên về đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này đã được thông qua và được sử dụng ở một số nước Tây Âu. Vào tháng 10/1989, Hiệp hội các nhà bảo hiểm London ( ABI ) đã xem xét lại mẫu đơn này trên cơ sở thống nhất lại phạm vi bảo hiểm và sau đó chính thức phát hành. Từ đó đến nay, hầu hết các quốc gia đều áp dụng theo mẫu đơn đó.
Ngày nay, ở các nước phát triển, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng đã không còn xa lạ, góp phần đắc lực vào việc ổn định tâm lý cũng như an toàn sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam nghiệp vụ bảo hiểm này mới được triển khai từ 1994, trên cơ sở mẫu đơn bảo hiểm của Anh (ABI). Tuy mới triển khai, nhưng nghiệp vụ bảo hiểm này đã bước đầu khẳng định được vai trò, tiềm năng cũng như ưu điểm không thua kém gì các nghiệp vụ “đàn anh đàn chị khác”. Trong vài năm trở lại đây, nghiệp vụ này đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà bảo hiểm. Năm 1997 tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo bảo hiểm ngừng trệ kinh doanh do Muniche và Vina Re đồng tổ chức. Từ đó đến nay, hàng năm các công ty bảo hiểm đều liên kết với nhau tổ chức hội thảo đề cập tới vấn đề này.
1.2. Tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy
1.2.1. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là “lá chắn kinh tế” của các doanh nghiệp góp phần giảm thiểu những hậu quả của các rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mặc dù con người đã chú ý đề phòng hạn chế rủi ro nhưng rủi ro vẫn xảy ra ở bất kì đâu, bất kì lúc nào không ai có thể lường trước được.
Các rủi ro đã và đang không chỉ gây lên những tổn thất thiệt hại về tài sản tính mạng con người mà còn làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoả hoạn là một trong những rủi ro gây thiệt hại ghê gớm cho con người. Hoả hoạn xảy ra do nhiều nguyên nhân, các nguyên nhân gây cháy có thể là do sơ xuất khi dùng lửa, do vi phạm nội quy an toàn phòng cháy, do nghịch ngợm của trẻ hay do các sự cố về điện … Phần lớn các nguyên nhân dẫn đến hoả hoạn là do sơ suất hay bất cẩn của con người. Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại mang tính thảm hoạ về tài sản, mà còn ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học công nghệ đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh, điều này làm cho qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nếu chẳng may xảy ra hoả hoạn thì hậu quả thường rất lớn và để lại ảnh hưởng lâu dài không chỉ với chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới cả những cá nhân, doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với doanh nghiệp.
Để khắc phục những tổn thất này, doanh nghiệp thường áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để bù đắp những tổn thất đó, vay ngân hàng và vay của các tổ chức tín dụng khác là một trong những biện pháp khá phổ biến, song biện pháp này lại có bất lợi lớn là mang lại gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp về lâu dài điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc phục hồi sản xuất. Nhưng có thể nói rằng ngoài biện pháp hiện nay đang được áp dụng rộng rãi, hiệu quả là tham gia bảo hiểm thì hầu hết các biện pháp còn lại đều chỉ là các biện pháp thụ động. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm đó.
Sự ra đời của các công ty bảo hiểm đã giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định tình hình sản xuất, đảm bảo công việc kinh doanh được tiến hành bình thường. Thông qua việc bồi thường một cách kịp thời, chính xác bảo hiểm đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả thiệt hại . Bên cạnh đó, với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý, việc Nhà nước đã chủ động giao vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Theo đó các doanh nghiệp Nhà nước không còn nhận được nhiều sự hỗ trợ của Nhà nước như trong thời bao cấp, vì thế việc bảo toàn và phát triển vốn đối với các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn trước. Nếu có thiệt hại gây ra bởi các rủi ro đặc biệt là những rủi ro các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai hay với các loại hình tương tự. Vì vậy, bảo hiểm thực sự là “lá chắn kinh tế” giúp các doanh nghiệp bảo toàn vốn khi không may gặp phải rủi ro.
Trên thực tế, sau khi gặp bất cứ rủi ro nào ví dụ như rủi ro hoả hoạn thường thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể tiến hành bình thường như kế hoạch đã định. Phần thiệt hại vật chất sẽ được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, nhưng hoả hoạn xảy ra không chỉ gây thiệt hại về mặt vật chất mà nó còn có ảnh hưởng hậu quả lâu dài đến hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy còn rất nhiều khoản tổn thất khác không được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm tổn thất vật chất. Để đối phó với tình huống doanh nghiệp có thể bị phá sản hay lâm vào tình huống tài chính khó khăn khi phải đối mặt với những tổn thất đó, tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mà cụ thể ở đây là bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là cách tốt nhất để bù đắp phần thiệt hại này.
Khi tham gia loại hình bảo hiểm này, trong trường hợp xảy ra tổn thất, doanh nghiệp không những được bồi thường những hoạt động gia tăng nhằm duy trì hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp còn được bồi thường phần lợi nhuận ròng đáng ra họ có thể thu được nếu không xảy ra hoả hoạn.
Như vậy, cùng với đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy đã góp phần làm hạn chế đến mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của hoả hoạn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thực sự là “lá chắn kinh tế” giúp các doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh khi không may gặp phải rủi ro hoả hoạn.
1.2.2. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy góp phần mang lại sự an toàn trong xã hội, giảm thiểu rủi ro.
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, nước ta đã và đang thu hút được lượng lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư, vì mục đích kinh doanh của mình luôn quan tâm đến việc bảo toàn vốn, làm sao có thể tránh được các rủi ro đáng tiếc xảy ra với đồng vốn của họ. Song, trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường chứa đựng nhiều rủi ro mang tính ngẫu nhiên bất ngờ có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất kỳ lúc nào mà không ai có thể lường trước được. Các công ty bảo hiểm là các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở xử lý, chuyển giao và phân tán rủi ro, vì vậy để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thu được hiệu quả cao nhất có thể, các doanh nghiệp bảo hiểm luôn tìm cách giảm thiểu xác suất cũng như mức độ tổn thất của rủi ro. Một biện pháp mà các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đang áp dụng rất hiệu quả là biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Hàng năm, trên cơ sở số phí thu được, doanh nghiệp bảo hiểm thường trích ra một khoản theo tỷ lệ nhất định trên cơ sở nguồn phí thu được để chi cho công tác này. Ở Bảo Việt Hà Nội tỷ lệ này tính cho tất cả các nghiệp vụ là 0.37% phí thu. Phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tất yếu cũng sẽ góp một phần trong đó. Vì vậy có thể nói, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn trật tự, an ninh, an toàn xã hội cũng như tạo tâm lý an tâm trong sản xuất kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp.
1.2.3. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy góp phần làm tăng thu cho ngân sách nhà nước. Không những thế, phần phí tạm thời nhàn rỗi thu được từ các hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tạo ra nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế thông qua hoạt động đầu tư .
Trên đây là một vài minh chứng cho sự cần thiết khách quan của việc tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
II. NHỮNG NỘi DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY
2.1. Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy bảo hiểm cho các tổn thất mất giảm thu nhập thực tế và tiềm năng cũng như các chi phí hoạt động gia tăng phát sinh từ hậu quả tổn thất vật chất khi không may xảy ra hoả hoạn.
Nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mang một số đặc điểm khác biệt so với các loại hình bảo hiểm khác:
2.1.1. Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là đối tượng vô hình.
Khi xảy ra rủi ro hoả hoạn, doanh nghiệp phải gánh chịu những thiệt hại vật chất trực tiếp do cháy như: nhà xưởng, hàng hoá, máy móc trang thiết bị bị phá huỷ. Phần thiệt hại về tài sản, doanh nghiệp có thể khắc phục thông qua việc tham gia bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Nhưng, bên cạnh những thiệt hại về vật chất thì chủ doanh nghiệp còn phải gánh chịu những tổn thất hậu về kinh doanh khác như: mất lợi nhuận, mất khả năng kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định. Không những thế, anh ta còn phải chịu những chi phí khác như: chi phí thuê nhà tạm, tiền trả cho công nhân viên làm ngoài giờ, lãi suất ngân hàng… mặc dù không thực hiện sản xuất kinh doanh. Hay nói khác đi, tuỳ vào mức độ thiệt hại gây ra, mà hoạt động sản xuất kinh doanh của người được bảo hiểm sẽ bị ngưng trệ hay giảm sút. Chúng ta hãy cùng xem xét một ví dụ dưới đây:
T12
T12
T3
T6
T9
Cháy
Doanh thu
(Nguồn: hình 4.1-4/7-112)
Thời kỳ
xây dựng lại
Hình trên miêu tả tổn thất doanh thu có thể xảy ra sau một vụ cháy nghiêm trọng. Cần chú ý rằng doanh thu của doanh nghiệp sẽ chỉ trở lại bình thường sau 9 tháng kể từ khi có vụ cháy xảy ra mặc dù công việc xây dựng lại chỉ mất 3 tháng. Có tình huống này là do nguyên nhân một số khách hàng không chắc chắn được liệu công ty có tiếp tục kinh doanh nữa hay không và nếu khách hàng có thể dễ dàng tìm được hàng hoá đó từ các đối thủ cạnh tranh khác thì thời gian phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ kéo dài hơn. Không giống như thiệt hại về mặt vật chất, thiệt hại mà nhà kinh doanh phải gánh chịu trong trường hợp gián đoạn kinh doanh là rất trừu tượng và chỉ có thể được xác định trong tương lai, tại thời điểm doanh nghiệp của người được bảo hiểm trở lại tình trạng tài chính như trước khi tổn thất xảy ra. Tóm lại, đối tượng của bảo hiểm kinh gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình.
Trong biểu đồ trên, người ta giả định một doanh thu tĩnh song thực tế, có rất nhiều ngành nghề biến động theo mùa, yếu tố này cần được xem xét khi giải quyết bất kỳ khiếu nại nào. Vì vậy trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng thường nêu rõ công thức sẽ được sử dụng khi giải quyết bồi thường
2.1.2. Thời hạn bồi thường.
Một đặc trưng cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là người được bảo hiểm được chọn một thời hạn bồi thường. Thời hạn bồi thường được định nghĩa: “Thời hạn bồi thường là khoảng thời gian mà trong suốt khoảng thời gian đó kết qủa kinh doanh bị ảnh hưởng do hậu qủa của hoả hoạn được bắt đầu từ ngày xảy ra hoả hoạn và không kéo dài quá thời hạn bồi thường tối đa do người được bảo hiểm lựa chọn”.
Thời hạn bồi thường tối đa là giai đoạn mà theo tính toán của người được bảo hiểm sẽ đủ để người đó khôi phục lại kinh doanh, hoàn toàn khôi phục lại khả năng hoạt động và doanh thu kể cả khi xảy ra vụ hoả hoạn nghiêm trọng nhất. Không giống với thời hạn bảo hiểm, thời hạn bồi thường được tính từ ngày bắt đầu xảy ra rủi ro hoả hoạn ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của người được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm. Nếu tại một thời điểm chưa hết thời hạn bồi thường tối đa mà quả kinh doanh của doanh nghiệp được khôi phục thì thời hạn bồi thường cũng chấm tại thời điểm đó. Và ngược lại, nếu đến hết thời hạn bồi thường tối đa mà kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn chưa đạt được mức dự kiến thì thời hạn bồi thường cũng không vượt quá thời hạn bồi thường tối đa được xác định trước. Người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm về bất cứ khoản tổn thất doanh thu nào xảy ra sau thời hạn đó. Thời hạn bồi thường có thể là 6 tuần, 8 tuần, 10 tuần hay kéo dài cả thời hạn bồi thường tối đa.
Người được bảo hiểm phải cân nhắc kĩ lưỡng khi lựa chọn thời hạn bồi thường tối đa. Bởi, thời hạn bồi thường tối đa không chỉ ảnh hưởng tới phạm vi bảo hiểm tối đa mà còn ảnh hưởng tới số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm. Do trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy số tiền bảo hiểm là số lợi nhuận gộp ước tính lẽ ra thu được trong thời hạn đó. Nếu thời hạn bồi thường tối đa kéo dài thì số tiền bảo hiểm càng lớn và tỷ lệ phí bảo hiểm càng nhỏ vì kết quả hoạt động kinh doanh sẽ được khôi phục dần theo thời gian đó, khi đó mức độ giảm doanh thu sẽ bớt nghiêm trọng, hay số tiền mất lợi nhuận bình quân cho cả thời hạn bồi thường tối đa sẽ thấp và ngược lại nếu thời hạn bồi thường tối đa ngắn thì số tiền mất lợi nhuận bình quân cho cả thời hạn bồi thường sẽ cao. Thời hạn bồi thường tối đa thường được lựa chọn là 12 tháng 18 tháng hay nhiều hơn, ít khi thời hạn này được chọn dưới 12 tháng bởi khoảng thời gian đó không đủ dài để người được bảo hiểm trở lại vị trí tài chính đáng ra doanh nghiệp sẽ đạt được nếu không xảy ra hoả hoạn. Xét tiếp ví dụ trên ta thấy, việc lựa chọn thời hạn bồi thường tối đa dưới 12 tháng không chỉ dẫn đến tình huống người được bảo hiểm không thoả mãn với kết quả bồi thường, mà còn là nguyên nhân dẫn đến tranh cãi giữa hai bên khi giải quyết bồi thường. Thời hạn bồi thường tối đa sẽ được ghi rõ trong phụ lục của hợp đồng .
Thời hạn bồi thường tối đa phụ thuộc vào một số yếu tố sau :
Sự sẵn có của các loại tài sản thay thế.
Thời gian sửa chữa –xây dựng lại các tài sản bị thiệt hại bao gồm cả thời gian thu dọn hiện trường, thời gian lên kế hoạch, thời gian thiết kế và thời gian xin các loại giấy phép.
Mức độ sẵn có của nguyên vật liệu.
Thời gian sửa chữa lắp đặt máy móc thiết trang thiết bị.
Khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của các đối thủ cạnh tranh kéo dài hơn.
Thời gian giành lại khách hàng sau khi hoạt động kinh doanh được khôi phục hoàn toàn.
Đặc điểm mùa vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đây là một yếu tố quan trọng khi quyết định thời hạn bồi thường tối đa.Ví dụ như một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hàng hoá phục vụ giáng sinh có đặc điểm là hoạt động kinh doanh không diễn ra đều đặn trong cả năm mà phần lớn doanh thu của doanh nghiệp thu được trong trong một vài tháng trước lễ giáng sinh. Giả sử không may xảy ra một vụ hoả hoạn vào thời điểm gần kết thúc mùa kinh doanh, khi đó nếu thời hạn bồi thường tối đa được lựa chọn là dưới 12 tháng thì sẽ không đủ dài để đưa người được bảo hiểm về vị trí tài chính lẽ ra họ có nếu không xảy ra hoả hoạn.
Thời gian tuyển và đào tạo nhân viên mới.
Thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có thể trùng với thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt hoặc bắt đầu sau khi hợp đồng bảo hiểm tổn thất vật chất có hiệu lực nhưng phải không kéo dài quá thời điểm kết thúc của hợp đồng bảo hiểm đó. Còn thời hạn bồi thường bắt đầu từ ngày xảy ra hoả hoạn trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kéo dài cho đến khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được khôi phục hoàn toàn mà không quan tâm đến việc hợp đồng có tiếp tục tái tụng hay không
2.1.3. Rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trừ những trường hợp loại trừ phải trùng khớp với rủi ro trong đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt.
Điều kiện tiên quyết để người được bảo hiểm có quyền đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là “tại thời điểm xảy ra hoả hoạn, các thiệt hại vật chất của tài sản được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt”.
Việc đảm bảo có đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt trước khi giao kết hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là cực kì quan trọng bởi:
Khi hoả hoạn xảy ra dẫn đến thiệt hại về tài sản được bảo hiểm của người tham gia tại địa điểm bảo hiểm, thì đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt sẽ nhanh chóng bồi thường phần thiệt hại vật chất. Do đó, người được bảo hiểm có thể nhanh chóng phục hồi những thiệt hại đó. Điều này có giúp tối thiểu hoá thiệt hại gián đoạn kinh doanh.
Đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt là điều kiện cần để đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được giao kết.
Không những thế, đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt sẽ thực hiện các khâu công việc như điều tra nguyên nhân gây ra tổn thất, xác định trách nhiệm bồi thường khi phát sinh khiếu nại bồi thường. Nếu bên phía bảo hiểm vất chất quyết định chấp thuận bồi thường thì phía bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng tự động chấp thuận bồi thường. Điều này không chỉ có lợi cho phía bảo hiểm mà còn có lợi cho cả bênn tham gia bảo hiểm vì việc điều tra, giám định tổn thất chỉ phải tiến hành một lần, giúp tiết kiệm thời gian và tiền cho cả hai bên.
Theo đó, người ta không xét tới yếu tố doanh nghiệp tham gia đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đầy đủ hay không mà chỉ nhấn mạnh cần phải sự bảo vệ của đơn bảo hiểm tổn thất vật chất đối với tài sản được bảo hiểm.
Rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, trừ những trường hợp loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro trong bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt.
2.2. Nội dung cơ bản trong hợp động bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng.
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm.
2.2.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
2.2.1.2. Điều kiện pháp lý trong hợp đồng bảo hiểm.
Có hai loại điều kiện được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm, đó là:
Điều kiện ngầm định.
Điều kiện rõ ràng.
a. Điều kiện ngầm định :
Trong thực tế, có những điều kiện ngầm định không được thể hiện bằng văn bản nhưng hai bên phải luôn tuân thủ trong thời hạn hiệu lực hợp động. Trong trường hợp các điều kiện này không được tuân thủ, tính hợp lệ của hợp đồng sẽ không được đảm bảo.
Các điều kiện ngầm định trong hợp đồng bảo hiểm gồm có:
* Quyền lợi được bảo hiểm:
Giống như luật bảo hiểm của nhiều nước trên thế giới, trong luật bảo hiểm Việt Nam có quy định rõ về quyền lợi được bảo hiểm. Theo đó, để có đủ năng lực pháp lý tham gia vào hợp đồng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải là người có quyền lợi khi đối tượng bảo hiểm bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là đối tượng bảo hiểm, đặc biệt là tài sản phải thuộc quyền sử dụng, quyền sở hữu hay quyền quản lý hợp pháp của người tham gia bảo hiểm.
* Trung thực tuyệt đối:
Điều kiện “Trung thực tuyệt đối” được áp dụng trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm giữa người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Điều này có nghĩa, người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm trả lời trung thực và đầy đủ tất cả các câu hỏi của người bảo hiểm trong phạm vi kiến thức và sự hiểu biết của họ. Bởi không giống như các hoạt đông kinh doanh thương mại khác, chỉ có bên tham gia bảo hiểm là nắm rõ tất cả các thông tin, người bảo hiểm chỉ biết những gì mà bên tham gia nói cho họ. Những thôn tin này có vai trò quan trọng đối với người bảo hiểm bởi đó chính là căn cứ để người bảo hiểm quyết định có chấp thuận hay từ chối? Nếu chấp thuận thì chấp thuận ở mức độ nào? Với điều kiện nào? Người tham gia bảo hiểm không được thực hiện bất cứ hành vi gian dối nào trong thời hạn bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm.Việc tuân thủ đúng nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong giao dịch bảo hiểm.
* Bồi thường.
Khi có sự cố xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm gây thiệt hại cho người được bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo đúng quy định của hợp đồng. Hiện nay có 3 hình thức bồi thường được áp dụng:
Thanh toán bằng tiền mặt.
Sửa chữa.
Thay thế hay phục hồi.
Hình thức bồi thường áp dụng khi giải quyết bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là hình thức thanh toán bằng tiền mặt.
b. Điều kiện rõ ràng:
Cùng với nghĩa vụ thực hiện các điều kiện ngầm định, giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng có những điều kiện rõ ràng được quy định bằng văn trong hợp đồng buộc hai bên cùng phải tôn trọng tuân thủ. Các điều kiện này sẽ được xem xét một cách cụ thể trong các phần tiếp theo của hợp đồng bảo hiểm.
2.2.1.3. Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm.
Thông thường một đơn bảo hiểm bao gồm ba phần chính:
Giấy yêu cầu bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Mẫu đơn bảo hiểm.
a. Giấy yêu cầu bảo hiểm:
Giấy yêu cầu bảo hiểm là cách các công ty bảo hiểm thu thập thông tin có liên quan tới rủi ro được bảo hiểm. Giấy yêu cầu bảo hiểm gồm có các câu hỏi chung - riêng, tất cả các câu hỏi đó đều có giá trị đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi đó chính là căn cứ để bên bảo hiểm nghiên cứu, cân nhắc quyết định chấp thuận hay từ chối bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai đầy đủ, chính xác các thông tin mà phía bảo hiểm yêu cầu. Đối với những thông tin bên tham gia bảo hiểm không đủ khả năng cung cấp đầy đủ theo yêu cầu của công ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm hoàn toàn có quyền diễn giải theo ý nghĩa gia tăng rủi ro trong khi xác định phí.
Mỗi giấy yêu cầu bảo hiểm đều phải có một phần cam kết và một phần cảnh báo. Nội dung của phần cam kết là thông tin do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp “là hoàn toàn đúng sự thật trong giới hạn tối đa người đó biết và tin tưởng”. Cam này là cần thiết để thỏa mãn các yêu cầu của nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Các đơn này có thể do công ty bảo hiểm gốc, môi giới bảo hiểm hay các trung gian bảo hiểm. Trong hầu hết các đơn bảo hiểm thường có những câu hỏi chung như sau:
Đối với người tham gia yêu cầu bảo hiểm là cá nhân:
- Tên , địa chỉ nghề nghiệp tuổi tác của người yêu cầu bảo hiểm.
- Thời hạn bảo hiểm.
- Những khiếu nại trước kia và trong một số trường hợp là những hợp đồng bảo hiểm trước kia hay những hợp đồng bảo hiểm trước kia.
Đối với trường hợp bên tham gia bảo hiểm là doanh nghiệp:
- Tên của người yêu cầu bảo hiểm (tên doanh nghiệp hoặc tên giao dịch của doanh nghiệp).
- Địa điểm kinh doanh cũng như các địa điểm hoạt động kinh doanh khác cần được bảo hiểm của doanh nghiệp.
- Đặc điểm ngành nghề kinh doanh, loại hình kinh doanh.
- Thời hạn bảo hiểm.
Bên cạnh đó, cũng có những câu hỏi liên quan trực tiếp đến rủi ro cụ thể. Nói cách khác, một đơn yêu cầu bảo hiểm chứa đựng các câu hỏi chung và riêng tất cả các câu hỏi đó đều có giá trị với doanh nghiệp bảo hiểm.
Giấy yêu cầu bảo hiểm chính là cơ sở của hợp đồng và là một phần không thể thiếu trong hợp đồng bảo hiểm.
b. Giấy chứng nhận bảo hiểm:
Nếu đơn bảo hiểm được trình bày hợp lý và công ty bảo hiểm chấp thuận bảo hiểm, thì công ty sẽ cấp cho người được bảo hiểm đơn bảo hiểm kèm theo giấy chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng về việc xác lập hợp đồng, trong đó bao gồm nội dung chi tiết về việc bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm là tài liệu chứng minh một đơn bảo hiểm đang có hiệu lực. Thông tin được nêu trong một giấy chứng nhận bảo hiểm do pháp luật liên quan quy định.
c. Mẫu đơn bảo hiểm:
+ Mẫu đơn bảo hiểm là văn bản dưới hình thức hợp đồng soạn sẵn trong đó chỉ rõ các điều kiện, điều khoản của hợp đồng.
+ Mẫu đơn bảo hiểm là giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa công ty bảo hiểm và người được bảo hiểm đã nghiên cứu đơn và chấp thuận hợp đồng bảo hiểm.
+ Mẫu đơn bảo hiểm thể hiện rõ các điều kiện rõ ràng của một hợp đồng bảo hiểm. Là căn cứ giải quyết các tranh chấp khiếu kiện có thể phát sinh trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm.
+ Mẫu đơn bảo hiểm được xây dựng trên nguyên lý số đông của người tham gia bảo hiểm với một đối tượng có nhu cầu được bảo hiểm.
+ Trong mẫu đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm phải đề cập được các nội dung chính sau :
- Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
- Đối tượng bảo hiểm
- Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản
- Phạm vi bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm .
- Thời hạn bảo hiểm
- Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí.
- Thời hạn , phương thức bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm .
- Các quy định giải quyết tranh chấp .
- Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng
Ngoài ra nếu phía bảo hiểm muốn có thêm thông tin khác về đối tượng được bảo hiểm ngoài những thông tin có trong giấy yêu cầu bảo hiểm thì có thể đưa ra các câu hỏi khác trong phụ lục hợp đồng. Phụ lục hợp đồng thể hiện các đặc điểm riêng có của người được bảo hiểm.
2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp đồng bảo hiểm như đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù của nghiệp vụ bảo hiểm này nên hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy còn mang những đặc điểm riêng so với các loại hợp đồng bảo hiểm khác.
2.2.1. Một số khái niệm.
Có ba loại thiệt hại gián tiếp mà doanh nghiệp phải gánh chịu do hậu quả của vụ cháy của vụ cháy: thiệt hại về lợi nhuận thuần, các chi phí cố định mà doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục chi trả và các khoản chi phí hoạt động gia tăng. Do đó để xác định rõ đối tượng bảo hiểm trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cần thống nhất một số khái niệm sau:
- Doanh thu: là số tiền được trả hoặc có thể được trả cho doanh nghiệp cho các hàng hoá được bán hoặc phân phối cho các dịch vụ trong qua trình tiến hành hoạt động kinh doanh tại địa điểm được bảo hiểm.
Doanh thu năm: Là khoản doanh thu lẽ ra đạt được trong 12 tháng nếu không xảy ra hoả hoạn làm gián đoạn hoạt động kinh doanh.
Doanh thu tiêu chuẩn: Là khoản doanh thu thu được trong thời hạn 12 tháng ngay trước khi xảy ra hoả hoạn tương ứng với thời hạn bồi thường.
- Chi phí khả biến: Là các khoản chi phí biến đổi liên tục, tỷ lệ so với khối lượng kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chi phí bất biến: Là các khoản chi phí được ấn định về mặt số lượng, không phụ thuộc vào khối lượng công việc thực hiện được.
- Lợi nhuận thuần: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu và các chi phí hoạt động (chi phí bất biến và chi phí khả biến) nhưng phải được tính trước khi trừ đi các loại thuế tính trên thu nhập.
- Lợi nhuận gộp.
Có hai phương pháp để xác định lợi nhuận gộp:
Phương pháp thứ nhất là phương pháp chênh lệch.
Theo phương pháp này, lợi nhuận gộp được tính bằng: Doanh thu cộng với giá trị sản phẩm dở dang cuối kì trừ đi giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và chi phí hoạt động kinh doanh không được bảo hiểm.
Giá trị tồn đầu kì và cuối kì được tính toán phù hợp với các phương pháp kế toán thông thường của người được bảo hiểm và những khoản dự phòng thích hợp do sụt giá.
Phương pháp thứ hai là phương pháp gia tăng:
Theo phương pháp này, lợi nhuận gộp được tính bằng lợi nhuận thuần cộng với chi phí bất biến.
- Tỷ suất lợi nhuận gộp: Là tỷ lệ lợi nhuận lẽ ra có thể đạt được trên doanh thu có được trong thời hạn bồi thường nếu hoạt động kinh doanh không bị gián đoạn.
- Thời hạn bảo hiểm: Là thời hạn ghi trong phụ lục hợp đồng. Ngày bắt đầu thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có thể trùng hoặc muộn hơn ngày bắt đầu của đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Ngày chấm dứt vào ngày được quy định cụ thể trong phụ lục có thể sớm hơn hoặc trùng với ngày chấm dứt hợp đồng bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Điều này có nghĩa: thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nằm trong thời hạn bảo hiểm của đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt.
- Thời hạn bồi thường: Là khoảng thời gian mà trong suốt khoảng thời gian đó, kết quả kinh doanh bị ảnh hưởng do hậu qủa cảu sự ngừng trệ kinh doanh, được tính từ ngày xảy ra hoả hoạn và không kéo dài hơn thời hạn bồi thường tối đa do người được bảo hiểm do người được bảo hiểm lựa chọn.
2.2.2. Đối tượng bảo hiểm.
Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, đối tượng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy bồi thường cho phần lợi nhuận gộp bị mất vì doanh thu giảm và chi phí hoạt động gia tăng. Không giống như các loại nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm là hữu hình, đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng do tính trừu tượng. Chính điều nàyđã gây không ít khó khăn cho các nhà bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến cho một nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời muộn hơn hẳn so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh của Anh (ABI), thì đối tượng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là “tổn thất mang tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh phát sinh sau một rủi ro hoả hoạn đối với đối tượng được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm”.
2.2.3. Phạm vi bảo hiểm và rủi ro bảo hiểm.
a. Phạm vi bảo hiểm:
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chịu trách nhiệm bồi thường cho phần mất lợi nhuận gộp của chủ doanh nghiệp do doanh thu giảm và chi phí hoạt động gia tăng với điều kiện:
Việc giảm doanh thu và tăng chi phí hoạt động là do tác động của bất cứ tổn thất vật chất nào của hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời hạn bảo hiểm mà những tổn thất vật chất đó phải thuộc trách nhiệm bồi thường của đơn bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt.
Việc giảm doanh thu và tăng chi phí hoạt động không phải do những tổn thất thuộc những điểm loại trừ áp dụng riêng cho loại hình bảo hiểm này gây ra.
Trách nhiệm của công ty bảo hiểm trong mọi trường hợp sẽ không vượt quá:
Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã bồi thường cho một tổn thất nào đó do ngưng trệ hay ảnh hưởng kinh doanh nào khác là hậu quả của tổn thất, phá huỷ hay thiệt hại xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nếu nhà bảo hiểm hay người đại diện cho công ty bảo hiểm không thoả thuận khôi phục lại số tiền bảo hiểm ban đầu.
Điều kiện 1 và 2 là hai điều kiện cần và đủ, tức là không thể thiếu một trong hai điều kiện. Trong đó điều kiện 1 có tính chất bao trùm cần phải được xem xét đầu tiên khi giải quyết bất cứ khiếu nại nào.
- Nếu điều kiện 1 không thoả mãn, thì không cần phải xét tới điều kiện 2 cũng có thể kết luận khiếu nại đó không thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm.
- Nếu điều kiện một thoả mãn thì ta mới xét đến điều kiện 2. Nếu điều kiện 2 cũng thoả mãn thì khiếu nại đó mới được kết luận là thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm này.
Như vậy loại hình bảo hiểm này có mối liên hệ chặt chẽ với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất thuộc đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Do vậy, tốt hơn cả là cả hai đơn bảo hiểm này đều được bảo hiểm tại cùng một công ty bảo hiểm, bởi điều này giúp người bảo hiểm quản lý rủi ro hiệu qủa nhất. Chính vì thế, mà hầu hết các công ty bảo hiểm trên thế giới đã ghép loại hình bảo hiểm gián này vào đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt và biến nó thành một bộ phận của đơn bảo hiểm này.
Có một số tổn thất mà doanh nghiệp phải gánh chịu do hậu quả của vụ cháy nhưng không được bồi thường trong cả đơn bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt và đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Các tổn thất đó không được loại trừ một cách cụ thể trong hai đơn bảo hiểm này nhưng đó là các nằm ngoài phạm vi bảo hiểm của các đơn bảo hiểm tiêu chuẩn, các tổn thất này bao gồm:
- Bảo hiểm thiệt hại vật chất dưới giá trị.
- Chênh lệch giữa giá trị của hàng hóa tại thời điểm xảy ra thiệt hại với giá trị của hàng hoá tại thời điểm thay thế.
- Giảm giá của hàng hoá không bị thiệt hại sau khi xảy ra cháy.
- Chi phí chuẩn bị cho các khiếu nại đòi bồi thường bảo hiểm.
- Chi phí tố tụng liên quan đến khiếu nại bảo hiểm.
- Các khoản tiền phạt hay các khoản thiệt hại theo hợp đồng phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng do vụ cháy gây ra (trừ khi có thoả thuận khác trong hợp đồng).
- Khiếu nại của bên thứ ba.
- Tổn thất do mất tín nhiệm.
- Tổn thất do không đòi được các khoản nợ vì tài liệu ghi chép, lưu trữ bị phá huỷ.
Rủi ro có thể được bảo hiểm và rủi ro loại trừ:
Như đã trình bầy ở phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì rủi ro trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, trừ những trường hợp loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro trong đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Theo đó, ta có:
* Các rủi ro có thể được bảo hiểm:
Rủi ro là những sự cố không chắc chắn, rủi ro có thể được bảo hiểm chia làm hai loại:
- Một là: Rủi ro cơ bản như: Cháy, nổ, sét.
Cháy: Bắt nguồn do nổ hoặc các nguyên nhân khác nhưng loại trừ cháy do động đất, núi lửa, hoặc các hiện tượng thiên nhiên khác, do tự lên men, toả nhiệt, hay bất cứ thiệt hại nào xảy ra dù bất ngờ hay không do hậu quả của việc cháy rừng, đồng cỏ hay do dùng lửa dọn đất.
Sét: Chỉ bảo hiểm cho tác động của tia sét tới tài sản được bảo hiểm …
Nổ: Là hiện tượng cháy cực nhanh, tạo ra hoặc giải phóng một áp lực lớn kèm theo một tiếng động mạnh, phát sinh bởi sự giãn nở nhanh và mạnh của các chất lỏng, chất rắn và chất khí. Chỉ bảo hiểm trong trường hợp nổ nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt.
- Hai là: Rủi ro phụ.
Bên cạnh những rủi ro cơ bản, còn có một số rủi ro đặc biệt không nằm trong rủi ro cháy nhưng có thể được lựa chọn để bảo hiểm cùng với rủi ro hoả hoạn thông qua việc mở rộng đối tượng bảo hiểm. Chỉ có bảo hiểm cho những rủi ro cơ bản mới bảo hiểm cho những rủi ro phụ. Các rủi ro phụ gồm:
Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc tài sản trên các phương tiện đó rơi.
Động đất, núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn vào do hậu quả của động đất và núi lửa.
Giông bão, lũ lụt, mưa đá.
Vỡ hay tràn nước từ các bể chứa nước, thiết bị đựng nước hay đường ống dẫn nước nhưng loại trừ tài sản bị phá huỷ hay hư hại do nước chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết bị phòng cháy tự động.
Gây rối, đình công, bãi công, sa thải.
* Các rủi ro không được bảo hiểm:
Đây là những rủi ro được cụ thể hoá trong hợp đồng bảo hiểm vì phần loại trừ thường là phần gây ra tranh chấp giữa hai bên khi giải quyết khiếu nại bồi thường. Rủi ro không được bảo hiểm bao gồm:
Các thiệt hại do nổi loạn , bạo động dân sự, quần chúng nổi dậy , bãi công, sa thải công nhân, chiến tranh xâm lược các hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự nổi loạn, cách mạng binh biến bạo động, đảo chính, khủng bố hay bất cứ nguyên nhân nào quyết định việc tuyên bố duy trì và duy trì tình trạng bao vây, thiết quân luật.
Những thiệt hại cho bất cứ tài sản tổn thất hay chi phí phát sinh hay tổn thất hậu quả nào trực tiếp hay gián tiếp gây ra cấu thành hoặc phát sinh từ vũ khí hạt nhân …
Những thiệt hại do ô nhiễm môi trường nhưng không loại trừ tổn thất phát sinh từ thiệt hại cho tài sản của người được bảo hiểm sử dụng trong nhà cho mục đích kinh doanh mà không loại trừ ở mục khác gây ra bởi: ô nhiễm tại khu nhà được bảo hiểm nếu sự ô nhiễm này phát sinh bởi rủi ro được bảo hiểm hay bất kì rủi ro nào phát sinh do hậu quả của sự ô nhiễm
2.2.4. Số tiền bảo hiểm.
Khác với các số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm khác, số tiền bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được xác định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của doanh nghiệp tham gia bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong loại hình bảo hiểm này do người được bảo hiểm xác định dựa trên số liệu sổ sách kế toán của người được bảo hiểm có sự điều chỉnh với tốc độ tăng trưởng doanh thu và lạm phát trong tương lai để đảm bảo thể hiện được giá trị lợi nhuận gộp ước tính đạt được trong tương lai của doanh nghiệp được bảo hiểm.
Để xác định giá trị đó, số liệu kế toán của năm tài chính gần nhất sẽ được sử dụng. Song, để loại trừ ảnh hưởng của những biến động bất thường tới độ chính xác của số liệu thì người ta thường sử dụng số liệu kế toán của hai hoặc ba năm liên tiếp.
Nếu thời hạn bồi thường lớn hơn 12 tháng thì số tiền bảo hiểm sẽ là lợi nhuận gộp của thời gian đó tức là số tiền bảo hiểm sẽ tăng lên một cách tỷ lệ (ví dụ thời hạn bồi thường là 12 tháng thì số tiền bảo hiểm sẽ bằng 1,5 lần lợi nhuận gộp hàng năm).
Tuy nhiên, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không chỉ bảo hiểm cho phần lợi nhuận bị mất so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường thêm cả phần lợi nhuận họ sẽ đạt được theo tỷ lệ tăng doanh thu bình quân. Do vậy để tránh sự đánh giá thấp số tiền bảo hiểm, người ta còn tính đến hệ số tăng doanh thu bình quân của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách so sánh nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở tính toán trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn kinh doanh sau cháy. Bằng cách đó người ta có thể tính được số tiền bảo hiểm. Trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thông thường, số tiền bảo hiểm sẽ giảm đi một khoản tương ứng với khoản tiền bồi thường cho tới khi đáo hạn hợp đồng. Khi đó, nếu người bảo hiểm muốn được bảo hiểm đầy đủ thì cần phải thảo luận với bên bảo hiểm để tiến hành các bước cần thiết để phục hồi số tiền bảo hiểm.
Để thấy rõ hơn vấn đề này chúng ta cùng xem xét ví dụ sau:
Giả sử vào ngày 1/12 trước khi kết thúc năm tài chính, chủ doanh nghiệp gửi đơn yêu cầu mua bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy đến doanh nghiệp bảo hiểm. Sau khi thảo luận hai bên cùng đi đến thống nhất một số điểm sau:
- Thời hạn bồi thường tối đa là 12 tháng.
- Chi phí hoạt động không được bảo hiểm bao gồm :
100% chi phí nguyên vật liệu
100% chi phí bao gói
100 % chi phí vận chuyển
100% các khoản nợ phải thu khó đòi
- Và người yêu cầu bảo hiểm còn yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm cho 80% chi phí thắp sáng và qua chi phí về điện.
Từ giả thiết trên ta có:
a,
Doanh thu 1.500.000
Giá trị hàng tồn cuối kì 36.000
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kì 9.000
Tổng cộng: 1.545.000
b, Chi phí hoạt động không được bảo hiểm
Giá trị hàng tồn đầu kì 40.000
Chi phí sản xuất dở dang đầu kì 10.000
Chi phí nguyên vật liệu 500.000
Chi phí bao gói 46.000
Chi phí chuyên chở 30.000
Nợ phải thu khó đòi 3.000
Tổng cộng: 629.000
Do người yêu cầu bảo hiểm yêu cầu người bảo hiểm, bảo hiểm cho 80% chi phí thắp sáng và chi phí đốt nóng, bỏ qua chi phí về điện nên trong phần chi phí hoạt động không được bảo hiểm phải tính thêm 20 % chi phí thắp sáng, và 100 % chi phí về điện. Hay ta có:
629.000
20% chi phí thắp sáng 2.000
100% chi phí về điện 10.000
Tổng cộng: 641.000
Từ a và b ta xác định được lợi nhuận gộp = ( a ) - ( b )
= 1.545.000 - 641.000
= 904.000
Song con số lợi nhuận gộp tính được ở trên chỉ là số lợi nhuận gộp của năm tài chính trong quá khứ. Để đảm bảo con số tính toán được là sát nhất với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể đạt được trong thực tế thì cần phải điều chỉnh con số đó với tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân và có tính tới yếu tố lạm phát.
Giả sử, tỷ lệ lạm phát tăng lên 10%, và doanh nghiệp hi vọng tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng doanh thu ở mức 10%.
Khi đó ta có:
Con số tính được 904.000
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu tính cho
năm bảo hiểm 10% 90.400
994.400
Tỷ lệ lạm phát 10% 90.400
Tổng cộng: 1.084.800
Giả sử vào ngày 31/12 năm thứ ba thì xảy ra hoả hoạn. Thời hạn bồi thường sẽ bắt đầu từ ngày 31/12/năm thứ tư và kéo dài cho tới khi kết quả hoạt động kinh doanh của người bảo hiểm trở về vị trí đáng lẽ ra đạt được nếu không xảy ra hoả hoạn hoặc tới khi hết thời hạn bồi thường tối đa. Do vậy, con số lợi nhuận gộp có thể cần phải được điều chỉnh cho tới hết thời hạn bồi thường tối đa.
Lúc này ta có số liệu như sau:
Con số tính được 904.000
Tỷ lệ lạm phát 10% 90.400
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu tính cho năm bảo hiểm 10% 90.400
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu tính cho thời hạn bồi thường 90.400
tối đa
Tổng cộng 1.175.200
Năm 1
Năm 2
Năm 3
Năm 4
Năm bảo hiểm
Thời hạn bồi thường
Thời điểm yêu cấu bảo hiểm
Thời điểm xảy ra hoả hoạn
904.000
994.400
1.084.800
1.175.200
(Nguồn: hình 7/28 – Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lý thuyết và thực hành)
1.175.200 là con số phỏng đoán, rằng trong năm bảo hiểm và năm tiếp sau tốc độ tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp được duy trì với mức 10 %. Số lợi nhuận gộp thu được sau khi điều chỉnh: 1.175.000 là số tiền bảo hiểm nhỏ nhất. Nếu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn thì rõ ràng trường hợp này sẽ rơi vào trường hợp bảo hiểm dưới giá trị, khi đó người được bảo hiểm phải tự chịu một phần thiệt hại dưới giá trị đó.
2.2.5. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người được bảo hiểm chọn (gọi là số tiền đăng kí). Để đăng kí một hợp đồng bảo hiểm thiệt hại kinh doanh sau cháy, người bảo hiểm phải thông báo một loạt số liệu về kế toán, đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện được một số năm trước đó. Căn cứ vào tài liệu này cộng thêm với lời khai báo , hai bên thoả thuận với nhau về số tiền bảo hiểm. Việc đi đến thoả thuận về số tiền bảo hiểm có ý nghĩa hết sức quan trọng cho công tác tính phí vì thực chất phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được xác định như sau:
Phí bảo hiểm = Số tiền bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh
sau cháy
Tỷ lệ phí bảo hiểm lại phụ thuộc vào nhân tố:
Rủi ro vật chất (thể hiện bằng tỷ lệ phí bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt)
Giai đoạn bồi thường
Rủi ro gián đoạn kinh doanh
Để xác định tỷ lệ phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy đầu tiên công ty bảo hiểm sẽ xác định tỷ lệ phí bảo hiểm chung bình của các hàng hoá, máy móc thiết bị được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm vật chất. Tỷ lệ phí này được gọi là tỷ lệ phí cơ bản. Trên cơ sở tỷ lệ phí này, người ta sẽ thực hiện một số điều chỉnh theo giai đoạn bồi thường nhằm tạo ra tỷ lệ phí bảo hiểm lợi nhuận gộp.
Nhân tố, rủi ro gián đoạn kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ tới tỷ lệ phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Rủi ro gián đoạn kinh doanh là các điều kiện thuận lợi hay bất lợi làm tăng hoặc làm cản trở qúa trình khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Các rủi ro đó có thể bao gồm: sự khó khăn trong việc thay thế máy mớc, trang thiết bị, nguyên vật liệu, đặc điểm ngành nghề kinh doanh… Theo đó, để tính đến các rủi ro gián đoạn này, người bảo hiểm sẽ tỷ lệ phí bảo hiểm lợi nhuận gộp ở trên.
2.2.6. Phương thức bồi thường.
Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách giải quyết tổn thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được bảo hiểm thường tham gia xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu được nếu như hoả hoạn hay một hiểm hoạ nào đó không xảy ra.
Bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy khác với bồi thường trong thiệt hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm trong các đơn bảo hiểm vật chất là đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trước khi xảy ra tổn thất, thì đối với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại không hoàn toàn như vậy. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ ngắn:
Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng Sinh, và hiện giờ hàng đang ở trong kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở nhà kho, phá huỷ gần hết số hàng phục vụ cho Giáng Sinh. Như vậy chúng ta sẽ thấy ngay một số nhân tố khiến hầu như không thể đưa người được bảo hiểm trở về vị trí tài chính giống như trươc khi xảy ra tổn thất. Thực tế hiển nhiên là, chẳng hạn trong vòng một tháng tới nhà sản xuất này hẳn sẽ hi vọng sẽ thu được phần lớn doanh thu của cả năm. Nhà sản xuất trong hiện tại không thể thực hiện được điều này và sẽ bỏ lỡ thị trường. Vì vậy việc đưa người sản xuất về vị trí tài chính như truớc khi tổn thất xảy ra sẽ không cung cấp được một số tiền để có thể bù đắp được tổn thất thực sự của nhà sản xuất. Do đó, đối với đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, bồi thường có thể có thể được coi là nỗ lực đưa người được bảo hiểm về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó phải có nếu không xảy ra hoả hoạn.
Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện qua doanh thu đạt được. Doanh thu thường được sử dụng làm căn cứ để xác định mức độ ảnh hưởng của hoả hoạn dẫn đến hoạt động kinh doanh bị gián đoạn hay ngưng trệ.
Doanh thu được chia làm ba bộ phận chính
Chi phí khả biến.
Chi phí bất biến.
Lợi nhuận ròng.
Khi hoạt động kinh doanh bị gián đoạn bởi một rủi ro được bảo hiểm, tất yếu kéo theo thiệt hại về doanh thu. Mức độ thiệt hại hậu quả mà doanh nghiệp phải gánh chịu chính là số thiệt hại về doanh thu. Tuy nhiên, do chi phí khả biến giảm tương ứng với sự giảm về doanh thu nên doanh nghiệp chỉ phải gánh chịu phần chi phí bất biến và lợi nhuận ròng . Theo phương pháp gia tăng:
Lợi nhuận gộp = Doanh thu Chi phí khả biến
Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị chi phí bất biến, 0,3 đơn vị chi phí khả biến và 0,1 đơn vị lợi nhuận ròng. Khi tổn thất xảy ra dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn thì chủ doanh nghiệp không phải gánh chịu tổn thất của cả một đơn vị doanh thu đó chỉ phải gánh chịu 0,4 đơn vị chi phí cố định và lợi nhuận ròng vì doanh thu giảm thì chi phí biến đổi cũng giảm tương ứng. Nếu chủ doanh nghiệp tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì người bảo hiểm chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị là đủ để có thể đưa người được bảo hiểm về vị trí tài chính mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không xảy ra.
Tuy nhiên, đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy không những đồng ý bồi thường cho phần lợi nhuận gộp thiệt hại mà còn bồi thường cả phần chi phí hoạt động gia tăng.
Chi phí hoạt động gia tăng là những khoản chi cần thiết, hợp lý nhằm tối thiểu số hoá thiệt hại về lợi nhuận gộp. Nếu hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng đầy đủ và khoản chi không vượt quá con số xác định bằng cách lấy tỷ lệ lợi nhuận gộp nhân với doanh số được phục hồi nhờ bỏ ra chi phí đó thì chi phí hoạt động gia tăng này sẽ được bảo hiểm toàn bộ. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy không giới hạn bất cứ khoản chi phí nào bởi không ai có thể dự đoán trước chính xác những khoản chi phí cần thiết, hợp lý cần phải thực hiện sau khi xảy ra tổn thất.
Đối với một khiếu nại bồi thường có giá trị lớn, khoản chi phí hoạt động gia tăng thường chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Khoản chi giúp chủ doanh nghiệp tối thiểu hoá thiệt hại lợi nhuận gộp hay chính là tối thiểu hoá số tiền bồi thường của người bảo hiểm.
Số tiền có thể được bồi thường theo đơn bảo hiểm này là
Đối với thiệt hại về lợi nhuận gộp:
Là số tiền được tính toán bằng cách lấy tỷ suất lợi nhuận gộp nhân với hiệu số giữa doanh thu có thể đạt được nếu không xảy ra tổn thất trừ đi doanh thu thực sự đạt được trong thời hạn bồi thường.
Thông thường tỷ lệ lợi nhuận gộp thường được giả định là không đổi qua các năm, đó là một giả định có thể chấp nhận được và tương đối hợp lý. Nhưng thực tế tỷ lệ này có thể thay đổi do ảnh hưởng của các sự kiện không lường trước được… Do đó trong đơn bảo hiểm thườngcó các điều khoản ghi chú thểm rằng trong một số trường hợp ngoại lệ tỷ lệ lợi nhuận gộp cũng như giá trị thiệt hại về doanh thu có thể được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.
Đối với chi phí hoạt động gia tăng:
Là khoản chi phí tăng thêm cần thiết và hợp lý nhằm tránh hoặc hạn chế việc giảm doanh thu mà nếu không có khoản chi này thì không tránh khỏi giảm doanh thu hoặc gia tăng hơn. Nhưng số tiền bồi thường cho phần chi phí này không vượt quá số tiền tính được bằng cách lấy tỷ suất lợi nhuận gộp nhân với doanh số được phục hồi nhờ bỏ ra chi phí đó.
Điều kiện được bảo hiểm.
Để được bảo hiểm người được bảo hiểm phải:
1. Trong trường hợp xảy ra một thiệt hại nào đó có thể sẽ được bồi thường theo đơn bảo hiểm này người được bảo hiểm sẽ:
Thông báo ngay cho nhà bảo hiểm.
Có trách nhiệm và được phép thực hiện những hành động hợp lý để giảm thiểu hoặc kiểm tra sự ngừng trệ hoặc ảnh hưởng có thể xảy ra cho doanh nghiệp để tránh và giảm thiểu tổn thất.
2. Trong trường hợp xảy ra thiệt hại nào đó có thể hoặc sẽ được bồi thường theo đơn bảo hiểm này người được bảo hiểm sẽ dùng chi phí của mình:
Cung cấp bằng văn bản các chi tiết khiếu nại cùng với chi tiết của các đơn bảo hiểm khác cho toàn bộ hoặc một phần của thiệt hại này.
Cung cấp cho nhà bảo hiểm sổ sách kế toán , chứng từ hoá đơn , bảng tổn kết tài sản và các tài liệu thông tin bằng chứng mà nhà bảo hiểm có thể kiểm tra hoặc điều chỉnh khiếu nại nếu cần.
Các bước tính số tiền bồi thường:
- Bước 1: Xác định tỷ lệ lợi nhuận gộp trong doanh thu (dựa vào báo cáo tài chính các năm trước).
- Bước 2: Xác định thiệt hại về doanh thu: So sánh doanh thu trong thời gian bồi thường với doanh thu trước khi xảy ra thiệt hại.
- Bước 3: Xác định thiệt hại về lợi nhuận gộp.
Thiệt hại về lợi = Tỷ lệ lợi nhuận gộp Thiệt hại
nhuận gộp về doanh thu
Thiệt hại = Doanh thu lẽ ra Doanh thu thực tế
về doanh thu thực hiện được thực hiện được
- Bước 4: Xác định phần chi phí hoạt động gia tăng cần thiết hợp lý nhằm ngăn ngừa hạn chế tổn thất xảy ra thêm.
- Bước 5: Xác định khoản chi phí tiết kiệm được(Tức là các khoản chi không phải tiếp tục trả do hậu quả của vụ cháy).
- Bước 6: Xác định số tiền bồi thường.
Số tiền = Giá trị thiệt + Chi phí hoạt -- Các khoản chi
bồi thường hại lợi nhuận gia tăng tiết kiệm được gộp
Ngoài ra, khi tham gia bảo hiểm dưới giá trị tức số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị xác định được bằng cách lấy tỷ lệ lợi nhuận gộp nhân với doanh thu hàng năm thì số tiền bảo hiểm cũng giảm đi một tỷ lệ tương ứng.
Để hiểu rõ hơn chúng ta hãy cùng xem xét một ví dụ sau:
Xét một đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thông thường, không có đặc điểm đặc biệt về nghành nghề kinh doanh, hoạt động kinh doanh diễn ra đều đặn trong năm.
Giả sử :
Đơn vị USD
Doanh thu năm trước : 1.000.000
Lợi nhuận gộp năm trước khi xảy ra hoả hoạn : 250.000
Doanh thu 12 tháng trước khi xảy ra hoả hoạn:
Tháng 9 : 120.000
Tháng 10 : 125.000
Tháng 11 : 130.000
Tháng 12 : 110.000
Tháng 1 : 65.000
Tháng 2 : 65.000
Tháng 3 : 50.000
Tháng 4 : 60.000
Tháng 5 : 65.000
Tháng 6 : 70.000
Tháng 7 : 85.000
Tháng 8 : 95.000
Tổng cộng: 1.040.000
Hoả hoạn xảy ra vào ngày 1/9 dẫn đến gián đoạn kinh doanh kéo dài 9 tháng dù thời hạn phục hồi tài sản thiệt hại chỉ trong vòng 3 tháng.
Doanh thu của 9 tháng sau cháy là :
Tháng 9 : 0
Tháng 10 : 50.000
Tháng 11 : 50.000
Tháng 12 : 65.000
Tháng 1 : 45.000
Tháng 2 : 45.000
Tháng 3 : 40.000
Tháng 4 : 45.000
Tháng 5 : 60.000
Tổng cộng: 400.000
Thời hạn bồi thường tối đa là : 12 tháng
Số tiền bảo hiểm cho lợi nhuận gộp ước tính đạt được
bao gồm cả lương trả cho công nhân viên là : 300.000
Chi phí hoạt động gia tăng doanh nghiệp phải chi ra nhằm
tối thiểu hóa thiệt hại doanh thu trong thời hạn bồi thường : 75.000
(bao gồm chi phí thuê nhà tạm trong khi tài sản của doanh nghiệp đang trong quá trình sửa chữa, tiền công trả cho công nhân làm thêm giờ và một số chi phí khác).
Trong thời hạn bồi thường chi phí tiết kiệm được : 27.500
(khoản tiền thuê tài sản tiết kiệm được do không thể thuê được tài sản).
Theo số liệu giả định ở trên, tổn thất được xác định như sau:
- Bước 1: Xác định tỷ lệ lợi nhuận gộp.
Lợi nhuận gộp được đảm bảo
Tỷ lệ lợi nhuận gộp =
Doanh thu
250
Tỷ lệ lợi nhuận gộp = = 0.25
100.000
- Bước 2: Xác định giá trị thiệt hại về doanh thu:
Tháng Doanh thu Doanh thu Thiệt hại về
trước cháy sau cháy doanh thu
Tháng 9 120.000 0 0
Tháng 10 125.00 50.000 75.000
Tháng 11 130.000 50.000 80.000
Tháng 12 110.000 65.000 45.000
Tháng 1 65.000 45.000 20.000
Tháng 2 65.000 45.000 20.000
Tháng 3 50.000 40.000 10.000
Tháng 4 60.000 45.000 15.000
Tháng 5 65.000 60.000 5.000
Tổng cộng 790.000 400.000 390.000
Nếu người được bảo hiểm cung cấp những bằng chứng thích đáng chứng minh rằng, do ảnh hưởng của lạm phát và tốc độ tăng trưởng doanh thu thì doanh thu có thể đạt được trong thời hạn bồi thường phải cao hơn doanh thu thu được tương ứng với thời hạn bồi thường.
Doanh thu lẽ ra thực hiện được ước tính là: 825.000
Doanh thu thực tế đạt được trong thời hạn bồi thường là: 400.000
Khi đó thiệt hại doanh thu thực tế không chỉ là 390.000 mà sẽ là kết quả của phép tính:
Thiệt hại = Doanh thu lẽ ra -- Doanh thu thực tế
về doanh thu thực hiện được thực hiện được
= 825.000 -- 400.000
= 425.000
- Bước 3: Xác định thiệt hại về lợi nhuận gộp.
Người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều nhất trí cho rằng không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ có sự thay đổi tỷ lệ lợi nhuận gộp hay nói cách khác tỷ lệ lợi nhuận gộp không thay đổi. Khi đó ta có:
Thiệt hại về lợi = Tỷ lệ lợi nhuận gộp Thiệt hại
nhuận gộp về doanh thu
= 0.25425.000
= 106.25
- Bước 4: Xác định chi phí hoạt động gia tăng được bảo hiểm.
Chi phí hoạt động gia tăng là: 75.000
Theo số liệu ban đầu ta có: Tỷ lệ lợi nhuận gộp doanh số được phục hồi nhờ bỏ ra chi phí này = 25% 300.000 = 75.000
Ta thấy chi phí hoạt động gia tăng là 75.000, không lớn hơn khoản lợi nhuận gộp được bảo hiểm nên khoản chi phí này được bảo hiểm đầy đủ.
- Bước 5: Chi phí tiết kiệm được: 27.500
- Bước 6: Xác định số tiền bồi thường
Số tiền = Giá trị thiệt + Chi phí hoạt -- Các khoản chi
bồi thường hại lợi nhuận gia tăng tiết kiệm được gộp
= 106.25 + 75.000 + 27.500
= 153.750
Bước tiếp theo chúng ta phải xác định xem đơn bảo hiểm trong trường hợp này là đủ giá trị hay không đủ giá trị.
Nếu lợi nhuận gộp lẽ ra đạt được trong thời hạn bồi thường tối đa bằng số tiền bảo hiểm thì đơn bảo hiểm đó là đơn bảo hiểm đủ giá trị. Số lợi nhuận gộp này được xác định theo công thức sau:
Lợi nhuận gộp lẽ = Tỷ lệ lợi nhuận gộp Doanh thu lẽ ra
ra đạt được trong thu được trong
thời hạn bồi thường thời hạn bồi
thường
Ta có:
Doanh thu 12 tháng trước khi xảy ra hoả hoạn : 1.040.000
Doanh thu lẽ ra thu được trong 12 tháng nếu hoạt
động kinh doanh diễn ra bình thường ( được xác định dựa
doanh thu 12 tháng trước khi xảy ra tổn thất có sự điều
chỉnh với tốc độ tăng trưởng doanh thu và ảnh hưởng
của lạm phát ) : 1.086.000
Lợi nhuận gộp lẽ ra đạt được = 0.25 1.086.000
trong thời hạn bồi thường
= 272.000
Theo giả sử ban đầu thì số tiền bảo hiểm là : 300.000 $
Đơn bảo hiểm này là đơn bảo hiểm hơn giá trị. Hay nói cách khác, số thiệt hại lợi nhuận gộp 153.750 $ sẽ được bồi thường 100%.
Khi khoản thiệt hại lợi nhuận gộp được nhà bảo hiểm bồi thường thì người được bảo hiểm được đưa về vị trí tài chính lẽ ra người đó phải có nếu không xảy ra hoả hoạn làm gián đoạn kinh doanh .
Có thể tóm tắt như sau:
Doanh thu lẽ ra đạt được 1.086.000
Tỷ lệ lợi nhuận gộp 25%
Lợi nhuận lẽ ra thực hiệnđược: 272.000
Doanh thu thực tế đạt được trong 12 tháng 665.000
Tháng 9 : 0
Tháng 10 : 50.000
Tháng 11 : 50.000
Tháng 12 : 65.000
Tháng 1 : 45.000
Tháng 2 : 45.000
Tháng 3 : 40.000
Tháng 4 : 45.000
Tháng 5 : 60.000
Tháng 6 : 70.000
Tháng 7 : 85.000
Tháng 8 : 95.000
665.000
Tỷ lệ lợi nhuận gộp 25%
Lợi nhuận gộp thực tế đạt được trong 12 tháng 166.250
(= 25% 665.000 )
+
Chi phí tiết kiệm được 27.500
-
Chi phí hoạt động gia tăng 75.000
Số lợi nhuận gộp thu được 193.750
trong 12 tháng
+
Số tiền được bồi thường theo hợp đồng 153.750
Tổng cộng: 272.500
Chương II : THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VIỆT HÀ NỘI.
1.1. Giới thiệu chung về Bảo Việt Hà Nội.
Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam gọi tắt là Bảo Việt (tiền thân là công ty Bảo Hiểm Việt Nam) được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17/2/1964 của thủ tướng chính phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965. Bảo Việt là doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh bảo hiểm, có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp tham gia của các cá nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh.
Công ty Bảo Hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội), được thành lập từ năm 1980 theo quyết định số 1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của bộ Tài Chính có tên gọi là chi nhánh bảo hiểm Hà Nội và trực thuộc Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Bảo Việt Hà Nội là tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố, trụ sở đặt tại số 7- Lý Thường Kiệt – Hà Nội.
Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước có những bước chuyển mình căn bản, đặt bảo hiểm thương mại trước những yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 17/2/1989, Bộ Tài Chính ra quyết định số 27/TCQĐ-TCCB chuyển chi nhánh bảo hiểm Hà Nội thành công ty bảo hiểm Hà Nội ( gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội ), có trụ sở tại 15C - Trần Khánh Dư – Hà Nội.
Trải qua hơn 20 năm hoạt động liên tục, công ty Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. Ban đầu thành lập, công ty chỉ có vẻn vẹn 10 cán bộ với một phòng nhỏ làm trụ sở chính, tới nay Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế lớn mạnh với đội ngũ hàng trăm cán bộ bảo hiểm, có trụ sở chính bề thế khang trang, thành lập văn phòng trực thuộc tại tất cả các quận huyện trên địa bàn Hà Nội cùng đội ngũ cộng tác viên đại lý phủ kín trên địa bàn dân cư thành phố thành phố. Sẵng sàng đáp ứng yêu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, trở thành một đơn vị chủ lực của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
1.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội
Hiện nay cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội:
(Nguồn Bảo Việt Hà Nội )
Ban giám đốc
Các phòng chức năng
Các phòng nghiệp vụ
Phòng tổng hợp
P . Hành chính - quản lý
P. Kế toán – tài chính
Phòng Marketing
P. Giám định - Bồi thường
Phòng tin học
Phòng cháy - rủi ro hỗn hợp
Phòng rủi ro kỹ thuật
Phòng phi hàng hải
Phòng quốc phòng
14 phòng đại diện tại các quận, huyện
Phòng hàng hải
P. quản lý đại lý
Như vậy, tại công ty Bảo Việt Hà Nội, giám đốc là người điều hành cao nhất về toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc. Mỗi phó giám đốc quản lý một số phòng trên công ty và một số phòng đại diện trực thuộc.
Cơ cấu văn phòng Bảo Việt Hà Nội hiện nay được chia làm hai bộ phận:
Thứ nhất là: Bao gồm 7 phòng chức năng (phòng tổng hợp, phòng hành chính quản lý, phòng giám định bồi thường …) và 5 phòng nghiệp vụ (phòng hàng hải, phòng phi hàng hải, phòng quốc phòng …) tại trụ sở công ty. Trong đó, năm phòng nghiệp vụ cùng với phòng marketing có nhiệm vụ trực tiếp tiến hành triển khai các nghiệp vụ, giải quyết các khiếu nại bồi thường thuộc phân cấp. Ngoài ra, các phòng này còn có nhiệm vụ giúp đỡ các phòng đại diện tại các quận huyện trong quan hệ với khách hàng, cân nhắc chấp nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng, xử lý khiếu nại, giám định bồi thường thuộc phân cấp.
Các phòng nghiệp vụ và các phòng chức năng có quan hệ mật thiết với nhau và cùng phối hợp với ban giám đốc thực hiện quản lý, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, đưa ra các quy định nghiệp vụ, đề ra các biện pháp đối phó kịp thời với tình hình cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai là: 14 phòng đại diện tại tất cả các quận huyện, nhiệm vụ của các phòng này là triển khai phát triển địa bàn. Sang tới 2004, được sự cho phép của Tổng công ty, Bảo Việt Hà Nội không lấy tên quận huyện làm tên phòng mà chuyển sang đánh thứ tự 1,2,3… ví dụ: phòng 1 là phòng Hoàn Kiếm, phòng 2 là phòng Ba Đình …nhằm nâng cao tính chủ động kinh doanh của các phòng tạo điều kiện thuận lợi cho các phòng trong khai thác trên địa bàn.
Ngoài ra, công ty còn có một hệ thống đại lý cộng tác viên rộng khắp được quản lý thống nhất bởi phòng quản lý đại lý.
Với mô hình này, việc quản lý chung của Bảo Việt Hà Nội khá chặt chẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Trong vài năm trở lại đây, kinh tế xã hội cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng tiếp tục phát triển ổn định. Đây là một nhân tố thuận lợi cho công tác khai thác kinh doanh bảo hiểm của bảo hiểm Việt Nam cũng như của Bảo Việt Hà Nội . Hơn thế Bảo Việt Hà Nội còn nhận được sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ của lãnh đạo Tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của các phòng ban thuộc Tổng công ty, cán bộ công nhân viên bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội từng bước tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động cạnh tranh. Và trong bất kì hoàn cảnh nào, cán bộ công nhân viên của công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Tổng công ty và nhà nước giao phó.
Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam có sự thay đổi cơ bản về bản chất, đó là do việc ban hành nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 và nghị định 74/CP ngày14/6/1997 đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Hoạt động kinh doanh của công ty do đó cũng gặp nhiều khó khăn hơn do mức độ cạnh tranh của thị trường bảo hiểm cao hơn những năm trước. Hà Nội – trái tim của cả nước, đầu não kinh tế chính trị quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá – khoa học – giáo dục –kinh tế và giao dịch quốc tế, một trong những thành phố có các hoạt động kinh doanh diễn ra sôi động nhất. Thủ đô Hà Nội là một thị trường giàu tiềm năng và cơ hội để phát triển dịch vụ bảo hiểm. Hiện, trên địa bàn Hà Nội có 13 trên tổng số 14 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia và chú trọng đầu tư, phát triển. Bảo Việt Hà Nội không những phải cạnh tranh với những công ty bảo hiểm trên thị trường khác về tỷ lệ phí, chi phí kinh doanh mà còn phải cạnh tranh cả về những yếu tố phục vụ khác. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm nước ngoài là cho tính cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trước đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt tất yếu dẫn tới việc giảm phí bảo hiểm hay phải chia xẻ phí do đồng bảo hiểm, đặc biệt là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm. Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1999-2003 thể hiện bảng số liệu 1 dưới đây:
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Doanh thu (Trđ )
74.886
75.711
82.570
95.100
131.21
Tốc độ trưởng doanh thu (%)
-
1.01
9.1
15
37.97
Tỷ lệ bồi thường (%)
31.5
37.35
39.35
50.41
32.25
Thu nhập bình quân
cán bộ/ tháng (Tr.đ/Tháng)
1.690
1.850
2.150
2.300
2.750
(Nguồn số liệu : Phòng Marketing –Bảo Việt Hà Nội )
Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội năm 1999 là 74886 triệu đồng, năm 2000 và năm 2001 doanh thu có tăng nhưng chưa nhiều với doanh thu lần lượt là75.711 và 82570 triệu đồng trong khi như ta biết thì năm 1998 doanh thu phí của Bảo Việt Hà Nội là 87.650 triệu đồng. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do có sự tham gia và mở rộng của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ như VIA (1996), UIC (1997), PTI (1998). Hơn nữa trong vài năm trở lại đây tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư trên thị trường Hà Nội còn chậm, gây ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Đứng trước những khó khăn thách thức trên Bảo Việt Hà Nội không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu và luôn nhanh nhạy trong kinh doanh, có sự kết hợp linh hoạt các chính sách của chính phủ , các quy định của Tổng công ty với các biện pháp của mình để có thể đứng vững và tăng trưởng cao. Một trong những biện pháp quan trọng mà Bảo Việt Hà Nội đang áp dụng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo khả năng cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh doanh. Theo phương thức mới này công ty sẽ giao khoán cụ thể hoạt động kinh doanh cho từng phòng và các phòng phải có nhiệm vụ hỗ trợ nhau để thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh đó.
Kết quả là sang tới năm 2002 doanh thu phí đã đạt được 95.100 triệu đồng và 2003 là 131.214 triệu đồng bằng 113,2% mức kế hoạch mà Tổng công ty giao, tăng trưởng xấp xỉ 38% so với năm 2002. Điều này, chứng tỏ công ty đang từng bước đi đúng hướng dần đạt được những mục tiêu đã đề ra, thích nghi với môi trường kinh doanh mới.
Có được kết qủa này một phần là nhờ vào sự quan tâm chỉ đạo và ủng hộ giúp đỡ của lãnh đạo Tổng công ty, lãnh đạo các cơ quan ban nghành thành phố. Phần còn lại là kết qủa từ chính nỗ lực của cán bộ công nhân viên Bảo Việt cũng như kết quả từ chất lượng dịch vụ mà Bảo Việt Hà Nội dành cho khách hàng của mình. Bảo Việt Hà Nội đang dần tạo cho mình một phong cách riêng một nét riêng:
“Nền nếp khoa học trong kinh doanh, thân thiện coi trọng quyền lợi của khách hàng”.
Với phương châm: “Phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình” và “Đáp ứng cái khách hàng cần chứ không phải những gì mình có”. Bảo Việt Hà Nội không ngừng đổi mới phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Vì vậy, Bảo Việt Hà Nội vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.
Công tác giám định bồi thường của Bảo Việt Hà Nội cũng có những bước cải thiện đáng kể, với sự giúp đỡ của Tổng công ty, Bảo Việt Hà Nội đã giải quyết tôt các khiếu nại bồi thường thuộc phân cấp nhanh chóng, chính xác góp phần nâng cao uy tín với khách hàng.
Các mặt hoạt động khác như: công tác tổng hợp, công tác đào tạo, công tác tuyên truyền quảng cáo, công tác kế toán- tài chính, công tác tin học… cũng từng bước được cải thiện đáng kể.
II.THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠi BẢO VIỆT HÀ NỘI (1999-2003)
2.1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháytại Bảo Việt Hà Nội
Bảo hiểm hoả hoạn là nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của nghành bảo hiểm. Hiện nay, trên thế giới, bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và trở thành nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống với số phí bảo hiểm hàng năm thu được rất cao. Đơn cử như ở Nhật Bản, doanh thu phí bảo hiểm hoả hoạn thường vào khoảng 10 tỷ USD chiếm khoảng 15,5% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ. Nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà Nội nói riêng thì mãi cho tới ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay còn gọi là bảo hiểm hoả hoạn) mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06/TC-QĐ của bộ Tài Chính. Ngay sau khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nhanh chóng khẳng định ngay vai trò quan trọng của nó quả doanh thu phí thu về hàng năm đều tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn công ty. Như năm 2003 doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm này đạt 11,039 tỷ đồng chiếm gần 8,5% tổng doanh thu.
Bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm vi của bảo hiểm cháy nhưng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc giúp đỡ người được bảo hiểm nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh so với bảo hiểm hoả hoạn.
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời nhằm khắc phục những mặt còn thiếu, còn hạn chế của bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt. Tuy nhiên, thực tế nghiệp vụ bảo hiểm này không ra đời cùng thời điểm với bảo hiểm cháy bắt đầu triển khai mà phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy mới bắt đầu được đưa vào thử nghiệm… Hiện nay, nghiệp vụ bảo hiểm này được triển khai trên cơ sở mẫu đơn của Anh. Từ khi đưa vào triển khai doanh thu phí cũng như số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí với khách hàng chưa nhiều chưa đáp ứng được quy luật số lớn.
Năm 1996 sau 2 năm triển khai số đơn khai thác được mới chỉ là 8 đơn. Đến năm 2003, sau gần 10 năm triển khai số đơn khai thác được coi là nhiều nhât cũng mới chỉ dừng lại ở con số 102 đơn, con số còn quá ư khiêm tốn so với số đơn khai thác được của các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm vật chất ô tô có số đơn bảo hiểm khai thác được trong năm 2003 là gần 8000 đơn hay nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là trên 25.000 đơn.
2.2. Thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng bao gồm các khâu truyền thống:
Khâu khai thác
Khâu giám định - bồi thường
Khâu đề phòng và hạn chế tổn thất
Khâu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh
Bốn khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và bổ xung cho nhau, chỉ cần một trong bốn khâu hoạt động kém hiệu quả thì sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới cả quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do đó để có thể tìm ra được biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hoạt động kinh doanh một nghiệp vụ nào đó chúng ta cần phải phân tích từng khâu của nghiệp vụ đó. Trong phần này, từng khâu của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy của Bảo Việt Hà Nội sẽ được xem xét cụ thể.
2.2.1 Khâu khai thác.
Khai thác là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh bảo hiểm, nó có ý nghĩa quan quyết định tới sự thành bại đối với một công ty bảo hiểm nói chung hay một nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng.
Nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nguyên tắc số đông bù số ít. Có làm tốt khâu khai thác mới đảm bảo nguyên tắc này và đảm bảo hình thành được quỹ bảo hiểm đủ lớn. Do vậy, khâu khai thác là khâu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với công ty. Khai thác được nhiều thì doanh thu phí bảo hiểm gốc của công ty càng tăng nhanh kéo theo đó là sự tăng lên của lợi nhuận, cũng như mức trích lập dự phòng lớn hơn đảm bảo cho công ty phát triển ổn định kinh doanh lâu dài.
Như vậy, ta có thể thẩy khâu khai thác có vai trò rất quan trọng, không thể thiếu trong việc phân tích hoạt động kinh tế một nghiệp vụ. Quy trình khai thác bảo hiểm bao gồm việc tuyên truyền quảng cáo, tiếp cận khách hàng, đánh giá rủi ro được bảo hiểm trên cơ sở đó ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo hiểm, xác định điều khoản, phạm vi bảo hiểm, tính toán mức phí bảo hiểm thích hợp, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm …
Nhiệm vụ đầu tiên của khai thác viên bảo hiểm, sau khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm của người yêu cầu bảo hiểm là đánh giá các nguy cơ có liên quan đến rủi ro được yêu cầu bảo hiểm, trong đó cần chú ý tới các nguy cơ vật chất (các yếu tố có thể làm tăng tần số và mức độ nghiêm trọng của hiểm hoạ yêu cầu bảo hiểm gắn liền với đặc điểm của đối tượng được yêu cầu bảo hiểm) và các nguy cơ tinh thần (là các yếu tố có thể làm tăng tần số và mức độ nghiêm trọng của hiểm hoạ được yêu cầu bảo hiểm gắn liền với thái độ của người yêu cầu bảo hiểm hay người được bảo hiểm).
Tuy bảo hiểm gián cháy và bảo hiểm đoạn kinh doanh sau cháy có chung rủi ro được bảo hiểm nhưng cơ sở đánh giá rủi ro trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại có một số điểm khác so với bảo hiểm cháy. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, cần xét tới hai loại rủi ro: Rủi ro vật chất và rủi ro gián đoạn kinh doanh.
Rủi ro vật chất là những rủi ro xảy ra cháy, rủi ro này được đánh giá căn cứ vào nguy có thể xảy ra cháy. Bao gồm những nguy hiểm của quá trình sản xuất như: việc sử dụng các dung môi dễ cháy, sơn và các máy móc chạy ở tốc độ cao, các nguồn ánh sáng nhân tạo hay việc sử dụng điện …
Nhưng không nhất thiết rằng rủi ro cháy càng cao thì rủi ro gián đoạn kinh doanh càng cao ví dụ như rủi ro gián đoạn kinh doanh sẽ thấp nếu quy trình sản xuất kinh doanh đơn giản dễ dàng thực hiện trong những nhà xưởng tạm, nguyên vật liệt dễ kiếm …
Rủi ro gián đoạn kinh doanh được hiểu là tính nhậy cảm của hoạt động sản xuất kinh doanh với gián đoạn kinh doanh.
Bảo hiểm cháy và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là hai nghiệp vụ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy ra đời nhằm khắc phục những mặt còn thiếu, những mặt còn hạn chế của bảo hiểm cháy. Trên thực tế, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy được coi là nghiệp vụ bảo hiểm mới tại Bảo Việt Hà Nội. Từ khi triển khai đến nay, số đơn và số phí thu được của nghiệp vụ bảo hiểm này còn rất khiêm tốn so với các nghiệp vụ đang triển khai khác. Điều này có thể thấy qua số liệu bảng 2.
Bảng 2: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt –Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
1. Số đơn bảo hiểm cấp
Tốc độ tăng (%)
42
--
51
121,4
70
137,25
81
115,7
102
125,9
2. Số tiền bảo hiểm
Tỷ lệ tăng (%)
366.700
-
433.300
118.16
549.876
126,9
636276
115,7
801.265
125,9
3.Doanh thu phí bảo hiểm (tr.đ)
Tỷ lệ tăng (%)
505
--
650
128,7
824
126,8
952
115,5
1224
128,8
4. Số tiền bảo hiểm bình
quân / 1 hợp đồng (tr.đ)
8730,95
8490,169
7855,256
7855,256
7856,519
5. Số phí bảo hiểm bình quân / 1 hợp đồng (tr.đ)
12,024
12,745
11,776
11,756
11,996
( Nguồn số liệu : Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp Bảo Việt –Hà Nội )
Qua bảng số liệu trên ta thấy, số hợp đồng bảo hiểm ký được và số phí bảo hiểm thu được của nghiệp vụ bảo hiểm này còn chưa nhiều, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng kết quả đó cũng đưa ra một dấu hiệu khả quan cho thấy rằng đây là một nghiệp vụ giàu tiềm năng phát triển trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng.
Trước tiên là về số đơn bảo hiểm khai thác được:
- Năm 1999, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho 42 đơn vị thì đến năm 2001 số đơn vị tham gia bảo hiểm đã tăng lên con số 70.
- Năm 2003 số đơn bảo hiểm khai thác được đã tăng lên gấp hơn 2 lần so với năm 1999 lên 102 đơn
Thực tế là từ khi triển khai tới nay, hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài hay một số ít các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn nhà hàng lớn tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này nhưng còn chưa nhiều. Phần lớn các doanh nghiệp, cơ quan khác chỉ tham gia bảo hiểm cháy.
Như năm 1999 số đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt khai thác được là 382 đơn trong khi số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khai thác được chỉ khiêm tốn với con số 42 đơn.
Hay như năm 2003 được đánh giá là năm có số hợp đồng khai thác được cao nhất thì cũng chỉ dừng lại ở con số 102 hợp đồng trong khi số hợp đồng bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt khai thác được là hợp đồng . Số hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chỉ chiếm chưa tới 20% trong tổng số hợp đồng bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt khai thác được.
Tuy số đơn bảo hiểm năm sau luôn cao hơn năm trước song chưa nhiều, có thể nói nghiệp vụ này ngày càng phát triển. Song đây là nghiệp vụ bảo hiểm mới, số đơn khai thác được chưa nhiều nên khó có thể đưa ra một kết luận chính xác.
Về số tiền bảo hiểm, qua số liệu bảng 2 ta thấy số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng tăng lên, phản ánh đúng với số tăng lên của các đơn vị tham gia bảo hiểm. Cụ thể:
- Năm 1999 số tiền bảo hiểm là 336.700 triệu thì năm 2000 số tiền bảo hiểm là 433.300 triệu đồng tăng lên so với năm 1999 là 96.600 triệu đồng với tốc độ tăng là 18,16% .
- Năm 2001 số tiền bảo hiểm là 549.867 triệu đồng tăng lên so với năm 2000 là 116.567 triệu đồng với tỷ lệ là 126,9 %.
- Năm 2003 là năm có số tiền bảo hiểm tăng mạnh nhất lên tới 801.265 triệu đồng tăng so với 2002 là 164.989 với tỷ lệ tăng là 125,9%.
Tuy nhiên, chỉ tiêu số tiền bảo hiểm bình quân / một hợp đồng lại có xu hướng giảm nhẹ, điều này chứng tỏ công ty chưa khai thác được những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn. Đây là một hạn chế mà công ty cần khắc phục.
Về doanh thu phí bảo hiểm: Do số đơn vị tham gia bảo hiểm và số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ tăng, tất yếu kéo theo sự tăng lên của doanh thu phí. Doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng qua các năm đây là một xu hướng phát triển tốt.
Năm 1999 doanh thu của nghiệp vụ này mới chỉ là 505 triệu thì tới năm 2000 doanh thu phí tăng lên của nghiệp vụ này tăng lên là 650 triệu tăng so với năm 1999 là 145 triệu với tốc độ tăng tương ứng là 28,7% .
Năm 2003, doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ tăng mạnh lên con số 1.224 triệu tăng so với năm 2002 là 272 triệu tương ứng với tốc độ tăng 28,8 % , năm 2003 được đánh giá là năm có doanh thu phí, số hợp đồng là cao nhất. Nguyên nhân của điều này phần nhiều là do số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng, họ vốn đã quen với tập quán tham gia bảo hiểm nên khi vào Việt Nam triển khai hoạt động kinh doanh họ rất mong muốn được bảo hiểm cho rủi ro gián đoạn kinh doanh. Do đó khi tham gia bảo hiểm cháy, họ đã yêu cầu Bảo Việt Hà Nội bán kèm cho họ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Phần còn lại là do một vài năm trở lại đây Bảo Việt Hà Nội đã chú ý hơn trong công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này.
Song, chỉ tiêu doanh thu phí bảo hiểm bình quân trên một hợp đồng lại có xu hướng giảm nhẹ, là do số tiền bảo hiểm bình quân trên một hợp đồng giảm, đó thực sự là một điểm hạn chế mà Bảo Việt Hà Nội cần khắc phục trong thời gian tới.
Thực tế là từ, khi triển khai tới nay, hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài hay một số ít các doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn nhà hàng lớn tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này nhưng còn rất ít. Phần lớn được cấp thông qua môi giới hoặc do yêu cầu của khách hàng. Điều này dẫn tới số đơn và số phí bảo hiểm thu về còn chưa nhiều, chưa thực sự đáp ứng được quy luật số lớn cũng như chưa phát huy hết được tác dụng và sư cần thiết khách quan của nghiệp vụ bảo hiểm này. Điều này có thể thấy rõ qua số liệu bảng 3.
Bảng 3:Tỷ trọng doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
1. Tổng doanh thu của toàn công ty (Tr.đ).
74.866
75.711
82.570
95.100
131.21
2. Doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy (Tr.đ).
505
650
824
952
1224
3. Doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp trong nước (Tr.đ).
24
38
23
42
68
4. Doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm ký với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (Tr.đ).
481
612
801
910
1056
5. Doanh thu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy / tổng doanh thu của toàn công ty (%).
0,68
0,86
0,998
1
0,933
6. Doanh thu từ các hợp đồng ký với doanh nghiệp trong nước / doanh thu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy (%).
4,75
5,85
2,79
4,41
5,56
7. Doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài / doanh thu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy (%).
95,24
94,15
97.21
95,59
94,44
( Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp – Bảo Việt Hà Nội )
Qua số liệu bảng 3, ta thấy doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chiếm một tỷ lệ khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội.
- Năm 1999, sau 5 năm triển khai doanh thu phí của nghiệp vụ mới chỉ chiếm có 0.68% doanh thu của toàn công ty. Một con số quá ư là khiêm tốn.
- Năm 2002 là năm có tỷ lệ doanh thu cao nhất thì cũng chỉ chiếm có 1.001 % số phí thu được là với số phí thu được là 952 triệu đồng trên tổng số 81 hợp đồng khai thác được. Trong khi doanh thu phí của nghiệp vụ bảo hiểm cháy trung bình chiếm khoảng 8.5 - 9% doanh thu toàn công ty với số hợp đồng khai thác được trung bình trong năm năm gần đây là hơn 300 hợp đồng / 1 năm . So với số thu từ nghiệp vụ bảo hiểm cháy thì những con số thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thực sự là khiêm tốn.
Bên cạnh dấu hiệu khả quan là doanh thu phí có xu hướng ngày càng tăng theo các năm triển khai song con số tăng lên chủ yếu phụ thuộc vào nhân tố bên ngoài là chủ yếu. Hầu hết như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hay một số doanh nghiệp chuyên kinh doanh khách sạn nhà hàng tham gia , nhưng chưa nhiều. Phần lớn các hợp đồng khai thác được là thông qua môi giới hoặc do phía khách hàng tự yêu cầu khi tham gia bảo hiểm cháy của, còn thực tế là Bảo Việt Hà Nội gần như để ngỏ hoàn toàn thị trường các doanh nghiệp trong nước. Do đó, sau gần 10 năm triển khai nghiệp vụ này số lượng hợp đồng cũng như doanh thu phí bảo hiểm thu được với các đối tác trong nước quá ư là khiêm tốn. Tỷ trọng doanh thu từ các hợp đồng bảo hiểm kí với các doanh nghiệp nước ngoài thường chiếm hơn 90% doanh thu thu về từ nghiệp vụ.
Năm 1999 doanh thu phí thu được từ các hợp đồng kí với các doanh nghiệp trong nước là 24 triệu chiếm 4,75% trong tổng số phí thu được của nghiệp vụ trong khi số phí thu được từ các hợp đồng kí với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 95,24% doanh thu phí của nghiệp vụ tương đương với số phí thu được là 481 triệu.
Năm 2001 doanh thu phí từ các hợp đồng bảo hiểm kí với các doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài chiếm tới 97,21 % tổng phí nghiệp vụ thu được
Năm 2003 có thể coi là năm đỉnh điểm về doanh thu phí từ các hợp đồng bảo hiểm ký với doanh nghiệp trong nước, nhưng doanh thu cũng chỉ dừng lại ở con số 68 triệu đồng chỉ chiếm chưa tới 6% doanh thu thu về từ nghiệp vụ, một con số không có ý nghĩa gì đối với hoạt động kinh doanh của một công ty lớn như Bảo Việt Hà Nội.
Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng doanh thu nghiệp vụ này có xu hướng ngày càng tăng. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng lắp đặt đang có xu hướng giảm dần doanh thu thì do phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày một gay gắt của các công ty bảo hiểm khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu ngày càng tăng qua các năm triển khai. Điều này chúng tỏ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội trong tương lai. Bởi nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ bảo hiểm chưa được chú trọng ở thị trường bảo hiểm Việt Nam, phần lớn các công ty bảo hiểm khác chưa quan tâm chú ý tới nghiệp vụ bảo hiểm này nên Bảo Việt Hà Nội có thuận lợi lớn về yếu tố cạnh tranh.
Vậy tại sao, tại các nước phát triển, người dân lại có thói quen mua bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy và doanh thu của nghiệp vụ này lại chiếm một tỷ lệ cao trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài? Đơn cử như tại công ty bảo hiểm “Berkshire (Mỹ) tỷ trọng doanh thu của bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy chiếm tới 9% trong tổng doanh thu các nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai”, tương đương với tỷ trọng doanh thu của các nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn ở Bảo Việt hiện nay như nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm cháy, hay như nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. Sở dĩ một nghiệp vụ bảo hiểm rất được coi trọng và có doanh thu cao ở các nước phát triển như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại gặp khó khăn ở thị trường Việt Nam như vậy là do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủquan.
Các nguyên nhân khách quan:
- Ngành bảo hiểm nói chung là một ngành còn khá mới ở Việt Nam khi đem so sánh với các ngành tài chính khác. Người dân Việt Nam hầu hết chưa biết sâu về bảo hiểm cũng như chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm Bởi thế, việc khai thác bảo hiểm nói chung đã gặp không ít khó khăn thì việc khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khó, trừu tượng như nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy còn gặp nhiều khó khăn hơn. Do đây là nghiệp vụ bảo hiểm khó với đặc điểm riêng có: là loại hình bảo hiểm phụ thuộc vào một loại hình bảo hiểm khác, mà cụ thể ở đây là loại hình bảo hiểm cháy.
- Không những thế ở Việt Nam hiện nay, tài liệu tham khảo hướng dẫn về nghiệp vụ bảo hiểm này hầu như không có, nếu có thì chỉ có những tài liệu nước ngoài chưa được dịch ra. Bởi thế, ngay cả cán bộ làm việc lâu năm trong ngành bảo hiểm cũng không tránh khỏi lúng túng khi phải tiếp xúc với nghiệp vụ bảo hiểm này. Do đó,việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo Việt Hà Nội phần nhiều là dựa trên kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác, nên chắc chắn khó tránh được những khó khăn nhất định trong quá trình khai thác. Bởi bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có những đặc điểm riêng có mà các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác không có.
- Nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ mang tính trừu tượng cao, khó triển khai. Còn nhiều khó khăn khúc mắc trong trong việc tính toán số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường. Thời gian giải quyết khiếu nại bồi thường kéo dài vì thiệt hại lợi nhuận gộp chỉ xác định được khi hết thời hạn bồi thường – khi doanh nghiệp trở về vị trí tài chính lẽ ra doanh nghiệp có thể có nếu không xảy ra hoả hoạn.
- Chủ doanh nghiệp chưa thực sự hiểu biết sâu về nghiệp vụ bảo hiểm này , chưa ý thức được sự cần thiết khách quan của nghiệp vụ bảo hiểm này. Nên họ không tham gia.
- Chi phí mua bảo hiểm sẽ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh , do vậy việc mua bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vậy họ không muốn tham gia, nếu tham gia thường chỉ tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc ở mức tối thiểu.
Các nguyên nhân chủ quan:
- Nghiệp vụ bảo hiểm này, ở Bảo Việt Hà Nội không được coi ngang hàng với các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác, do vậy nên công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được chú trọng. Không những thế, cán bộ công nhân viên cũng không chủ động tiếp cận khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Thậm chí chưa biết tận dụng hết các cơ hội khai thác có thể có trong khai thác. Thêm vào đó công tác chăm sóc khách hàng cũng chưa được quan tâm đúng mức nên có hiện tượng khách hàng năm trước tham gia nhưng năm sau không tiếp tục tái tụng mà lại tham gia ở một công ty bảo hiểm khác. Nói cách khác khâu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy hầu như không hề hoạt động. Dẫn tới nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy trở lên quá xa lạ đối với các chủ doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Phần lớn các cơ quan, doanh nghiệp còn chưa biết gì nhiều về nghiệp vụ bảo hiểm này cũng như chưa thấy được lợi ích của mình khi tham gia, do vậy họ không tham gia. Thực tế là các đơn bảo hiểm khai thác được là do khách hàng tự yêu cầu khi tham gia bảo hiểm cháy hoặc thông qua môi giới.
- Trình độ hạn chế của cán bộ công nhân viên trong ngành bảo hiểm, đặc biệt là cán bộ khai thác. Hầu hết, đều không được qua đào tạo một cách bài bản về bảo hiểm phần lớn làm việc dựa trên kinh nghiệm là chính. Dẫn tới khó tránh được việc giải thích chưa chính xác các điều khoản bảo hiểm cho khách hàng. Tất yếu dẫn tới khó khăn không thể lường trước trong khi thực hiện bất cứ khâu nào tiếp theo của quá trình triển khai nghiệp vụ.
Mặc dù vấp phải những khó khăn như vậy nhưng, qua số liệu bảng trên, chúng ta không thể phủ nhận được rằng qua các năm triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng có sự tăng trưởng về số đơn vị tham gia cũng nhu doanh thu phí bảo hiểm. Điều này, thể hiện rằng bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy dần thu hút được nhiều khách hàng hơn. Và trên đây chỉ là những số liệu bước đầu và chắc chắn đây là một nghiệp vụ giầu tiềm năng khai thác trong tương lai. Bởi nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ bảo hiểm chưa được chú trọng ở thị trường bảo hiểm Việt Nam, phần lớn các công ty bảo hiểm khác chưa quan tâm chú ý tới nghiệp vụ bảo hiểm này nên Bảo Việt Hà Nội có thuận lợi lớn về yếu tố cạnh tranh. Không những thế Bảo Việt Hà Nội còn có lợi thế hơn hẳn các công ty bảo hiểm khác về kinh nghiệm và uy tín. Điều này có thể thấy thông qua việc khách hàng trực tiếp yêu cầu được mua bảo hiểm và các nhà môi giới chọn Bảo Việt Hà Nội chứ không phải công ty bảo hiểm khác đểgiới thiệu cho khách hàng của họ.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả đã đề ra, yêu cầu đặt ra trước mắt đối với Bảo Việt Hà Nội trong tình hình cạnh tranh ngày càng tăng như hiện nay không chỉ dừng lại ở việc củng cố và hoàn thiện các nghiệp vụ có doanh thu cao mà còn cần tích cực tìm cách phát triển các nghiệp vụ khó khai thác như bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy.
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Mục đích của bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc bồi thường, giúp ổn định tài chính cho người bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các thiệt hại cũng như hậu quả của chúng.
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất là một khâu quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của bất cứ nghiệp vụ bảo hiểm nào. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất không những giúp cho công ty bảo hiểm có thể tránh được những vụ bồi thường cho thiệt hại của những rủi ro có thể tránh được mà còn là một phương thức hữu hiệu để cho người dân biết tới bảo hiểm.
Tại Bảo Việt Hà Nội, trên cơ sở số phí thu được hàng năm công ty tiến hành trích mức chi đề phòng hạn chế tổn thất. Định mức chi cho đề phòng hạn tổn chất cho tất cả các nghiệp vụ tại Bảo Việt Hà Nội là 0,37% trên tổng phí thu. Khoản chi theo lý thuyết này sẽ được chi cho các mục đích như: chi hỗ trợ kinh phí, chi tuyên truyền quảng cáo, chi hội nghị khách hàng …
Chi hỗ trợ kinh phí được dùng để chi cho việc mua các phương tiện tối cần cho công tác phòng cháy chữa cháy như: Bình cứư hoả, còi báo động, chi cho công tác luyện tập của đội chữa cháy không chuyên ở các doanh nghiệp, cơ quan, chi cho việc thiết lập các biển báo cấm lửa.
Chi tuyên truyền quảng cáo được dùng vào các khoản như: Chi trả cho các biện pháp tuyển truyền khác nhau như các khoản chi cho sách báo, chi cho quảng cáo tuyên truyền trên đài, trên ti vi, chi cho các pano áp phích …
Chi hội nghị khách hàng: là các khoản chi hội nghị khách hàng mà qua đó công ty tiến hành tìm hiểu, phân tích, đánh giá các biện pháp hạn chế tổn thất có hiệu quả hơn.
Do nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy chỉ được coi là nghiệp vụ mở rộng phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm cháy, tổn thất chỉ xảy ra khi rủi ro cháy xảy ra, vì vậy số chi đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm này được tính bổ xung cho số chi đề phong hạn chế tổn thất của bảo hiểm cháy. Tuy nhiên số chi này vẫn được bóc tách ra vào cuối mỗi niên độ kế toán nhằm phục vụ công tác đánh giá kết quả kinh doanh của từng nghiệp vụ. Cụ thể nghiệp vụ bảo hiểm này đã đóng góp vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất như sau:
Bảng 4: Tình hình chi đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Doanh thu (Tr.đ)
Mức chi (Tr.đ)
1999
505
1,87
2000
650
2,4
2001
824
3,05
2002
952
3,5
2003
1224
4,5
( Nguồn số liệu : Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp –Bảo Việt Hà Nội )
Như vậy, qua bảng số liệu ta thấy, hàng năm Bảo Việt Hà Nội đã chi ra một khoản tiền nhất định cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Trong đó khoản chi đó thì khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi lớn nhất thường chiểm xấp xỉ 55 - 60% trong tổng chi. Khoản chi này được chi cho việc chi mua các phương tiện phòng cháy tối thiểu như bình cứu hoả, còi báo động … Điều này chứng tỏ Bảo Việt Hà Nội không chỉ quan tâm tới việc phối hợp cùng doanh nghiệp trong công tác phòng cháy chữa cháy, hướng dẫn cho họ cách phòng cháy chữa cháy hiệu quả mà còn chỉ cho họ thấy những vị trí có mức độ rủi ro cao. Thêm vào đó công ty còn hỗ trợ về kinh phí giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn công tác phòng cháy chữa cháy nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
Một khoản chi khác cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ là khoản chi cho công tác tuyên truyền, khoản chi này thường chiếm khoảng trên dưới 30% tổng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Song tuyên truyền quảng cáo của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy với bảo hiểm cháy do thực chất hai nghiệp vụ bảo hiểm này có chung rủi ro được bảo hiểm. Tuy nhiên, chúng ta có những chương trình đề cập tới những tổn thất mang tính hậu quả có thể phát sinh trong cuộc sống hàng ngày nếu con người không biết tự bảo vệ lấy mình bằng những hành động cụ thể để ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra trên các phương tiện truyền thông đại chúng hay các loại sách báo, pano áp phích với nội dung tương tự. Phải chăng, công ty chưa thực sự chú trọng tới công tác này?
Ngoài ra, hàng năm tổng công ty thường đứng ra phối hợp thực hiện các hội nghị để Bảo Việt Hà Nội và công ty bảo hiểm khác như Vinare, Muniche … hoặc cùng các công ty bảo hiểm khác trực thuộc Tổng công ty Bảo Việt đồng tổ chức các hội nghị. Thông qua các hội nghị này các công ty cùng tiến hành tìm hiểu, đánh giá và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn để đề ra các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất.
Qua số liệu bảng trên ta thấy khoản chi này còn rất nhỏ do doanh thu phí chưa cao song doanh thu phí thu được tăng qua các năm nên khoản chi này cũng có xu hướng ngày càng tăng. Nhưng do đây là môt nghiệp vụ mới triển khai chưa lâu, lại được tính là nghiệp vụ mở rộng phạm vi của nghiệp vụ bảo hiểm khác nên khó có thể đưa ra một kết luận chính xác kết quả của công tác này.
Công tác giám định bồi thường.
Mục đích của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là bồi thường nhanh chóng chính xác, kịp thời công bằng cho người được bảo hiểm khi không may xảy ra tổn thất. Công tác giám định bồi thường được thực hiện hiệu quả là một phương pháp hữu hiệu để tạo uy tín về công ty bảo hiểm với khách hàng. Bởi khách hàng chính là người quảng cáo có hiệu quả hơn cả cho uy tín của công ty. Không những thế làm tốt công tác này giúp bồi thường chính xác, đầy đủ mà còn có tác dụng không nhỏ trong đánh giá và quản lý rủi ro ở kỳ sau, năm sau tôt hơn cũng như việc xác định phí bảo hiểm ở kỳ tương lai tốt hơn, sát với thực tế hơn.
Để tiến hành công tác giám định và bồi thường được đầy đủ chính xác, công ty bảo hiểm phải dựa vào kết quả thu được từ công tác giám định tổn thất. Do đó, đối với Bảo Việt Hà Nội, công tác giám định bồi thường được đánh giá là một dịch vụ sau khách hàng hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua trên địa bàn Hà Nội xảy ra một số vụ thiệt hại hoả hoạn không nhỏ cho các tổ chức cá nhân liên quan, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị hoả hoạn. Chúng ta có thể đơn cử ra một vài vụ hoả hoạn như sau:
- 3/11/2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13009.DOC