Tài liệu Đề tài Bàn về một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây: Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới. Nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp , cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt do vậy để phát triển chúng ta cần phải có vốn. Đảng và nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho vi...
96 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bàn về một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới. Nhiệm vụ phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp , cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt do vậy để phát triển chúng ta cần phải có vốn. Đảng và nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng....Chính vì vậy đã góp phần quan trong vào công cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc đô cao, kiềm chế lạm phát và ổn định đời sống nhân dân. Song bên cạnh những thành công và kết quả đạt được thì hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đang còn tồn tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn huy động có thời gian dài cho đầu tư còn thiếu, công tác huy động còn nhiều bất cập. Trong khi đó hoạt động cho vay đầu tư thì tỷ lệ nợ quá hạn đang ở mức báo động, vốn cho vay ra bị sử dụng lãng phí, không hiệu quả do vậy hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư ngày càng giảm sút...Chính vì vậy: tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển trong các ngân hàng nói chung và đặc biệt là ngân hàng đầu tư phát triển nói riêng đang là vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà làm chính sách, các nhà quản lý đầu tư và ngân hàng...
Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây, được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên cứu với nội dung:
“Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Bài viết được chia làm ba phần:
Phần I. Lý luận chung về đầu tư, nguồn vốn đầu tư và hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư phát triển.
Phần II. Thực trạng và đánh giá thực trạng về huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Phần III. Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và vận dụng phương pháp thống kê - tổng hợp, toán học và đồ thị trong phân tích số liệu của ngân hàng nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng. Từ đó đưa ra biện pháp tích cực và những kiến nghị đối với ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây và các cơ quan ban ngành có liên quan nhằm tăng cường khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển. Để hoàn thành bài viết này đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ: Nguyễn Hồng Minh đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, cùng các thầy cô giáo và các cán bộ phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện.
Hà Nội, tháng 6 năm 2001.
PHẦN I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN, NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
I. ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN:
I. 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển.
I. 1.1. Khái niệm đầu tư
Thuật ngữ “đầu tư” được hiểu với nghĩa chung nhất là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại ( tiền, của cải vật chất, sức lao động, trí tuệ...) nhằm đạt được các kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đó có thể là các mục tiêu kinh tế , xã hội, văn hoá,chính trị...
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức, không phải là đầu tư với nền kinh tế.
Còn trong hoạt động kinh doanh, đầu tư là sự bỏ vốn( tiền, nhân lực, nguyên liệu, công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của các hoạt động đầu tư. Kinh doanh cần nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh khác nhau của hoạt động đầu tư như : bản chất, đặc điểm, phân loại, vai trò... để có những đối sách thích hợp đối với các đối tác đầu tư khác nhau.
Mặt khác, có thể hiểu đầu tư là việc đưa ra một khối lượng lớn vốn nhất định vào qúa trình hoạt động kinh tế nhằm thu được một khối lượng lớn hơn sau một khoảng thời gian nhất định.
Khái niệm đầu tư còn được hiểu theo quan niệm tái sản xuất mở rộng, đầu tư thực tế là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực tái sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của nền kinh tế ...
Với đầu tư phát triển thì đây là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Loại đầu tư này, người có tiền bỏ tiền ra để xây dựng , sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng nguồn nhân lực thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này. Hoạt động đầu tư này nhằm nâng cao năng lực hiện có của các cơ sở sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng. Hình thức đầu tư này tạo việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, hoạt động đầu tư vốn là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm cung cấp dich vụ đáp ứng nhu cầu cá nhân và xã hội.
I. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển có những điểm khác biệt so với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại ở các điểm sau:
Thứ nhất : Tiền, vật tư, lao động cần cho công cuộc đầu tư là rất lớn.
Thứ hai : Thời gian cần thiết cho công cuộc đầu tư dài, do đó vốn ( tiền, vật tư, lao động ) đầu tư phải nằm khê đọng, không tham gia vào quá trình chu chuyển kinh tế và vì vậy, trong suốt thời gian này không sinh lời cho nền kinh tế.
Thứ ba : Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ lượng vốn đã bỏ ra hoặc thanh lý tài sản do vốn tạo ra cần và có thể thường là vài năm, có khi hàng chục năm và có nhiều trường hợp là hoạt động vĩnh viễn.
Thứ tư : Nếu thành quả đầu tư là các công trình xây dựng thì nó sẽ được sử dụng ngay tại nơi nó tạo ra.
Thứ năm : Các kết quả là hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không ổn định trong tự nhiên, trong hoạt động kinh tế xã hội như các điều kiện địa lý, khí hậu, chính sách, nghiên cứu thị trường và quan hệ quốc tế. Vì vậy, độ mạo hiểm của loại hình này cao.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, trước khi tiến hành đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư và mọi công cuộc đầu tư phải tiến hành theo dự án.
I.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển:
Lý thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nó thể hiện các mặt sau:
Trên giác độ nền kinh tế:
-Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu : Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trong lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên.
-Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế : Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cần các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá trị các hàng hoá liên quan tăng đến mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động khó khăn... Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tệ nạn xã hội. Còn khi giảm đầu tư thì tác động ngược lại với hai chiều hướng trên.
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tù 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
ICOR = Vốn đầu tư / Mức tăng GDP.
Từ đó suy ra :
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
- Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vì các ngành nông, lâm, ngư nghiệp bị hạn chế về đất đai và khả năng sinh học. Do đó chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế, chính trị...
-Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước: Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước.Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ của nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết có 2 con đường cơ bản để công nghệ là nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài vào cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị... và thực hiện chi phí khác với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất, kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại : sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng. Để duy trì hoặc đổi mới cũng có nghĩa là đầu tư.
Như vậy, đầu tư có vai trò rất lớn không chỉ với nền kinh tế mà còn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, khi đầu tư ta thường đặt câu hỏi : vốn đầu tư lấy từ đâu ra và sử dụng vốn như thế nào ? Có rất nhiều cách và con đường để có vốn và sử dụng vốn em xin đề cập ở phần sau.
I. 2.Vốn và nguồn vốn đầu tư:
I. 2.1.Nguồn vốn đầu tư:
Trong nền kinh tế mở nguồn vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn đó là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
-Nguồn vốn trong nước: đó là nguồn vốn được hình thành và huy động trong nước nó bao gồm 3 bộ phận: tiết kiệm của nhà nước (Sg), tiết kiệm của các tổ chức doanh nghiệp ( Sc), tiết kiệm của khu vực dân cư ( Sh).
+ Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Đó là phần còn lại của thu ngân sách sau khi đã trừ đi các khoản chi thường xuyên của nhà nước:
Sg= T - G.
Trong đó: Sg là tiết kiệm của nhà nước.
T là tổng thu ngân sách nhà nước.
G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước.
+Nguồn vốn từ các tổ chức doanh nghiệp: Đó là nguồn vốn được tạo ra từ các tổ chức doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm lợi nhuận để lại doanh nghiệp ( lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản thuế và các khoản phải nộp khác ) và quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Sc = Dp + Pr.
Trong đó : Sc : là tiết kiệm của các doanh nghiệp.
Dp: là quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Pr : là lợi nhuận để lại doanh nghiệp.
+Nguồn vốn từ khu vực dân cư : Đó là nguồn vốn được hình thành từ thu nhập sau thuế của dân cư sau khi đã trừ đi các khoản chi phí thường xuyên.
Sh = DI - C.
Trong đó : Sh : là tiết kiệm từ khu vực dân cư.
DI : là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư.
C : là chi thường xuyên của khu vực dân cư.
-Nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm 2 hình thức chính là vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đó là nguồn vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam trong đó người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể . Hình thức này hình thành các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiêp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
+ Vốn đầu tư gián tiếp (Ví dụ: ODA): Đó là nguồn viện trợ phát triển chính thức, là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của các nước hiện nay các tổ chức tài chính quốc tế cho các nước thuộc thế giới thứ ba. Trong đó các tổ chức, các quốc gia bỏ vốn không trực tiếp sử dụng vốn đầu tư. Các hình thức của đầu tư gián tiếp nước ngoài là viện trợ kinh tế không hoàn lại và viện trợ có hoàn lại với lãi suất ưu đãi.
I.2.2. Vốn và vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế .
-Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc được đổi mới, nâng cấp hiện đại hoá đồng thời tạo ra các tài sản lưu động lần đầu tiên gắn liền với các tài sản cố định mới tạo ra hoặc được đổi mới.
-Vai trò của vốn đầu tư với sự phát triển kinh tế:
Vốn là yếu tố quan trọng nhất trong qúa trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.ở Việt nam, để đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển đạt 7-8% trong gia đoạn tới, vốn đầu tư là một trong các yếu tố hết sức quan trọng. Theo tính toán của các nhà kinh tế , nguồn vốn cho đầu tư phát triển gia đoạn 2001-2005 phải đạt ít nhất 58-59 tỷ USD : trong đó nguồn vốn trong nước chiếm tỷ trọng 60%, cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao gồm vốn đầu tư từ ngân sách, vốn đầu tư tín dụng, vốn đầu tư của doanh nghiệp, vốn đầu tư dân cư và vốn đầu tư nước ngoài. Dự tính trong vòng 5 năm tới vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư chiếm tỷ trọng 14-15% tổng số vốn đầu tư xã hội, chủ yếu đầu tư vào đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra theo tính toán của các nhà kinh tế trong giai đoạn 2001-2005, đòi hỏi tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt đến 25-26% GDP, trong đó tiết kiệm từ khu vực ngân sách khoảng 6%, tiết kiệm từ khu vực dân cư và doanh nghiệp là 19-20% GDP.Nguồn vốn huy động từ tiết kiệm trong nước để cho đầu tư đạt 75% tổng tiết kiệm. Theo kinh nghiệm phát triển của thế giới, các nước có đạt mức tăng trưởng kinh tế cao đều có mức huy động vốn đầu tư so với GDP khá lớn. Nói cách khác là đều có tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP lớn hơn những nước có tốc độ phát triển bình thường và chậm biểu sau đây có thể minh hoạ ý kiến trên.
Quốc gia
Thời kỳ
Mức tăng GDP bình quân năm %
Tỷ lệ đầu tư phát triển /GDP%
Số năm tăng tốc độ cao
Nhật Bản
1964-73
9,28
35,17
10
Singapore
1965-93
8,80
38,32
29
Mỹ
1964-73
3,95
19,18
10
Canada
1964-74
5,55
23,74
10
Thái Lan
1964-90
7,64
25,58
27
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt nam số 12 năm 1998.
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Harrod và Domar thì sự phụ thuộc giữa mức tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP và hiệu quả và sử dụng vốn được hiểu theo công thức sau:
G x K= I/K trong đó:
G - Tốc độ tăng trưởng / năm.
K - Hệ số ICOR ( vốn tăng thêm, hiệu quả vốn đầu tư).
I/K - Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP.
Như vậy, vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng thiết yếu trong quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ đặt ra đối với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng là làm thế nào để có thể huy động và sử dụng có hiệu quả được các nguồn vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Đối với Ngân hàng đầu tư nhiệm vụ này càng quan trọng và khó khăn hơn vì hoạt động chính của Ngân hàng là huy động và cho vay các nguồn trung, dài hạn là chủ yếu trong khi ngân hàng vẫn phải đảm bảo giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình và hoạt động đầu tư phát triển.
I. 3.Vai trò hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho phát triển kinh tế.
I.3.1. Vai trò của hoạt động huy động vốn:
Như trên đã phân tích vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế, không những nó tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, mà còn đưa đất nước phát triển theo hướng ổn định, cân đối giữa các ngành nghề. Do vậy để phát triển kinh tế ta phải có vốn đầu tư, vậy vốn đầu tư lấy ở đâu và lấy bằng cách nào ? Câu hỏi này đã được trả lời một phần ở trên ( bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài ). Muốn có nguồn vốn này, ta phải huy động. Mặt khác mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khi thành lập, không phải lúc nào cũng có đủ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những tình huống thiếu vốn thì họ phải huy động để đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên, để có thể huy động được số vốn mong muốn thì các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải có các chiến lược huy động phù hợp với từng tình huống cụ thể, từng thời kỳ ...
Tóm lại hoạt động huy động vốn là rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và đầu tư phát triển nói riêng, nó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới.
Trong hoạt động huy động này thì hệ thống ngân hàng đóng góp một phần quan trọng đặc biệt là ngân hàng đầu tư và phát triển ngân hàng với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp vốn cho vay đầu tư phát triển.
I.3.2 Vai trò của hoạt động sử dụng vốn:
Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng không kém phần quan trọng đó là hoạt động sử dụng vốn huy động này sao cho có hiệu quả để đảm đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu chúng ta sử dụng vốn hiệu quả thì các nguồn lực dành cho đầu tư xẽ phát huy được tối đa lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng ta bỏ ra sẽ không phát huy được tối đa cho nền kinh tế. Để làm được vấn này đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các chiến lược sử dụng vốn cho đầu tư như: quản lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng như các công tác thẩm định dự án và quản lý dự án đầu tư.
II. NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ TRONG QUÁ TRÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG CHO VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
II.1.Vai trò và định hướng của ngân hàng đầu tư trong công cuộc đầu tư phát triển kinh tế .
II.1.1.Vai trò của ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng đầu tư là một thể chế tài chính nhằm thu hút, tập trung các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Mục tiêu của ngân hàng không phải chỉ là lợi nhuận mà chủ yếu vẫn là :” hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế “. Từ những đặc điểm này ngân hàng đầu tư ở Việt Nam và các ngân hàng đầu tư ở các nước khác có một số nét khác biệt cơ bản như: Trong hoạt động huy động vốn: Được nhận, vay từ các nguồn tài trợ của chính phủ, các tổ chức nước ngoài, ngân hàng ĐTTW ... Hoạt động sử dụng vốn cũng chủ yếu tập trung vào các dự án kinh tế, kỹ thuật có tầm chiến lược, then chốt của quốc gia, chủ yếu là các lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức đầu tư như: Giao thông, năng lượng, xây dựng thông tin...
Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư có nên thụ động dựa vào các nguồn tài trợ từ ngân sách và các tổ chức quốc tế hay chủ động mở rộng hoạt động tìm cách tạo nguồn vốn cho mình. Ngoài ra, trong hoạt động sủ dụng vốn ngân hàng đầu tư cần phải chủ động nâng cao nghiệp vụ, sức cạnh tranh và uy tín để thực hiện chiến lược phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế ngày càng hiệu quả hơn.
II.1.2. Định hướng của ngân hàng đầu tư:
- Đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư và phát triển chủ trương coi khâu tạo vốn là khâu mở đường, tạo ra một nguồn vốn vững chắc cả VNĐ và ngoại tệ, Đa dạng các hình thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn và xác định “ nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng ”. Với định hướng không ngừng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển. Thông qua huy động dưới các hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và tiền tiết kiệm có thời hạn dài. Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn nước ngoài thông qua chức năng ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn từ các nguồn tài trợ, cộng tác đầu tư từ các quỹ, các tổ chức quốc tế, các chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển.
- Đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư phát triển coi việc phục vụ trong sự nghiệp đầu tư phát triển là một định hướng chính thể hiện vai trò ngân hàng đầu tư của mình. Trong hoạt động cho vay đầu tư ngân hàng chú trọng quá trình tìm chọn dự án hiệu quả, thực hiện tốt công tác thẩm định và quản lý dự án sau khi cho vay cũng như thực hiện công tác tư vấn đầu tư giúp các chủ đầu tư hoạt động tốt nhằm đảm bảo nguồn vốn cho vay của Ngân hàng.
Như vậy định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là các bước đi và giải pháp cụ thể . Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên cứu hệ thống hoá có lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều năm để phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển.
II.2. Hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Ngân hàng đầu tư phát triển.
II. 2.1.Sự cần thiết của công tác huy động vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển.
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ chốt của Ngân hàng đảm bảo cho ngân hàng có thể tồn tại và thực hiện chức năng của một trung gian tài chính trong nền kinh tế, bởi chức năng hoạt động chủ yếu của ngân hàng là “ đi vay để cho vay ”. Như chúng ta đã biết, một ngân hàng muốn thành lập phải có đủ vốn ban đầu nhất định do ngân hàng nhà nước quy định. Nhưng số vốn tự có chiếm khoảng 10% vốn hoạt động. Do vậy huy động vốn là điều kiện cần cho hoạt động của ngân hàng.
Đối với ngân hàng đầu tư kể từ khi thực hiện chức năng như một ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì để có vốn cho vay các dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải huy động được vốn. Phần vốn tự có của Ngân hàng chỉ đảm bảo năng lực pháp lý và năng lực thị trường cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Pháp lệnh ngân hàng quy định một ngân hàng được phép huy động một lượng vốn tối đa bằng 20 lần vốn tự có của mình.
II.2.2. Các nguồn vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển cho đầu tư phát triển :
Nguồn vốn huy động của NH bao gồm : Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân hàng để có thể đóng góp vào hoạt động đầu tư phát triển thì lượng vốn huy động đòi hỏi phải là vốn trung và dài hạn (hay có thời hạn trên 1 năm). Nguồn vốn ngắn hạn chỉ có vai trò là vốn lưu động đảm bảo các khoản cho vay ngắn hạn, và chỉ được dùng một phần nhỏ để cho vay dài hạn khi lượng vốn ngắn hạn đủ lớn và ổn định.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì các nguồn vốn sau đây ở Ngân hàng mới có đóng góp chính vào đầu tư phát triển.
+Các khoản tiền tiết kiệm và tiền gửi có thời hạn đến 1 năm.
+Các kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn dài, phát hành trên thị trường trong nước và quốc tế.
+Các khoản đi vay trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài.
+Các khoản thu nợ của các dự án cũ.
+ Một phần huy động ngắn hạn có thể cho vay trung và dài hạn.
+ Các khoản thu nhập dành cho cho vay đầu tư phát triển khác(lợi nhuận,tiền thu bảo lãnh...)
Như vậy trên cơ sở các nguồn vốn này để Ngân hàng đầu tư có thể huy động được vốn cho đầu tư phát triển ta phải có được những giải pháp để phát triển các nguồn vốn này.
II.2.3.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng.
Nhằm đánh giá hiệu quả huy động vốn cho đầu tư phát triển( chủ yếu là vốn trung và dài hạn ) tại Ngân hàng thì cần có các chỉ tiêu. Sau đây là các chỉ tiêu chính phản ánh hiệu quả công tác này:
Chỉ tiêu 1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định:
-Vốn huy động cho đầu tư ( chủ yếu là trung và dài hạn ) có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( vốn năm sau lớn hơn vốn năm trước ), thoả mãn nhu cầu tín dụng đầu tư.
-Tuy nhiên, nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian ( đảm bảo tránh rủi ro về mặt thời gian ) .Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư nhưng không ổn định thường xuyên, khối lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn nhi đó ngân hàng thường xuyên đối đầu với vấn đề thanh toán, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Do đó, hiệu quả huy động vốn sẽ không cao.
Chỉ tiêu 2. Chi phí huy động:
Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra, đồng thời cũng thông qua chi phí phát hành. Nếu ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất huy động thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Do vậy khó có thể thực hiện. Ngược lại nếu lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay càng cao gây khó khăn cho người vay tiền và có thể gây ứ đọng vốn cho Ngân hàng, khi đó ngân hàng cần phải trả lãi cho người gửi tiền trong khi khoản vốn ứ đọng không sinh lãi.
Vì vậy ngoài việc tăng giảm lãi suất để có lợi cho người gửi tiền và người vay tiền có thể giảm chi phí khác như : Chi phí in ấn phát hành, chi phí quảng cáo, tiếp thị, trả lương cán bộ huy động, thuê địa điểm huy động ...
Chỉ tiêu 3 : Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu cầu vay vốn vốn đầu tư phát triển ( chủ yếu là vốn trung dài hạn ) và các nhu cầu khác. Từ đó xác định nguồn vốn có thể huy động được là bao nhiêu và nguồn vốn cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó.
Để đạt đựơc mục tiêu này, Ngân hàng phải đặt ra cơ cấu huy động vốn trung và dài hạn một cách hợp lý ( kỳ phiếu bao nhiêu ? trái phiếu lấy bao nhiêu?... ).
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn đồng thời cũng đảm bảo cho ngân hàng huy động được nguồn vốn này với chi phí thấp nhất có thể.
* Chỉ tiêu khác : Ngoài các chỉ tiêu trên hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển ở NH đầu tư còn được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
-Thời gian, mệnh giá huy động vốn cho đầu tư hợp lý.
-Mức độ thuận tiện cho khách hàng : Đánh giá qua các thủ tục nhận tiền và làm các dịch vụ kèm theo.
-Thời gian hoàn thành số lượng vốn so với quy định.
-Số vốn bị rút trước hạn, hệ số sử dụng vốn.
Tóm lại, khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn nói chung và huy động vốn cho đầu tư phát triển nói riêng thì một chỉ tiêu không thể phản ánh đầy đủ mà phải kết hợp nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn.
II.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn.
II.2.4.1.Nhân tố chủ quan:
Các hình thức huy động vốn: Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư sẽ tăng và vốn ngân hàng huy động được sẽ nhiều hơn.
Chính sách lãi xuất cạnh tranh: lãi suất là yếu tố quan trọng khiến hành động gửi tiền của dân chúng và ngân hàng, hay gửi từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hoặc chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư do vậy lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn của ngân hàng.
Chính sách khách hàng: Nếu ngân hàng có chính sách khách hàng tốt thì khách hàng sẽ gửi tiền vào ngân hàng sẽ càng cao và ngược lại.
Công tác cân đối dữa huy động và cho vay: Chiến lược sử dụng vốn đúng đắn và phù hợp còn phù thuộc vào chiến lược sử dụng vốn nếu sử dụng vốn không hiệu quả thì ngân hàng cũng sẽ hạn chế khả năng huy động vốnvà ngược lại.
Công nghệ ngân hàng: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công nghệ, bởi lẽ các dịch vụ đặc biệt về chuyên môn NH xẽ đa dạng đổi mới ngày càng tốt hơn đáp ứng nhu câù khách hàng.
Chính sách cán bộ: Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn được đặt đúng chỗ , luôn tạo nền tảng thành công của một tổ chức. Nói chung người ta muốn giao dịch kinh doanh với một hãng có bề dày kinh nghiệm và có đội ngũ cán bộ công nhân viên lịch thiệp và tận tình.
Chính sách quảng cáo: Không thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo hiện nay. Ngân hàng nếu làm tốt công tác nay thì có khả năng huy động được nhiều vốn hơn.
II.2.4.2. Nhân tố khách quan:
Nhân tố tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn của dân cư, tổ chức kinh tế, ... do vậy nếu các đơn vị này có tỷ lệ tiết kiệm cao thì nguồn vốn huy động được sẽ cao.
Nhân tố thu nhập của dân cư: Nếu thu nhập của dân cư càng cao thì khả năng có thể tiết kiệm càng cao và khi đó họ có tiền gửi vào các tổ chức tài chính và mua các giấy tờ có giá sẽ càng cao và ngược lại.
Nhân tố tâm lí tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là hai nhân tố đối lập nhau nên tiêu dùng tăng thì tiết kiêm giảm và ngược lại . Do vậy nếu tâm lí thích tiêu dùng của dân cư tăng thì tiền gửi vào ngân hàng sẽ giảm.
Môi trường pháp lí: Nếu môi trường pháp lí ổn định cụ thể là cơ sở pháp lí cho hoạt động của ngân hàng được đảm bảo thì người dân sẽ an tâm gửi tiền vào ngân hàng...
II.3.Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển.
II.3.1.Vai trò của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn như về vốn cho đầu tư của các dự án và các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng của sử dụng vốn đối với các dự án và sử dụng vốn đầu tư của các doanh ngiệp đang đòi hỏi cấp bách. Để cung cấp vốn cho các dự án này và các doanh nghiệp thì ngân hàng đầu tư có một vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các đơn vị này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án và các doanh nghiệp mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng giúp cho bản thân ngân hàng có thể hoạt động được bởi hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay.
Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc cung cáp vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng góp phần cho việc hoạt động của các doanh nghiệp và các dự án đầu tư hiệu quả hơn bởi khi tài trợ vốn cho các doanh nghiệp và các dự án ngân hàng đã thực hiện rất kỹ khâu thẩm định, quản lí vốn vay để đảm bảo cho dự án hoạt động hiệu quả.
II.3.2 Các loại hình cho vay và đặc điểm của hoạt động của hoạt động cho vay vốn dầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư.
II.3.2.1 Các loại hình cho vay của NH.
Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau sau đây:
* Theo mục đích sử dụng :
-Cho vay bất động tài sản.
-Cho vay công nghiệp và thương nghiệp.
-Cho vay nông nghiệp.
-Cho vay tiêu dùng.
* Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng :
-Cho vay có bảo đảm.
-Cho vay không bảo đảm.
* Theo thời hạn cho vay.
-Cho vay ngắn hạn : Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân.
-Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 1 năm và dưới 5 năm. Loại cho vay này thường được dùng để mua sắm tài sản cố định, mở rộng hoặc xây dựng công trình nhỏ.
-Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Đối với đầu tư phát triển thì hoạt động cho vay trung hạn và dài hạn mới có tác dụng chủ yếu. Do vậy để tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu quan tâm đến 2 nguồn này.
II. 3.2.2 Đặc điểm khác biệt của hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển so với cho vay ngắn hạn.
Sự khác biệt của hoạt động cho vay đầu tư với cho vay ngắn hạn được thể hiện qua các đặc điểm sau:
-Về thời hạn cho vay : Cho vay ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm, cho vay đầu tư thường có thời hạn dài hơn ít nhất là trên 1 năm.
-Về độ rủi ro : Với thời hạn cho vay dài hạn nên hoạt động cho vay đầu tư có độ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn.
-Về lãi suất: Do thời gian vay dài độ rủi ro của hoạt dộng cho vay đầu tư có độ rủi ro cao hơn nên lãi suất của hoạt động cho vay đầu tư cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.
-Về mục đích: Hoạt động cho vay đầu tư dùng để đầu tư mở rộng sản suất mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng... nói khác hơn là để đầu tư vào những dự án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn. Còn mục đích của vay ngắn hạn là để phục vụ chỉ tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương...tức là đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn.
-Nguồn trả nợ : Nguồn trả nợ của hoạt động cho vay đầu tư là nguồn từ khấu hao và lợi nhuận để dành trước khi bước vào giai đoạn lạc hậu về công nghệ. Còn nguồn để trả nợ cho vay ngắn hạn là nguồn từ vốn lưu động.
II.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển.
II. 3.3.1. Nhân tố chủ quan:
Trong thực tế quá trình hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy trong cùng một thời gian, cùng một thị trường nhưng có những ngân hàng chất lượng cao tổn thất ít. Nhưng cũng có những ngân hàng gặp nhiều khó khăn, tổn thất cho vay lớn. Như vậy nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng cho vay chủ yếu ngay bên trong ngân hàng. Chúng ta xem xét một số nhân tố chủ yếu sau:
a.Công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển:
Ngân hàng với tư cách “ bà đỡ “ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp và dự án đầu tư, thường xuyên thực hiện công tác thẩm định để ngoài việc đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm đảm bảo cho sự an toàn cho các nguồn vốn ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp và các dự án.
Thẩm định là một khâu quan trọng nhất trong quy trình cho các dự án đầu tư của Ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần quyết định trong việc nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro của ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản suất phát triển.
Thật vậy, công tác thẩm định chính là xem xét, đánh giá các yếu tố về tư cách pháp lý của người vay, năng lực tài chính của người vay, và xem xét tính khả thi của dự án vay vốn. Qua đó ngân hàng có được những nét cơ bản về khách hàng vay vốn và dự án vay vốn từ đó có được các kết quả để quyết định cho vay và nâng cao được hiệu quả vay vốn...
Có thể khái quát công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển tập trung vào các vấn đề như sau:
* Ngân hàng thẩm định tư cách pháp lí của đơn vị vay vốn.
Người vay có đủ năng lực pháp lí theo quy định trong quan hệ vay vốn của ngân hàng hay không.
Người vay có thuộc đối tượng vay vốn theo quy định hiện hành của các chế độ, thể lệ cho vay không.
Tư cách của người đứng ra vay vốn: Khả năng quản lý, trình độ học vấn...
Uy tín của đơn vị vay vốn : Chất lượng, giá cả hàng hoá, khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm trên thị trường, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và các ngân hàng.
* Tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn:
Đánh giá chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp của đơn vị vay vốn nhằm xác định sức mạnh tài chính. Khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của người vay. Trong phân tích tài chính doanh người ta thường áp dụng phương pháp tỷ lệ bởi ưu điểm của nó là.
+ Việc tính toán các chỉ tiêu là tương đối dễ dàng, có thể lập trình cho máy tính để tính một loạt các chỉ tiêu một cách nhanh chóng qua đó rút ngắn thời gian thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp.
+ Các chỉ tiêu có thể được tính theo từng năm hoặc từng giai đoạn. Do đó nó có thể so sánh đối chiếu với nhau để thấy được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực cũng như su hướng trong tương lai.
+ Phương pháp này chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính, Đây là nguồn thông tin sẵn có mà hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có. Nếu các báo cáo tài chính có độ chính xác cao thì thì kết quả tính toán theo phương pháp này có thể chấp nhận được.
Tuy vậy phương pháp này đòi hỏi phải đề ra các ngưỡng, các định mức làm cơ sở để so sánh các giá trị tỷ lệ tính được của doanh nghiệp làm tham chiếu. Các tỷ lệ dùng để tính toán thường là 4 nhóm chỉ tiêu sau.
Tỷ lệ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ của doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ thanh toán hiện hành: Cho biết khả năng thanh toán của các khoản nợ thường xuyên.
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn.
( Hệ số này nên lớn hơn hoặc bằng 1)
Tài sản lưu động có
+ Tỷ lệ:
Tài sản lưu động nợ
Thông thường tỷ lệ này bằng 2/1 hoặc 4/1 thì đảm bảo tính khả thi.
- Tỷ lệ khả năng cân vốn: Đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ nợ trong tổng tài sản : Xác định nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với chủ nợ trong việc góp vốn vào dự án.
Tổng số nợ
Hệ số nợ =
Tổng tài sản
Đây là tỷ lệ mà ngân hàng rất quan tâm vì tỷ lệ nợ cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ giảm sút . Thông thường tỷ lệ nợ này không quá 50%.
+ Tổng tài sản nợ trên tổng vốn sở hữu: Xác định khả năng trả nợ của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ khả năng hoạt động: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị vay vốn.
+ Hiệu xuất sử dụng tài sản cố định: Cho biết một đồng tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu( Tài sản cố định tính theo giá còn lại tại thời điểm báo cáo)
Tổng doanh thu của doanh nghiệp
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Giá trị tài sản cố định
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu:
Doanh thu tiêu thụ
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm =
Tổng tài sản
Tỷ lệ khả năng sinh lãi: Phản ánh hiệu quả quản lý xản suất kinh doanh và khả năng tiêu thụ sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp.
+ Khả năng sinh lời của tài sản.
+ Doanh lợi thu từ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu tiêu thụ.
+ Tỷ suất sinh lợi vốn đầu tư = Lợi nhuận trước thuế và lãi( hoặc lợi nhuận sau thuế) / Tổng tài sản.
+ Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có
* Tính pháp lí của dự án.
+ Dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển và có được pháp luật cho phép không.
+ Về quản lý dự án có thể thực hiện được không.
+ Về mặt môi trường có hợp lí không...
* Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
Một dự án làm ăn không hiệu quả, rủi ro lớn thì khả năng hoàn trả lại món nợ cho ngân hàng là rất khó khăn. Chất lượng của hoạt động cho vay vốn các dự án đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án xét trên quan điểm ngân hàng xem xét trên các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu thu nhập thuần(NPV): Dùng để đánh giá quy mô lợi ích của dự án. Thường tính tổng thu nhập thuần về mặt bằng hiện tại hoặc mặt bằng tương lai. Chỉ tiêu này đánh giá quy mô lợi nhuận của dự án.
Bi : Thu nhập năm i của dự án:
Ci : Chi phí năm i của dự án:
Sử dụng: - NPV được dùng để đánh giá hiệu quả của một dự á, dự án được chấp nhận khi NPV> 0.
- Trong so sánh dự án đầu tư: Đối với dự án độc lập thì dự án được chọn là dự án có NPV>0. Còn đối với nhiều dự án lựa cho chọn dự ns có NPV max trong trường hợp dự án có tuổi thọ và đời dự án là như nhau.
Hạn chế: Chỉ tiêu này không thấy được lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra và nó phụ thuộc rất lớn vào tỷ suất triết khấu.
Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn(T): Thời gian thu hồi vốn là thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi đủ vốn bỏ ra. Thường ưu tiên cho những dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn nếu các yếu tố khác như nhau. Chỉ tiêu này được xem xét trên hai góc độ:
+ Thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuân thuần:
Theo phương pháp cộng dồn:
T: Là tổng lợi nhuận cộng dồn từ năm bắt đầu sản xuất kinh doanh đến năm tổng này lớn hơn hoặc bằng vốn đầu tư tính ở mặt bằng năm bắt đầu sản xuất kinh doanh. Phương pháp này thường được áp dụng khi dự án dược vay dài hạn chưa phải trả nợ ngân hàng ngay.
Theo phương pháp trừ dần:
IVoT - WT <= 0
T là năm mà nợ vốn đầu tư còn lại trừ lợi nhuận thu được năm T nhỏ hơn hoặc bằng 0. Phương án này áp dụng khi dự án phải trả nợ ngay khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động.
+ Thời gian thu hồi vốn tư từ lợi nhuận thuần va khấu hao: Được tính tương tự như trên nhưng bên cạnh lợ nhuận thuần còn cộng thêm cả khấu hao.
* Hệ số hoàn vốn nội bộ(IRR):
Là tỷ suất lợi nhuận mà nếu sử dụng để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bàng thời gian hiện tại thì sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi.
Cách tính: Có thể dùng máy vi tính để tính và có phần mềm phù hợp.
Cách tính phổ biến là phương pháp nội suy được tính toán như sau:
NPV(r1)
IRR = r1 + (r2-r1)
NPV(r1) - NPV(r2)
Trong đó: r1 là lãi suất ứng với NPV(r1)> 0 và gần 0.
r2 là lãi suất ứng với NPV(r1)< 0 và gần 0.
Với 0 < r2 - r1 <= 5%.
Nhược điểm: Không xác định được IRR trong trường hợp dòng tiền biến dạng từ âm sang dương nhiều lần.
Ưu điểm: IRR cho biết tỷ lệ suất tối đa mà dự án có thể chấp nhận được nên cung cấp thông tin hữu hiệu cho nhà tài trợ, nhà đầu tư khi xác định giá cả các khoản vay.
* Điểm hoà vốn: Khả năng sinh lời và mức độ hoạt động an toàn của các dự án thường được diễn đạt bằng việc phân tích điểm hoà vốn. Trị số của các chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ dự án khả năng hoà vốn( hoặc bắt đầu có lãi ở mức độ sản lượng hoặc doanh thu thấp). Có nghĩa là dự án có khả năg sinh lời và mức độ an toàn trong hoạt động cao.
+ Điểm hoà vốn là điểm tại đó tổng doanh thu bán hàng bằng tổng chi phí khả biến từ đầu dự án đến thời điểm đó và tổng định phí cả đời dự án.
* Ngoài ra trong thẩm định các chỉ tiêu này còn sử dụng phân tích độ nhạy của dự án đầu tư.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ :
Thời gian trả nợ từ hoạt động của dự án:
Tổng số vốn vay
TTN =
KHCB mỗi năm + LN dành để trả nợ
- Thời gian trả nợ từ hoạt động của cả doanh nghiệp:
Tổng số vốn vay
TTN =
KHCB mỗi năm + LN dành để trả nợ + Nguồn khác của DN để trả nợ
Trên đây là 4 vấn đề quan trọng cần xem xét để quyết định cho vay vốn hay không. Ngoài ra ngân hàng cần phải xem xét một số yếu tố khách quan khác có tác động đến đơn vị vay vốn và dự án như:
Những rủi ro tiềm ẩn của dự án có thể sảy ra trong tương lai.
Môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp lý.
Tài sản thế chấp...
Khi cho vay và sau khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét đơn vị vay vốn sử dụng khoản vốn đó như thế nào, có đúng mục đích hay không, có hiệu quả không, trong quá trình sử dụng vốn doanh doanh nghiệp có gặp gì bất trắc hay không bản thân doanh nghiệp có ý đồ lừa đảo hay không... Và cuối cùng việc khánh hàng hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng ra sao, có đúng thời hạn không. Để làm được điều này đòi hỏi ngân hàng phải có các biện pháp hữu hiệu và sự hợp tác của khách hàng.
Tóm lại: thẩm định là khâu đầu tiên và quan trọng nhất để đem lại hiệu quả của các công cuộc tài trợ vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện tốt khâu này thì dự án ngân hàng tài trợ mới có thể thu hồi được nợ và lãi đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
b.Công tác quản lý vốn sau khi cho vay.
Thẩm định là khâu đầu tiên nhằm phân tích, đánh giá được các đơn vị vay vốn, hiệu quả kinh tế của các dự án vay vốn, khả năng trả nợ.Tuy nhiên trong giai đoạn thẩm định cũng chỉ là dựa trên những cơ sở pháp lý dự đoán kết quả, của mục tiêu tài trợ là công trình phát huy hiệu quả, trả được nợ cho ngân hàng lại phụ thuộc vào tình hình thực hiện thi công có đúng mục đích ban đầu hay không, có đúng quy định không. Do đó trách nhiệm của Ngân hàng không chỉ dừng ở việc ký kết hợp đồng mà phải có trách nhiệm theo dõi, quản lý món vay trong suốt thời gian khách hàng sử dung vốn của ngân hàng. Nếu sau khi cho vay ngân hàng không theo dõi quản lí món vay thì trong thời gian dài khách hàng sử dụng vốn thực hiện dự án sẽ không thể chắc chắn khoản tiền vay đó đã sử dụng đúng mục đích. Do vậy việc quản lý món vay không chỉ giúp ngân hàng bảo toàn vốn , có lợi nhuận mà còn giúp đơn vị vay vốn tránh được những rủi ro đáng tiếc. Chính việc quản lý thường xuyên , chặt chẽ món vay sẽ giúp cho ngân hàng phát hiện ra những sai lệch trong quá trình vận hành và quản lý dự án đó. Từ đó ngân hàng sẽ tư vấn cho doanh nghiêp, cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn để hạn chế tối đa tình huống không tốt xảy ra . Công tác quản lý món vay sẽ bắt đầu từ khi cho vay đến khi kết thúc hợp đồng cho vay.
c. Chất lượng thông tin.
Chất lượng thông tin cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng. Ở đây phải được xem xét tổng hoà trên ba khía cạnh tính chính xác, tính kịp thời và tính đầy đủ của thông tin.
Thật vậy: để tiến hành công tác thẩm định dự án vay vốn, việc đầu tiên là phải thu thập các thông tin liên quan cần thiết nói về tư cách pháp lí của khách hàng, thông tin về năng lực tài chính, thông tin về hiệu quả dự án vay vốn. Sau khi cho vay để xem xét quản lý món vay, cũng cần phải có thông tin, phải thu thập thông tin về việc sử dụng vốn vốn vay của đơn vị vay vốn có đúng mục đích hay không, hiệu quả không. Thông tin về những thuận lợi và khó khăn mà đơn vị vay vốn đang gặp phải, thông tin về tính chung thực của khách hàng, về thu nợ, thu nợ như thế nào... như vậy thông tin có chất lượng cao sẽ là đầu vào hoàn hảo cho mọi quá trình tiếp theo.Tuy nhiên, cũng chưa thể khẳng định rằng cứ có chất lượng thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời là có được những quyết định đúng đắn vì nó còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như việc xử lí thông tin có hiệu quả hay không. Nhưng chúng ta phải thừa nhận thông tin chính là một công cụ hiệu quả để đảm bảo cho hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng hiệu quả.
d. Nguồn vốn huy động:
Đầu tư vốn tín dụng là nhu cầu khách quan của nền kinh tế. Nguồn vốn để cho vay đầu tư của mỗi ngân hàng có thể từ các nguồn khác nhau nhưng có thể nói nguồn vốn huy động là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất. Để tiến hành hoạt động cho vay thì điều trước tiên là phải có nguồn vốn , do vậy hoạt động cho vay vốn cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào nguồn vốn huy động. Nếu trong cơ cấu có nguồn vốn có thời gian dài cao thì trong cơ cấu sẽ cho vay sẽ có nguồn vốn cho vay có thời gian dài cho đầu tư phát triển xẽ ổn định. Ngân hàng xẽ có thể chủ động hơn về kì hạn cho vay, việc thực hiện rót vốn theo lịch trình được thực hiện đúng tiến độ, ngân hàng chủ động chi trả các khoản tiền gửi của khách hàng , vốn ngắn hạn với một tỷ lệ nhất định có thể cho vay dài hạn .
e. Nhân tố con người.
Bất cứ một khâu công việc nào trong hoạt động của ngân hàng nói chung và các hoạt động sử dụng vốn nói chung cho đầu tư phát triển của ngân hàng đều do con người thực hiện, con người đưa ra và quyết định. Con người chính là chủ thể của mọi hoạt động. Mọi quyết định về đường lối, chính sách về hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc thu thập thông tin, xử lý thông tin, quyết định cho vay, quản lý món vay, tiến hành thu nợ đều do con người đảm nhiệm. Do vậy chất lượng sản phẩm trước tiên sẽ phụ thuộc vào người làm nó. Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng cũng không nằm ngoài lệ.
II.3.3.2. Các nhân tố khách quan:
* Khách hàng vay vốn.
Một khi người vay vốn hoạt động xản xuất không hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được , kinh doanh không có lãi, tình trạng thua lỗ sẽ là một nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến các khoản tín dụng không được thực hiện đúng và đủ. Trong trường hợp khách hàng vay vốn bị phá sản thì mất vốn của ngân hàng sẽ nghiêm trọng hơn “ Thành công của khách hàng cũng chính là sự thàng công của ngân hàng “. Như vậy chất lượng của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà nó còn phụ thuộc vào khách hàng vay vốn. Trong quản lý hoạt động của ngân hàng đối với khách hàng vay vốn ta chú ý đến các yếu tố sau đây. Tư cách pháp lý của người vay và năng lực của người vay.
* Ngoài ra hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng còn chịu tác động của các yếu tố sau đây: Chính sách kinh tế vĩ mô, những biến động về thị trường, điều kiện tự nhiên...
Để có thể đề ra được các giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng ta đi xem xét và phân tích cụ thể tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
PHẦN II
THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN HÀ TÂY:
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN HÀ TÂY:
Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là một trong những chi nhánh của ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam. Tiền thân của nó là phòng đầu tư và phát triển Hà Sơn Bình được thành lập ngày 1-6-1990. Cũng giống như các chi nhánh khác trực thuộc ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam, toàn bộ hệ thống ngân hàng Đầu tư & phát triển bên cạnh việc kinh doanh tổng hợp như những ngân hàng thương mại khác còn tham gia vào cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước đề ra. Chính vì vậy, để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư và phát triển không chỉ căn cứ vào lợi nhuận mà còn phải căn cứ vào các đóng góp của nó thông qua việc cho vay đầu tư phát triển đối với kinh tế địa phương. Kể từ năm 1998 đến nay, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã cho vay trên dự án đầu tư với tổng số vốn là 389.968 triệu đồng. Hầu hết các dự án đầu tư do ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây cho vay đều đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Điển hình trong những dự án phát huy hiệu quả tốt có các dự án của công ty xi măng Tiên Sơn, công ty thực phẩm Hà Tây, nhà máy cơ khí Sơn Tây, công ty du lịch Ao Vua...
I.1. Mô hình tổ chức của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây:
Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây có bộ máy gọn nhẹ, tinh giảm nhìn chung đủ các phòng ban cần thiết đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ và chức năng của mình.
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là 85 người, trong đó bao gồm một chi nhánh trực thuộc và tám phòng nghiệp vụ, hai phòng giao dịch với các bàn tiết kiệm ở thị xã Hà Đông và thị xã Sơn Tây. Trụ sở chính của ngân hàng đóng tại 197 đường Quang Trung - thị xã Hà Đông - tỉnh Hà Tây. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây như sau:
Ban giám đốc
Phòng
nguồn vốn, kho quỹ
Phòng tín dụng 1
Phòng tín dụng 2
Phòng kế toán tài chính
Phòng kiểm soát nội bộ
Phòng huy động (các bàn giao dịch)
Phòng tổ chức hành chính
Khu vực Sơn Tây ( phòng chức năng)
I.2. Những thuận lợi và khó khăn hiện nay đối với ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây:
I.2.1. Thuận lợi:
- Trung tâm giao dịch thanh toán của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây nằm ở thị xã Hà Đông gần sát thủ đô Hà Nội - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Đây là môi trường rất thuận lợi cho ngân hàng hoà nhập với nhịp điệu và cơ chế mới trong hoạt động kinh doanh của cả nước đồng thời dễ dàng trang bị cho mình những thiết bị công nghệ mới, học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh doanh cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn đến giao dịch tại hội sở. Cũng do gần trung ương nên ngân hàng luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao và chặt chẽ của cấp chủ quản.
- Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là đơn vị thành viên của một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn và có truyền thống lâu đời, ngân hàng có thể học hỏi, tiếp nhận những kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây có trình độ tương đối cao, phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình với công việc... Tính đến thời điểm 31-12-2000 trong số 85 cán bộ công nhân viên của ngân hàng thì trên 60% là có trình độ đại học.
I.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những mặt thuận lợi như trên, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây cũng đang phải đối đầu với không ít khó khăn thử thách mà cụ thể là:
- Nhu cầu đòi hỏi về vốn đầu tư để tăng trưởng phát triển kinh tế rất lớn nhưng việc chuẩn bị được các dự án khả thi còn ít; doanh nghiệp yêu cầu vốn vay trong thời gian dài, lãi suất thấp nhưng việc huy động vốn trung - dài hạn lại gặp nhiều khó khăn. Để huy động được nguồn vốn đó thì phải đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền (lãi suất phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn). Huy động dài hạn với lãi suất cao nhưng cho vay đầu tư với lãi suất cao thì doanh nghiệp lại không chấp nhận. Đây là một khó khăn thử thách rất lớn đối với ngân hàng để giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo trong phục vụ đầu tư phát triển.
- Ngân hàng hoạt động sát bên địa bàn Hà Nội, do vậy chịu sự cạnh tranh rất mạnh mẽ từ phía các ngân hàng thương mại khác cả về nội dung hoạt động cũng như nguồn nhân lực.
- Tình hình kinh tế nước ta nói chung và tỉnh Hà Tây nói riêng vẫn đang gặp phải những khó khăn thử thách hết sức gay gắt, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện nhiều, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Điều này ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cũng như vay ngân hàng để đầu tư.
- Từ năm 1980 đến 1995 ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây luôn có sự biến động về mô hình tổ chức, tách ra rồi lại sát nhập nhiều lần. Điều này gây tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng cũng như tác động không tốt đến các khách hàng có quan hệ thường xuyên với chi nhánh.
- Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây nhìn chung còn ở quy mô nhỏ bé, thiếu dự án hiệu quả để đầu tư.
- Hệ thống pháp luật, chính sách còn nhiều bất cập, cụ thể là cơ chế chính sách về đầu tư phát triển và tiền tệ tín dụng còn thiếu đồng bộ, chế độ về đầu tư xây dựng cơ bản bị sửa đổi bổ xung nhiều lần gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng.
Nhận thức được những khó khăn và thuận lợi của mình, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã đề ra nhiều biện pháp để thực hiện tốt kinh doanh như tạo điều kiện thuận lợi ở mức có thể tối đa cho khách hàng, có ưu tiên đặc biệt đối với các khách hàng truyền thống của mình, mở rộng cho vay đối với các khách hàng ngoài quốc doanh, đổi mới phong cách phục vụ... Mặt khác chi nhánh luôn bám sát định hướng phát triển của ngành, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy tắc, nghiệp vụ của ngành và thận trọng trong ký duyệt cho vay để đề phòng rủi ro trong cơ chế thị trường, phục vụ tốt hơn công tác đầu tư phát triển.
II. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN HÀ TÂY.
II.1. Thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn nói chung của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
Hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn là hai vấn đề không thể rời nhau, sử dụng vốn là cơ sở và động lực cho công tác huy động vốn và huy động vốn lại thúc đẩy sự mở rộng, phát triển việc sử dụng vốn. Vì vậy, ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình luôn cố gắng thực hiện tốt hơn công tác huy động vốn nhằm đáp ứng cho việc sử dụng vốn.
Việc huy động vốn phải dựa trên kết quả xác định nhu cầu vốn và thực hiện đáp ứng yêu cầu đó. Tuy nhiên trong phần sử dụng vốn thì việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả và có lợi cho ngân hàng và nền kinh tế . Ví dụ việc cho vay vốn đầu tư tại ngân hàng không chỉ sử dụng nguồn vốn huy động có thời hạn dài cho đầu tư mà còn sử dụng vốn ngắn hạn, việc đó là đúng theo quy định của nhà nước ( được phép lấy 20% vốn ngắn hạn cho vay đầu tư .).Đây chỉ là giải pháp tình thế nhằm tạo vốn cho nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay vậy huy động vốn và sử dụng vốn như thế nào là hợp lí để vừa đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với ngân hàng. Bởi nếu sự cân đối giữa huy động và cho vay không tốt sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngân hàng.
Đối với ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây để thấy rõ mối quan hệ giữa huy động và cho vay nói chung được thể hiện qua Bảng 1
Bảng 1: Thực trạng huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
Đơn vị: Triệu đồng
NĂM
CHỈ TIÊU
Năm 1998
Năm1999
Năm 2000
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
I. Huy động vốn
234.729
100%
339.785
100%
386.961
100%
1. Vốn huy động ngắn hạn
126.854
54%
242.232
71%
295.321
76%
2. Vốn huy động trung và dài hạn
69.013
29%
61.203
18%
58.369
15%
3. Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư.
38.862
17%
36.35
11%
33.279
9%
II. Sử dụng vốn.
207.025
100%
239.944
100%
286.529
100%
1. Cho vay ngắn hạn
91.884
44%
134.123
56%
181.214
64%
2. Cho vay trung và dài hạn
74.879
36%
75.608
32%
78.456
27%
3. Tài trợ uỷ thác đầu tư.
40.262
20%
30.213
12%
28.859
9%
III. Phần chênh lệch giữa cho vay và huy động trung và dài hạn và tài trợ
-7.266
-8.268
-15,667
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây.
Biểu đồ tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của NHĐT và PT Hà Tây.
Theo số liệu bảng 1 ta thấy, nguồn vốn huy động của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây tăng lên rõ rệt, năm 1999 nguồn vốn huy động được 339.785 triệu tăng ( 44,7%) so với năm 1998( 234.729 triệu) và năm 2000 đạt 386.916 triệu đồng tăng 13,9% so với năm 1999. Tuy nhiên tỷ trọng vốn trung và dài hạn so với tổng nguồn lại giảm, cụ thể qua ba năm 1998 – 2000 tưng ứng là 29%,18%,15%. Về số tuyệt đối năm 1999 là 61.203 triệu đến năm 2000 chỉ còn 58.369 triệu. Điều này cho thấy việc nguồn vốn tăng mạnh là do sự tăng lên của nguồn vốn huy động ngắn hạn . Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngân hàng thương mại khác trong những năm gần đây, là thừa nhiều vốn ngắn hạn từ huy động, gây nên tình trạng “ ứ đọng vốn ngắn hạn” song lại thiếu vốn trung và dài hạn cho đầu tư của nền kinh tế.
Tiếp theo ta thấy tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây có su hướng giảm, ,Năm 1998 tỷ lệ này là 36%, đến năm 1999 và năm 2000 tỷ lệ này còn tương ứng là 32% và 27%. Mặc dù tổng cho vay trung và dài hạn của ngân hàng từ năm 1998 đến năm 2000 có sự tăng về giá trị tuyệt đối từ năm 1998 đến năm 2000 có giá trị tương ứng là 74.879 triệu đồng, 75.608 triệu đồng và 78.456 triệu đồng. nhưng ta thấy mức tăng này chưa đáng kể và tương xứng với ngân hàng đầu tư một ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là cho vay trung và dài hạn cho các dự án đầu tư .Mặt khác nếu xét riêng tốc độ tăng trưởng các khoản cho vay trung và dài hạn ta thấy rằng từ năm 1998 đến năm 2000 cũng đã có sự tăng trưởng nhưng tỷ lệ tăng trưởng không cao cụ thể tốc độ tăng trưởng của nguồn này tương ứng là 0,9%, 3,76%.Điều đó cho thấy việc cho vay trung và dài hạn cũng gặp nhiều khó khăn , một phần có thể về phía khách hàng không giám vay do làm ăn không hiệu quả về phía ngân hàng có thể không cho vay được vì các dự án đưa ra có thể không mang tính khả thi, hay ngân hàng không thể huy động được nhiều nguồn vốn này...
Xem xét mối quan hệ giữa huy động và cho vay trung và dài hạn và tài trợ cho đầu tư phát triển ta thấy trong 3 năm từ 1998 đến năm 2000 số dư phần chênh lệch này kết âm tương ứng là( -7.266, -8.268,-14.841 triệu đồng.) . Như vậy ta thấy nguồn vốn trung và dài hạn và tài trợ uỷ thác đầu tư của ngân hàng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Mặt khác cũng nhìn vào tỷ lệ âm này ta thấy ngân hàng đã có một sự cân đối trong cho vay ngắn hạn để lấy một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn cho đầu tư phát triển, theo đúng chỉ thị 12/CT-NH. của ngân hàng nhà nước. Đây là một giải pháp tình thế ngân hàng nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được phép lấy 20% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền tế trong điều kiện các ngân hàng thương mại đang thừa vốn ngắn hạn. Do vậy dự nợ cho vay trung và dài hạn của ngân hàng lớn hơn mức huy động trung và dài hạn và tài trợ uỷ thách đầu tư.Tuy nhiên ngân hàng sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn các dự án đầu tư sẽ làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Do vây nếu khai thác được có hiệu quả nguồn vốn có thời gian dài hơn nữa thì ngân hàng sẽ có thể cho vay đầu tư phát triển nhiều hơn nữa.
Trong tương lai , theo xu hướng chung thì công tác huy động vốn có thời gian dài cho đầu tư phát triển sẽ đựơc chú trọng, bởi nhu cầu về nguồn vốn có thời gian dài trong các doanh nghiệp đang có đòi hỏi rất lớn do các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới các trang thiết bị , xây dựng mới các nhà xưởng... để nâng cao trình độ sản xuất phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Do vậy ngân hàng cần phải đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và cần đảm bảo an toàn và hiệu quả . Mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải nỗ lực phấn đấu để làm ăn hiệu quả và có thể đảm bảo chi trả đúng hạn cho các khoản nợ của ngân hàng. Có như vậy ngân hàng mới tồn tại và phát triển được.
Tóm lại : Việc cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng vốn nói chung và vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng là rất khó cho sự đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Do vậy đòi hỏi ngân hàng phải đề ra đựoc những giải pháp hưu hiệu trong cả huy động vốn và sử dụng vốn nhằm phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển. Để thấy rõ hơn và đề ra những giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển đòi hỏi ta phải xem xét cụ thể thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng.
II.2. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG.
II.2.1. Thực trạng về huy động vốn.
Như phần trên đã đề cập, việc huy động vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng thường phải là những nguồn vốn có thời gian tương đối dài ít nhất là một năm hay còn gọi là vốn trung và dài hạn . Đối với ngân hàng đầu tư phát triển với mục đích chủ yếu phục vụ cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn này đóng một vai trò quan trọng đối với ngân hàng. Thực tế trong những năm qua nguồn vốn có thời gian dài cho đầu tư phát triển của ngân hàng cũng có nhiều thay đổi , ảnh hưởng đến chi phí huy động và và hiệu quả của ngân hàng .
Hiện nay vốn dành cho đầu tư của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây gồm có 4 nguồn vốn chính sau: nguồn đi vay ngân hàng đầu tư phát triển TW, nguồn huy động bằng kỳ phiếu và trái phiếu, nguồn tài trợ uỷ thác đầu tư, nguồn huy động của các tổ chức kinh tế và dân cư > 1năm. Cụ thể của các nguồn này được thể hiện
Bảng 2: Thực trạng huy động vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây :
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
1. Vay ngân hàng ĐT& PT Việt nam.
38.222
32%
35.471
36%
36.213
39%
2. Kì phiếu – Trái phiếu.(> 12 tháng)
12.422
12%
14.689
15%
14.892
16%
3. Nhận tài trợ uỷ thác đầu tư.
38.862
36%
36.350
37%
33.271
36%
4. Tiền gửi TCKT, Dân cư,(> 12 tháng)
18.369
17%
11.043
12%
7.264
9%
Tổng
107.875
100%
97.373
100%
91.69
100%
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
Biểu đồ huy động vốn cho đầu tư phát triển của NHĐT và PT Hà Tây.
- Đối với nguồn vay từ ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Theo bảng trên ta thấy khoản đi vay trung và dài hạn cho đầu tư của ngân hàng đầu tư và phát triển TW qua các năm xét về mặt giá trị có phần tăng giảm chút ít trong các năm. Từ năm 1998- 2000 tương ứng là 38.222(32%) triệu đồng, 35.471(36%) triệu đồng, 36.213(39%) triệu đồng, điều này cho thấy ngân hàng đầu tư phát triển Việt nam vẫn đang là một cơ quan chủ quản cung cấp một phần vốn cho đầu tư phát triển của chi nhánh. Nhưng đây là nguồn có chi phí cao , ngân hàng chỉ sử dụng trong trường hợp thiếu vốn do vậy su hứng chung là nên giảm nguồn này cả về số tuyệt đối và số tương đối.
Nếu xét chung cả cơ cấu vốn vay từ nguồn vay ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thì tỷ trọng vốn vay trung và dài hạn cho đầu tư phát triển chiếm chủ yếu trong tổng nguồn vốn vay còn nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ. Điều này là tất yếu bởi ngân hàng đầu tư phát triển mục tiêu chủ yếu là phục vụ đầu tư và phát triển nên nguồn vay này tăng.
Tóm lại: Ngân hàng sử dụng hình thức này để đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển của mình trong trường hợp huy động nguồn vốn có thời gian dài cho đầu tư phát triển còn thiếu . Tuy nhiên nếu ngân hàng sử dụng hình thức này nhiều khi không có hiệu quả bằng hình thức tự huy động do lãi suất trả cho hình thức này cao hơn hình thức tự huy động . Do vậy, để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển và đem lại hiệu quả cho ngân hàng thì đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng tốt các biện pháp tự huy động khác như phát hành kỳ phiếu và trái phiếu cho đầu tư và huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế cùng các nguồn khác...
Huy động kỳ phiếu và trái phiếu:
Kỳ phiếu và trái phiếu là hai công cụ quan trọng và có hiệu quả để huy động vốn cho đầu tư và phát triển. Do vậy trong những năm qua và những năm tới ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây vẫn và sẽ sử dụng công cụ này một cách hữu hiệu để huy động vốn cho đầu tư và phát triển.
Hình thức huy động vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng bằng kỳ phiếu và trái phiếu đã được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1994. Nhưng mãi đến năm 1998 hình thức này mới chú trọng cho công tác huy động vốn của ngân hàng. Hiện nay hai công cụ này đang là phương tiện quan trọng cho công tác huy động vốn của ngân hàng nhằm giảm tính phụ thuộc nguồn vốn cho đầu tư và phát triển từ ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương. Theo số liệu bảng 2 ta thấy nguồn vốn huy động bằng kì phiếu và trái phiếu cho đầu tư và phát triển của ngân hàng đã được tăng lên trong các năm cụ thể năm 1998 là 12.422(12%) triệu đồng, thì năm 1999 là14.689 (15%) triệu đồng, và đến năm 2000 tăng lên 14.892(16%) triệu đồng.
Tuy nhiên, đối với kỳ phiếu và trái phiếu do thời gian đáo hạn tương đối dài nên tuy lãi suất của kỳ phiếu và trái phiếu có thể cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm nên rủi ro và bất tiện cho người mua kỳ phiếu và trái phiếu là rất lớn do hiện nay lãi suất trên thị trừng luôn biến động , và khi cần tiền mặt họ muốn chuyển từ kỳ phiếu và trái phiếu sang tiền mặt sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy để tăng cường khả năng huy động nguồn này đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho khách hàng.
Tóm lại: Nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu và trái phiếu để tạo vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng là quan trọng, và đóng vai trò chủ chốt nhằm tạo tính chủ động cho ngân hàng, phát huy nội lực của bản thân ngân hàng trong phục vụ cho đầu tư và phát triển. Hy vọng rằng với đường lối, chiến lược huy động đúng đắn, chính sách và giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và khả năng thì ngân hàng sẽ đạt được mức cao hơn về kỳ phiếu và trái phiếu.
Nhận tài trợ uỷ thác đầu tư:
Cũng qua số liệu của bảng 2 , ta thấy nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư có số vốn giảm đi qua các năm về số tuyệt đối. Cụ thể năm 1998 là 38.862 triệu đồng, năm 1999 là 36.350 triệu đồng và năm 2000 là 33.271 triệu đồng. Đây là nguồn vốn cung cấp vốn đầu tư trung và dài hạn cho đầu tư có chi phí thấp do ngân hàng chỉ làm đại lí cho nên không lo đầu ra và đầu vào của nguồn vốn, cũng không phải trả lãi cho người gửi mà được nhận một khoản phí từ công tác này. Tuy nhiên hiện nay nguồn này đang có xu hướng giảm đi vì hiện nay không chỉ có ngân hàng làm đại lí thanh toán và tài trợ uỷ thác đầu tư mà có rất nhiều ngân hàng và các tổ chức khác được tham gia nhận vốn uỷ thác, thực hiện việc giải ngân thu nợ các dự án đầu tư tài trợ. Và hiện nay theo chủ trương của nhà nước thì vốn tài trợ uỷ thác này được chuyển cho quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhiệm.
- Nguồn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư cho đầu tư phát triển.
Tổ chức kinh tế và dân cư là hai nguồn vốn lớn để ngân hàng có thể huy động vốn . Nhưng thực tế tiền giử của các nguồn này có thời gian dài lớn hơn 1 năm là rất thấp. Cụ thể năm năm 1998 đến năm 2000 nguồn này giảm đáng kể cả về số tuyệt đối và số tương đối tương ứng là.18.369 triệu đồng ( tương ứng 17%), 11.043 triệu đồng(12%), 7.264 triệu đồng(9%). Sở dĩ có vấn đề này là do trong những năm gần đây nhà nước luôn cắt giảm lãi suất để kích thích đầu tư của các doanh nghiệp do vậy tiền gửi của các doanh nghiệp giảm xuống. Mặt khác người dân không ưa thích giửi tiền tiết kiệm có thời gan tương đối dài do họ sợ rủi ro do có các biến động về lãi suất,lạm phát...hoặc khi họ muốn rút khoản tiền này ra sử dụng cho việc gì đó sẽ gặp khó khăn.
Tóm lại: Để có thể gia tăng được nguồn vốn huy động cho đầu tư và phát triển đáp ứng nhu cầu cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu của bản thân ngân hàng để đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho huy động vốn. Để có thể đưa ra được các giải pháp huy động cho đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây ta cần xem xét thêm các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng.
II.2.2. Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .
Các chính sách huy động.
Một trong những yếu tố chủ yếu hấp dẫn khách hàng của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây là sự đa dạng hoá của các hình thức huy động với nhiều loại kỳ hạn khác nhau như tiền gửi và tiền tiết kiệm các loại , kỳ phiếu các loại :3,6,9,12,24,.. tháng với lãi suất trả trước và lãi suất trả sau. Huy động bằng VNĐ và ngoại tệ... Với các hình thức huy động này, ngân hàng vừa đáp ứng được nhu cầu của nhiều tầng lớp khách hàng, vừa theo kịp và vượt các đối thủ cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng. Đặc biệt trong những năm vừa qua ngân hàng đã huy động được các đợt kỳ phiếu và trái phiếu lớn có thời gian tương đối dài như 1,2,3,4,5. năm. Hình thức huy động của ngân hàng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều khách hàng giúp ngân hàng tăng được nguồn vốn huy động của mình.
b. Nhân tố lãi suất huy động.
Sau khi xây dựng một chiến lược vốn phù hợp và bắt đầu tiến hành huy động vốn thì lúc này lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn và cơ cấu huy động vốn của ngân hàng vì mục đích lớn nhất của người giửi tiền là hưởng lãi suất lãi xuất càng cao thì lượng vốn huy động vào càng nhiều, và lãi suất của các nguồn khác nhau có mức lãi suất khác nhau thì lượng tiền gửi vào khác nhau. Do vậy chính sách lãi suất luôn được sử dụng mềm dẻo, thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp qua các thời kỳ và các kỳ hạn. Để xem xét nhân tố lãi xuất ảnh hưởng đến huy động ta xem xét bảng sau:
Bảng 2. Lãi suất trái phiếu của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây :
Thời điểm
26/3/1998
14/5/1999
30/6/2000
12 Tháng
0.85
0.95
0.95
24 Tháng
1.0
1.05
1.05
( Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây )
Như ta thấy lãi suất huy động trái phiếu kỳ hạn 12 tháng và 24 tháng của ngân hàng năm 1998 và 1999 tăng lên chút ít điều đó đã tăng được đáng kể nguồn vốn huy động từ kỳ phiếu và trái phiếu của ngân hàng, cụ thể năm 1998 là 12.422 triệu đồng thì đến năm 1999 tăng lên là 14.689 triệu đồng và đến năm 2000 lãi suất vẫn dữ nguyên như cũ do vây khối lượng vốn huy động được không có sự biến động đáng kể so với năm 1999 ( năm 2000 là 14.892 triệu).
Các hình thức tiếp thị cho huy động vốn của ngân hàng.
Công tác quảng cáo tiếp thị có tác động rất lớn đến hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây trong thời gian qua . Nhờ đẩy mạnh công tác này ngân hàng đã góp phần tăng đáng kể nguồn vốn huy động qua các năm như đã phân tích.
Như vậy, qua phân tích ở trên ta có thể nhận thấy công tác huy động vốn đã đạt được những thành tựu đáng kể đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên công tác này vẫn còn nhiều hạn chế đòi hỏi ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây cần phải có được các giải pháp hữu hiệu cho công tác này.
II.3. Tình hình sử dụng vốn và đánh giá tình hình sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
II.3.1. Tình hình hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
II.3.1.1. Thể lệ cho vay đầu tư phát triển của ngân hàng.
Nguồn vốn cho vay:
+ Vốn nhận từ nguồn do trung ương hỗ trợ.
+ Vốn uỷ thác tài trợ.
+ Vốn huy động trung và dài hạn để cho vay đầu tư.
+ Một phần tỷ lệ nhất định vốn ngắn hạn để cho vay đầu tư.
Mục đích cho vay: Đáp ứng vốn cho đầu tư xây dựng các dự án mới, mở rộng cải tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của đất nước.
Đối tượng cho vay: Là chi phí cấu thành tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng cải tạo, khôi phục đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ...
Phương thức cho vay: Trước mắt ngân hàng thực hiện các phương thức:
Cho vay dự án đầu tư.
Cho vay từng lần sản xuất kinh doanh.
Việc cho vay được đảm bảo bằng tài sản( Tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba, bằng tài sản hình thành từ vốn vay...) hoặc cho vay không bảo đảm theo địa chỉ của chính phủ.
Mức cho vay:
Mức cho vay của Nhu cầu vốn cần Vốn đầu tư Các nguồn Mức
một dự án hay = thiết hợp lí của - tự có tham - huy động - vay
một khách hàng dự án gia dự án khác NH khác
Vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước tham gia đầu tư là mức vốn thực có tại thời điểm vay, đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cá nhân, hộ gia đình , mức vốn tự có tham gia đầu tư tối thiểu là 50% so với vốn đầu tư của dự án. Mức vay đối với một khách hàng tối đa khong quá 70% tổng tài sản có thế chấp.
Thẩm định và quyết định cho vay:
Thẩm định cho vay:
+ Cán bộ tín dụng là người trực tiếp quản lý theo dõi khách hàng, trực tiếp tiếp nhận hồ sơ vay vốn, chịu trách nhiệm trực tiếp trong thẩm định, có đề xuất ý kiến rõ ràng về việc có đồng ý hay không đồng ý cho vay.
+ Trưởng phòng tín dụng thực hiện việc kiểm tra công tác thẩm định của các cán bộ tín dụng và có ý kiến rõ ràng về quyết định cho vay hay không cho vay. Sau đó trình hợp đồng tín dụng lên cho hội đồng tín dụng chi nhánh.
Quyết định cho vay: Chủ tịch hội đồng tín dụng chi nhánh có quền quyết định cho vay trong phạm vi thẩm quyền. Với trường hợp ngoài thẩm quyền do tổng giám đốc ngân hàng Đầu tư & Phát triển quyết định.
Thời hạn thẩm định và quyết định cho vay:
+ Các dự án do chi nhánh trực tiếp thẩm định xét duyệt cho vay thời gian không quá 30 ngày.
+ các dự án thuộc ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam quyết định thời gian thẩm định và quyết định cho vay không quá 45 ngày trong đó thời gian xét duyệt tại ngân hàng TW không quá 20 ngày.
+ Trường hợp không cho vay phải thông báo bằng văn bản cho khách hàng biết trong đó phải nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.
Về phát tiền vay: Ngân hàng và đơn vị vay kí kết hợp đồng và làm thủ tục phát tiền vay theo quy định của ngân hàng. Ngân hàng phát tiền vay theo quy định của ngân hàng. Ngân hàng phát tiền vay theo tiến độ thực hiện dự án .
Về kiểm tra và giám sát vay vốn: Cán bộ tín dụng có trách nhiệm kiểm tra , giám sát vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ vay của khách hàng. Hệ thống kiểm tra nội bộ thực hiện việc kiểm tra việc tuân thủ quy chế, quy định tín dụng, quá trình vay vốn theo quy định kiểm tra hoạt động tín dụng của toàn ngành và tại từng chi nhánh.
Về trả nợ gốc và lãi: Đến kì hạn trả nợ đã thoả thuân, đơn vị vay phải chủ động trả nợ đầy đủ cho ngân hàng. Đơn vị vay trả lãi và gốc theo kì hạn trả nợ đã được thoả thuận trước. Trường hợp khách hàng trả nợ trước hạn được giữ nguyên lãi suất và lãi vay được tính cho đến ngày trả nợ thực tế và ngân hàng xẽ có các biện pháp ưu tiên khác.
Về gia hạn nợ và điều chỉnh kì hạn nợ:
Khi đến thời hạn trả nợ nếu khách hàng không có khả năng trả hết nợ cho ngân hàng do nguyên nhân khách quan gây nên và có văn bản đề nghị ra hạn nợ thì chi nhánh xem xét ra hạn nợ( thời gian ra hạn nợ cho vay đầu tư các món vay do chi nhánh xét duyệt cho vay không quá 12 tháng. Riêng các món vay của chi nhánh do Ngân hàng đầu tư phát triển trung ương cho vay thì do ngân hàng Đầu tư & Phát triển TW quyết định.
Ngân hàng xem xét điều chỉnh nợ đối với các món vay không trả nợ đúng hạn do nguyên nhân khách quan và có văn bản đề nghị. Đối với những món vay do Ngân hàng đầu tư phát triển TW quyết định xét duyệt thì việc quyết định điều chỉnh gia hạn nợ do ngân hàng TW quyết định.
Khai thác khách hàng, tìm kiếm dự án.
Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn.
Điều tra thu thập thông tin về khách hàng và dự án vay vốn
Quyết định định cho vay vốn.
Kiểm tra,hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và hồ sơ Tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.
Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án.
Thu hồi và sử lí nợ.
Thanh lý hợp đồng vay vốn
II.3.1.2. Quy trình cho vay đầu tư phát triển tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây.
II.3.2 Thực trạng cho vay đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây :
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây hiện nay tuy đã hoạt động như một ngân hàng thương mại nhưng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam với sự phấn đấu đi lên của bản thân, ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trong hoạt động cho vay đầu tư phát triển góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế và xã hội của đất nước và của tỉnh Hà Tây. Để đánh giá tình hình sử dụng vốn cho đầu tư phát triển củn ngân hàng trong những năm qua ta xét bảng sau.
Bảng 3: Thực trạng cho vay đầu tư của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây ( 1998- 2000).
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
I.Tổng doanh số cho vay đầu tư phát triển
115.141
100%
105.821
100%
107.312
100%
1. Tài trợ uỷ thác đầu tư
40.262
35%
30.213
28%
28.859
25%
2. Cho vay đầu tư do chi nhánh tự lo
74.879
65%
75.608
72%
78.456
75%
II. Doanh số thu nợ đầu tư trong năm
84.279
85.289
92.471
III. Chênh lệch giữa cho vay và thu nợ đầu tư phát triển
- 30.862
-20.532
- 14.841
(Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây .)
Biểu đồ danh số cho vay và thu nợ đầu tư phát triển của NHĐT và PT Hà Tây
Qua bảng 3 ta thấy tổng nguồn vốn cho vay đầu tư tính đến cuối năm: Nếu không tách riêng phần cho vay tài trợ đầu tư của TW ra ta thấy tổng nguồn cho vay đầu tư tương đối ổn định qua các năm năm 1998 (là 115.141 triệu), năm 1999(105.821 triệu ) và năm 2000 là 107.312 triệu đồng. Nếu tách riêng phần tín dụng tài trợ thì tổng doanh số cho vay của ngân hàng qua các năm như sau:
Năm 1998: 75.879 triệu chiếm 65% so với tổng nguồn cho vay đầu tư tính đến cuối năm.
Năm 1999: 75.608 triệu đồng chiềm 72% so với tổng nguồn cho vay đầu tư tính đến cuối năm.
Năm 2000: 78.456 triệu đồng chiềm 75% so với tổng nguồn cho vay đầu tư tính đến cuối năm.
Như vậy ta thấy trong tổng cho vay do ngân hàng tự lo đã có tỷ trọng tăng lên trong các năm. Điều này thể hiện ngân hàng ngày càng chủ động trong hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mình. Nhưng là một chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển thì tỷ trọng tín dụng cho đầu tư như vậy còn rất nhỏ. Ngân hàng cần tăng tỷ trọng này cao hơn nữa để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, và trở thành một chi nhánh ngân hàng đầu tư phát triển với đúng nghĩa của nó.
Mặt khác cũng nhìn vào bảng 3 ta thấy Năm 1999 doanh số cho vay đầu tư chỉ bằng 91% (bằng 105.821 triệu đồng) so với năm 1998 nhưng đó là do bộ phận tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước giảm đáng kể trong năm này cụ thể năm 1998 là 40.262 triệu đồng thì đến năm 1999, 2000 còn tương ứng là 30.213 triệu đồng và 28.859 triệu đồng việc cho vay của ngân hàng trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước và khả năng tìm kiếm các dự án cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn rất nhiều hạn chế trong giai đoạn này trong khi nhu cầu vốn đầu tư cho thành phần kinh tế này là rất lớn.Việc cho vay vốn vẫn chỉ dựa và kế hoạch nhà nước giao, việc tự tìm kiếm khách hàng và dự án hiêu quả để cho vay còn rất hạn chế. Tuy nhiên, đẩy mạnh việc cho vay đối với các thành phần kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn hiệu quả của ngân hàng đã có xu hướng tăng lên qua các năm do vậy đến năm 2000 tuy vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước giảm xuống thì vốn cho vay đầu tư nói chung của ngân hàng tăng 3,8% so với năm 1999( tương đương 78.456 triệu đồng năm 2000).
Như vậy trong thời gian tới ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây cần đẩy mạnh hơn nữa việc cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và việc tìm kiếm khách hàng hiệu quả và dự án vay vốn hiệu quả ngày càng trở nên quan trọng đem lại lợi ích cho ngân hàng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho nền kinh tế
Nhưng việc cho vay sẽ trở nên không có ý nghĩa nếu không thu được nợ. Do vậy để đánh giá tình hình cho vay đầu tư ta cần xem xét tình hình thu nợ cho vay đầu tư. Việc thu nợ đối với ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây luôn được chú ý, ngân hàng đã thực hiện việc giao kế hoạch thu nợ đến các phòng ban cụ thể của ngân hàng với các biện pháp tích cực và hợp lý các đơn vị vay vốn đã cùng ngân hàng tìm mọi cánh khắc phục nợ quá hạn trả lãi và nợ đến hạn kịp thời. Năm 1998 thu nợ đầu tư đạt 84.279 triệu đồng, năm 1999 là 85.289 triệu đồng và năm 2000 thu nợ cho vay đầu tư như sau:
VNĐ: là 78.821 triệu đồng đạt kế hoach trung ương giao là 120%.
USD: là 937,5 Ngàn đạt kế hoạch trung ương giao là 103%.
Có được thành tích thu nợ tín dụng đầu tư năm 2000 vượt mức trung ương giao như vậy là nhờ có sự phối kết hợp, tạo điều kiện của các bạn hàng. Năm 2000 có 23/ 25 đơn vị hoàn thành kế hoạch trả nợ cho ngân hàng, có những đơn vị hoàn thành vượt mức kế hoạch trả nợ ngân hàng như công ty xi măng Tiên Sơn, Công ty may Hưng Thịnh, Công ty Chè Long phú... Điều đó đã minh chứng cho công tác thu nợ tín dung đầu tư của ngân hàng đã được chú trọng.
Việc thu nợ không những phản ánh hiệu quả và độ an toàn của đồng vốn cho vay mà nó còn là một nguồn để ngân hàng tiếp tục cho vay. Đây là một trong những giải pháp được ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chỉ đạo và được ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây thực hiện tốt, góp phần cùng với nguồn vốn TW hỗ trợ và nguồn vốn huy động để kịp thời cho các dự án đầu tư vay.
Mặt khác ta thấy tỷ phần trênh lệch giữa phần thu hồi vốn đầu tư và cho vay đầu tư của ngân hàng có giá trị âm và giảm dần trong các năm cụ thể năm 1998, 1999 và 2000 tươmg ứng là - 30.862; -20.532; -14.841 triệu đồng điều này chứng tỏ ngân hàng đang đẩy mạnh hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển và bên cạnh đó việc thu nợ các dự án cũ đang được đẩy mạnh.
Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Để đánh giá thêm hiệu quả của công tác sử dụng vốn cho đầu tư phát triển ta xem xét chỉ tiêu nợ qúa hạn và nợ khó đòi:
+ Các khoản nợ quá hạn: là các khoản nợ đã đến hạn thu hồi nhưng ngân hàng không thu được về và không được gia hạn thêm .
+ Các khoản nợ khó đòi: là các khoản nợ quá hạn nhưng khả năng thu hồi về thấp.
Như vậy, trong chỉ tiêu cho vay đầu tư phát triển bao gồm cả nợ quá hạn và trong số nợ quá hạn đó tồn tại một lượng nợ khó đòi, đó chính là rủi ro mà ngân hàng luôn gặp phải. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn quá cao, điều đó có thể khẳng định chất lượng cho vay của ngân hàng đó là thấp và ngược lại.
Bảng 4. Tình hình nợ quá hạn cho vay đầu tư:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Nợ quá hạn
1.387
2.039
2.550
Tỷ lệ nợ quá hạn
0.67%
0.85%
0.89%
Nợ quá hạn cho vay đầu tư
891
1.687
2.154
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay đầu tư trong tổng nợ quá hạn
65%
83%
85%
Nợ qua hạn khó đòi cho vay đầu tư
543
1.063
1.421
Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trong tổng nợ quá hạn cho vay đầu tư
61%
63%
66%
Nguồn: Phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây
Xem xét tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây trong những năm qua ta thấy ngân hàng luôn giữ được một mức nợ quá hạn được coi là lý tưởng chung <1%. Nhưng nếu xét riêng về cơ cấu cho vay đầu tư trong tổng cơ cấu thì tỷ lệ này lớn hơn hẳn tỷ lệ chung và có su hướng tăng trong các năm cụ thể năm 1998 (là 65% tổng nợ quá hạn) thì đến năm 1999 tăng lên là 83% và năm 2000 tỷ lệ này vẫn tiếp tục tăng là 85% trong tổng nợ quá hạn của ngân hàng. Song điều đó là tất yêú vì tín dụng đầu tư có thời gian dài hơn nên khả năng rủi ro, bất trắc cũng lớn hơn. Nhưng xét chung tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây trong những năm qua vẫn luôn giữ ở mức dưới 1%. Tuy nhiên nợ quá hạn tín dụng của ngân hàng đang có hướng tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối. Đặc biệt năm 2000 trong khi dư nợ tín dụng vẫn giữ ở mức gần như cũ thì tỷ lệ nợ quá hạn lại tăng lên từ 0.67% năm 1998 và 0,85% năm 1999 lên 0,89% năm 2000. Tuy con số 0,89% như vậy vẫn là một con số lí tưởng song ngay từ bây giờ ngân hàng cần phải có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nợ quá hạn đặc biệt là nợ quá hạn trong tín dụng đầu tư bằng cách đề ra các giải pháp hữu hiệu cho công tác thẩm định, quản lý vốn vay...
Một chỉ tiêu nữa mà ta chưa đề cập đến đó là tỷ lệ nợ khó đòi. Ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi chiếm một tỷ lệ tương đối trong tổng tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng đầu tư, và có xu hướng tăng lên về cả số tuyệt đối và số tương đồi cụ thể năm 1998 là 61%( tương đương 543 triệu) trong tỷ lệ nợ quá hạn cho vay đâù tư thì đến năm thì đến năm 1999 và năm 2000 tỷ lệ này tương ứnglà 63%(1.063 triệu đồng), 66% ( 1.421 triệu đồng). Do vậy ngân hàng cần phải có những giải pháp hữu hiệu để thu nợ và sử lí nợ quá hạn cũng như nợ khó đòi.
Tóm lại: Hoạt động tín dụng đầu tư của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn . Hầu hết các doanh nghiệp vay vốn và các dự án vay vốn ngân hàng đều làm ăn hiệu quả , trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng , nộp ngấn sách nhà nước và thu được nhiều lợi nhuận cho chính họ, góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế và xã hội của đất nước và của địa phương. Năm 2000 mới chỉ tính phục vụ đầu tư cho 31 doanh nghiệp với tổng doanh số cho vay cả ngắn , trưng và dài hạn là 250 tỷ và doanh số thu nợ là 288 tỷ, thì hiệu quả của đồng vốn mà ngân hàng cho vay đạt dược là:
Giá trị sản lượng thực hiện là: 1.059 tỷ.
Doanh thu : 922 tỷ.
Nộp ngân sách: 39 tỷ.
Lợi nhuận: 16 tỷ.
Tạo việc làm cho: 9.385 người.
Từ hoạt động trên đây ta có thể thấy hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây đã đã góp phần rất lớn cho việc đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước và cuả địa phương. thực hiện công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đối với ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây thì hoạt động này thì đã luôn theo đúng đường lối và chính sách của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, với phương châm phục vụ tốt hơn cho lĩnh vực đầu tư phát triển.
Để có thể đưa ra được những giải pháp tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển ta cần xem xet thêm các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển Hà tây.
II.3.3. Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây trong thời gian qua:
II.3.3.1. Đánh giá chung:
Với thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư như đã nêu ở phần trước về các mặt doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, những thành tựu đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với tổng thể nền kinh tế cho ta những đánh giá chung nhất về chất lượng tín dụng cho đầu tư tại chi nhánh ngân hàng như sau:
Nhìn chung chất lượng tín dụng đầu tư tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây thời gian qua là khá tốt. Tuy có một số hạn chế về quy mô, tỷ trọng cho vay đầu tư, phương thức cho vay còn đơn điệu, đối tượng khách hàng cho vay còn hạn chế, những rủi ro tiềm ẩn đang có xu hướng tăng lên nhưng có thể thấy chất lượng tín dụng đầu tư đạt được như vậy cũng là rất khả quan và kết hợp hài hoà giữa lợi ích của ngân hàng, lợi ích của khách hàng và của nền kinh tế.
Có được những thành tựu đó trước hết là nhờ sự chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, của ngân hàng Nhà nước tỉnh Hà Tây và đặc biệt là ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng hướng của giám đốc ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây và sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong ngân hàng cũng như các khách hàng của ngân hàng. Trong thời gian tới ngân hàng cần cố gắng hơn nữa để đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho đầu tư phát triển.
II.3.3.2. Đánh giá công tác đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây:
Hiệu quả sử dụng vốn được hình thành và đảm bảo từ cả hai phía: ngân hàng và khách hàng. Nó được đảm bảo trong suốt quá trình cho vay. Để có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây ta lần lượt xem xét việc nâng cao hiệu quả thông qua các công tác chính sau:
II.3.3.2.1. Công tác thẩm định:
Công tác thẩm định là khâu đầu tiên quyết định hiệu quả hoạt động cho vay vốn. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công tác thẩm định ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã thực hiện khá tốt khâu này. Thẩm định là sự kiểm tra, phân tích đánh giá và kết luận các mặt về khách hàng vay vốn và dự án vay vốn để đi đến quyết định có cho vay hay không. Đây chính là khâu kiểm tra trước khi cho vay của ngân hàng. Hầu hết các khoản cho vay của ngân hàng đều được kiểm tra trước khi cho vay. Việc kiểm tra, phân tích, đánh giá hết các chi tiết tuân theo đúng các quy trình thẩm định do ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam hướng dẫn, ít gây phiền hà đối với khách hàng và đưa ra những ý kiến tham mưu cho ban lãnh đạo một cách cụ thể, rõ ràng. Ngân hàng đã đề cập, xem xét trên nhiều khía cạnh, tiến hành phân tích nhiều chỉ tiêu để đưa ra được những kết luận chung nhất về các khoản vay như tư cách - uy tín của khách hàng vay, khả năng tài chính của doanh nghiệp vay vốn, tư cách pháp lý của dự án vay vốn và tính khả thi của dự án đó. Việc thẩm định dự án về mặt tài chính được chú trọng các chỉ tiêu cơ bản như: giá trị hiện tại thuần (NPV), hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR).
Ngân hàng ngoài việc xem xét đánh giá những mặt hiện tại có liên quan đến khách hàng và dự án vay vốn còn xem xét các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý... để đánh giá mức rủi ro tiềm ẩn của dự án. Qua khâu thẩm định ngân hàng đã phát hiện ra những điểm chưa hợp lý và tư vấn cho khách hàng làm ăn hiệu quả hơn.
Tóm lại: Công tác thẩm định được ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây thực hiện khá tốt, giúp ngân hàng đưa ra được những quyết định cho vay đúng đắn. Tuy nhiên công tác thẩm định vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục có thể khái quát quá trình thẩm định dự án vay vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây như sau:
A. Thực trạng thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây
- Mục đích thẩm định tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây .
+ Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư, khả năng hoàn vốn của dự án cũng như khả năng trả nợ của chủ đầu tư.
+ Tham gia ý kiến với Nhà nước và chủ đầu tư có quyết định, chủ trương đầu tư đúng đắn, có cơ sở đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư.
+ Phát hiện bổ sung thêm các biện pháp đảm bảo tính khả thi cho việc triển khai thực hiện dự án, khắc phục hoặc hạn chế các yếu tố gây rủi ro.
+Tạo các căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư dự án.
+Rút ra kinh nghiệm và bài học để phục vụ tốt các yêu cầu của nghiệp vụ chung của ngành.
- Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây :
* Thẩm định các điều kiện pháp lý của dự án và đơn vị vay vốn:
Hồ sơ do doanh nghiệp lập gửi tới ngân hàng Đầu tư và Phát triển để vay vốn đầu tư yêu cầu phải có các tài liệu sau: Các văn bản pháp lý của đơn vị vay vốn. Nghiên cứu khả thi, quyết định đầu tư dự án của các cấp có thẩm quyền, tổng dự toán công trình(là tổng chi phí cần thiết cho việc đầu tư công trình, được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế kỹ thuật thi công) văn bản phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán công trình của cấp có thẩm quyền, giấy phép xây dựng. Nhiệm vụ của cán bộ thẩm định là phải kiểm tra các quyết định, giấy phép được cấp có đúng thẩm quyền và đầy đủ không. Yêu cầu đối với các giấy tờ đó là: chúng phải là bản chính hoặc bản sao nhưng được công chứng.
* Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp.
Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính như: Bảng tổng kết tài sản 3 năm gần đây nhất, bảng quyết toán lãi lỗ, báo cáo thu chi tiền mặt. Dựa vào những tài liệu trên, cán bộ tín dụng phải thực hiện những phân tích về vốn và tài sản, tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, công nợ... Những phân tích đó phải đưa ra được diễn biến qua các năm của các chi tiêu được đưa ra, xu hướng trong tương lai. Và cuối cùng là việc tính toán một số hệ số tác nghiệp như hệ số về khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, an toàn tài chính, hệ số bù đắp, hệ số khả năng sinh lời, khả năng kinh doanh.
* Kiểm tra việc tính toán xác định vốn đầu tư.
Tổng vốn cần thiết cho dự án gồm vốn cố định và vốn lưu động:
Vốn cố định : bao gồm toàn bộ các chi phí cho quá trình đầu tư dự án: từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc xây dựng đưa dụ án vào xây dựng.
Vốn lưu động: nhằm đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên huy động dự án vào sản xuất kinh doanh đạt công suất thiết kế bao gồm:
Vốn sản xuất: chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, nhiên liệu...
Vốn lưu thông: sản xuất dở dang tồn kho, thánh phần tồn kho, hàng hoá bán chịu...
Trong giai đoạn này, thẩm định dự án không chỉ là đánh giá mức độ chính xác trong việc tính toán nhu cầu vốn đầu tư mà còn phải lưu ý đến các nguồn vốn bảo đảm cho đầu tư. Chúng có thể là vốn tự có, vốn góp, vốn ngân sách cấp, vốn kinh doanh. Những nguồn vốn cần đựoc xem xét về các căn cứ và biện pháp bảo đảm. Điều này hạn chế tình trạng thiếu vốn hoặc thừa vốn trong quá trình thực hiện đầu tư. Hơn nữa, thông quá đó, ngân hàng mới tình toán mức vốn cần cho vay, hình thức cho vay và xác định lịch bỏ vốn.
* Kiểm tra việc tính toán và xác định doanh thu, chi phí sản xuất.
Việc kiểm tra và xác định doanh thu của từng năm được dựa trên công suất thiết kế của công trình, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án, giá bán sản phẩm.
Chi phí sản xuất bao gồm chi phí lãi vay và các chi phí khác như: Khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên vật liệu...chi phí về lãi tiền vay được tính theo công thức: Lãi tiền vay = dư nợ vay x lãi suất x thời gian vay . Khoản chi phí này phụ thuộc vào phương án nguồn vốn, tiến độ rút vốn và lịch trả nợ đối với các nguồn vốn vay để đầu tư. Cần chú ý rằng, lãi vay không chỉ phải trả đối với bản thân ngân hàng mà còn các tổ chức tài chính chung gian khác có tham gia vào quá trình đầu tư với tư cách là nhà tài trợ. Đối với các chi phí sản xuất khác, xác định tính chính xác thông qua kiểm tra các chỉ tiêu đưa vào tính toán chi phí sản xuất của dự án như định mức tiêu hao nguyên vật liệu, giá nguyên vật liệu, thời gian khấu hao và phương pháp trích khấu hao. Đây là công việc hết sức khó khăn. tuy ngân hàng đã có mức tính chi phí cho một số ngành nghề nhất định nhưng chỉ dựa vào kinh nghiệm tự tích luỹ qua nhiều năm. Thông tin về các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đối với cán bộ tín dụng là rất ít. Điều này cũng gây ảnh hưởng lớn đến việc tính toán chi phí. Phương pháp phân bổ chi phí cũng có nhiều nên 1 số doanh nghiệp không tuân thủ chế độ hạch toán kế toán do Bộ tài chính ban hành, gây khó khăn cho cán bộ tín dụng.
* Phân tích hiệu quả đầu tư.
Thông thường, để đánh giá hiệu quả đầu tư người ta thường tính một hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả của dự án. Tại chi nhánh, người ta thưòng tính các chỉ tiêu sau: Thời gian hoàn vốn, NPV, IRR...
* Phân tích khả năng trả nợ của dự án
Xác định nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ dự án bao gồm nguồn từ hiệu quả sản xuất kinh doanh của dự án, khấu hao cơ bản hình thành từ dự án và các nguồn khác do doanh nghiệp huy động ngoài đầu tư như khấu hao cơ bản có sẵn, trích lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác. Đối với các nguồn khác, do tính bấp bênh, khó xác định nên ngân hàng luôn yêu cầu cán bộ thẩm định phải kiểm tra tính khả thi của chúng.
Trên cơ sở nguồn trả nợ đã tính toán ở trên, lịch thu nợ và mức trả nợ vay hợp lý cũng được thiết lập trong giai đoạn này. Yêu cầu đối với lịch thu nợ, mức trả nợ là phải:
+ Xác định cụ thể cho từng loại vốn
+ Cân đối các nguồn trả nợ theo tỷ lệ tham gia của từng loại vốn vay trong nguồn vốn doanh nghiệp đã vay để đầu tư xây dựng công trình.
+ Đặt ra mức thu nợ hợp lý sao cho có thể thu nợ trong nước khi vốn vay nước ngoài đang trong thời gian ân hạn; Ưu tiên thu nợ vay bằng ngoại tệ và nợ trung hạn trước.
Để đánh giá đúng khả năng trả nợ, ngoài việc cân đối nguồn dùng để trả nợ và nợ phải trả, phương pháp phân tích theo chỉ tiêu cũng được áp dụng. Hai chỉ tiêu quan trọng nhất là thời gian trả nợ từ hoạt động dự án và thời gian trả nợ từ hoạt động của doanh nghiệp.
+ Thời gian trả nợ:
TTN =
Tổng số vốn vay
KHCB mỗi năm + LN dành để trả nợ
+ Thời gian trả nợ từ hoạt động của doanh nghiệp:
TTN =
Tổng số vốn vay
KHCB mỗi năm + LN dành để trả nợ + nguồn khác của doanh nghiệp
Nếu chúng mà nhỏ thì điều đó có nghĩa là khả năng trả nợ của doanh nghiệp là tương đối cao.
* Kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn vốn vay:
Trong từng trường hợp có thể yêu cầu các điều kiện bảo đảm sau:
Doanh nghiệp chỉ rõ nguồn trả nợ có thể huy động được từ hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài dự án đầu tư để đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng thời hạn và mức trả đã cam kết.
Yêu cầu bên thứ ba ký với ngân hàng Đầu tư Phát triển hợp đồng bảo lãnh trả nợ thay cho doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ đúng như cam kết. Trong trường hợp này, phải kiểm tra kỹ năng lực tài chính của người bảo lãnh để đảm bảo tính khả thi.
Yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng Đầu tư Phát triển để làm nguồn trả nợ cho ngân hàng, đảm bảo số dư tối thiểu trên tài khoản bằng một kỳ hạn trả nợ trước mỗi kỳ hạn trả nợ.
Yêu cầu doanh nghiệp cam kết sẽ chuyển toàn bộ tiền thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh từ dự án vào tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng Đầu tư Phát triển khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
B. Dự án minh hoạ:
* Giới thiệu dự án:
- Tên dự án: Đầu tư chiều sâu thiết bị khoan khai thác nước ngầm.
- Chủ dự án: Công ty xây dựng cấp thoát nước( Wasseenco).
- Địa chỉ: 52 Quốc tử giám- Đống Đa - Hà Nội.
- Chủ đầu tư xin vay ngân hàng 7.417.500.000 VNĐ với thời hạn 84 tháng ( 7 năm).
- Ngân hàng đã ký hợp đồng vay vốn số 01/2000/HĐ
Lãi suất vay: +Lãi suất trong hạn: 0,81%/ Tháng .
+Lãi suất nợ quá hạn: 1,215%/ Tháng.
Ngân hàng đã tiến hành thẩm định dự án đầu tư trên như sau:
a. Về pháp nhân vay vốn:
- Công ty cấp thoát nước (Wasseenco) là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân.
- Chức năng sản xuất chính: Xây dựng nhà máy cấp nước và nước thải, đường ống cấp thoát nước, xây dựng công trình công nghiệp, dân dụng, sản xuất cấu kiện bê tông, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu vật tư chuyên ngành cấp thoát nước, tư vấn.
- Chứng chỉ hành nghề xây dựng số 61/BXD/CSXD ngày 20/03/97 của Bộ Xây Dựng.
- Giấy phép hành nghề số 1535/QĐ/BNN-QLNN ngày 28/05/98 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Đại diện do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT1.docx