Tài liệu Đề tài Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua: MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Như vậy ăn uống là nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những để duy trì sự sống, tái sản xuất sức lao động mà còn phát triển kinh tế. Ăn uống đã nâng lên thành nghệ thuật và là nghệ thuật ẩm thực từ quy trình sao cho đẹp mắt, hấp dẫn và ngon miệng. Và nghệ thuật ẩm thực được nâng lên thành văn hóa ẩm thực.
Ăn uống là cách thể hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử, thể hiện lối sống của con người. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền, mỗi địa phương đều có một tập quán ăn uống riêng: từ cách ăn, kiểu ăn, món ăn đặc trưng… không nơi nào giống nơi nào. Đặc điểm ăn uống đó xuất phát từ quá trình sống, điều kiện tự nhiên, tập quán lao động sản xuất, khí hậu, điều kiện xã hội và các tác động bên ngoài.
Ẩm thực của mỗi vùng miền trên đất nước Việt Nam là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: địa hình, con người, phong tục, tập quán… và cũng như vậy ta thấy, phong cách ẩm...
32 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Như vậy ăn uống là nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những để duy trì sự sống, tái sản xuất sức lao động mà còn phát triển kinh tế. Ăn uống đã nâng lên thành nghệ thuật và là nghệ thuật ẩm thực từ quy trình sao cho đẹp mắt, hấp dẫn và ngon miệng. Và nghệ thuật ẩm thực được nâng lên thành văn hóa ẩm thực.
Ăn uống là cách thể hiện nét đẹp trong văn hóa ứng xử, thể hiện lối sống của con người. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền, mỗi địa phương đều có một tập quán ăn uống riêng: từ cách ăn, kiểu ăn, món ăn đặc trưng… không nơi nào giống nơi nào. Đặc điểm ăn uống đó xuất phát từ quá trình sống, điều kiện tự nhiên, tập quán lao động sản xuất, khí hậu, điều kiện xã hội và các tác động bên ngoài.
Ẩm thực của mỗi vùng miền trên đất nước Việt Nam là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: địa hình, con người, phong tục, tập quán… và cũng như vậy ta thấy, phong cách ẩm thực của miền Trung thể hiện cách sống, lối sống độc đáo của con người xứ này. Thanh Hóa cũng đã góp một phần vào nét độc đáo của người miền Trung, góp phần làm nên hương vị riêng của món ăn Việt.
Những món quà nhỏ bé ở Thanh Hóa đã thể hiện lối ứng xử tự nhiên, thổi cả tâm tư tình cảm của con người vào trong đó. Qua đó thấy được nét văn hóa của người xứ Thanh trong giá trị ẩm thực như: chân – thiện – mỹ.
Là một người con sinh ra trên mảnh đất Thanh Hóa giàu truyền thống văn hóa, nơi con sông Mã vẫn âm thầm chảy qua những nương dâu xanh ngát, những đồng ruộng tươi tốt, bản thân tôi luôn muốn góp một chút gì đó cho quê hương đang trên đà phát triển. Tìm hiểu đề tài: “Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua”, tôi hy vọng sẽ được hiểu biết thêm về những giá trị văn hóa tiềm ẩn bên trong đời sống vật chất và tinh thần của con người xứ Thanh. Góp phần giữ gìn và tôn vinh một trong những giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đất này.
Lịch sử vấn đề
Văn hóa ẩm thực không phải là một vấn đề mới, mà đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đền này. Nhưng nghiên cứu ở một địa phương thì chỉ có những bài báo nhỏ lẻ, chưa có một công trình chuyên sâu, chuyên khảo nên chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua”.
Ngay từ buổi xa xưa, văn hóa ẩm thực Việt Nam đã đi vào khuôn phép, đã trở thành di sản lưu truyền, mang rõ dấu ấn thời đại và được người xưa lưu giữ mãi cho đến đời sau, xứng đáng là một kho báu của người Việt để lại. Ông cha ta đã từng trân trọng nền văn hóa ẩm thực từ thời xa xưa bằng các câu chuyện cổ tích về Bánh chưng bánh dày, về dưa hấu, về trầu cau... mỗi câu chuyện đều có sự tích, đều gắn với tên người được ghi lại sớm từ thời Trần – Lê trong cuốn Lĩnh Nam trích quái, các bài viết về ăn và uống của nhà bác học Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ, của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút, Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục, Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương…
Theo dòng thời gian, việc nghiên cứu về văn hóa ẩm thực Việt Nam đã trở thành một đề tài khoa học nghiêm túc. Bằng chứng là thế hệ trẻ ngày nay đã quan tâm đến bản sắc dân tộc trong ăn uống, trong các bài nghiên cứu, qua các luận văn tốt nghiệp về văn hóa ẩm thực. Đến nay có nhiều nhà xuất bản, các tạp chí, vô tuyến truyền hình đã cho ra nhiều sách báo và hình ảnh chứa đựng nội dung sâu sắc về văn hóa ẩm thực có giá trị. Đáng chú ý phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả sau.
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm viết về văn hoá ứng xử môi trường tự nhiên và việc tận dụng môi trường tự nhiên trong ăn uống của người Việt. Nhưng trong cả hai cuốn sách này tác giả chỉ khái lược những nét chung nhất về ăn uống của người Việt, chưa đi sâu vào văn hóa ẩm thực của từng địa phương.
Trong cuốn Văn hóa ẩm thực Việt Nam các món ăn miền Bắc do Băng Sơn – Mai Khôi giới thiệu, Văn hóa ẩm thực Việt Nam các món ăn miền Trung do Mai Khôi sưu tầm và sáng tác, Văn hóa ẩm thực Việt Nam các món ăn miền Nam do Băng Sơn – Vũ Bằng – Thượng Hồng giới thiệu. Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đi vào giới thiệu nhiều món ăn đặc trưng của từng vùng miền, từng địa phương cụ thể nhưng chưa đầy đủ, cung cấp cho chúng ta thấy được sự khác nhau giữa văn hóa ẩm thực ba miền.
Trong cuốn Văn hóa ẩm thực những điều học hỏi của tác giả Vũ Ngọc Khánh, có nhiều nghiên cứu tương đối chi tiết về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Tác giả đề cập đến tập quán ăn uống chung của người Việt và những sắc thái địa phương riêng như: Hà Nội, Huế, Sài Gòn, xứ Nghệ… chính là những sắc thái này tạo nên sự đa dạng và làm cho bức tranh ẩm thực Việt Nam thêm phần sinh động. Màu sắc địa phương tô thêm cho bản sắc dân tộc những nét đậm đà và do đó ta có thể hiểu được người Việt hơn.
Trong cuốn Giáo trình văn hóa ẩm thực Việt Nam của Nguyễn Thị Diệu Thảo, nghiên cứu một cách công phu có sự hiểu biết rộng và sâu sắc về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Hầu như tất cả các vấn đề văn hóa ẩm thực của nước ta, từ những vấn đề về nguyên liệu, chế biến, đồ gia vị, cách thức thưởng thức đến những đặc trưng trong phong tục ăn uống ở các vùng miền, từ ẩm thực bình dân đến ẩm thực cung đình… Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những nét về văn hóa ẩm thực Trung Hoa, các nước Đông Nam Á, các nước phương Tây nhờ vậy mà đặc trưng văn hóa ẩm thực Việt Nam càng nổi bật.
Trên đây là những công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn hóa ẩm thực Việt Nam. Kế thừa và tiếp thu ý kiến của người đi trước và qua sự khảo sát thực tế, trong đề tài này chúng tôi bước đầu khảo sát văn hóa ẩm thực ở Thanh Hóa để cố gắng đưa ra những vấn đề cụ thể và toàn diện hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua.
- Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu mảnh đất, con người Thanh hóa và đặc sản ẩm thực qua món nem chua.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp điền dã, thâm nhập
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp khảo sát.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, đề tài còn có phần mục lục và thư mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Tổng quan về Thanh Hóa và ẩm thực Thanh Hóa
Chương 2: Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua.
NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về Thanh Hóa và ẩm thực Thanh Hoá
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đông. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình, phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào) với đường biên giới 192 km, phía Đông là Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là 11.106 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².
Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi như: đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217, cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.
Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1. Địa hình
Thanh Hoá có địa hình đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3 vùng rõ rệt:
- Vùng núi và Trung du có diện tích đất tự nhiên 839.037 ha, chiếm 75,44% diện tích toàn tỉnh, độ cao trung bình vùng núi từ 600 -700m, độ dốc trên 25o, vùng trung du có độ cao trung bình 150 - 200m, độ dốc từ 15 -20o.
- Vùng đồng bằng có diện tích đất tự nhiên là 162.341 ha, chiếm 14,61% diện tích toàn tỉnh, được bồi tụ bởi các hệ thống Sông Mã, Sông Bạng, Sông Yên và Sông Hoạt. Độ cao trung bình từ 5 - 15m, xen kẽ có các đồi thấp và núi đá vôi độc lập. Đồng bằng Sông Mã có diện tích lớn thứ ba sau đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng.
- Vùng ven biển có diện tích 110.655 ha, chiếm 9,95% diện tích toàn tỉnh, với bờ biển dài 102 km, địa hình tương đối bằng phẳng. Chạy dọc theo bờ biển là các cửa sông. Vùng đất cát ven biển có độ cao trung bình 3 - 6 m, có bãi tắm Sầm Sơn nổi tiếng và các khu nghỉ mát khác như Hải Tiến (Hoằng Hoá) và Hải Hoà (Tĩnh Gia)... có những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển.
1.1.2.2. Khí hậu
Thanh Hoá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 4 mùa rõ rệt. Gió Bắc do không khí lạnh từ vùng áp cao Siberi qua Trung Quốc thổi xuống. Gió Tây Nam từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi vào, rất nóng, gọi là gió Lào hay gió phơn Tây Nam. Gió Đông Nam thổi từ biển vào đem theo không khí mát mẻ.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1600-2300mm, mỗi năm có khoảng 90 - 130 ngày mưa. Độ ẩm tương đối từ 85% đến 87%, số giờ nắng bình quân khoảng 1600-1800 giờ. Nhiệt độ trung bình 230C - 240C, nhiệt độ giảm dần khi lên vùng núi cao. Hướng gió phổ biến mùa Đông là Tây bắc và Đông bắc, mùa hè là Đông và Đông nam.
1.1.2.3. Tài nguyên đất
Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 1.112.033 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp 245.367 ha; đất sản xuất lâm nghiệp 553.999 ha; đất nuôi trồng thuỷ sản 10.157 ha; đất chưa sử dụng 153.520 ha với các nhóm đất thích hợp cho phát triển cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả.
1.1.2.4. Tài nguyên rừng
Thanh Hoá là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích đất có rừng là 484.246 ha, trữ lượng khoảng 16,64 triệu m3 gỗ, hàng năm có thể khai thác 50.000 - 60.000 m3. Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài, có các loại gỗ quý hiếm như: lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, dổi, de, chò chỉ. Các loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre. Ngoài ra còn có: mây, song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ… Các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ, bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Thanh Hoá là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 50.000 ha. Rừng Thanh Hoá cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim… Đặc biệt ở vùng Tây nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En, vùng Tây Bắc có các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien động, thực vật quí hiếm, đồng thời là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách.
1.1.2.5. Tài nguyên biển
Thanh Hoá có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền đánh cá ra vào. Đây cũng là những trung tâm nghề cá của tỉnh. Ở vùng cửa lạch là những bãi bồi bùn cát rộng hàng ngàn ha, thuận lợi cho nuôi trồng hải sản, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặn ở vùng biển đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, trai ngọc, tôm hùm và hàng chục ngàn ha nước mặn ven bờ thuận lợi cho nuôi nhuyễn thể vỏ cứng như ngao, sò…
Vùng biển Thanh Hoá có trữ lượng khoảng 100.000 - 120.000 tấn hải sản, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao.
1.1.2.6. Tài nguyên khoáng sản
Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, có 296 mỏ và điểm khoáng sản với 42 loại khác nhau, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như: đá granit và marble (trữ lượng 2 -3 tỉ m3), đá vôi làm xi măng (trên 370 triệu tấn), sét làm xi măng (85 triệu tấn), crôm (khoảng 21 triệu tấn), quặng sắt (2 triệu tấn), secpentin (15 triệu tấn), đôlômit (4,7 triệu tấn), ngoài ra còn có vàng sa khoáng và các loại khoáng sản khác.
1.1.2.7. Tài nguyên nước
Thanh Hóa có 4 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên với tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39.756km2 tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,52 tỉ m3. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho phát triển thủy điện. Nước ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lượng và chủng loại bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mac ma và phun trào.
1.2. Nguồn gốc dân cư
Thanh Hóa là tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam hiện nay. Lịch sử hình thành và phát triển của xứ Thanh gắn liền với quá trình cộng cư của người Việt với người Mường và các dân tộc khác. Đồng thời có một bộ phận không nhỏ dân cư Thanh Hóa đang sinh sống tại các đô thị lớn trong nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh ... cũng như tại một số nước trên thế giới.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người, đứng thứ ba Việt Nam, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Trong tổng dân số năm 2009, nữ giới có 1.717.067 người, dân số thành thị là 354.880 người. Mật độ dân số vào loại trung bình: giảm từ 310 người/km² (năm 1999) xuống 305 người/km² (năm 2009). Tỉ số giới tính (số nam trên 100 nữ) tăng từ 95,6 % (năm 1999) lên 98,0 % (năm 2009), tương đương với mức chung của cả nước.
Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các dân tộc khác có dân số và địa bạn sống thu hẹp hơn, như người Khơ Mú chỉ sống chủ yếu ở 2 bản Đoàn Kết, xã Tén Tằn và Suối Lách, xã Mường Chanh, huyện Mường Lát.
1.3. Đời sống kinh tế
1.3.1. Nông, lâm, ngư nghiệp
Nông nghiệp
Thống kê đến năm 2004, toàn tỉnh có 239.843 ha đất nông nghiệp đang được sử dụng khai thác.
Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,408 triệu tấn.
Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn, nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha; dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha...
Lâm nghiệp
Rừng Thanh Hóa cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: voi, hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim... Đặc biệt ở phía nam của tỉnh có vườn quốc gia Bến En, phía Bắc có vườn quốc gia Cúc Phương, phía Tây bắc có khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, phía Tây nam có khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên là những nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien, động vật, thực vật quý, đồng thời là những điểm du lịch hấp dẫn.
Ngư nghiệp
Ngư nghiệp Thanh Hóa có nhiều điều kiện phát triển.
Thanh Hóa có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền ra vào. Vì vậy Thanh Hóa có điều kiện phát triển ngư nghiệp rất tốt.
1.3.2. Ngành thương mại và Du lịch
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại Thanh Hóa đã có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện lưu thông thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu USD, năm 2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bên cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là: nông sản (lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê...), hải sản (tôm, cua, mực khô, rau câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ (các sản phẩm mây tre, sơn mài, chiếu cói...), đá ốp lát, quặng crôm...
Ngành sản xuất công nghiệp
Cũng như Việt Nam, nền công nghiệp Thanh Hóa không phát triển. Theo số liệu của tổng cục thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2009, chỉ số phát triển công nghiệp của toàn tỉnh tăng 8,2 %, đây là mức tăng cao so với mức tăng bình quân của cả nước là 4,6% (trong đó TP Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ tăng ở mức thấp là 0,4% và 2,7%). Tính đến thời điểm năm 2009, Thanh Hóa có 5 khu công nghiệp tập trung và phân tán. Một số khu công nghiệp:
Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã Bỉm Sơn.
Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) - Huyện Tĩnh Gia.
Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa.
Khu công nghiệp Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh Hóa.
Khu công nghiệp Lam Sơn - Huyện Thọ Xuân.
Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu kinh tế này được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006. Khu kinh tế này nằm ở phía Nam của tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 200 km, có đường bộ và đường sắt quốc gia chạy qua, có cảng biển nước sâu cho tầu có tải trọng đến 30.000 DWT cập bến. Khu kinh tế Nghi Sơn là một trung tâm động lực của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đang được quy hoạch, cũng được đánh giá là trọng điểm phát triển phía Nam của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đồng thời là cầu nối giữa vùng Bắc Bộ với Trung Bộ, với thị trường Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần
1.4.1. Đời sống văn hóa vật chất
Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú bao gồm các di sản thiên nhiên, truyền thống lịch sử phong phú, các làng nghề và các lễ hội truyền thống, những cảnh đẹp thiên nhiên phong phú và sự đa dạng của các nền văn hóa dân tộc. Từ khi đất nước đổi mới và hội nhập đến nay, với chiến lược phát triển văn hóa gắn với kinh tế du lịch, hoạt động văn hóa và du lịch tỉnh Thanh đã và đang đẩy mạnh việc gắn kết giữa hoạt động văn hóa với du lịch, trong đó lấy văn hóa làm động lực để phát triển du lịch và ngược lại du lịch phát triển đã tác động trở lại tạo đà để văn hóa thấm sâu vào tâm thức và thẩm mỹ của quần chúng. Các di tích khảo cổ thời đại đồ đá cũ: Núi Đọ, hang Con Moong, hang làng Tráng, mái đá Điều; thời đại đồ đá mới: Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa, Gò Trũng, Hoa Lộc; thời kỳ văn hóa Đông Sơn với di chỉ khảo cổ học Đông Lĩnh, Cẩm Giang, Đông Sơn, núi Chè... đã thu hút giới nghiên cứu trong và ngoài nước và du khách tới tham quan, tìm hiểu về ngọn nguồn đời sống của con người từ thời kỳ đồ đá đến thời kỳ đồ đồng trên đất tỉnh Thanh.
Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản độc đáo nổi tiếng cả nước của xứ Thanh như: nem chua Thanh Hóa, chè lam Phủ Quảng, dê núi đá, gà đồi (của huyện Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ (của huyện Thọ Xuân), các món chế biến từ hến làng Giàng (huyện Thiệu Hóa), bánh đa cầu Bố (thành phố Thanh Hóa), mía đen Kim Tân (huyện Thạch Thành), hay các món hải sản: cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các huyện ven biển Sầm Sơn, Tĩnh Gia, Nga Sơn.
Đời sống văn hóa tinh thần
Thanh Hóa là một trong những địa bàn cư trú của người Việt cổ, nơi có nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ với trống đồng Đông Sơn là di vật độc đáo. Nhiều hang động đá vôi là những nơi cư trú của những nhóm người cổ từ hàng mấy ngàn năm. Thanh Hóa là đất có truyền thống văn hóa lâu đời được gọi là đất "địa linh nhân kiệt", đã cung cấp cho đất nước biết bao danh nhân văn hóa và anh hùng dân tộc, nơi phát tích của các triều Tiền Lê, Hậu Lê, Hồ, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn mà dấu ấn còn ghi lại ở các vùng quê với các đền đài, miếu mộ, lăng tẩm, thành quách. Hiếm có vùng đất nào lại sinh ra "ba dòng vua", "hai dòng chúa" như ở đất Thanh.
Thanh Hóa cũng là nơi có nhiều dân tộc ít người cư trú. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng. Hò sông Mã là một làn điệu dân ca đặt trưng nhất của đất Thanh.
Dân tộc Mường ở Thanh Hóa có kho tàng văn học dân gian phong phú với các trường ca, truyện thơ nổi tiếng. Có các làn điệu hát xéc bùa, hát ví và các điệu múa: múa bông, múa quạt, múa sạp...
Dân tộc Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, dân ca. Đặc biệt phụ nữ Lào không những hát hay mà còn múa rất giỏi các điệu dân vũ. Họ có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa, tục ăn cơm mới.
Dân tộc Lự ở Thanh Hóa có hát Lự ( khắp Lự) là điệu hát quen thuộc của thanh niên trai gái Lự. Người con gái che mặt bằng tấm vải màu đỏ ngồi hát theo tiếng sáo do người con trai thổi đệm. Người Lự có lịch riêng.
Thanh Hoá nổi tiếng trong lịch sử về “địa lợi, nhân hoà”. Niềm tự hào lớn nhất của Thanh Hoá là con người với những “trai anh hùng”, “gái đảm đang” của tỉnh. Thanh Hoá cũng có nền văn hoá lâu đời với những học giả nổi tiếng như: Lê Văn Hưu, Nhữ Bá Sĩ, Đào Duy Từ…
Chương 2: Bản sắc văn hóa Thanh Hóa qua món nem chua
2.1. Giới thuyết thuật ngữ
2.1.1. Khái niệm văn hóa. Bản sắc văn hóa
Có thể nói chưa bao giờ khái niệm văn hoá, những vấn đề văn hoá lại được dư luận quan tâm và sử dụng rộng rãi như hiện nay. Từ góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn hoá học trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo Phan Ngọc: “Cho đến nay đã có hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hoá, tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tinh thần luận. Các định nghĩa ấy có thể rất sâu sắc, độc đáo, hấp dẫn. Vì dân tộc nào cũng có văn hoá, dù đó là cây cối, khí trời đến phong tục, cách tổ chức xã hội, các hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần, các sản phẩm của các hoạt động ấy, cho nên không thể tìm ra một định nghĩa thao tác luận cho văn hoá nếu dựa vào xã hội học, kinh tế, chính trị... ” [21, tr.114].
Định nghĩa đầu tiên về văn hoá có thể kể đến Edward. Burnett Tylor – nhà khoa học người Anh: “Một toàn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục và tất thảy những năng lực khác nhau và những tập quán mà con người hoạch đắc với tư cách là thành viên của xã hội” [2, tr.44].
Fediro Mayor, tổng giám đốc UNESCO chỉ rõ: “Đối với một số người, văn hoá chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy sáng tạo, đối với những người khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến những tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu biết thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise ” [2, tr.48].
Trong Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hoá “Văn hoá là hình thức hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [25, tr.25].
Như vậy, định nghĩa về văn hoá là khá đa dạng và phức tạp. Từ những định nghĩa khác nhau về văn hoá có thể hiểu rằng: Văn hoá là bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho chính mình và làm cho con người thực sự người hơn. Văn hoá là một khái niệm thuộc phạm trù giá trị - nó gắn với sự nhìn nhận, đánh giá của con người; văn hoá là sự hoà nhịp với lao động sáng tạo, hay nói gọn hơn văn hoá là khái niệm để chỉ những Giá - Trị - Người [26].
Từ đó có thể khẳng định bản sắc văn hoá là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này sang đời khác, và được phát huy, bổ sung của nhân dân. Bản sắc văn hoá là cái làm cho một dân tộc là mình, khác với các dân tộc khác.
Trong quá trình tiến triển hiện nay, bản sắc văn hoá mang một ý nghĩa mới để đạt được một ảnh hưởng rộng hơn, nó phát huy mọi ảnh hưởng trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Vậy nên bản sắc văn hoá không thể xem như một tập hợp những đặc trưng đã được xếp đặt cố định mà hoàn toàn ngược lại, Bản sắc văn hoá, một sản phẩm của lịch sử không ngừng phong phú thêm với những sang tạo mới của con người trong các lĩnh vực chính trị, tư tưởng đạo đức, nghệ thuật và xã hội.
Việc đi tìm giá trị đặc trưng của văn hoá Việt Nam nói chung, văn hoá Thanh Hoá nói riêng, cần phải có cái nhìn toàn diện và tổng hợp từ nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống xã hội, lịch sử và con người. Giá trị văn hoá đặc trưng không thể thiếu là vẻ đẹp “không nơi nào có được” của quê hương mình, của dân tộc mình, mà đó là toàn bộ những giá trị bền vững, cốt lõi làm nên bản chất và gương mặt tinh thần của một vùng được bồi đắp qua nhiều thế hệ, cần mới mẻ trong hiện nay và cần phát huy tới mai sau. Quan niệm như vậy mới thấu hiểu hết vẻ đẹp văn hoá đặc trưng của mỗi địa phương tiềm ẩn sau đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người dân.
2.1.2. Khái niệm Ẩm thực
“ Ăn uống” hay “Ẩm thực” trong tiếng Việt là từ ghép, tương đương với các từ trong tiếng Anh: “Food anh Drink”, tiếng Pháp: “Le Boire et le Manger”, tiếng Nhật: “Nomikui” (ẩm thực) hay “Kuinomi” (ăn uống). Tuỳ theo quan niệm về ẩm thực của từng dân tộc mà trong từ ngữ này,thứ tự sắp xếp hai yếu tố “ăn” và “uống” có khác nhau.
Theo Nguyễn Văn Dương nghiên cứu về ẩm thực trong ngôn ngữ, thì từ “ăn” trong tiếng Việt có số lượng ngữ nghĩa và số lượng từ ghép rất phong phú, có đến 15/20 ngữ nghĩa được nêu trong Từ điển tiếng Việt có liên quan đến “ăn”. Sở dĩ từ “ăn” chiếm vị trí lớn trong ngôn ngữ và tư duy người Việt vì từ xưa cho đến đầu thế kỉ XX, nước ta đất hẹp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, mức sống còn thấp, do đó cái ăn luôn là yếu tố quan trọng nhất: “Có thực mới vực được đạo”, “Dĩ thực vi tiên”… Bên cạnh ăn thì uống không chiếm vị trí quan trọng trong ngôn ngữ Việt Nam. Ngoài nghĩa thông thường là uống nước cho hết khát, từ “uống” trong từ ghép “ăn uống” có nghĩa là uống rượu. Hiện nay, trong ngôn ngữ đời thường dùng từ “nhậu” để chỉ việc uống rượu. Tuy nhiên, trong các Từ điển của Huỳnh Tịnh Của (1895 – 1896), của Genibrel (1898), thì “nhậu” chỉ có nghĩa là uống, không chỉ là uống rượu. Tuy nhiên do chuyện rượu chè thái quá của nhiều người, “nhậu” trở thành một hiện tượng không lành mạnh, và bị xem là thói xấu. Trong Việt Nam tân từ điển của Thanh Nghị (1952) thì từ “nhậu” đã mang nghĩa rõ hơn là “Uống, thường là uống rượu”.
2.1.3. Khái niệm Văn hoá ẩm thực
Từ ngàn xưa ông cha ta đã không hề xem nhẹ việc ăn uống. Việc dạy ăn như thế nào, học ăn như thế nào phải được bắt đầu từ chính gia đình. Đây là cái nôi đầu tiên giúp con người hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách, trau dồi kiến thức ứng xử, thể hiện được truyền thống văn hoá của dân tộc ta từ bao đời nay. Có thể hiểu văn hoá ẩm thực là cách ăn, kiểu ăn, món ăn đặc trưng của từng dân tộc, từng địa phương mà qua đó ta biết được trình độ văn hoá, lối sống, tính cách của con người đó, của dân tộc đó.
Khi nói về văn hoá ẩm thực, trước hết ta phải nói đến nét văn hoá trong ăn uống ở gia đình, từ đó rộng ra, xa hơn là những bữa tiệc tùng…, những dịp gặp mặt giao lưu. Ta có thể xem văn hoá ẩm thực là một bộ “gien” đặc sản có khả năng lưu truyền nhiều giá trị văn hoá của nhân loại mà gia đình chính là những tế bào lưu giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ăn uống trong gia đình là lối ăn uống phổ biến nhất của toàn nhân loại. Ở một mức độ nào đó thì lối ăn uống này ở Việt Nam phổ biến nhiều hơn so với các nước khác vì Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp, phần lớn người dân sống bằng nghề nông và trồng lúa nước, nên thời gian tụ họp gia đình ở nhà là chủ yếu trong suốt cả năm. Bữa ăn gia đình và đặc biệt là bữa ăn của gia đình có nhiều thế hệ là một môi trường văn hoá, một không gian văn hoá thể hiện quá trình tiếp nối và bảo lưu văn hoá độc đáo của người Việt. Ở đây mọi yếu tố văn hoá không chỉ được chuyển tải trong chuyện ăn gì mà còn luôn luôn được giữ gìn trong khuôn khổ cổ truyền một lối ăn theo truyền thống được thể hiện rất rõ qua những dụng cụ được dùng trong bữa ăn, cách ứng xử với mọi người trong khi ăn… Vậy tựu trung lại ta có thể hiểu rằng, văn hoá ẩm thực là những phong tục, những thể thức ăn uống từ nghìn xưa để lại, mang đậm sắc thái của một nước, tạo nên những nét độc đáo riêng biệt của nước đó.
Các nhà văn hóa học đã có chung nhận định: ăn uống của mỗi dân tộc là một hiện tượng văn hoá khi nó mang các giá trị chân, thiện, mỹ. Với người Việt Nam, ăn uống là cả một nghệ thuật, nó không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu cơ bản của con người mà còn có mối quan hệ mật thiết đến lối sống, truyền thống của dân tộc. Ăn uống của người Việt được Đinh Gia Khánh nói đến như sau:
“Món ăn, cách thức ăn uống của từng nước, từng quê hương lớn; ở từng làng xóm, tức quê hương nhỏ, là biểu hiện của lối sống dân tộc, lối sống địa phương và bắt rễ sâu xa vào truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc, của địa phương. Món ăn là một nội dung góp phần tạo nên phong vị dân tộc, phong vị quê hương và có tác động không nhỏ vào tâm tư tình cảm, vào cách ứng xử của mỗi tập đoàn người, của mỗi con người”.
Như vậy, có thể nói, ẩm thực, tức ăn uống thể hiện lịch sử của một quốc gia, của nền văn hoá của quốc gia đó. Các món ăn qua từng giai đoạn sẽ nói lên được cuộc sống, con người của giai đoạn đó và của vùng đất – nơi đã sản sinh ra món ăn mà không đâu có thể làm giống hệt được. Văn hoá dân gian Việt Nam là một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó vaă hoá ẩm thực là một nét đặc trưng. Con người đã dần phát triển việc ăn uống lên thành một lĩnh vực rộng rãi được nhiều người quan tâm. Nghiên cứu về nghệ thuật ăn uống của người Việt nói chung và việc ăn uống của từng miền nói riêng mang lại nhiều điều lý thú, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mọi người.
2.2. Đặc trưng văn hóa ẩm thực qua món nem chua
Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản độc đáo nổi tiếng cả nước của xứ Thanh như: nem chua Thanh Hóa, chè lam Phủ Quảng, dê núi đá, gà đồi (của huyện Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ (của huyện Thọ Xuân), các món chế biến từ hến làng Giàng (huyện Thiệu Hóa), bánh đa cầu Bố (thành phố Thanh Hóa), mía đen Kim Tân (huyện Thạch Thành), hay các món hải sản: cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các huyện ven biển Sầm Sơn, Tĩnh Gia, Nga Sơn.
Trên đất nước ta gần như xứ nào, vùng nào cũng làm nem. Người Huế thường tự hào là quê hương của nem, nem Huế thiên về vị cay. Sài Gòn có nem cối chỉ ăn sau khi đã nướng, kèm gia vị cầu kỳ. Người Hà Nội làm nem dài mỏng, nhưng ai cũng thừa nhận nem xứ Thanh là ngon và độc đáo hơn cả.
Người Thanh Hóa đã sáng tạo ra cách thức làm nem riêng độc đáo, thỏa mãn được khẩu vị của nhiều người, của khách nhiều nơi. Cũng chỉ riêng điều này cũng đủ để nói rằng người xứ Thanh cần cù, giàu sáng tạo và nếu bàn về nghệ thuật ẩm thực cũng đáng “mặt đồng cân”, xứng ngồi đàm luận với đất kinh kỳ. Làm nem đã trở thành nghề truyền thống và là niềm tự hào của người dân xứ Thanh. Nghề làm nem phát triển kéo theo nghề dịch vụ thương mại phát triển. Ở Thanh Hóa đã hình thành nhiều cơ sở chế biến và cũng nhiều cửa hàng kinh doanh nem. Nem sản xuất và bán nhiều nhất, chạy nhất là ở thành phố Thanh Hóa. Những năm 70 của thế kỷ XX cả thành phố chỉ có 4-5 cơ sở sản xuất kinh doanh nem, nem của bà Thường ở cống Tân An - địa danh là ranh giới giữa hai phường Ba Đình và Ngọc Trạo, nem của bà Năm ở Trường Thi, nem của nhà Tài Bê, nhà Việt Cao lối ngã Ba Bia. Giờ cả thành phố có tới hàng trăm cơ sở sản xuất chế biến và kinh doanh mặt hàng này, nhiều nhất là ở Tân An, Cầu Bố, Cầu Sâng, Trường Thi, Bào Nội, Bào Ngoại xã Đông Hương. Điều đó cho thấy nem rất được ưa dùng trong các bữa ăn, các cuộc liên hoan hội hè đình đám. Người dân thành phố thường nói tới cơ sở sản xuất nem Cương Dũng ở số nhà 15 phố Tân An phường Ngọc Trạo, mỗi ngày xuất xưởng hàng nghìn quả nem. Anh Dũng chủ cửa hàng là người con có tâm yêu nghề nên được bà Thường truyền nghề cho trong số 6 người con của bà. Cơ sở của anh bây giờ là nơi sản xuất và tiêu thụ có số lượng khách hàng ổn định lớn, có đại lý ở 26 Trường Chinh, thành phố Vinh. Anh Dũng và chị Cương con dâu bà Thường đã kiên trì nối tiếp nghề của mẹ và đã thành công. Cửa hàng nem Cây Đa số 326 phố Trường Thi, phường Điện Biên bán rất chạy có tiếng trên thương trường... Vào cửa ngõ Thanh Hóa đã có thị trường nem ở ngã ba Bỉm Sơn, nhất là ở phía đầu cầu Tào Xuyên và cầu Hàm Rồng đã có hẳn một dãy phố dày đặc cửa hàng bán đặc sản Thanh Hóa là nem và dừa. Ở nhà ga Thanh Hóa, ở các bến xe nội ngoại tỉnh có rất nhiều quầy bán nem. Khách đi tàu Thống nhất Bắc Nam, khách đi ngược về xuôi, nhiều người mua hàng trăm quả nem để làm quà. Tôi còn được biết nem Thanh Hóa đã “vượt biên” sang cả các nước bạn. Từng chùm nem với màu xanh rờ rỡ như gói trong mình nó hương vị rất riêng của quê Thanh, của tình người xứ Thanh đến với bạn bè trong Nam ngoài Bắc, trên ngược dưới xuôi. Nem xứ Thanh có nhiều loại: Nem thính, nem chua, nem chạo. Nem được nói đến ở đây là loại nem chua ưa dùng được sản xuất và tiêu thụ với số lượng lớn. Nem được dùng trong các bữa ăn, bữa tiệc, trong lễ hội đình đám cưới xin. Nem xứ Thanh trở thành món quà quê được nhiều người yêu thích và cho đến giờ cũng không ai cắt nghĩa rành rẽ làm sao từng quả nem vuông vắn bé bỏng ấy lại có sức cuốn hút kỳ lạ dường vậy. Hơn thế, nem thỏa mãn được cả khách bình dân cũng như khách cao cấp.
Quy trình chế biến và thưởng thức món nem chua
Nguyên liệu
Thịt lợn nạc, bì lợn, muối, nước nắm, mì chính, hạt tiêu, thính, lá chuối.
2.3.2. Quy trình thực hiện
Nem được làm bằng thịt lợn nạc, thứ nguyên liệu chính, thứ thịt làm nem thường phải là thịt nạc mông, tốt nhất được lấy từ thịt lợn cỏ, những con lợn ăn rau ăn cám chốn quê, không lớn quá cũng không nhỏ quá để thịt được săn chắc, hàm lượng nước trong thịt ít và phải là lợn cạo sống (nghĩa là khi làm lông lợn người ta không nhúng hoặc dội nước sôi để cạo lông mà cạo sống trực tiếp bằng dao sắc) để thịt được nóng và tươi nguyên. Thịt làm nem tuyệt đối không được rửa nước lạnh. Khi vừa phanh đôi con lợn ra người hàng xeo được chủ cửa hàng nem đặt tiền trước thường lọc ngay hai mảng thịt nạc mông đưa cho nhân công của chủ hàng nem đã trực sẵn. Làm nem ngon phải có bí quyết gia truyền. Thịt lợn nạc lọc cho thật kỹ không còn một tý gân nào, đem thái thật mỏng cho vào cối giã kỳ nhỏ mịn. Giã thịt lợn là khâu đòi hỏi kỹ thuật công phu và sức khỏe. Phải giã thật nhanh thật đều, giã liên tục không được ngưng nghỉ. Khâu này bây giờ nhờ máy xay nên vừa nhanh lại vừa xay được nhiều. Thành phần chủ đạo thứ hai là bì lợn. Bì lợn cạo thật sạch, luộc chín thái nhỏ, bì lợn bây giờ cũng được đưa vào máy cán cán nhỏ đều như sợi miến. Trước khi đưa bì lợn vào cán người ta phải dùng dao hớt hết phần mỡ bám ở phần bụng bì, phần lưng bì phải hớt bỏ để tránh lớp chân lông còn ngậm ở bên trong chỉ giữ lấy phần bì nàng hai, nàng ba và dùng dao lạng thành những miếng mỏng. Bì lợn đã thái hoặc đã cán nhỏ đem trộn với thịt nạc xay, nêm muối tinh rang khô, nước mắm ngon, mì chính, hạt tiêu và thính.
Thính là thành phần quan trọng làm nên hương vị riêng của từng loại nem, của từng lò nem. Thính được làm từ gạo, gạo đem rang chín vàng thơm rồi xay thật nhỏ. Cách tra thính nhiều hay ít, sớm hay muộn, cũng là bí quyết riêng của từng lò nem.
Thịt đa thành phần này được ủ một thời gian. Thời gian ủ để thịt lên men là hết sức quan trọng. Nếu ủ lâu quá cũng không được mà ủ ít quá cũng không thành. Sau đó thịt được véo ra thành cục nhỏ vê tròn thành từng viên (nếu là nem hình quả - nem vuông), nếu là nem hình trụ lại phải vê thành hình trụ. Người làm nem khéo léo lót một nhánh lá đinh lăng bánh tẻ nhỏ rồi dùng lá chuối gói lại sao cho chặt và kín. Đáp ứng khẩu vị của thực khách đặt hàng, nem chua còn được lót đôi ba lát tỏi mỏng và ít lát ớt tươi. Khâu gói cũng đòi hỏi kỹ thuật. Lá chuối phải là lá chuối hột, tốt nhất là lá chuối rừng, không gói lá chuối tiêu được vì lá chuối tiêu thường giòn và đắng. Ít ai hay rằng lá chuối hột cũng góp phần làm nên hương thơm quyến rũ riêng của nem xứ Thanh. Sau khi lấy lá còn tươi về tước bỏ phần dọc lá rồi đem xé nhỏ thành nhiều loại từ 3 đến 5 cm, lá nhỏ gói bên trong và lần lượt gói lá to ra ngoài. Để nem quả có hình vuông vắn, người thợ gói phải dùng kỹ thuật để nặn thành hình lập phương, nem hình trụ phải dùng phương pháp vê và lăn. Hai bàn tay chính là bàn lăn tiện lợi. Nhìn người gói nem thành thục, tay vê, tay vặn thoăn thoắt ta có cảm giác họ là những diễn viên múa nhiều tuổi nghề. Người thợ dùng lạt giang (bây giờ là chun cao su) buộc chặt quả nem theo hình chữ thập. Nem chua thường phải gói nhiều lớp lá. Nhiều khách hàng không hiểu cho rằng gói nhiều lá cho nem to đánh lừa người mua. Nói như thế là không công bằng, là “đa nghi như Tào Tháo” rồi đấy, phải gói nhiều lớp lá là cách làm cho nem được kín để có khả năng lên men tốt nhất và cũng là cách để bảo vệ nem, giữ cho hương nem được nguyên hương như buổi ban đầu. Nem đến độ ăn được gọi là nem chín. Tùy theo từng thời gian ủ thịt, tùy theo thời gian sản xuất mà nem có thể chín và ăn được. Nem chín tới thì ăn ngon hơn, cũng như người con gái đến tuổi dậy thì xinh hơn là vậy. Người làm nem thành thục và có kinh nghiệm còn phải đo tính được thời tiết của từng thời gian, đó là mùa hè hay mùa đông. Mùa hè nóng men lên nhanh hơn nên thời gian để nem chín ngắn hơn, mùa đông thì ngược lại. Mùa làm nem nhộn nhịp nhất là vào dịp tết và dịp hè. Kinh nghiệm của người làm nem thường lấy chuẩn nhiệt độ là 300C để từ đó mà xác định độ chín thích hợp của nem. Nếu nhiệt độ ở 300C thì chỉ cách một ngày một đêm là ăn ngon rồi tùy đó mà định ra thời gian cho khách mua hàng. Giá mỗi quả nem thường là 1.000 đồng, nem đặt đặc biệt phải là 2.000 đồng. Nem chín rồi muốn để được thời gian lâu hơn từ 5 đến 10 ngày phải cho vào tủ lạnh với nhiệt độ ổn định.
2.3.3. Yêu cầu kỹ thuật
Quả nem khi bóc hết lớp vỏ bên ngoài phần ruột nem phải cứng đông đặc, nhẵn bóng, có lớp da mỏng màu hồng nhạt, có hương vị đặc trưng thơm hấp dẫn.
Nem chua Thanh Hóa thường được chấm với tương ớt. Nem chua Thanh Hóa ăn vào một miếng sẽ thấy nhớ, nem thường có vị ngọt, béo đậm đà khó quên của thịt, vị giòn “mồm nhai tai nghe” sần sật của bì lợn, vừa có vị don dót chua của men được chuyển hóa từ thính, vị thơm dìu dịu của lá đinh lăng, vị cay nóng ấm của hạt tiêu.
Tất cả các vị trên hòa thấm vào nhau, nâng đỡ nhau tạo nên hương vị đầy tiết tấu, bay bổng như bản đàn tuyệt diệu mà các nhạc công hiểu nhau đến từng ngón nghề tạo nên hương vị độc đáo và quyến rũ, chẳng dễ gì mà quên được, chẳng thể nào mà xa được của đặc sản nem xứ Thanh.
2.4. Giá trị ẩm thực của Thanh Hóa qua món nem chua
2.4.1. Giá trị kinh tế
Khi nhắc tới Thanh Hóa người ta thường nghĩ tới dân ca đi cấy, điệu hò sông mã, và chắc hẳn có một món ăn không thể không nhắc tới đó là “nem chua Thanh Hóa”. Nem chua Thanh Hóa là một loại nem truyền thống có từ rất lâu đời ở Thanh Hóa, làm từ thịt lợn, với các loại gia vị và công thức làm độc đáo tạo thành một hương vị đặc biệt thơm ngon, hơi cay, chua rất phù hợp khi dùng với rượu bia.
Xuất phát từ thực tế, sản xuất nem chua rất phát triển ở Thanh Hóa, có rất nhiều cơ sở sản xuất ở Thanh Hóa, số lượng nem chua bán ra là rất lớn. Nem chua được sử dụng làm quà, tặng phẩm, nhiều người từ mọi miền đất nước rất thích loại nem này, họ mua để ăn, làm quà cho gia đình người thân, và nem chua Thanh Hóa cũng được sử dụng như một món quà quê hương khi những người Thanh Hóa thăm bạn bè. Việc vận chuyển phức tạp và thường làm chất lượng nem không đảm bảo, ngoài ra rất nhiều đã bị mua phải hàng giả, hàng kém phẩm chất. Những thứ hàng này không những làm mất cơ hội để người tiêu dùng được thưởng thức một món nem tuyệt vời, mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín của nem Thanh Hóa.
Qua những thực tế trên, đây là một món ăn rất đặc biệt, tất cả mọi người đều có quyền được thưởng thức món ăn này đúng với hương vị của nó. Vì vậy, ý tưởng xây dựng một cơ sở sản xuất nem chua Thanh Hóa với chất lượng, hương vị truyền thống, xây dựng thương hiệu nem chua Thanh Hóa để nhân dân cả nước biết tới món ăn này và bạn bè quốc tế có cơ hội thưởng thức một đặc sản trong thế giới ẩm thực Việt Nam.
Dự án này trước hết đem lại hiệu quả về mặt kinh tế, ngoài ra nó còn có ý nghĩa về mặt văn hóa rất lớn. Sản phẩm là một hình thức để quảng bá văn hóa Thanh Hóa - một vùng đất rộng lớn, có những phong cảnh hùng vĩ, nên thơ, con người thông minh hiếu học, nền văn hóa lâu đời, và cũng là hình ảnh của một Việt Nam có những nét truyền thống với nghệ thuật ẩm thực riêng biệt trong con mắt bạn bè thế giới. Hơn thế nữa, dự án cũng đem lại hiệu quả về mặt xã hội, sản xuất nem là công việc không đòi hỏi trình độ lao động cũng như sức khỏe, do vậy có thể tạo công ăn việc làm cho ngay cả những người ở độ tuổi trung niên, là những người mà hầu như không thể kiếm được việc làm trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đây thực sự là một dự án đem lại rất nhiều lợi ích cho không những cá nhân mà là cả xã hội .
2.4.2. Giá trị du lịch
Nem chua được xem là món đặc sản của xứ Thanh. Ai đi qua cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Với mong muốn mang món ăn đặc sản của quê hương đến các bạn bè, thực khách gần xa và để phục vụ bà con xa quê, chúng tôi mở dịch vụ cung cấp nem chua Thanh Hóa uy tín chất lượng tốt, giá cả hợp lí. Giao hàng tận nơi tại Hà Nội và các vùng lân cận...
Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa.
Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay. Chính vì vậy, nem Thanh Hóa vẫn chưa bị mất đi hương vị vốn có từ xưa.
Người Thanh Hóa đã sáng tạo ra cách thức làm nem riêng độc đáo, thỏa mãn được khẩu vị của nhiều người, của khách nhiều nơi. Cũng chỉ riêng điều này cũng đủ để nói rằng người xứ Thanh cần cù, giàu sáng tạo và nếu bàn về nghệ thuật ẩm thực cũng đáng “mặt đồng cân”, xứng ngồi đàm luận với đất kinh kỳ. Làm nem đã trở thành nghề truyền thống và là niềm tự hào của người dân xứ Thanh. Nghề làm nem phát triển kéo theo nghề dịch vụ thương mại phát triển. Ở Thanh Hóa đã hình thành nhiều cơ sở chế biến và cũng nhiều cửa hàng kinh doanh nem. Nem sản xuất và bán nhiều nhất, chạy nhất là ở thành phố Thanh Hóa.
2.5. Một số kiến nghị phát huy ẩm thực để phục vụ và phát triển du lịch ở Thanh Hóa
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập với quốc tế, sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, làm cho đời sống người dân ngày một được cải thiện đáng kể nhu cầu của con người cũng đa dạng hơn. Tuy nhiên về mặt trái của quá trình đó đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó đáng chú ý là vấn đề an toàn thực phẩm là mối quan tâm sâu sắc của toàn xã hội, khi mà tình trạng ngộ độ trong ăn uống có chiều hướng gia tăng. Đòi hỏi mỗi cấp chính quyền, các cơ quan liên quan, cũng như toàn xã hội tham gia vào quá trình sản xuất, chế biến món ăn, thức uống cần nâng cao lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp. Để ăn uống không dừng lại phục vụ nhu cầu cần thiết của con người mà còn thể hiện nét văn hoá của một cộng đồng, của một dân tộc.
Nhu cầu phát triển du lịch của từng địa phương ngày càng tăng mạnh trong đó phát triển ẩm thực là một khâu rất quan trọng trong phát triển du lịch. Đặc biệt ở Thanh Hoá có rất nhiều điểm du lịch nổi tiếng như biển Sầm Sơn, Bến En, suối cá Cẩm Thuỷ… là những nơi thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.
Món ăn Thanh Hoá cũng được bảo tồn và phát triển. Nhiều món ăn và đặc sản gắn liền với địa danh của xứ sở như bánh gai Tứ Trụ ở Thọ Xuân, nem chua Thanh Hoá… nhưng chưa phát triển nhiều. Rất nhiều món ăn nổi tiếng chỉ người xứ Thanh biết đến, cần phải quảng bá một cách sâu rộng hơn để du khách đến Thanh Hoá biết đến những loại bánh và những món ăn đó nhằm phát triển du lịch ẩm thực tốt hơn.
Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng cũng như hình thức bên ngoài cần được chú trọng nhiều hơn, nhìn vào thấy hấp dẫn có thể mang làm quà biếu cho người thân hay bạn bè, cần có các hoạt động tổ chức giới thiệu và bán sản phẩm tốt hơn. Du khách đến du lịch sẽ được thưởng thức món ăn ở đây. Đến Nghệ An, có tương bần Nam Đàn, đến Hà Tĩnh có cu đơ, ra Ninh Bình có rượu Bầu đá, Huế là mè xửng, Hà Nội là cốm… Thanh Hoá cần xây dựng khu ẩm thực với các món ăn mang đậm tính địa phương như nem chua, bánh gai, dừa, mía… để mang về làm quà và những món ăn thưởng thức tại nơi đó. Hiện nay, các món ăn vẫn còn hạn chế, cần bổ sung thêm các món truyền thống khác. Đặc biệt, cần một không gian mang đậm nét làng quê để tạo sự thích thú hơn cho khách du lịch, khi đó khách du lịch bên cạnh tham quan, du lịch sẽ được thưởng thức những món ăn ngon.
Hiện nay, ẩm thực Thanh Hoá mặc dù đã được công nhận và yêu mến, nhưng vẫn còn ở dạng cảm tính, chưa thực sự thuyết phục. Để ẩm thực Thanh Hoá trở thành một dấu ấn níu chân du khách quay lại thì trách nhiệm của các nhà đầu bếp xứ Thanh rất lớn và đó cũng là trách nhiệm của ngành du lịch.
Dù muốn hay không, những món ăn truyền thống đó vẫn được sản sinh từ nội dung, vẫn tồn tại trong nội dung. Nội dung là người sáng tạo và lưu giữ nó như là khuôn mẫu sống của từng cá nhân cộng động. Ẩm thực tạo nên diện mạo của nền văn hoá như nền văn hoá Thanh Hoá đã được chính con người nơi đây nuôi dưỡng bảo quản, phát huy một cách tối đa, hiệu quả, đây là tinh thần trách nhiệm của mỗi người con xứ Thanh.
KẾT LUẬN
Truyền thống văn hóa dân tộc ta đã nhìn nhận, trong mỗi loại món ăn của mỗi vùng miền, mỗi địa phương đều tiềm ẩn những giá trị độc đáo về văn hóa, phong tục tập quán cổ truyền và cả tín ngưỡng ở nơi đó. Điều này khẳng định ăn uống vừa là một lĩnh vực văn hóa mang tính tận dụng sáng tạo, vừa là nghệ thuật vì món ăn nào cũng đều có riêng giá trị thẩm mỹ của nó.
Ẩm thực Thanh Hóa nằm trong hệ thống ẩm thực Việt Nam. Là một loại hình văn hóa đặc biệt gắn bó mật thiết với cuộc sống con người hàng năm. Không phải loại hình văn hóa nào cũng tồn tại bền bỉ và có tính chất vĩnh viễn như văn hóa ẩm thực Thanh Hóa. Nó không dừng lại ở chức năng phục vụ nhu cầu của con người mà nó còn phản ánh sâu sắc lối sống và con người Thanh Hóa. Ẩm thực đã tỏ rõ một quan điểm, tính cách, một lối sống độc đáo của con người xứ Thanh.
Nếu Hà Nội ăn uống bảo thủ khắt khe, Huế phô trương bày vẽ còn Sài Gòn ngọt ngào ngang ngửa. Chỉ một vùng đất nước mà chẳng ai chịu giống ai, Thanh Hóa không lai tạp, chẳng cổ cũng chẳng kim. Người xứ Thanh, dù giàu sang hay nghèo khó cung cách ăn uống vẫn cần “no”.
Trong quá trình hội nhập và mở rộng giao lưu văn hóa, ẩm thực Thanh Hóa có điều kiện quảng bá rộng rãi trong nước và ra nước ngoài. Nhưng cùng với đó món nem chua này dễ bị bắt chước, chế biến, thêm thắt làm nó biến dạng đi mất cái gốc gác độc đáo ban đầu. Điều đó đòi hỏi những nhà nghiên cứu, những người Thanh Hóa có tâm huyết cần tích cực phục chế, giữ nguyên bí quyết chê biến gia truyền để món ăn ngày càng ngon, hấp dẫn mà không mất đi bản sắc của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Xuân Hương (2007), Bài giảng lịch sử văn hóa Việt Nam, Trường Đại học sư phạm Đà Nẵng.
Mai Khôi (2006), Văn hóa ẩm thực Việt Nam – các món ăn miền Trung, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Vũ Ngọc Khánh (2008), Văn hóa Việt Nam những điều học hỏi, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Thị Diệu Thảo (2007), Giáo trình Văn hóa ẩm thực Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà Nội.
Viện ngôn ngữ (2007), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa Hà Nội.
Tổng cục du lịch Việt Nam (2007), Non nước Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 272i nt 7849m th7921c Thanh Ha..doc