Tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên nồng độ LH và Testosterone ở nam giới vô sinh – Nguyễn Hoài Bắc: 84 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc, Đơn vị Nam học, Bệnh
viện Đại học Y Hà Nội
Email: drbac.uro@gmail.com
Ngày nhận: 15/10/2018
Ngày được chấp thuận: 20/11/2018
ẢNH HƯỞNG CỦA GIÃN TĨNH MẠCH TINH LÊN NỒNG ĐỘ LH
VÀ TESTOSTERONE Ở NAM GIỚI VÔ SINH
Nguyễn Hoài Bắc1, Nguyễn Việt Anh2
1Bệnh viện Đại họcY Hà Nội; 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên nồng độ LH và testosterone huyết thanh ở
những nam vô sinh. Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có đối chứng trên 194 đối tượng, bao gồm 132
đối tượng thuộc nhóm bệnh và 62 thuộc nhóm chứng. Kết quả cho thấy, không có sự khác biệt đáng kể về
nồng độ testosterone huyết thanh giữa nhóm bệnh và nhóm chứng (17,6 ± 6,4 so với 16,2 ± 5,4; với
p = 0,07). Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn về nồng độ testosterone ở các phân nhóm giữa nhóm bệnh và
nhóm chứng. Nồng độ testosterone ở phân nhóm testosterone < 12 (nmol/l) của nhóm bệnh ...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên nồng độ LH và Testosterone ở nam giới vô sinh – Nguyễn Hoài Bắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc, Đơn vị Nam học, Bệnh
viện Đại học Y Hà Nội
Email: drbac.uro@gmail.com
Ngày nhận: 15/10/2018
Ngày được chấp thuận: 20/11/2018
ẢNH HƯỞNG CỦA GIÃN TĨNH MẠCH TINH LÊN NỒNG ĐỘ LH
VÀ TESTOSTERONE Ở NAM GIỚI VÔ SINH
Nguyễn Hoài Bắc1, Nguyễn Việt Anh2
1Bệnh viện Đại họcY Hà Nội; 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên nồng độ LH và testosterone huyết thanh ở
những nam vô sinh. Sử dụng phương pháp mô tả cắt ngang có đối chứng trên 194 đối tượng, bao gồm 132
đối tượng thuộc nhóm bệnh và 62 thuộc nhóm chứng. Kết quả cho thấy, không có sự khác biệt đáng kể về
nồng độ testosterone huyết thanh giữa nhóm bệnh và nhóm chứng (17,6 ± 6,4 so với 16,2 ± 5,4; với
p = 0,07). Tuy nhiên, có sự khác biệt lớn về nồng độ testosterone ở các phân nhóm giữa nhóm bệnh và
nhóm chứng. Nồng độ testosterone ở phân nhóm testosterone < 12 (nmol/l) của nhóm bệnh thấp hơn nhiều
so với nhóm chứng (9,4 ± 1,6 (nmol/l) so với 10,8 ± 0,8 (nmol/l); với p = 0,013) nhưng nồng độ testosterone
ở phân nhóm testosterone ≥ 12 (nmol/l) của nhóm bệnh lại cao hơn nhiều so với nhóm chứng (19,7 ± 5,3
(nmol/l) so với 17,0 ± 5,3 (nmol/l); với p = 0,001). Không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ LH giữa nhóm
bệnh và nhóm chứng. Qua kết quả này chúng tôi nhận thấy, ở những nam giới vô sinh, ảnh hưởng của giãn
tĩnh mạch tinh lên nồng độ LH và testosterone huyết thanh không rõ ràng. Ở phân nhóm testosterone < 12
(nmol/l) nồng độ testosterone trung bình ở nhóm bệnh thấp hơn ở nhóm chứng, nhưng ở phân nhóm
testosterone ≥ 12 (nmol/l) nồng độ testosterone trung bình ở nhóm bệnh lại cao hơn nhóm chứng. Không có
sự khác biệt đáng kể về nồng độ LH ở phân nhóm LH < 8,6 (nmol/l) và LH ≥ 8,6 (nmol/l) giữa nhóm bệnh và
nhóm chứng.
Từ khóa: Giãn tĩnh mạch tinh, suy sinh dục, testosterone và LH
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giãn tĩnh mạch tinh là tình trạng giãn bất
thường của các đám rối tĩnh mạch hình dây
leo của hệ tĩnh mạch tinh hoàn. Giãn tĩnh
mạch tinh chiếm khoảng 10 - 15% dân số nói
chung. Tỉ lệ này tăng lên đến 25 % ở quần thể
nam giới vô sinh nguyên phát và tới 81% ở
quần thề vô sinh thứ phát [1].
Trong khi các kết quả nghiên cứu về ảnh
hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên quá trình
sinh tinh đã tương đối đồng nhất thì các kết
quả nghiên cứu về ảnh hưởng của bệnh lên
nồng độ hormone sinh dục trong huyết thanh
lại chưa rõ ràng.
Một số tác giả cho rằng, giãn tĩnh mạch
tinh làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
hormone sinh dục tại tinh hoàn từ đó làm ảnh
hưởng đến nồng độ LH và testosterone trong
huyết thanh. Một nghiên cứu thử nghiệm so
sánh với nhóm chứng là những người có khả
năng sinh sản bình thường và không bị giãn
tĩnh mạch tinh, nhóm tác giả cũng ghi nhận
nồng độ testosterone thấp hơn ở nhóm giãn
tĩnh mạch tinh có ý nghĩa thống kê (416 ± 156
so với 469 ± 192 ng/dL, p < 0,001) [2].
Tuy nhiên, những kết quả như trên lại
không được ghi nhận trong một số nghiên cứu
gần đây. Trong một nghiên cứu hồi cứu so
sánh nồng độ các hormone sinh dục giữa
nhóm giãn tĩnh mạch tinh và nhóm chứng, các
tác giả nhận thấy không có sự khác biệt nào
về nồng độ LH và testosterone giữa hai nhóm
[3]. Một nghiên cứu khác trên quy mô lớn gồm
TCNCYH 117 (1) - 2019 85
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
7035 nam giới trẻ khỏe mạnh thuộc 6 nước
Châu Âu các tác giả cũng không nhận thấy sự
khác biệt về nồng độ testosterone giữa nhóm
giãn tĩnh mạch tinh lâm sàng và nhóm không
giãn tĩnh mạch tinh [4].
Tại Việt Nam chưa có nhiều báo cáo về
ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên nồng
độ hormone sinh dục trong huyết thanh. Vì
vậy, nghiên cứu này được tiến hành nhằm
mục tiêu sau: Khảo sát ảnh hưởng của giãn
tĩnh mạch tinh lên nồng độ LH và testosterone
trong huyết thanh của những bệnh nhân vô
sinh nam.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Các bệnh nhân đến khám tại đơn vị Nam
học, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 12
năm 2013 đến tháng 8 năm 2018.
Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm bệnh
- Bệnh nhân nam vô sinh có giãn tĩnh
mạch tinh thể lâm sàng một bên (độ I, độ II và
độ III).
- Bệnh nhân có đầy đủ xét nghiệm LH và
testosterone.
Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm chứng
Là những người đến khám sức khỏe định
kỳ có vợ đang mang thai tự nhiên.
- Không giãn tĩnh mạch tinh được xác định
qua khám lâm sàng và siêu âm Doppler tinh
hoàn.
- Bệnh nhân có sức khỏe toàn thân bình
thường (được xác nhận qua khám sức khỏe
định kỳ).
1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân mắc các bệnh lý cấp tính và
mãn tính có thể làm ảnh hưởng đến nồng độ
hormone sinh dục như:
- Viêm nhiễm bộ phận sinh dục cấp tinh.
- Rối loạn nội tiết (cường giáp, tăng
prolactine máu).
- Rối loạn chuyển hóa như tiểu đường, rối
loạn mỡ máu.
- Suy sinh dục tiên phát hoặc thứ phát.
- Teo tinh hoàn một bên hoặc hai bên.
- Các bệnh gan thận mạn tính làm ảnh
hưởng đến sự tổng hợp nguyên liệu cho quá
trình sản xuất testosterone.
- Các bệnh lý vùng dưới đồi.
- Các xét nghiệm được làm từ nơi khác.
2. Phương pháp
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
có đối chứng.
2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu trong
nghiên cứu
Cỡ mẫu gồm 194 bệnh nhân được chọn
một cách ngẫu nhiên thuận tiện. Trong đó có
132 bệnh nhân nam vô sinh có giãn tĩnh mạch
tinh được xếp vào nhóm bệnh và 62 người
khỏe mạnh có sức khỏe sinh sản bình thường
được xếp vào nhóm chứng.
2.3. Quy trình nghiên cứu
Bệnh nhân nhóm bệnh và nhóm chứng
được khám lâm sàng và làm đầy đủ các xét
nghiệm bao gồm siêu âm ổ bụng, siêu âm tinh
hoàn, xét nghiệm sinh hóa và xét nghiệm
hormone sinh dục để xác định tình trạng sức
khỏe toàn thân và chẩn đoán giãn tĩnh mạch
tinh.
Xét nghiệm LH và Testosterone trong
huyết thanh được thực hiện trong khoảng thời
gian từ 8 - 11 giờ sáng, sau khi đã nhịn ăn
sáng, tại labo xét nghiệm trung tâm Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội.
86 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
3. Xử lí số liệu
Các số liệu nghiên cứu được nhập và phân
tích bằng phần mềm STATA 13. Kết quả kiểm
định được coi là có ý nghĩa thống kê với giá trị
p < 0,05 (độ tin cậy trên 95%).
- Tính số trung bình cộng, độ lệch chuẩn
với các dãy số liệu tuân theo sự phân bố
chuẩn.
- Khi so sánh trung bình cộng của hai
nhóm: Sử dụng thuật toán T-student test nếu
dãy số liệu tuân theo sự phân bố chuẩn, sử
dụng thuật toán Mann Whitney test nếu dãy số
liệu tuân theo sự phân bố không chuẩn.
- Sử dụng thuật toán ANOVA test nếu các
dãy số liệu tuân theo sự phân bố chuẩn, sử
dụng thuật toán Kruskal Wallis test nếu các
dãy số liệu tuân theo sự phân bố không
chuẩn.
- Tính hệ số tương quan giữa các thông số
bằng hệ số tương quan r. Xây dựng mô hình
hồi quy tuyến tính đơn biến giữa LH và
Testosterone với thể tích trung bình của tinh
hoàn.
4. Đạo đức nghiên cứu
Các đối tượng tham gia nghiên cứu là
hoàn toàn tự nguyện và có quyền rút khỏi
nghiên cứu khi không muốn tham gia. Các
thông tin liên quan đến người tham gia nghiên
cứu được đảm bảo bí mật. Nghiên cứu đã
được sự đồng ý của Ban giám đốc Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên
cứu
Kết quả nghiên cứu thu được gồm 132
bệnh nhân nhóm bệnh với thời gian vô sinh
trung bình 25,1 ± 20,5 (9 - 120) tháng và 62
bệnh nhân nhóm chứng có thời gian mang
thai tự nhiên trung bình là 5,6 ± 2,1 (1 - 9)
tháng.
Bảng 1. So sánh một số đặc điểm chung của nhóm bệnh và nhóm chứng
Đặc điểm
Nhóm bệnh (n = 132) Nhóm chứng (n = 62)
p
n% (Mean ± SD) n% (Mean ± SD)
Tuổi
132 (100,0)
30,1 ± 5,5
62 (100,0)
29,1 ± 3,7
0,1
≤ 30
79 (59,8)
26,8 ± 2,6
42 (67,7)
27,1 ± 2,0
0,29
> 30
53 (40,2)
35,2 ± 4,8
21 (32,3)
33,4 ± 2,8
Chiều cao (cm) 132 (100,0)
168,3 ± 5,1
62 (100,0)
168,4 ± 4,9
0,48
Cân nặng (kg) 132 (100,0) 62,2 ± 8,1
62 (100,0)
64,2 ± 8,6
0,06
TCNCYH 117 (1) - 2019 87
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tuổi, chiều cao và cân nặng giữa hai nhóm (p >
0,05). Chỉ số BMI của nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng, có ý nghĩa thống kê ( p < 0,05).
Đặc điểm
Nhóm bệnh (n = 132) Nhóm chứng (n = 62)
p
n% (Mean ± SD) n% (Mean ± SD)
BMI (kg/m2) 132 (100,0)
21,9 ± 2,3
62 (100,0)
22,6 ± 2,5
0,03*
< 18,5
9 (6,8)
18,02 ± 0,28
6 (9,6)
18,05 ± 0,32
18,5 - 22,9
77 (58,3)
20,8 ± 1,2
28 (45,2)
21,5 ± 1,1
0,23
> 22,9
46 (34,9)
24,4 ± 1,3
28 (45,2)
24,6 ± 1,8
Biểu đồ 1. Đặc điểm lâm sàng của nhóm bệnh (n = 132)
Tỉ lệ vô sinh nguyên phát (72,7%), vô sinh thứ phát chiếm 27,3%. Phần lớn các trường hợp
(98,5%) giãn tĩnh mạch tinh bên trái và giãn độ III chiếm tỉ lệ 62,1%.
2. Ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên nồng độ các nội tiết tố sinh dục
Giá trị trung bình của LH và Testosterone ở nhóm bệnh không khác biệt so với nhóm chứng..
Giá trị testosterone trung bình ở phân nhóm testosterone < 12 của nhóm bệnh thấp hơn so với
nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Ngược lại, giá trị testosterone trung
bình ở phân nhóm testosterone ≥12 ở nhóm bệnh lại cao hơn ở nhóm chứng một cách có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05) (bảng 2).
88 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2. So sánh nồng độ nội tiết tố sinh dục giữa nhóm bệnh và nhóm chứng
Nội tiết tố
Nhóm bệnh (n = 132) Nhóm chứng (n = 62)
p
n (Mean ± SD) n (Mean ± SD)
LH 132 5,0 ± 2,2 62 4,8 ± 1,7 0,29
Nhóm < 8,6 (nmol/l) 126 4,7 ± 1,8 60 4,7 ± 1,5 0,41
Nhóm ≥ 8,6 (nmol/l) 6 10,6 ± 2,2 2 9,5 ± 1,1 0,27
Testosterone 132 17,6 ± 6,4 62 16,2 ± 5,4 0,07
Nhóm < 12 (nmol/l) 27 9,4 ± 1,6 8 10,8 ± 0,8 0,013*
Nhóm ≥ 12 (nmol/l) 105 19,7 ± 5,3 54 17,0 ± 5,3 0,001*
Bảng 3. So sánh nồng độ nội tiết sinh dục giữa các nhóm độ giãn của nhóm bệnh
Nội tiết tố Độ I (N = 27) Độ II (N = 23) Độ III (N = 82) p
LH (mU/ml) 4,5 ± 1,5 6,2 ± 2,4 4,8 ± 2,3 0,06
Nhóm < 8,6 (nmol/l) 4,54 ± 1,52 5,4 ± 1,8 4,6 ± 1,9 0,45
Nhóm ≥ 8,6 (nmol/l) - 9,7 ± 0,7 12,4 ± 3,7 0,052
Testosterone(nmol/l) 18,1 ± 5,4 17,9 ± 6,3 17,4± 6,7 0,77
Nhóm < 12 (nmol/l) 9,42 ± 1,1 9,28 ± 1,1 9,43 ± 1,8 0,39
Nhóm ≥ 12 (nmol/l) 19,17 ± 4,7 20,37 ± 4,9 19,8 ± 5,7 0,46
Không có sự khác biệt nào về nồng độ trung bình của LH và testosterone giữa các nhóm độ
giãn khác nhau (p > 0,05).
TCNCYH 117 (1) - 2019 89
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Biểu đồ 2. Mối tương quan giữa nồng độ LH với thể tích tinh hoàn trung bình
ở nhóm bệnh (r =-0,24; p = 0,006)
LH = -0,13* thể tích tinh hoàn trung bình + 6,7.
Sự thay đổi LH có tương quan nghịch với thể tích tinh hoàn trung bình (r = -0,24; p < 0,001).
Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa nồng độ testosterone với thể tích tinh hoàn trung bình
ở nhóm bệnh (r = 0,13; p = 0,14)
Testosterone = 0,21* thể tích TH trung bình + 14,9
Sự thay đổi testosterone có tương quan thuận với thể tích tinh hoàn trung bình (r = 0,13;
p > 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi trên 194 bệnh
nhân trong đó có 132 bệnh nhân thuộc nhóm
bệnh và 62 bệnh nhân thuộc nhóm chứng.
Các dữ liệu trong bảng 1 cho thấy độ tuổi
trung bình của nhóm bệnh là 30,1 ± 5,5 (tuổi)
và nhóm chứng là 29,1 ± 3,7 (tuổi), không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai
nhóm. Đây là cơ sở giúp chúng tôi có thể so
sánh những dữ liệu thu thập được từ nhóm
bệnh và nhóm chứng. Có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về chỉ số BMI trung bình giữa
nhóm bệnh và nhóm chứng.
90 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tinh hoàn là nơi sản xuất testosterone chủ
yếu trong cơ thể để duy trì hoạt động sinh sản
của người nam giới. Các nghiên cứu trên
động vật thực nghiệm cho thấy giãn tĩnh mạch
tinh làm suy giảm nặng nền chức năng của
các tế bào Leydig [5; 6].
Tuy nhiên, việc suy giảm chức năng của tế
bào Leydig trong giãn tĩnh mạch tinh có làm
ảnh hưởng đến nồng độ testosterone huyết
thanh trong máu ngoại vi hay không thì vẫn
chưa được chứng minh một cách rõ ràng qua
các nghiên cứu lâm sàng.
Một số nghiên cứu ghi nhận giãn tĩnh mạch
tinh không làm giảm nồng độ hormone sinh
dục trong huyết thanh như nghiên cứu của tác
tác giả Pasqualotto [3] và Al - Ali [7]. Gần đây
hơn, nghiên cứu trên quy mô lớn gồm 7035
nam giới trẻ khỏe mạnh thuộc 6 nước Châu
Âu, các tác giả cũng nhận thấy không có sự
khác biệt nào về nồng độ testosterone giữa
nhóm giãn tĩnh mạch tinh lâm sàng và nhóm
không giãn tĩnh mạch tinh [4].
Trái lại, một số nghiên cứu khác lại nhận
thấy giãn tĩnh mạch tinh làm giảm nồng độ các
chất này trong huyết thanh. Nghiên cứu của
tác giả Abdel-Meguid đã khảo sát nồng độ
testosterone trung bình ở các nhóm giãn tĩnh
mạch tinh có vô sinh, nhóm giãn tĩnh mạch
tinh không có vô sinh, và nhóm chứng khỏe
mạnh không bị giãn tĩnh mạch tinh. Các tác
giả cũng nhận thấy nồng độ testosterone ở
những bệnh nhân giãn tĩnh mạch tinh nói
chung (cả vô sinh và không vô sinh) thấp hơn
nhiều so với nhóm chứng [8].
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy, nồng
độ testosterone trung bình của 132 nam giới
vô sinh có giãn tĩnh mạch tinh không khác biệt
so với nhóm chứng (17,6 ± 6,4 (nmol/l), so với
16,2 ± 5,4 (nmol/l), bảng 2), với p > 0,05 .
Tuy nhiên khi so sánh nồng độ testoster-
one trung bình theo các phân nhóm thì chúng
tôi lại nhận thấy có sự khác biệt đáng kể về
nồng độ chất này theo từng phân nhóm giữa
nhóm bệnh và nhóm chứng.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy
nồng độ testosterone trung bình của phân
nhóm testosterone < 12 (nmol/l) ở nhóm bệnh
thấp hơn so với nhóm chứng, sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê (9,4 ± 1,6 (nmol/l) so với
10,8 ± 0,8 (nmol/l) với p < 0,05). Ngược lại,
nồng độ testosterone trung bình của phân
nhóm testosterone ≥ 12 (nmol/l) ở nhóm bệnh
lại cao hơn nhóm chứng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (19,7 ± 5,3 (nmol/l) so với 17,0
± 5,3 (nmol/l), với p < 0,005).
Theo một số tác giả thời gian bị giãn tĩnh
mạch tinh có ảnh hưởng nhiều đến nồng độ
testosterone trong huyết thanh [9]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, sự gia tăng nồng
độ testosterone trong huyết thanh của phân
nhóm testosterone ≥ 12 (nmol/l) ở nhóm bệnh
cao hơn nhóm chứng là do sự tăng cường
hoạt động bài tiết bù trừ của các tế bào
Leydig. Sự bù trừ này thường xảy ra ở giai
đoạn đầu khi mới bị bệnh. Khi bệnh diễn tiến
lâu dài, khả năng bù trừ của tế bào Leydig
không còn nữa sẽ làm cho nồng độ
testosterone giảm đi như đã thấy ở phân
nhóm testosterone < 12 (nmol/l) trong nghiên
cứu này.
Giả thuyết về sự tăng tiết bù trừ đã được
một số tác giả đề cập đến trong các nghiên
cứu trước đây. Các tác giả cho rằng mặc dù
giãn tĩnh mạch tinh đã làm giảm quá trình tổng
hợp androgen nhưng phần lớn các trường
hợp nồng độ testosterone huyết thanh của
bệnh nhân vẫn nằm trong giới hạn bình
thường là do có sự phì đại của tế bào Leydig
TCNCYH 117 (1) - 2019 91
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
hoặc tăng cường hoạt động chức năng của tế
bào Leydig bù trừ [10].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không thể
khảo sát được mối liên quan giữa thời gian
giãn tĩnh mạch tinh với nồng độ testosterone
vì rất khó xác định một cách chính xác bệnh
nhân bắt đầu bị bệnh từ khi nào. Tuy nhiên,
chúng tôi đã khảo sát liên quan nồng độ tes-
tosterone với độ giãn vì khi bị bệnh càng lâu
thì độ giãn càng cao. Kết quả cho thấy không
sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm độ giãn
khác nhau (18,1 ± 5,4 (nmol/l) ở nhóm độ I, so
với 17,9 ± 6,3 (nmol/l) ở nhóm độ II, so với
17,3 ± 6,7 (nmol/l) ở nhóm độ III. Khi so sánh
theo các phân nhóm, chúng tôi cũng không
nhận thấy sự khác biệt đáng kể nào về nồng
độ testosterone trung bình giữa các nhóm độ
giãn. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả
của một số tác giả khác [11; 4].
LH là một hormone hướng sinh dục được
bài tiết ra từ thùy trước tuyến có tác dụng kích
thích tế bào Leydig bài tiết ra testostorene. Sự
bài tiết LH và testosterone theo cơ chế feed-
back ngược âm tính. Khi nồng độ testosterone
trong huyết thanh nằm trong giới hạn bình
thường thì tuyến yên sẽ hạn chế bài tiết LH để
duy trì nồng độ chất này trong giới hạn bình
thường. Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận
thấy không có sự khác biệt đáng kể về nồng
độ LH trung bình giữa nhóm bệnh và nhóm
chứng (5,0 ± 2,2 (nmol/l) so với 4,8 ± 1,7
(nmol/l), với p > 0,05). Khi khảo sát sự khác
biệt nồng độ LH trung bình theo phân nhóm
LH < 8,6 (nmol/l) và phân nhóm LH ≥ 8,6
(nmol/l, chúng tôi cũng không nhận thấy sự
khác biệt đáng kể giữa hai phân nhóm này.
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của
một số nghiên cứu đã báo cáo trước đó [4; 7].
Khi khảo sát mối liên quan giữa LH và tes-
tosterone với thể tích trung bình của tinh
hoàn, trên mô hình hồi quy tuyến tính đơn
biến cho thấy LH có liên quan nghịch với thể
tích tinh hoàn trung bình, còn testosterone có
liên quan thuận với thể tích tinh hoàn. Điều
này phù hợp với cơ chế điều khiển ngược của
vùng Hạ đồi- Tuyến yên- Tinh hoàn. Khi thể
tích tinh hoàn giảm đi thì khả năng bài tiết tes-
tosterone bị suy giảm, khi đó tuyến yên sẽ
tăng cường bài tiết LH. Tuy nhiên, mối liên
quan này là không chặt chẽ với r < 0,3, có lẽ
do đối tượng nghiên cứu trong cả nhóm bệnh
và nhóm chứng của chúng tôi còn nhỏ.
V. KẾT LUẬN
Ảnh hưởng của giãn tĩnh mạch tinh lên
nồng độ LH và testosterone huyết thanh ở
những bệnh nhân vô sinh nam là không rõ
ràng. Ở phân nhóm testosterone < 12 (nmol/l),
nồng độ testosterone trung bình huyết thanh
thấp hơn so với nhóm chứng. Ở phân nhóm
testosterone ≥ 12 (nmol/l), nồng độ testoster-
one huyết thanh lại cao hơn so với nhóm
chứng. Sự khác biệt ở hai phân nhóm này có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Không có sự
khác biệt đáng kể về nồng độ LH theo các
phân nhóm LH giữa nhóm bệnh và nhóm
chứng.
Lời cảm ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến
những bệnh nhân đã không quản ngại tốn
kém về thời gian và kinh tế đã tham giam vào
nghiên cứu này. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ
của tập thể Trung tâm Y Khoa số 1 Tôn Thất
Tùng và khoa Ngoại Tổng hợp Bệnh viện Đại
học Y Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jarow, J.P (2001). Effects of varicocele
on male fertility. Hum Reprod Update, 7(1),
59 - 64.
92 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2. Tanrikut, C (2011). Varicocele as a risk
factor for androgen deficiency and effect of
repair. BJU Int, 108(9), 1480 - 1484.
3. Pasqualotto, F.F (2005). Semen profile,
testicular volume, and hormonal levels in infer-
tile patients with varicoceles compared with
fertile men with and without varicoceles. Fertil-
ity and Sterility, 83(1), 74 - 77.
4. Damsgaard, J (2016). Varicocele Is As-
sociated with Impaired Semen Quality and
Reproductive Hormone Levels: A Study of
7035 Healthy Young Men from Six European
Countries. Eur Urol, 70(6), 1019 - 1029.
5. Luo, D.Y (2011). Effects of varicocele on
testosterone, apoptosis and expression of
StAR mRNA in rat Leydig cells. Asian J An-
drol, 13(2), 287 - 291.
6. Ozturk, M.I (2013). The impact of unilat-
eral experimental rat varicocele model on tes-
ticular histopathology, Leydig cell counts, and
intratesticular testosterone levels of both tes-
tes. Urol J, 10(3), 973 - 980.
7. Al-Ali, B.M (2010). Clinical parameters
and semen analysis in 716 Austrian patients
with varicocele. Urology, 75(5), 1069 - 1073.
8. Abdel-Meguid, T.A (2014). Effects of
Varicocele on Serum Testosterone and
Changes of Testosterone After Varicocelec-
tomy: A Prospective Controlled Study. Urol-
ogy, 84(5), 1081 - 1087.
9. Ishikawa, T. and M. Fujisawa (2005).
Effect of age and grade on surgery for patients
with varicocele. Urology, 65(4), 768 - 772.
10. Sirvent, J.J (1990). Leydig cell in idio-
pathic varicocele. Eur Urol, 17(3), 257 - 261.
11. Shiraishi, K., H. Takihara, and H. Ma-
tsuyama (2010). Elevated scrotal tempera-
ture, but not varicocele grade, reflects testicu-
lar oxidative stress-mediated apoptosis. World
J Urol, 28(3), 359 - 364.
Summary
THE INFLUENCE OF VARICOCELE ON SERUM LH
AND TESTOSTERONE IN THE INFERTILE MEN
This study aimed to assess the influence of varicocele on serum LH and testosterone levels in
infertile men. A cross-sectional study of 194 men attending the Andrological Clinics of Hanoi
Medical University Hospital from December 2013 to August 2018 was performed. Of these, 132
men belonged to the case group and 62 to the control group. The results showed that there was
no statistically significantdifference in serum testosterone levels between the case and control
groups (17.6 ± 6.4 vs. 16.2 ± 5.4, with p = 0.07). However, there were significant differences in
testosterone levels in the subgroups between the case and control groups. The mean serum
testosterone concentration in the testosterone < 12 subgroup was significantly lower in the case
group than the control group (9.4 ± 1.6 vs. 10.8 ± 0.8, with p = 0.013). In contrast, the
concentration in the testosterone ≥12 subgroup was much higher in the case group than the
control group (19.7 ± 5.3 vs. 17.0 ± 5.3, p = 0.001).There was no significant difference in LH
levels between the case and control groups. With this result we recognized that the influence of
varicocele on serum LH and testosterone in the infertile men was not apparent. Varicocele
significantlyreduced serum testosterone levels in the testosterone < 12 subgroup but increased in
the testosterone ≥ 12 subgroup.Varicocele did not affectserum LH levels in these patients.
Key words: Varicocele, hypogonadismLH, Testosterone
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_anh_huong_cua_gian_tinh_mach_tinh_len_nong_do_lh_va_t.pdf