Tài liệu Đề tài Anh chị nghĩ gì về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá: Đề tài: Anh chị nghĩ gì về những khu rừng
đang ngày càng bị tàn phá?
Mục lục
Anh chị nghĩ gì về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá?
Mở bài Bác Hồ đã có lần nói đất nước ta là rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu; ấy thế mà ngày nay, rừng không còn là kho vàng nguyên vẹn nữa, mà đang bị vơi dần, cạn kiệt dần, bởi bàn tay con người tàn phá. Quả là một sự thực rất đau lòng.
Thân bài
1.Vai trò của rừng, của cây xanh đối với con người
a. Ngay từ khi con người đang ở trong xã hội nguyên thủy, chủ yếu kiếm sống bằng săn bắt hái lượm, thì rừng đã thành môi trường, ngôi nhà, nguồn sống của họ. Rừng cung cấp cho họ thực phẩm hàng ngày. Rừng là nguồn cung cấp củ, quả để con người tồn tại và phát triển, tiến hóa từ nguyên thủy đến văn minh.
b. Trong suốt trường kì lịch sử chống ngoại xâm, rừng ngoài việc cung cấp một phần thực phẩm, lương thực, còn cùng con người tham gia đánh giặc. Đúng như Tố Hữu đã viết “Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá, ta cùng đánh Tây.
Núi giăng...
105 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Anh chị nghĩ gì về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Anh chị nghĩ gì về những khu rừng
đang ngày càng bị tàn phá?
Mục lục
Anh chị nghĩ gì về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá?
Mở bài Bác Hồ đã có lần nói đất nước ta là rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu; ấy thế mà ngày nay, rừng không còn là kho vàng nguyên vẹn nữa, mà đang bị vơi dần, cạn kiệt dần, bởi bàn tay con người tàn phá. Quả là một sự thực rất đau lòng.
Thân bài
1.Vai trò của rừng, của cây xanh đối với con người
a. Ngay từ khi con người đang ở trong xã hội nguyên thủy, chủ yếu kiếm sống bằng săn bắt hái lượm, thì rừng đã thành môi trường, ngôi nhà, nguồn sống của họ. Rừng cung cấp cho họ thực phẩm hàng ngày. Rừng là nguồn cung cấp củ, quả để con người tồn tại và phát triển, tiến hóa từ nguyên thủy đến văn minh.
b. Trong suốt trường kì lịch sử chống ngoại xâm, rừng ngoài việc cung cấp một phần thực phẩm, lương thực, còn cùng con người tham gia đánh giặc. Đúng như Tố Hữu đã viết “Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá, ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày,
Rừng che bộ đội,rừng vây quân thù.”
Rừng Tây Nguyên, Tây Bắc đã cùng con người đứng lên để viết nên những chiến công sông Lô, Điện Biên, An Khê, Đồng Tháp oai hùng (oanh liệt).
c. Ngày nay, xã hội bước vào thời kỳ hiện đại hóa, chất thải công nghiệp đã làm mất cân bằng sinh thái, gây nên hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng ô dôn đẩy con người đến thảm họa diệt chủng. Trong bối cảnh đó, rừng đã trở thành vị cứu tinh của con người. Với chức năng hấp thụ khí cacbonic và nhả dưỡng khí oxi, rừng đưa lại sự sống cho con người, làm cân bằng sinh thái, biến trái đất thành ngôi nhà xanh- sạch- đẹp cho con người.
Rừng cung cấp cho chúng ta biết bao loại gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu và nhiều dược liệu quan trọng để chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ cho con người như: sâm, quế, sa nhân, tam thất…
Rừng có tác dụng phủ xanh đồi trọc, chống xói mòn, làm cho khí hậu điều hòa, mưa nắng phải thì, hạn chế thiên tai. Chưa kể rừng còn là nơi bảo tồn nguồn gen động vật, thực vật quý hiếm như: tê giác, bò tót, voi, gấu, sao la, hổ,…
2.Tình trạng chặt phá rừng Thế mà ngày nay, con người vì nông nổi, vì thiếu văn hóa, vì hám lợi mà đã chặt phá rừng không thương tiếc để lấy gỗ bán, lấy đất làm hàng hóa, trồng ngô, trỉa lúa, nuôi tôm…Những kẻ phá rừng ấy được nhân dân đặt cho cái tên: “lâm tặc”, nghĩa là những tên giặc rừng. Vì bọn chúng mà hàng ngày, hàng giờ những cánh rừng Tánh Linh đang hấp hối phải lên tiếng kêu cứu. Vì bọn chúng mà những khu rừng Lạng Sơn, Quảng Nam, rừng quốc gia Cát Tiên đang bị triệt hại một cách dã man. Chúng phá rừng đốt rừng là đốt lá phổi của chúng ta, là giết màu xanh, sự sống thiêng liêng của nước ta.
3.Hậu quả
Vì những cánh rừng đang bị thu hẹp lại bởi bàn tay của bọn “lâm tặc” bất nhân mà dẫn đến hậu quả mất cân bằng sinh thái, thiên tai, lụt lội, hạn hán, bão tố xảy ra liên miên và bất thường, trái đất không còn là ngôi nhà bình yên nữa. Hàng năm nhân dân ta phải gánh chịu biết bao tổn thất. Chỉ riêng năm 2008, theo thống kê của Chính phủ: nước ta đã mất hơn 1.300 tỷ đồng và trên bốn trăm (400) người bị chết do thiên tai. Đúng là một con số biết nói làm nhức nhối triệu triệu trái tim của những người lương thiện
4.Trách nhiệm của tuổi trẻ chúng ta Trước thực trạng ấy, chúng ta hãy cùng nhau ngăn chặn ngay bàn tay tàn bạo của bọn lâm tặc. Phải tích cực tham gia trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, cần tuyên truyền cho mọi người, từ trẻ em đến người già hiểu rõ lợi ích của rừng và phá rừng là một hành động tự sát.
Kết luận
Rừng là bài ca của sự sống “khi nghĩ về một đời người,tôi thường nhớ về rừng cây” (nhạc Trần Long Ẩn). Để bảo vệ đời người, hãy bảo vệ rừng, lá phổi xanh của đất nước chúng ta.
Suy nghĩ của anh chị về lời dạy của Phật: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
I/Nội dung cơ bản của câu nói:Đề cao đức tính khoan dung,xem đó là tài sản lớn nhất hơn tất cả mọi thứ của cải vật chất,danh vọng...của một đời người.Vì lòng khoan dung với mọi người không chỉ là một phẩm chất quan trọng của người lương thiện và là một nét đẹp của tâm hồn có thể cảm hoá được người khác mà còn đưa lại một điều vô cùng quý giá cho xã hội,gia đình và mỗi cá nhân.Đó là sự hoà thuận,bình an,thân thiện,đầy tình yêu thương.
II/Bài làm cần phải đạt được những ý cơ bản sau:
Giải thích khái niệm lòng khoan dung và ý nghĩa của nó
Bình luật mở rộng về lòng khoan dung
Chứng minh bằng thực tế
Liên hệ bản thân
III/Phương pháp nghị luận:
Giải thích,bình luận,chứng minh
I/Mở bài
Mở rộng lòng khoan dung,tha thứ độ lượng là một trong những đức tính,phẩm chất vô cùng cao quý,tốt đẹp của con người.Vì vậy ,Phật,người được xem là hiện thân của lòng bác ái đã xem đó là một thứ tài sản vô giá.Người đã dạy chúng sinh rằng: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”.
II/Thân bài
1)Thế nào là lòng khoan dung và ý nghĩa của nó
Khoan dung là lòng rộng lượng,bao dung,thương yêu con người,sẵn sàng tha thứ,không khắt khe,không trừng phạt,hoặc sẵn sàng xoá bỏ những lỗi làm mà người khác (thường là người dưới) đã phạm phải.
Khoan dung vừa có lợi cho ta vừa có lợi cho người.Chẳng thế mà danh nhân Pierre Benoit đã khẳng định “Khoan dung là đức tính đem lợi về cho cả ta lẫn người khác”.Khi ta thể hiện lòng khoan dung với ai đó thì tâm hồn ta cảm thấy thanh thản,nhẹ nhõm vì đã làm được một điều vừa có ý nghĩa của phẩm chất nhân ái,vì như thế là không vị phạm vào sự nhỏ nhen,hẹp hòi,trái với phẩm chất quý giá của con người.
Mặt khác,khoan dung,tha thứ lỗi lầm cho người khác thì có thể cảm hoá được họ.Khi được nhận lòng khoan dung của ta ,thì bản thân người đó sẽ ăn năn hối lỗi,tự tu chỉnh bản thân mình,sửa chữa lỗi lầm và có thể biết ơn ta nữa,để từ đó không tiếp tục phạm lỗi mà họ đã từng mắc phải.
2)Bình luận mở rộng
Vì thế,lòng khoan dung,độ lượng,tha thứ đã được nhà Phật đánh giá rất cao,xem đó là “Tài sản lớn nhất của đời người”.Bởi trong con người ta,có phần tốt và phần xấu,phần thiện và phần ác,phần người và phần con.Chính lòng bao dung đã góp phần tẩy rửa phần con,tô đậm thêm phần người,phẩm giá làm người.Nó làm cho tâm hồn ta trở nên thánh thiện,cao thượng và giàu có hơn mà như chúng ta đã biết sự giàu có về vật chất không thể nào sánh được với sự giàu có của tâm hồn.Đúng như một triết gia nào đó đã nói:sự nghèo nàn về của cải vật chất không đánh sợ bằng sự nghèo nàn về tâm hồn.
Mặt khác,lòng khoan dung sẽ là một yếu tố quan trọng đem lại sự bình yên,hoà thuận,thân thiện cho xã hội và gia đình.Trong cuộc sống đa dạng thường ngày,tránh sao khỏi sự va chạm trong lời nói ,việc làm có thể dẫn đến mâu thuẫn,xung đột.Trong tình thế ấy,ta nên bình tĩnh suy nghĩ và sẵn sàng đối xử bằng sự nhường nhịn,lòng khoan dung,thì mọi sự sẽ trở nên “hoà bình” và sự tốt đẹp của cuộc sống sẽ lại tiếp diễn.Trong gia đình cũng vậy,tình nghĩa cha mẹ,vợ chồng con cái là thiêng liêng,bền chặt nhưng tránh sao khỏi có những lúc xung khắc,bất hoà.Vì thế,ta phải lấy sự khoan dung ,sự nhường nhịn làm phương châm xử thế “Một sự nhịn,chín sự lành” , “Chồng giận thì vợ bớt lời;Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê”.Có thế thì gia đình mới luôn luôn được sống trong sự bình an,mà sự bình an là niềm sung sướng lớn nhất của con người.Vì như lời nhà đại thi hào nước Đức Gớt : “Dù là làm vua chúa hay là dân cày,kể nào tìm thấy sự bùnh an trong gia đình,kể ấy là người sung sướng nhất”.
Mặt trái của lòng khoan dung là sự khắt khe,cố chấp và cao hơn nữa là sự mặc cảm,thù dai.Mang trong mình lòng khoan dung thì không được cố chấp,thù dai.Nhà Phật từng dạy : “Oán thù nên cởi chứ không nên buộc” , “Oan ức mà trả thù thì oán đối kéo dài” (Lời tâm niệm thứ 10 của Phật).Còn cha ông ta ngày xưa từng khuyên con cháu : “Đấng trượng phu không thù mới đáng.Người quân tử không oán mới nên”.Người xưa gọi đó là “Trượng phu”, “quân tử”,nhưng ngày nay,ta gọi đấy là những người có sự bao dung,rộng lượng,biết ứng xử có văn hoá. “Người yêu người,sống để yêu nhau”.Được như thế thì “Có gì đẹp trên đời hơn thế”.Ta bao dung người,yêu thương,độ lượng,tha thứ người thì một lúc nào đó sẽ được người hay người khác tha thứ cho ta.Đúng như ca dao xưa từng nói: “Thương người người lại thương ta;Ghét người,người lại hoá ra ghét mình”.
3)Chứng minh mở rộng bằng thực tế cuộc sống
Sự khoan dung,độ lượng “hoà hiếu thực lòng”, “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn;lấy chí nhân để thay cường bạo” đã trở thành phẩm chất truyền thống,tài sản quý giá của dân tộc ta được biểu hiện qua các cuộc chống ngoại xâm.Ngày nay,phẩm chất ,đức tính đó đã được kết tinh ở Hồ Chí Minh “Con người đẹp nhất của nhân loại;Trí tuệ tình yêu của bốn phương”...
4)Liên hệ với bản thân (thay cho kết luận)
III/Kết luận
Thấm thía lời dạy của Phật,bản thân mỗi chúng ta,phải không ngừng tự rèn luyện,phấn đấu bồi đắp cho mình có lòng khoan dung rộng lớn.Lòng khoan dung là tài sản vô giá của con người và cũng là phương châm đối nhân xử thế tốt nhất để nhằm hoàn thiện nhân cách bản thân và đưa lại sự bình an cho cuộc sống.
Suy nghĩ về ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động “ . Liên hệ voi vk hoc tap cua ban than
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần :
1. Giải thích ý kiến.
- Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở con người.
- Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống.
- Hành động thực tiễn là thước đo của đức hạnh
2. Mỗi học sinh phải luôn luôn gìn giữ và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của mình thông qua việc làm, lối sống, quan hệ xã hội.
- Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ : là người con ngoan, chăm học, giúp cha mẹ việc nhà, giản dị, tiết kiệm.
- Đối với thầy giáo và người cao tuổi : kính trọng và lễ phép.
- Đối với bạn bè : trung thực, chân thành, quan tâm, giúp đỡ khi cần.
- Đối với xã hội : thực hiện lối sống văn minh, giữ vệ sinh môi trường, ý thức thực thi pháp luật như luật giao thông, phòng ngừa tệ nạn cờ bạc, ma túy….
- Thực hiện phương châm : lời nói đi đối với việc làm, không ba hoa, hứa hẹn lung tung.
- Dũng cảm vạch trần các hành vi gian lận, tiêu cực trong học tập và thi cử.
3. Chứng minh, bình luận, mở rộng
- Hành động thiết thực là học, học nữa, học mãi, học tập suốt đời.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đánh giá con người không căn cứ vào lời nói mà qua việc làm, hành động cụ thể của họ.
- Con người trưởng thành qua hành động thực tiễn, phải luôn luôn tham gia tích cực các hoạt động xã hội như mùa hè xanh, thanh niên tình nguyện, hành trình xanh, các hoạt động Đoàn, Đội ở trường và làng xóm, khu phố….
4. Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận : giải thích, bình luận, chứng minh.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO :
Mở bài :
Ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động “ gợi em nhiều suy nghĩ về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.
Thân bài:
1. Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người.
Đức hạnh đó là những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Đó là : Lòng yêu nước, yêu đồng bào, hiếu thảo với cha mẹ, kính yêu thầy cô giáo, các bậc lão thành, yêu thương em nhỏ, chăm chỉ học tập, cần cù lao động…
2. Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống.
Làm thế nào để xã hội và những người xung quanh biết chúng ta là người đức hạnh? Ý kiến của nhà văn Pháp nêu trên đã trả lời cho câu hỏi đó. Hành động là biểu hiện cụ thể, là thước đo của “Mọi phẩm chất của đức hạnh”. Hành động cụ thể của ta báo cho mọi người biết ta có đức hạnh hay không và nếu có thì mức độ sâu rộng như thế nào. Đức hạnh là cội rễ, hành động là hoa thơm quả ngọt dâng đời. Không có hành động thì đức hạnh không để lại gì, không đóng góp gì cho người thân và xã hội. Đánh giá đức hạnh con người nhất thiết phải thông qua hành động của người đó, không thể chỉ dựa vào lời nói mà kết luận vội vàng.
Tình yêu thương đồng bào và lòng nhân văn cao cả phải thể hiện ở sự đóng góp dù rất ít ỏi cho quỹ người nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt, qua hành động giúp cụ già, em bé đi qua đường. Gặp đám cháy chúng ta phải xông vào cứu chữa. Gặp người bị tai nạn giao thông, như hai bạn ở Nghệ An trên đường đi thi tốt nghiệp phổ thông, không ngần ngại đưa họ đi cấp cứu mặc dù việc đó có thể gây thiệt hại cho bản thân.
Lòng hiếu thảo, yêu thương cha mẹ phải thể hiện ở hành động chăm học, sống tiết kiệm, biết quý trọng đồng tiền cha mẹ vất vả kiếm được để nuôi mình ăn học. Khi xa gia đình, ta phải thường xuyên viết thư, gọi điện thăm hỏi sức khỏe cha mẹ. Khi cha mẹ ốm đau, ta phải hết lòng, hết sức quan tâm, chăm sóc, chạy chữa.
Lòng yêu thiên nhiên đất nước phải thể hiện ở hành động giữ gìn vệ sinh, tiết kiệm điện nước, trồng cây để cho môi trường sống xung quanh ta ngày càng xanh, sạch đẹp.
Lòng yêu lao động thể hiện ở hành động chăm làm, chăm học ( Học tập cũng là một loại hình lao động ). Học tập suốt đời để sống tốt, lao động tốt, sức khỏe tốt, tu dưỡng phẩm chất đức hạnh tốt. Đức hạnh bắt nguồn từ tri thức, nhận thức đúng đắn về xã hội và tự nhiên, con người và cuộc sống. Học tập là cơ sở để ta có phẩm chất của đức hạnh và hành động phù hợp với phẩm chất của đức hạnh.
3. Đức hạnh phải được tu dưỡng rèn luyện thường xuyên trong thực tiễn.
Phẩm chất của đức hạnh, chứa đựng trong nhận thức và biểu hiện ở hành động không phải tự nhiên mà có. Chúng ta phải tu dưỡng và rèn luyện thường xuyên, đặc biệt khi ta còn trẻ.
Hành động thể hiện phẩm chất của đức hạnh cũng không có một tiêu chuẩn cứng nhắc, cố định. Trong chiến tranh giữ nước, hành động có thể là vứt bút nghiên theo nghiệp binh đao, nhưng cũng có thể là lao động sản xuất tốt. Còn khi thời bình và đang tuổi đi học, chúng ta học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành người có ích cho xã hội, có việc làm, hành động thể hiện các phẩm chất đức hạnh cao quý là người yêu nước.
Học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có đức hạnh, cả trong nhận thức và hành động, là quá trình gian nan, vượt nhiều khó khăn thử thách. Hôm nay ta lười học thì ngày mai ta sẽ lười lao động. Hôm nay ta ăn cắp 1 quả trứng thì ngày mai ta dễ ăn trộm con bò. Cuộc vận động “ Nối không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong học tập” cần được chúng ta hưởng ứng bằng hành động thiết thực, cụ thể.
Hành động của con người, nói rộng ra là thực tiễn, là “tiêu chuẩn của chân lý”, là tiêu chuẩn, thước đo của phẩm chất “ đức hạnh”, bản chất ở bên trong của con người. Khi con người biết nhìn nhận, đánh giá mình qua hành động cụ thể, việc làm hàng ngày, qua lao động sản xuất và quan hệ ứng xử là con người “ có học” có hiểu biết và là có “phẩm chất tốt” , “đức hạnh cao”, Một trí thức, một người có văn hóa, có giáo dục không thể tự nói với người khác rằng họ có bằng cấp, có học vị, học hàm cao nên “ phẩm chất đức hạnh tốt đẹp”. Họ phải thể hiện ở hiệu quả các công trình khoa học, cái hay trong cuốn sách mà họ viết, số người bệnh mà họ cứu chữa được.
4. Con người phải tự nhận thức và đánh giá đức hạnh của mình.
Hành động là thể hiện, là kết tinh của đức hạnh. Con người phải luôn luôn tự đánh giá, tự nhận thức bản thân mình qua việc làm, qua ứng xử cụ thể, qua hành động chứ không phải qua lời nói của mình. Phầm chất đức hạnh con người được đo bằng kết quả thực tế việc làm chứ không phải bằng những lời ba hoa, lý thuyết, hùng biện, mị dân, tự đánh bóng mình. Con người phải luôn luôn hoàn thiện tư cách đạo đức phẩm giá bằng những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.
5. Học tập đạo đức, tác phong của Bác Hồ.
Phẩm chất đạo đức cao cả của Bác Hồ luôn thể hiện ở hành động, việc làm. Lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, lối sống giản dị, trong sáng của Bác Hồ đã được thể hiện qua rất nhiều hành động, việc làm mà sách báo đã viết về Bác.
Kết luận :
Noi gương Bác, em nguyện lời nói đi đôi với việc làm, học đi đôi với hành, rèn luyện tu dưỡng bản thân qua thực tiễn lao động, học tập và quan hệ xã hội để không ngừng hoàn thiện phẩm chất đức hạnh.
Hãy viết một bài văn ngắn (Không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh /chị về ý kiến sau:
“Một ngày so với một đời người là quá ngắn ngủi, nhưng một đời người lại là do mỗi ngày tạo nên”.
(Theo sách Nguyên lý của thành công, NXB Văn hoá thông tin, 2009 trang 91). Đề thi tuyển sinh Cao đẳng năm 2009
Mở bài
Giờ đây chúng ta đã đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, mới thấm thía một sự thật: Có một thứ của cải có thể vô hình và vô hạn, mà thật ra lại rất quý, hiếm. Đó là thời gian. Nhiều thứ của quý mất đi, vẫn có thể mua lại được, nhưng thời gian thì không thể. Vì thế có người đã khẳng định sự quý hiếm của thời gian được định giá theo từng ngày một của đời người “Một ngày so với một đời người là quá ngắn, nhưng một đời người lại là do mỗi ngày tạo nên”.
Thân bài
1. Giải thích ý kiến
Câu nói so sánh sự đối lập giữa thời gian rất dài của đời người và thời gian rất ngắn của một ngày để nhấn mạnh: Giá trị cuộc sống của mỗi ngày là cơ sở để tạo nên chất lượng, ý nghĩa cuộc sống của một đời người. Thực chất, ý nghĩa của câu nói: trong cuộc đời con người, mỗi ngày là rất quan trọng, quý giá, đừng để lãng phí thời gian. Cha ông ta xưa chẳng từng để khuyên con cháu bằng một câu ca dao giản dị mà vô cùng sâu sắc:
“Đời người được một gang tay
Ai hay ngủ ngày, còn lại nửa gang,” đó sao?
2. Suy nghĩ, bình luận, chứng minh mở rộng về câu nói bằng chứng minh
Đúng như vậy, cái quý nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần. Muốn cho cuộc đời tươi đẹp như hoa, và có một tương lai huy hoàng và tráng lệ, chúng ta không được sống hoài sống phí. Đặc biệt là không được phí hoài thời gian, vì thời gian là một điều kiện rất quan trọng để tạo nên cuộc sống của mỗi con người. Vả lại đã là người ai cũng muốn được sống lâu với thời gian để làm việc, để cống hiến, để tận hưởng niềm hạnh phúc của trần thế. Nhưng thời gian lại được đếm đo theo từng đơn vị cụ thể đó là “một ngày” “mỗi ngày” . Ta có thể hình dung một cuốn sách được hình thành từ những trang cụ thể, thì cuộc đời con người sẽ được làm nên, hoàn thiện từ thời gian của từng ngày, của một ngày. Vì một ngày tuy rất ngắn ngủi, nhưng con người có thể làm được nhiều việc có ích cho bản thân, cho xã hội: học tập, lao động sáng tạo. Có những phát minh, công trình khoa học được gặt hái trên hành trình miệt mài làm việc không ngừng, không nghỉ của từng giờ từng ngày, nhưng cũng có những phát kiến thiên tài được lóe sáng, trong một khoảng khắc rất ngắn của thời gian. Những nhà khoa học, những nghệ sĩ vĩ đại đều miệt mài làm việc từng phút, từng giờ, từng ngày trên bàn viết, trong phòng thí nghiệm.
Đại văn hào thế giới Bandắc mỗi ngày chỉ ngủ có 4 tiếng đồng hồ. Vì thế tất cả cuộc đời ngắn ngủi của ông đã sáng tạo nên bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” đồ sộ gồm chín mươi bảy tập, một tài sản tinh thần vô giá của nhân loại sống mãi với thời gian. Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu luôn “Vội vàng” vì sợ thời gian trôi, không đứng đợi: “Vì tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại; còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi; nên bâng khuâng tôi tiếc đất trời”. Cũng có nghĩa là tôi tiếc từng ngày của cuộc đời. Nhà văn hoá lớn, Phan Ngọc, một Người tự học mà biết rất nhiều ngoại ngữ, người đã sáng tạo một số công trình văn hoá đặc sắc đã ngoài 80 tuổi mà đến bữa ăn, còn phải ăn vội, ăn vàng, để chạy đua với thời gian, để tranh thủ từng giây từng phút một mà lao động, sáng tạo
3. Bình luận, mở rộng
Sự so sánh đối lập giữa một ngày và một đời người còn thể hiện ý nghĩa sâu sắc về mối quan hệ việc nhỏ và việc lớn, có nhiều việc nhỏ xem ra không đáng quan tâm, nhưng là cơ sở để tạo thành những việc lớn.
Người xưa từng nói “góp gió thành bão”. Còn nhà văn thì nói “góp nhặt từng chữ cuộc đời mà viết nên trang”. Đối với chúng ta thì sao? Trong khi có biết bao người đang chạy đua với thời gian, luôn “giục giã” mình và giục giã người hãy mau lên tranh thủ từng phút, từng giờ vì những thành quả lao động, vì những công trình sáng tạo được khai sinh kịp thời, thì cũng có không ít người, thậm chí là những chàng trai, cô gái mới tuổi đôi mươi, mà đã để cho cuộc đời bình thản trôi qua vô vị bằng cách đốt cháy những năm tháng quý giá của đời mình vào những “cuộc truy hoan” thâu đêm suốt sáng, hoặc khép kín phòng riêng miên man ngủ. Thật là “Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày”.(Chế Lan Viên)
Kết luận
Hiểu được ý nghĩa của thời gian, giá trị của đời mình được làm từ giá trị của mỗi ngày, mỗi chúng ta hãy biến mỗi ngày thành một viên ngọc toả sáng và cả cuộc đời ta sẽ là chuỗi ngọc long lanh, lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời.
Một nhà văn Nga có nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”. Anh/chị cósuynghĩ
gì về câu nói trên?
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1.Giải thích nội dung,ý nghĩa câu nói
-Về mặt khí tượng học thì Bắc cực là nơi lạnh nhất
-Tuy nhiên,xét về quan điểm nhân sinh,Bắc Cực vẫn chưa phải là nơi lạnh nhất.
-Vì,theo quan điểm nhân sinh,xét về phương diện trái tim,nơi lạnh nhất là nơi không có tình thương. “Sợ nhất là tâm hồn tật nguyền,vô cảm”.
-Thế nào là tình thương và vai trò,ý nghĩa của nó đối với cuộc sống con người.
2.Chứng minh bằng thực tế và văn học
-Tình thương của các nhân vật nghèo khổ trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
-Tấm lòng vị tha tràn đầy yêu thương của nhân vật Giăng-van-giăng trong tác phẩm “Những người khốn khổ”
-Phong trào ủng hộ Quỹ vì người nghèo,Quỹ nạn nhân chất độc da cam,Quỹ cứu trợ thiên tai ...v...v.. sôi nổi rộng rãi trong nhân dân ta nhiều năm qua chứng minh rằng dân tộc ta đang nghèo nhưng có tấm lòng nhân văn cao cả “lá lành đùm lá rách”.
3.Liên hệ bản thân
4.Phương pháp biện luận
Giải thích,bình luận,chứng minh,mở rộng,liên hệ.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
I/ Mở bài
Nhiều lần xem ti-vi thấy quang cảnh Bắc Cực bốn mùa băng tuyết. Ở đó nhiệt độ luôn luôn dưới không độ, không có cây cối, chỉ có những núi băng điệp điệp trùng trùng lạnh giá, tôi cứ tưởng đó là nơi lạnh giá nhất của thế giới chúng ta. Nhưng giờ đây, bước vào tuổi mười bay, đôi mươi, qua việc quan sát và suy ngẫm về cuộc sống xung quanh ta và về thế giới loài người, tôi mới thấm thía một sự thực tưởng như nghịch lí nhưng đúng là một quy luật của trái tim: “Nơi lạnh giá nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”.
II/ Thân bài
1)Theo quan điểm của khí tượng học thì Bắc Cực là nơi lạnh nhất của Địa Cầu.
Dưới cái nhìn của khí tượng học, thì Bắc Cực là nơi lạnh nhất. Vì Trái Đất của chúng ta là một hành tinh được chiếu sáng và sưởi ấm bởi Mặt Trời. Nơi nào gần Mặt Trời, được Mặt Trời chiếu rọi nhiều nhất thì nơi đó quanh năm ấm nóng. Đó là những miền đất gần xích đạo. Còn những nơi xa Mặt Trời, được quả cầu lửa chiếu sáng ít thì thiếu ánh sáng và rất lạnh giá. Tiêu biểu là vùng Bắc Cực. Đó là vùng đất bốn mùa tuyết phù, vùng đất của giá băng. Quanh năm nhiệt độ dưới không độ, con người khó mà sinh tồn và phát triển được ở nơi ấy. Quả đúng là xét về mặt khí hậu, thì Bắc Cực là nơi lạnh lẽo nhất của Trái Đất mà loài người từng biết đến
2) Tuy nhiên xét về quan điểm nhân sinh, Bắc Cực vẫn còn chưa phải là nơi lạnh giá nhất
Tuy vậy, dù rằng trên Trái Đất này, Bắc Cực là nơi lạnh giá nhất, quanh năm chỉ có tuyết và băng, chỉ có rất ít động vật có khả năng thích nghi đặc biệt với cái lạnh thì mới có thể sinh tồn và phát triển được. Nhưng nơi ấy là cái lạnh được tạo nên bới không gian, vị trí đại lý, điều kiện khí hậu của đất trời. Với bầu không khí lạnh giá ấy, dù sao con người, nhất là con người của thời đại khoa học kĩ thuật công nghệ phát triển như ngày nay vẫn có thể có nhiều phương thức khác nhau để chống chọi lại và chế ngự được cái lạnh khủng khiếp ấy để sinh sống và thám hiểm nơi “miền đất chết” đó như trang bị những dụng cụ, quần áo chống rét, đốt lửa sưởi. Hằng năm vẫn có những nhà khoa học đã và đang sống và làm việc trên Bắc Cực để ghi lại những thước phim sinh động về cuộc sống trên băng tuyết của những động vật xứ lạnh như hải cẩu, chim cánh cụt… hoặc những bản tin thời tiết cập nhật hằng ngày gửi về trung tâm khí tượng, giúp loài người thấy được những biến đổi khí hậu nơi đó đã ảnh hưởng đến bầu khí quyên Trái Đất như thế nào. Vì thế, Bắc Cực tuy nhiệt độ thời tiết rất thấp, khí hậu rất khắc nghiệt, nhưng con người với ý chí, nghị lực và khát vọng, niềm đam mê khám phá, cùng các phương tiện khoa học hỗ trợ vẫn có thể sống và làm việc được ở nơi lạnh giá khủng khiếp ấy. Như vậy Bắc Cực vẫn chưa phải là nơi lạnh giá nhất.
3) Xét về phương diện trái tim, nơi lạnh giá nhất phải là nơi không có tình thương.
Mà nơi lạnh lẽo nhất trên thế gian này là nơi thiếu tình thương, thiếu không khí ấm áp của tình người. Cái lạnh của Bắc Cực là cái lạnh được cảm nhận bằng cảm giác da thịt. Cái lạnh ấy, loài người vẫn có cách khác phục, còn cái lạnh của lòng người, của tình thương là cái lạnh của trái tim thì con người không sao khắc phục được và không thể chịu đựng nổi. Nếu như cái lạnh từ da vào thịt, tuy ghê gớm, nhưng không đáng sợ lắm, thì cái lạnh từ tim ra là cái lạnh khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, không một công nghệ khoa học nào, dù siêu hiện đại cũng không thể khắc phục, chế ngự được. Nếu không có tình thương thì dù đang sống giữa một miền đất chan hòa ánh sáng mùa xuân, trăm hoa đua nở, khoe sắc thắm tươi, con người vẫn cảm thấy tất cả chỉ là hoang mạc lạnh giá, không mảy may dấu hiệu của sự sống. Vậy thế nào là tình thương? Vì sao nó có vai trò và sức mạnh kì diệu đối với con người hơn cả khí hậu, ánh nắng mặt trời?
4) Thế nào là tình thương và vai trò, ý nghĩa của nó đối với cuộc sống con người
Tình thương là tình cảm đẹp đẽ, tự nhiên giữa con người và con người, là tấm lòng chân thật, cảm thông, thương yêu, hy sinh cho nhau, là khởi đầu của mọi tính cảm rộng lớn và thiêng liêng cao cả nhất. Đó có thể là tình cảm cha mẹ, con cái trong gia đình, xa rộng hơn nữa là tình yêu, tình bạn bè, hàng xóm, quê hương, đồng loại,… Tình thương không chỉ được biểu hiện bằng cảm xúc, những rung động của trái tim, mà quan trọng hơn còn được thể hiện bằng hành động như những lời hỏi thăm, động viên, an ủi chia sẻ với những người khác khi người đó gặp điều bất hạnh, không may mắn trong cuộc sống.
Tình thương có một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người. Theo Nam Cao nó là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác nhận tư cách làm người: “ Hắn ( chỉ Hộ, nhân vật chính trong tác phấm “Đời thừa” của Nam Cao) có thể từ bỏ tình yêu,thứ tình yêu vị kỉ. Nhưng hắn không thể bỏ tình lòng thương. Hắn có thể hèn nhát, nhưng như thế hắn vẫn được gọi là người… Nếu không có tình thương thì con người chỉ là con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỷ ”. Đối với con người chúng ta, tình thương là sức mạnh, tình thương là hạnh phúc. Một lời nói dịu dàng, đầy tình thân ái, một lời an ủi động viên, khích lệ, một hành động giúp đỡ cưu mang người khác trong khó khăn hoạn nạn sẽ giúp cho người đó có thêm sức mạnh, ý chí nghị lực vượt qua tất cả, để hướng về phía trước với nụ cười tươi vui, rạng rỡ. Người nào luôn luôn dành cho người khác những tình cảm yêu thương, nhân ái, người đó không chỉ mang lại niềm hạnh phúc cho họ, mà chính bản thân mình cũng được hưởng hạnh phúc, được sống trong niềm vui thanh thản của trái tim. Nếu mọi người sống trong tình yêu thương nhân ái, thì xã hội loài người luôn được sống trong bầu không khí ấm cúng chan hòa, bất chấp khí hậu đất trời khắc nghiệt đầy lạnh giá. Đại văn hào nước Pháp Huy-gô đã có một câu nói nổi tiếng: “Con người sống không có tình thương cũng giống như vườn hoa không có ánh Mặt Trời, không có gì đẹp đẽ và hữu ích có thể nảy nở trong đó được”
5)Chứng minh bằng thực tế và văn học.
Đọc “Vợ nhặt”, mỗi chúng ta ai cũng thấm thía, cảm động trước tấm lòng nhân ái, vị tha bao la của bà cụ Tứ. Giữa cơn đói năm Ất Dậu khủng khiếp, ngoài đường ngập đầy tử khí, trong nhà phải ăn cháo cám. Nhưng những lời đông viên an ủi giàu lòng yêu thương của bà cụ Tứ đối với con trai, con dâu đã làm với đi chất đắng chát của vị cám nơi cổ họng để đem lại chất thơm, chất ngọt trong lòng mọi người. Tình thương bao la ấm nóng của người mẹ đã làm cho không khí gia đình từ sự trơ trọi trở thành đầm ấm, giá lạnh trở thành vui tươi, bóng tối âm u trở thành nắng sớm chan hòa. Tình thương là tất cả. Đọc “Những người khốn khổ” của Huy-gô, chúng ta ai mà chẳng xúc động trước tấm lòng tràn đầy yêu thương, vị tha của Giăng-van-giăng đối với người phụ nữ khổ đau Phăng-tin trong giây phút hấp hối. Ông như người mẹ hiền chăm chút cho đứa con yêu: ông nhẹ nhàng thắt lại dây rút cổ áo, vén gọn tóc vào trong chiếc mũ vải, rồi ông vuốt mặt cho chị. Sau đó ông ghé miệng thì thầm vào tai chị. Thế là trên đôi môi nhợt nhạt của Phăng-tin đã hiện lên một nụ cười không sao tả nổi. Con người vô cùng đau khổ ấy, trước lúc giã từ cõi thế gian còn được Giăng-van-giăng ban cho nụ hôn chân thành và thánh thiện. Nụ hôn ấy đã khiến cho linh hồn chị trở thành thiên thần với đôi cánh kỳ diệu bay nhè nhẹ vào bầu trời trong sáng của cõi vĩnh hằng. Đúng tình thương là nguồn ấm nóng như vầng dương và có một sức mạnh vô song và đầy huyền bí.
Ta có thể tìm được rất nhiều dẫn chứng cảm động và đầy thuyết phục về vai trò và ý nghĩa của tình yêu thương con người. Nếu con người sống không có tình thương giữa người và người, mà chỉ sống trong sự ích kỷ, đố kị và bằng những con mắt vô cảm, lạnh lùng với nhau thì con người luôn chịu cảnh: “Hiu hắt nhẽ bốn phương trời vò võ; Lạnh lùng chăng sầu một khối chon von; Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn” ( Xuân Diệu). Sống trong xã hội “Tiền trao cháo múc”, không tình nghĩa trước đây, trái tim các thi sĩ lãng mạn đặc biệt là Xuân Diệu luôn run rẩy vì: “Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo; Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xương da”. Rõ ràng là thiếu tình người, không có tình yêu thương, cuộc đời bỗng trở thành một sa mạc đìu hiu, lạnh giá, cằm cỗi, không còn sự sống, niềm vui và hy vọng. Con người tồn tại ở nơi ấy chỉ là những cái xác không hồn
III/ Kết luận
Hiểu như vậy, chúng ta mới thấm thía câu nói của nhà văn Nga giàu sức khái quát và mang ý nghĩa nhân văn, nhân sinh sâu sắc: “Không nơi nào lạnh lẽo hơn nơi lạnh giá của trái tim con người trên thế gian này”.
Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu có viết:
…“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
( Thơ Tố Hữu _ trang 532)
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
-Đề này cần
1.Nội dung ý nghĩa về lẽ sống “vay trả,nhận-cho”,sống phải có ích.
Đã là chiếc lá thì phải làm xanh cho đời. Đã là con chim thì phải dâng cho đời tiếng ca lảnh lót, “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”.Đã là người thì phải có lẽ sống.Lẽ sống của con người là phải sống có ích,sống có nhận,có cho,có vay,có trả.
2.Thế nào là lẽ sống đẹp “Có vay có trả,có ích cho đời”
Sống ở đời là đã ,mắc nợ.Cha mẹ cho ta cuộc đời,nhân dân đất nước cho ta cho ta nơi ở thanhbình,cuộc sống bình an,để ta học hành,vui chơi,ăn mặc,chữa bệnh ...v..v...Ta phải trả cho đời bằng cuộc sống có ích,cống hiến...
3.Chứng minh bằng thực tế và hình tượng văn học
Các anh hùng liệt sĩ Hoàng Văn Thụ,Võ Thị Sáu,Lý Tự Trọng,Nguyễn Văn Trỗi,Đặng Thùy Trâm,Nguyễn Văn Thạc...v..v.. là những tấm gương có lẽ sống đẹp.
Hình tượng cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật, “Người mẹ cầm sung”của Nguyễn Thi về hình tượng người mẹ,chị Sứ ...v...v...
4.Phê phán lối sống chưa đẹp của một số bộ phận thanh niên
Một bộ phận thanh niên ngày nay chưa có lẽ sống đẹp,dẫn tới lối sống chưa đẹp.Họ đua đòi,ăn chơi,lười học,lười làm việc,xa hoa,lãng phí.Họ nhận nhiều hơn cho,vay mà không trả.Nhiều khi họ trở thành người bất hiếu,vô ơn bạc nghĩa,huỷ hoại cuộc đời họ và phá hoại xã hội
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
I/ Mở bài
“Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Vì đời người chỉ sống có một lần”. Vậy phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn?”. Để trả lời với tất cả chúng ta câu hỏi đó, trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu đã tâm sự bằng những câu thơ giản dị mà rất sâu sắc:
…“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
II/ Thân bài
1)Sống phải có ích
Bằng hình ảnh “Nếu là con chim, chiếc lá; Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh”, Tố Hữu muốn khẳng định trước hết sống phải có ích cho đời. Là con chim không chỉ biết kêu mà cao hơn nữa phải biết cất tiếng hót ca lanh lảnh hót cho đời, tạo nên những bản nhạc rộn rã tươi vui cho đất trời. Cũng như vậy, đã là chiếc lá thì chiếc lá phải xanh tươi đưa lại sức sống cho cây cối, làm mát mắt cho đời và hút nhiều thán khí, nhả ra nhiều ô-xy đem lại sự sống cho con người và muôn loài vật trên trái đất này. Ngay cả những sinh vật hết sức nhỏ bé như thế, mà chúng còn biết hiến dâng những gì tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất giúp ích cho đời. Vậy, chúng ta là những con người “Chúa tể của trần gian, kiểu mẫu của muôn loài” (Sêch-xpia), là “Hoa của đất” (tục ngữ), là động vật duy nhất có trí tuệ và tâm hồn, chúng ta phải làm gì và sống ra sao đây để cùng muôn loài tô điểm cho quê hương, đất nước, cho “Trái đất này là ngôi nhà của chúng mình” ngày một tươi đẹp hơn”.
2)Con người chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Mà sống đẹp là có “vay” có “trả” và cao hơn nữa sống là cống hiến, hy sinh cho đời.
Muốn sống cho xứng đáng tên gọi thiêng liêng cao quý của mình “Con người! Ôi hai tiếng ấy vang lên mới tự hào và kiêu hãnh làm sao!” (Gooc –ki), mỗi chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Nghĩa là phải biết ứng xử một cách đẹp đẽ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, với quê hương đất nước. Nói như Tố Hữu, lẽ sống đẹp là lẽ sống có “vay” thì có “trả”, có “nhận”, thì phải có “cho”, phải cống hiến hy sinh sức lực, tâm trí, thậm chí là cả sự sống của mình cho đời, để đời ngày một “đàng hoàng”, “tươi đẹp hơn”.
Mỗi chúng ta giờ đây được sống trên đời, hít thở khí trời, đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, chúng ta đã được nhận quá nhiều từ công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà tổ tiên, từ tình yêu thương đùm bọc của bà con, đồng bào, từ sự hy sinh của biết bao anh hùng liệt sĩ đã đổ máu xương để xây dựng quê hương và giữ gìn đất nước thanh bình tươi đẹp như hôm nay….. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã được thừa hưởng biết bao thành quả của người đi trước để lại và người khác đem cho. Như thế là chúng ta đã “vay”, đã “mắc nợ” người thân, nhân dân, đất nước nhiều rồi! Là con người vốn giàu nhân cách và lòng tự trọng, lẽ nào chúng ta nhắm mắt ắt quỵt được sao? Không! Chúng ta phải “trả”, hơn nữa phải “cho” nhiều hơn những gì mà chúng ta đã “vay”, đã “nhận”. Đó là hành động vừa đúng với nhân tâm, vừa hợp với Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn”. Cách đây hơn nửa thiên niên kỷ, thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, một người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam nhất trong lịch sử quá khứ cũng từng đã viết “Ăn lộc phải đền ơn kẻ cấy cày”, đó sao?.
3)Chứng minh bằng thực tế.
Trong sự nghiệp xây dựng chính quyền và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, ở Việt Nam ta đã có biết bao con người sống rất đẹp cho đạo lý, lẽ sống “trả”, “vay” đó, như Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Viết Xuân, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Trỗi, Lý Tử Trọng, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc,…Họ sẵn sàng “cho” cả cuộc đời, sẵn sàng đổ máu mình cho Tổ quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do. “Và em nữa. Lưng đèo Mụ Gia, ai biết tên em? Chỉ biết cô gái nhỏ anh hùng. Sống chết từng đêm; Mà lòng thanh thản lạ: Đâu phải hy sinh, em vinh dự vô cùng”. (Tố Hữu – gửi TNXP).
Noi theo những tấm gương cao đẹp đó, giờ đây, những người đang sống lại tiếp tục hy sinh, cống hiến tâm trí và sức lực của mình để làm giàu cho Tổ quốc:
“Ta lại hành quân như năm nào đánh Mĩ
Những sư đoàn không súng, lại xung phong
Ta lại thắng như những chàng dũng sĩ
Biến và hoang vu, thành cơm áo hoa hồng.”
(Tố Hữu).
Hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta có biết bao con người đã “cho” đi những giọt mồ hôi thấm đẫm tâm não để “nhận” lại những công trình khoa học, những sản phẩm lao động; hoặc “cho” đi những giọt máu đào nhân đạo để cho người bệnh có nụ cười ngọt ngào, vì sự sống được hồi sinh; hoặc “cho” đi những đồng tiền mà mình tiết kiệm được để cho những người nghèo, cơ nhỡ có những điều kiện vật chất tối thiểu để hướng cuộc đời về phía tương lai.
4)Phê phán lối sống chưa đẹp của một số bộ phận thanh niên.
Bên cạnh biết bao con người ngày đêm miệt mài học tập, lao động, cống hiến tài năng sức lực cho xã hội, đất nước, thì có một bộ phận không nhỏ của thanh niên lại chỉ biết “vay” và “nhận”, thậm chí còn “nhận” quá nhiều mà không chịu “trả”. Họ đua đòi theo con đường ăn chơi hưởng lạc: đến với vũ trường, tìm đến “nàng tiên nâu”. “cái chết trắng”, để tiêu vèo hết cuộc đời trong chốc lát, vi những thú vui vô nghĩa, mà không hề biết hổ thẹn. Những người có lối sống ích kỷ và bất nhân, vô ơn bạc nghĩa ấy thật đáng phê phán, lên án, phỉ nhổ.
III/ Kết luận
Như vậy, mấy câu thơ giản dị của Tố Hữu đã thể hiện một lẽ sống biết “vay”-“trả”; “cho”-“nhận” đúng lương tâm và đạo lí rất đẹp của người Việt Nam xưa nay. Hiểu được lẽ sống đó, mỗi chúng ta, ở từng cương vị cuộc sống khác nhau, hãy cống hiến hết sức mình, hãy “cho” thật nhiều và gắng làm “Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời” như nhà thơ Thanh Hải đã viết:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
Phát biểu suy nghĩ về ý kiến: “ Có ba điều trong cuộc đời mỗi người nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian
lời nói
và cơ hội”
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần :
1.Giải thích ý kiến:
- Thời gian đối với đời người có hạn, vì vậy rất quý giá.
- Lời nói phản ánh tư tưởng, đạo đức, lối sống, quan điểm của con người. Vì vậy, con người phải thận trọng “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” . Lời nói đi đôi với việc làm, có làm được thì hãy nói.
- Cơ hội đến với mỗi người là rất hiếm, phải tranh thủ tận dụng khi có cơ hội.
2. Bình luận mở rộng
- Mỗi người phải biết tận dụng, khai thác có hiệu quả quỹ thời gian, lời nói và cơ hội để hoàn thiện bản thân, học tập và làm việc tốt, thành đạt trong cuộc sống,
- Để sử dụng có hiệu quả ba điều nói trên, con người cần có học vấn, tri thức, sức khỏe.
- Sống có lý tưởng có mục đích cao đẹp mới giúp người ta quý trọng và sử dụng hết tốt quỹ thời gian, lời nói và cơ hội.
- Phê phán những lời nói ba hoa, không biết quý trọng thời gian, lời nói và cơ hội.
3. Chứng minh, liên hệ bằng thực tế và thơ văn
4. Sử dụng, tổng hợp các thao tác lập luận, giải thích, bình luận, chứng minh.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài :
Ý kiến “ Có ba điều trong cuộc đời mỗi người nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói, và cơ hội” gợi mở cho chúng ta nhiều suy nghĩ và hướng dẫn cho ta phương châm sống ở đời.
Thân bài
Thời gian, lời nói và cơ hội là những thứ quý báu nhất cần được con người sử dụng cân nhắc, thận trọng, hợp lý và hiệu quả trong cả cuộc đời.
1. Thời gian đối với đời người là có hạn.
Thời gian đối với vũ trụ là vô hạn nhưng đối với đời người là hữu hạn. Thời gian trôi đi sẽ không bao giờ lấy lại được. Quỹ thời gian đời người có hạn và trôi nhanh. “ Như bóng câu qua cửa sổ”. Chúng ta phải quý thời gian, tận dụng thời gian để sống, để học tập và lao động .“ Việc hôm nay không để ngày mai” .
2. Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói
Lời nói như “mũi tên bay, đã bắn ra khỏi cung thì không lấy lại được”, vì vậy, chúng ta phải ”Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Vì sao? Vì lời nói phản ánh tư tưởng, đạo đức tác phong của ta, không chỉ ảnh hưởng tới bản thân ta mà có khi còn ảnh hưởng tới người khác. Lời nói là nói cho người khác nghe. Ý nghĩa và ấn tượng mà lời nói ta gây cho người khác là không thể quên, nếu có sai sót thì rất khó đính chính, rất khó sửa sai mặc dù chúng ta có thể “nói lại cho rõ”. Đặc biệt là khi ta nói về người thứ ba, “nói sau lưng”, rất dễ gây hiểu lầm cho người khác, phải cẩn thận và suy nghĩ trước khi nói. “ Lời nói là đọi (bát) máu” có khi gây cho người ta uất ức, đưa người ta đến chỗ tự tử hoặc tù tội, ví dụ có một số sinh viên ở ký túc xá đã tự tử vì bị bạn cùng phòng nghi ngờ khi bị mất tiền. Lời nói có sức mạnh và ta phải thận trọng khi nói.
3. Cơ hội là điều hiếm gặp trong đời người
Cơ hội là cơ may, may mắn, một điều kiện rất thuận lợi đến với ta trong cuộc đời, nhờ nó ta có thể thay đổi cuộc đời, “ đổi đời” như một việc làm phù hợp có thu nhập cao, một học bổng đi học nước ngoài, một bệnh nhân gặp được thầy thuốc giỏi “ gặp thầy, gặp thuốc”.Cơ hội hiếm có trong đời, khi gặp cơ hội chúng ta phải nắm lấy kịp thời, cơ hội qua đi chúng ta rất khó gặp lại.
4. Phải làm gì để tận dụng thời gian, lời nói và cơ hội.
“Thời gian, lời nói và cơ hội” có thể nói chúng lả ba điều quý giá nhất trong cuộc sống. Mọi điều khác trong cuộc sống đều suy đến cùng chúng ta đều có thể có được nếu chúng ta sử dụng có hiệu quả 3 điều nêu trên. Tiền bạc, của cải có thể có được từ sử dụng tốt thời gian và cơ hội. Bạn bè có được từ ứng xử, từ “Lời nói” của ta. Công danh sự nghiệp thành công khi “thời gian, lời nói và cơ hội” được chúng ta sử dụng tốt nhất.
Chúng ta phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện tốt mới có thể tận dụng cơ hội, sử dụng hiệu quả thời gian và lời nói, ứng xử, chuẩn bị tốt hành trang vào đời, cả về sức khỏe, kỹ năng sống, và chuyên môn, nghề nghiệp. Không chuẩn bị tốt thì khi có cơ hội khó có thể nắm bắt được. Ví dụ, nhiều người có cơ hội đi làm hoặc tu nghiệp nước ngoài nhưng ngoại ngữ hoặc sức khỏe kém, không nắm bắt được.
Bác Hồ là mẫu mực về quý trọng thời gian, lời nói và cơ hội. Nhận ra thời cơ chín muồi năm 1945, Bác Hồ đã quyết tâm “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập tự do”. Rất nhiều lời dạy của Bác Hồ đã trở thành “Lời hay ý đẹp”, phương châm sống của thế hệ trẻ chúng ta.
Chúng ta cần phải phê phán lối sống hưởng thụ xa hoa, đua đòi, lười biếng trong học tập và lao động, lối sống đó không biết trọng thời gian, lãng phí thời gian của mình và của người thân ( tiền bạc của cha mẹ là do thời gian lao động tích lũy lại của ông bà, cha mẹ) . Lười biếng sẽ làm cho người ta không tận dụng được khi gặp cơ hội tốt và lời nói ứng xử sẽ không được người ta tôn trọng.
Chúng ta phải biết quý trọng thời gian, lời nói và cơ hội. Ý thức đầy đủ sâu sắc giá trị quý báu của chúng sẽ là bó đuốc soi đường cho chúng ta sống, học tập và làm việc.
Thời gian đối với một đời người là rất quý giá. Vì vậy, chúng ta phải sống sao cho “ khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn” ( trích Thép đã tôi thế đấy). Quý trọng thời gian của đời người, con người sống có lý tưởng, có mục đích sống là cống hiến, hy sinh cho đời. “Không hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà chúng ta phải hỏi thanh niên đã làm gì cho đất nước” . Con người có mục đích sống đúng đắn, sống có lý tưởng mới biết quý trọng thời gian.
Quý trọng thời gian thể hiện trong học tập có kết quả cao, lao động có năng suất cao, quý trọng của cải đồng tiền mà mình đang có.
Quý trọng lời nói, ông cha ta đã có nhiều câu, như “ lời nói là bạc, im lặng là vàng”, “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa long nhau”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”, “quân tử nhất ngôn”. Lời nói đã nói ra, dù tiếc nuối đến mấy cũng không thể lấy lại được. “Nói một thước không bằng làm một tấc”. Nói phải đi đôi với làm
Cơ hội đến với một dân tộc, một đất nước hàng trăm năm, có khi hàng nghìn năm mới có một lần. Cơ hội hiếm có như vậy, khi gặp cơ hội nếu không tranh thủ được thì sẽ không bao giờ gặp lại. Cơ hội là sự hội tụ của nhiều điều kiện khách quan và chủ quan nên rất quý giá.
Kết luận
Thời gian, lời nói và cơ hội là những thứ ta có và gặp trong đời, nhưng rất quý giá. Ta phải sử dụng chúng một cách có lợi nhất, hiệu quả nhất.
Anh (chị) hãy giải thích và bình luận câu nói của Nguyễn Bá Học “ Đường đi khókhông khó vì ngăn sông cách núi
mà khó vì lòng người ngại núie sông”.
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Nội dung ý nghĩa cơ bản của câu nói
Bằng lối nói hình ảnh, bóng bẩy, Nguyễn Bá Học, qua câu văn của mình đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa cốt lõi quan trọng nhất trên hành trình của cuộc đời: những vật cản, khó khăn của con đường sự nghiệp và thái độ của con người trước khó khăn đó. Chỉ những người có bản lĩnh, dám vượt qua mọi khó khăn trở ngại trên đường đời, can đảm đi tiếp quyết không sờn lòng, nản chí, để cho gian khổ đẩy lùi, đè bẹp mình, thì mới có thể đi tới đích và đạt được thành công. Câu nói của Nguyễn Bá Học nhằm đề cao sức mạnh tinh thần ý chí nghị lực, sự vượt khó và phê phán sự mềm yếu, dễ e ngại, sợ hãi trong lòng người trước khó khăn thử thách.
2. Bài phải giải quyết được bốn ý cơ bản
a. Con đường đi cũng như con đường đời, con đường sự nghiệp là một con đường đầy chông gai, thử thách.
b. Đường đi, đường đời chông gai, thử thách cũng không đáng sợ. Mà cái đáng sợ nhất là lòng người ngại khó, ngại khổ, dễ sờn lòng nản chí
c. Một khi con người đã có ý chí quyết tâm, tinh thần vượt khó, sẵn sàng dẹp bỏ mọi nỗi sợ hãi trong lòng, thì dù đường đi khó đến mấy cũng có thể tới đích, sự nghiệp có gian nan đến mấy cũng thành công
d. Bình luận chứng minh mở rộng
3. Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận: Giải thích, bình luận, chứng minh
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài Thực tế cuộc sống cho ta thấy rõ một điều hiển nhiên như chân lý. Đó là dù hành trình cuộc đời luôn luôn gặp biết bao khó khăn, trở ngại, đầy thử thách, chông gai, nhưng nếu có ý chí, nghị lực, không lùi bước, không sờn lòng nản chí, luôn luôn biết vươn lên phía trước, thì chúng ta sẽ vượt qua và đi về tới đích. Đúng như Nguyễn Bá Học đã từng nói “Đường đi khó không phải vì ngăn sông, cách núi mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”.
Thân bài:
1. Con đường đi cũng như con đường đời là một con đường vô cùng gian khổ, đầy những chông gai, trở ngại.
“Đường đi khó không phải khó vì ngăn sông, cách núi” . Con “đường đi” mà Nguyễn Bá Học nói ở đây vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa bóng. Nghĩa đen là dùng để chỉ con đường ta thường đi hàng ngày. Còn nghĩa bóng là muốn chỉ con đường đời. Ai đã từng thường xuyên đi đường, nhất là đi xa sẽ thấy rõ rất ít con đường trên thế gian này lại toàn bằng phẳng, êm dịu, mà trái lại thường đầy sông suối, núi non điệp trùng, khúc khuỷu, gập ghềnh, quanh co làm cản trở bước chân con người. Và con đường đời, hành trình về phía chân trời tương lai sự nghiệp của chúng ta cũng vậy: khó khăn chồng chất khó khăn, luôn luôn bị “ngăn sông cách núi”:
"Hình khe, thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao” (Chinh Phụ Ngâm)
Trong bài thơ “Đi Đường”, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc ta chẳng từng đã viết “Đi đường mới biết gian lao; Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”, đó sao?
2. Cái khó của đường đi như thế vẫn chưa đáng sợ, cái đáng sợ nhất là lòng người “Ngại núi, e sông”, nghĩa là lòng người sợ khó khăn gian khổ.
Nhưng cái khó khăn của đường đời như thế vẫn chưa đáng sợ, mà cái đáng sợ nhất mà Nguyễn Bá Học nhấn mạnh ở đây là “lòng người ngại núi, e sông”. Nghĩa là lòng người sợ khó khăn, gian khổ. Thực tế đã cho ta thấy rõ trên con đường đi tới mục đích cuối cùng cao đẹp của cuộc đời, vì gặp quá nhiều chông gai, gian nan, trắc trở, nên đã có biết bao người mềm lòng, nản chí, buông xuôi đầu hàng. Và kết cục họ chẳng làm được việc gì có ý nghĩa cho đời, chẳng đạt được mục đích nào cao đẹp. Chả thế mà Marai Sador đã từng khẳng định” Trong mắt người khác, bạn có thể thất bại vài ba lần, nhưng với bản thân bạn không được phép trở nên mềm yếu, vì đây là thất bại thảm hại nhất”. Sự thất bại với chính bản thân mình, nghĩa là sự thất bại của sự yếu mềm, của lòng “người ngại núi, e sông” là sự thất bại của mhững người thiếu ý chí, không dám đương đầu với khó khăn thử thách. Những con người ấy chẳng thành công trong bất cứ công việc gì. Họ không xứng đáng làm “Một hành nhân” trên con đường đời đầy chông gai của cuộc sống.
3. Khi con người đã có quyết tâm, tinh thần vượt khó, ý chí vươn lên phía trước, thì dù khó khăn trở ngại đến mấy, cũng có thể đi tới đích, đạt được thắng lợi.
Ở câu nói trên, ông Nguyễn Bá Học đã sử dụng cặp từ “ không phải …mà”, theo cách phủ định để khẳng định: điều quan trọng nhất là thái độ của con người trước khó khăn, gian khổ, chấp nhận để khắc phục mà tiến lên, hay buông xuôi, đầu hàng? Trước cuộc sống trăm màu, nghĩa vẻ, đường đời lại khúc khuỷnh gập ghềnh, cheo leo họ, chỉ có những người không sợ mỏi gối, chồn chân, với bản lĩnh kiên cường và ý chí nghị lực mạnh mẽ, sẵn sàng đạp bằng mọi gian khổ, quyết vươn lên phía trước, không bao giờ lùi bước, không một chút mảy may “ngại núi e sông” và luôn luôn biết chiến thắng bản thân mình… thì mới hoàn toàn đi tới đích cuối cùng và giành được thắng lợi vẻ vang
4. Bình luận và chứng minh mở rộng
Tóm lại lời khuyên của Nguyễn Bá Học hoàn toàn đúng đắn và rất sâu sắc, có ý nghĩa như một phương châm, triết lý hành động để phấn đấu cho sự nghiệp vinh quang của tất cả chúng ta ngày nay.
Lịch sử dân tộc ta đã chỉ rõ những tâm gương cao đẹp gặt hái được nhiều chiến công trên đường đời và làm “nên sự nghiệp lớn” đều là những con người ý thức được một cách sâu sắc vai trò quan trọng của sức mạnh ý chí, bản lĩnh tinh thần thép, luôn luôn biết chế ngự hoàn cảnh, không sợ khó, sợ khổ quyết không mềm yếu, đầu hàng trước khó khăn trở ngại. Tấm gương vĩ đại nhất trong thời đại chúng ta đang sống là tấm gương Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với lý tưởng và ham muốn tột bậc “Tổ quốc tôi được độc lập, nhân dân tôi được tự do, đồng bào tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc , ai cũng được học hành” (Lời Bác Hồ trả lời các nhà báo), chàng trai Nguyễn Tất Thành đã xuất dương tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Bằng ý chí nghị lực, tinh thần vượt khó phi thường và với khát vọng độc lập tự do cho Tổ quốc cháy bỏng, Bác Hồ chỉ với một viên gạch hồng đã chống lại cả mùa đông băng giá của Châu Âu, đã đi khắp chân trời châu Mỹ, châu Phi quyết tìm cho được “Chiếc cẩm nang thần kỳ”- đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi trở về nước, với “Chiếc cẩm nang” thần diệu ấy, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn ngàn ghềnh thác và đi đến bến bờ thắng lợi để có ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 lịch sử: “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình” và “Chín năm làm một Điện biên. Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
Thấm nhuần lời khuyên của Bác “Không việc gì khó; chỉ sợ lòng không bền; đào núi và lấp biển; quyết chí ắt làm nên”, lớp lớp cháu con đã lên đường vượt Trường Sơn nhiều núi cao vực thẳm, sông sâu, quyết tâm chống Mỹ, giải phóng Miền Nam để có ngày 30/4 “Tuyệt trần nắng đẹp ; Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta! Chúng con đến xanh ngời ánh thép; Thành phố Người lộng lẫy cờ hoa” (có thể lấy thêm dẫn chứng về những tấm gương khác trong các lĩnh vực thể thao, khoa học, văn hoá: Nhờ có ý chí, nghị lưc, tinh thần vượt khó, không ngại núi, e sông không gục ngã trước số phận éo le nên đã làm nên sự nghiệp lớn như Bạch Đình Vinh bị bại liệt, bị mất tiếng nói… mà vẫn là sinh viên của ba trường Đại học: Giao thông vận tải, Thương mại và Công nghệ thông tin của Bách khoa hay tấm gương người thương binh Nguyễn Xuân Năng cụt cả hai cánh tay mà vẫn giành được huy chương bạc môn bóng bàn trong đại hội Paragames được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen…)
Kết luận:
Những điều đã phân tích trên cho ta thấy đường đời không chỉ toàn rợp bóng mát dịu êm và hạnh phúc mà là đầy chông gai với muôn vàn thử thách. Đừng mềm lòng, nản chí bạn nhé! Hãy coi những thử thách ấy là “Lửa thử vàng” làm cho sức lực ý chí và bản lĩnh của ta vững vàng hơn, dễ đi đến thẳng lợi hơn. Đúng như lời Bác Hồ đã từng dạy “Sống ở trên đời người đúng vậy; gian nan rèn luyện mới thành công”.
Làm gì để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh sạch đẹp.
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Môi trường sống là các yếu tố vật chất trong không gian mà chúng ta sinh sống, bao gồm đất đai, không khí, nước sạch, nhà cửa, đường phố, nhà máy…. ở xung quang.
Môi trường sống ngày nay đang bị ô nhiễm bởi dân số tăng nhanh và hoạt động kinh tế làm tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và rác thải ngày càng nhiều, quá mức độ có thể tự đào thải và cân bằng của tự nhiên.
Bảo vệ môi trường sống , nói một cách hình ảnh là làm cho môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở nước ta cũng như ở mọi nơi trên thế giới.
Mỗi người phải nhận thức đầy đủ vai trò của bảo vệ môi trường sống và từ nhận thức đó có hành động đúng đắn, phù hợp bảo vệ môi trường sống. Công tác giáo dục tuyên truyền về bảo vệ môi trường sống ngày càng xanh, sạch, đẹp là rất quan trọng.
Mỗi người và cả xã hội hàng năm tham gia tích cực phong trào trồng cây gây rừng.
Sử dụng tiết kiệm nước sạch, và có ý thức bảo vệ nguồn nước.
Xây dựng nếp sống văn minh, sạch sẽ, không khạc nhổ, vứt rác bừa bãi ra đường. Làm vệ sinh thường xuyên để bàn thân và nhà cửa, nơi ở được sạch sẽ thông thoáng.
Nhà nước có quy hoạch đô thị, phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường theo phương châm phát triển bền vững, sử dụng và khai thác hợp lý tài nguyên để tồn tại lâu dài, môi trường sống càng càng xanh, sạch đẹp.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài:
Làm cho môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, ở nước ta cũng như cả thế giới hiện nay.Tại sao lại như vậy và chúng ta phải làm gì để cho môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp.
Thân bài:
1. Môi trường sống là gì?
Môi trường sống gồm đất đai, không khí, nước sạch, nhà , vườn, đường xá, sông biển, ao hồ, nhà máy… ở xung quanh chúng ta.
Môi trường sống đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất thải các loại do sinh hoạt của dân cư và sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Tài nguyên khoáng sản, rừng núi, nước ngầm, hải sản, sông ngòi bị khai thác quá mức tái tạo, rác thải ngày càng nhiều, quá mức chịu đựng, quá mức độ có thể tự đào thải và cân bằng của tự nhiên.
2. Bảo vệ rừng, tham gia và xử lý rác thải.
Bảo vệ rừng, đặc biệt là các khu rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng thêm cây xanh ở thành thị sẽ làm cho môi trường sống của chúng ta sẽ ngày cành xanh hơn.
Các thành thị làm tốt công tác thu gom rác thải và xử lý triệt để, khoa học, sản xuất dựa trên công nghệ sạch, công nghệ cao thân thiện môi trường sẽ làm cho môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp.
3. Bảo vệ các dòng sông.
Tài nguyên nước sạch đang khan hiếm do khai thác sử dụng quá nhiêu và các dòng sông bị ô nhiễm bởi rác thải. Sông Thị Vải, sông Cầu. sông Đáy, sông Nhuệ, sông Đồng Nai đang bị chết nghẹt do chất thải của các nhà máy như Vedan… nước sạch khan hiếm thì môi trường sống không thể xanh, sách, đẹp.
4. Xây dựng nếp sống văn hóa văn minh.
Xây dựng nếp sống văn minh đô thị. Mọi người phải có ý thức giữ gìn vệ sinh, không khạc nhổ bừa bãi, vứt rác thải ra đường. Chúng ta chủ động sử dụng đồ dùng thân thiện môi trường như hạn chế sử dụng túi ni long ( Nhiều nước đã cấm sử dụng túi ni long), sử dụng cửa nhôm, cửa kính thay cho cửa gỗ, trồng cây, hoa cảnh trên mái nhà, tường bao.
5. Nhà nước có thêm nhiều chương trình mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường.
Nhà nước ta đã có nhiều chương trình mục tiêu nâng caao đời sống nhân dân và bảo vệ tài nguyên môi trường như chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình 135, 134 xây dựng 5 công trình ở nông thôn ( điện, đường, trường , tram ( y tế) , chợ), quy hoạch hàng trăm vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, công viên, rừng phòng hộ, lập danh sách bảo vệ động vật quý hiếm…. nhiều tỉnh đã quy hoạch nhiều khu nghĩa trang công viên xanh, sạch đẹp, hợp vệ sinh…
6. Nhân dân và doanh nghiệp có ý thức cao bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp.
Tuy nhiên chỉ dựa vào nguồn lực nhà nước thì không đủ. Nhân dân, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, hộ gia đình phải có ý thức và hành động cụ thể để giữ cho môi trường xanh, sạch, đẹp. Xử lý chất thải từ gốc, từ nguồn phát sinh như bệnh viện, nhà máy, từng phương tiện vận tải như ô tô. Bảo vệ tài nguyên ( rừng, sông, biển, ao , hồ ) là hết sức quan trọng.
Mỗi người dân, mỗi đường phố, làng xóm, mỗi cơ quan, nhà máy, doanh nghiệp có ý thức cao và quyết tâm giữ gìn môi trường sống tốt thì cả đất nước mới có môi trường sống xanh, sạch, đẹp.
Xã hội, nhà nước và nhân dân phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để mọi người hiểu hết tầm quan trọng của việc làm cho môi trường xanh, sạch, đẹp, thấm nhuần sự nguy hiểm của ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường làm cho Trái Đất nóng lên, nước biển dâng cao, đất bị ngập lụt. Ô nhiễm môi trường làm cho bệnh dịch gia tăng, đất, không khi và nước bị bẩn đục, sự sống của muôn loài, kể cả loài người đang bị đe dọa.
Ý thức bảo vệ môi trường nâng lên, con người sẽ có hành động đúng đắn, thiết thực làm cho môi trường “xanh, sạch, đẹp”. Mỗi người dân phải làm cho không gian xanh, sạch, đẹp ở chính nơi ở, trường lớp nơi mình học, cơ quan công sở nơi mình làm việc. Hãy tích cực tham gia ngày thức 7, chủ nhật tổng vệ sinh đường phố, bản làng, tham gia vào ngày “Môi trường thế giới”, “Giờ Trái Đất”, “Hành trình xanh”, vì môi trường xanh sạch đẹp, vì sự tồn tại của Trái Đất và loài người, vì cuộc sống an lành, hạnh phúc của chúng ta.
Kết luận
Bản thân em sẽ có ý thức và việc làm giữ cho môi trường sống xanh, sạch, đẹp, góp phần công sức cùng xã hội không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con mình, Tổng Thống Mĩ A.Lin – Cơn (1809 – 1865) viết “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi” (Theo Ngữ văn 10 - tập 2, trang 135)
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.
Mở bài :
“ Yêu gì như thể yêu con” (ca dao) - Tình yêu con là một trong những tình cảm cao quý thiêng liêng và tha thiết nhất của con người. Nhưng không vì quá yêu con mà để cho con gian lận, thiếu trung thực trong thi cử. Vì cao hơn cả tình yêu con là đức tính trung thực, một phẩm chất quan trong để xác định tư cách làm người. Đó là suy nghĩ của những con người chân chính và cũng là suy nghĩ của Tổng thống A.Lin – Côn (1809 – 1865), vị anh hùng của nước Mỹ, người khai sáng của nền minh Hoa Kỳ. Trong bức thư gửi thầy Hiệu trưởng của con trai mình, ông đã viết “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi? (Ngữ văn 10 - tập 2 – trang 135)
Y 1. Giải thích ý kiến của tổng thốngs Mĩ A – Lin – Côn
Nội dung trực tiếp của lời nói A . Lin – Côn là muốn khẳng định : Chấp nhận thi rớt một cách trung thực còn vinh dự hơn là thi đỗ mà nhờ gian dối với những thủ pháp ma mãnh. Thực chất của ý kiến này là đề cao tính trung thực của con người, một phẩm chất, đức tính rất quan trọng để làm người.
Y2. Bàn luận về trung thực trong thi và trong cuộc sống
a-Trong khi thi: Tính trung thực của con người được biểu hiện mọi lúc, mọi nơi. Nhất là trong thi cử, tính trung thực lại càng quan trọng, vì thi là cuộc chọn lựa một cách công minh những người có năng lực, có trình độ, có tài năng và đó cũng là cuộc thử thách đánh giá năng lực, trình độ học vấn, kiến thức của mỗi thí sinh, mỗi con người. Và người trung thực trong thi cử là phải làm bài bằng thực lực và chấp hành nghiêm chỉnh những quy chế của mỗi kỳ thi, theo đó, cũng chỉ chấp nhận đỗ đạt bằng thực chất của mình theo những tiêu chí và quy định của kỳ thi ấy. Còn gian lận là làm mọi cách, kể cả quay cóp, ăn cắp bài của bạn, ăn cắp tài liệu hay ăn cắp kết quả của người khác, để nhằm đỗ bằng được, mà không cần đến thực chất, kiến thức, học vấn, trình độ, năng lực của mình.
Người trung thực phải là người biết rõ : Trung thực trong khi thi, dù rớt, dù trượt vẫn vinh dự hơn nhờ gian lận. Với tư cách của một thí sinh, trung thực trong khi thi là điều quan trọng hơn cả. Trước vấn nạn “học giả bằng thật”, quay cóp, sao chép hoặc thầy giáo làm bài hộ, để chạy theo thành tích giả tạo diễn ra khá phổ biến những năm gần đây ở nước ta, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành một chủ trương vừa hợp với đạo lý, vừa hợp với nhân tâm. Đó là “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” Chính chủ trương sáng suốt đó đang từng bước ngăn chặn được những hiện tượng làm nhức nhối lương tri những người chân chính. Đấy là hiện tượng “Ngồi nhầm lớp”, Tiến sĩ giấy”, “Thạc sĩ giấy”... sẽ gây ra những hậu quả khôn lường cho tương lai nền giáo dục và tương lai đất nước, đặc biệt là trong thời đại hội nhập, nền kinh tế cơ bản là nền kinh tế tri thức, đòi hỏi người lao động phải có trình độ hiểu biết vừa chuyên sâu, vừa hiện đại.
b. Trong cuộc sống.
Nếu như trong thi cử, với tư cách một thí sinh tính trung thực vốn đã quan trọng thì trong cuộc sống hàng ngày, với tư cách một con người, giữa những quan hệ chằng chịt, đa đạng và phức tạp giữa người với người, tính trung thực lại càng trở nên quan trọng gấp bội. Trung thực trong cuộc sống là coi trọng thực chất, luôn thành thực với mình, với người, không chấp nhận gian dối, bịp bợm trong bất kỳ mối quan hệ nào, công việc nào. Trung thực trở thành một phẩm chất cao đẹp làm nên nhân cách con người và là đức tính cần thiết cho cuộc sống, góp phần tích cực thúc đẩy tiến độ xã hội. Sống trung thực là một niềm hạnh phúc cao quý, lương tâm luôn thanh thản, yên tĩnh và luôn được mọi người tin yêu, quý trọng.
Ngược lại, thiếu trung thực là làm những điều gian dối, khuất tất, vì một động cơ không mấy trong sáng và cao thượng. Thiếu trung thực không chỉ biến con người thành đê tiện, « khốn nạn » mà còn khiến cho cuộc sống lâm vào tình trạng thực giả bất phân, thiện ác, ngay gian lẫn lộn. Sống trung thực không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng không trung thực sẽ là một người thiếu nhân cách, thiếu lòng tự trọng .Nhưng có một thực tế đáng buồn là những kẻ gian dối thiếu trung thực lại thường được nguỵ trang bằng một gương mặt dễ coi, thậm chí là gây cho người ta cảm tưởng đó là con người tử tế và trung hậu. Vì muốn lừa đời phải mang gương mặt của đời. Vũ Trọng Phụng gọi sự dối trá bịp bợm của những kẻ “khẩu phật tâm xà” và “Tinh quái, thạo đời” như thế là « chó đểu » và “khốn nạn”. Sự không trung thực ở những con người thiếu trí tuệ mà thừa chất "tinh quái", vì hám danh hám lợi dễ trở thành kẻ lưu manh, ranh ma, sẵn sàng chơi trò Mafia trong cuộc sống một cách liều lĩnh, trắng trợn và đểu cáng. Sự không trung thực có thể gây ra nhiều nguy hại cho xã hội…Những công trình kiến trúc độ sộ, những chiếc cầu, những con đường giao thông… mau chóng xuống cấp, thậm chí xây trước đổ sau, chẳng phải là hậu quả của thói làm ăn giả dối, thiếu trung thực đó sao?
Hẳn chúng ta ai cũng đã được đọc “Số đỏ”, một kiệt tác của Vũ Trọng Phụng. Sở dĩ tác phẩm trở thành kiệt tác được độc giả Mỹ xếp vào loại 7 kiệt tác của nhân loại, vì ngoài nghệ thuật trào phóng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã vạch ra và lên án một nét bản chất xấu xa, đê tiện nhất của con người. Đó là sự dối trá, bịp bợm và « tinh quái » mà điển hình là Xuân Tóc Đỏ. Dưới ngòi bút thiên tài của họ Vũ, Xuân Tóc Đỏ hiện lên như một thứ vi khuẩn - người. Nó nhập vào môi trường xã hội nào, thì xã hội đó chẳng những không sai khiến, điều khiển được nó, mà ngược lại, còn bị nó đầu độc, làm cho tha hoá, ô nhiễm dần.
3. Bài học nhận thức và hành động
Vì vậy bản thân mỗi chúng ta cần nhận thức sâu sắc trung thực là một giá trị làm nên nhân cách. Ngay cả khi phải đối diện với thất bại, thua thiệt vẫn cần sống cho trung thực.
Kết luận: Đồng thời chúng ta cũng không ngừng tu dưỡng để có được phẩm chất trung thực, mà hành động cụ thể lúc này chính là trung thực trong khi thi, cần khẳng định và bảo vệ sự trung thực, kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng thiếu trung thực đang tồn tại khá phổ biến trong xã hội.
Ý kiến về phương châm “ Học đi đôi với hành”
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
- Học là tiếp thu tri thức loài người tích lũy lại trong quá trình tìm hiểu, khám phá và chinh phục tự nhiên xã hội và tư duy. Học thường hiểu là sự tiếp thu về phương diện lý thuyết, lý luận.
- Hành là làm, làm việc, làm thực tế, thực hành ứng dụng kiến thức, lý thuyết vào thực tiễn đời sống và lao động sản xuất.
- Học và hành có liên hệ mật thiết với nhau, là hai mặt của quá trình thống nhất, hướng dẫn bổ sung cho nhau. Học “đi đôi” kết hợp với hành, làm cho nhận thức và hành động của con người ngày càng thống nhất, hoàn thiện. Học mà không có hành sẽ chỉ là lý thuyết suông, không thể nhận thức được sâu sắc và đầy đủ. Hành mà không có học vấn soi đường thường không dẫn tới kết quả, hoặc kết quả không cao, hiệu quả thấp , không như mong muốn, thường gặp khó khăn và có khi bị sai lầm.
2. Bàn luận
- ”Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng ở nước ta, “hành” còn ít, học chay còn nhiều. Chúng ta cần phải tìm mọi cách khắc phục tình trạng đó.
- Có nhiều biện pháp để thực hiện ”Học đi đôi với hành” . Mọi người phải cố gắng thực hiện phương châm đó phù hợp với hoàn cảnh của mình. Áp dụng lý thuyết vào thực tiễn, tìm tòi khám phá lý thuyết qua thực tiễn. “Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”
3. Liên hệ
- Nhận thức đầy đủ hơn phương châm : ”Học đi đôi với hành”
- Trong học tập và làm việc, sinh hoạt cố gắng áp dụng các kiến thức đã học để có kết quả tốt nhất.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài “ Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng. Tại sao và chúng ta thực hiện nguyên lý này bằng cách nào?
Thân bài
1. Thế nào là học đi đôi với hành
Học tiếp thu tri thức về phương châm lý thuyết, lý luận. Hành là sự vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn đời sống và lao động sản xuất.
Học “đi đôi” kết hợp với hành cho nhận thức và hành động của con người có tính thống nhất, bổ sung cho nhau, làm cho cái ta học được trở nên sâu sắc và vững chắc, hành động của ta có cơ sở khoa học, sẽ trôi chảy, dễ dàng, có thể logic và sáng tạo, để đạt tới kết quả cao. Có nhà khoa học đã viết : “Một con ngựa đi chậm nhưng lại đúng đường thì sẽ tới đích, nếu con ngựa đi nhanh nhưng sai đường thì càng đi càng xa đích” . Hành mà không đi đôi với học thường có kết quả thấp hoặc thất bại. Học không hành thì chỉ nắm lý thuyết suông, không thể nắm bắt ý nghĩa sâu sắc của nó với thực tiễn.
2. Lợi ích của việc “ Học đi đôi với hành”
Học đi đôi với hành là rất cần thiết và quan trọng với tất cả mọi người. Song, thực tế nước ta, nguyên lý này đang bị coi nhẹ. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng giáo dục, đào tạo ở nước ta chưa cao, chưa đạt tới sự kỳ vọng của xã hội.
Nguyên nhân khách quan là nước ta còn nghèo, chưa mua sắm được nhiều dụng cụ học tập và phòng thí nghiệm cho các môn học. Nguyên nhân chủ quan là chúng ta chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa to lớn của nguyên lý học đi đôi với hành để có biện pháp khắc phục.
3. Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều kiện thực hiện học đi đôi với hành.
Để thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, mỗi người phải xác định cho mình mục đích học tập đúng đắn. UNESCO ( tổ chức văn hóa giáo dục thuộc Liên Hợp Quốc) đã đề xướng “ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.Học trở thành nhu cầu tự thân và chúng ta sẽ tìm mọi cách, mọi biện pháp, mọi cơ hội để vận dụng vào cuộc sống.
Với động cơ, mục đích học tập đúng đắn, chúng ta mới có thể say mê học tập, nghiêm túc, chăm chỉ để tiếp thu đầy đủ nội dung, làm bài tập để củng cố, mở rộng bài học. Trên cơ sở nắm chắc bài học, chúng ta sẽ có điều kiện vận dụng vào thực tiễn. Trồng một cây, chúng ta cũng phải biết cách đào hố nông sâu như thế nào, lấy loại đất nào và phân bón gì cho vào hố, cho cây trồng vào hố và dặm đất thật chặt xung quanh rễ cây ra sao, tưới nước nhiều ít sao cho phù hợp với từng loại cây. Học đi đôi với hành sẽ soi sáng cho ta nhiều điều cụ thể và sinh động.
Học không chỉ ở trường lớp mà cả tự học, học bạn, học người thân, học đồng môn, đồng nghiệp. Hành không chỉ ở trong phòng thí nghiệm mà phải vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, trong ăn ở, đi lại, giao tiếp và làm việc. Có nhiều cơ hội trong cuộc sống mà ta có thể vận dụng , để hành, những điều học được.
4. Liên hệ bản thân
“ Học đi đôi với hành” vừa là nguyên lý giáo dục vừa là phương pháp học tập hiệu quả. Bản thân em sẽ cố gắng vận dụng thường xuyên “ Học đi đôi với hành” , “ Học tập suốt đời” và suốt đời thực hiện “Học đi đôi với hành”
Bác Hồ kính yêu đã dạy “ Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy.” Hành không chỉ là hành động cụ thể mà là cả thực tiễn đời sống và lao động sản xuất. Trong lao động sản xuất, phải luôn luôn nghĩ tới vận dụng nguyên lý nào, lý thuyết gì để giải quyết công việc, lao động có năng suất cao. Từ sắp xếp đồ dùng, ghế ngồi cao thấp, đặt để nguyên vật liệu ở đâu, ánh sáng mức độ thế nào,ta đều phải suy nghĩ vận dụng lý thuyết vào hoàn cảnh thực tế cụ thể.
Kết luận:
Học và hành là hai khâu mà chúng ta phải làm tốt cả hai mới kết hợp chúng với nhau được. Học giỏi nắm chắc kiến thức thì mới giúp ta hành tốt. Hành sẽ bổ sung, hoàn thiện kiến thức mà ta học được. Mỗi học sinh chúng ta đều phải học tốt, hành tốt và kết hợp “ Học đi đôi với hành”.
Ý kiến về lợi ích của việc tự học.
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
- Tự học là tự mình tìm hiểu, suy nghĩ để có kiến thức qua đọc sách báo, tài liệu, nghe đài, xem truyền hình, quan sát thực tế, trao đổi với bạn bè, người thân, đồng nghiệp….
- Ai cũng cần phải tự học vì kiến thức trong cuộc sống là mênh mông, vô cùng, vô tận. Học ở trường chỉ cung cấp một phần, tuy rất cần thiết, cơ bản và quan trọng nhưng không đủ. Phần lớn kiên thức là do ta tự hoc. Tự học làm phong phú kiến thức và vốn sống, tạo cơ sở làm tăng kỹ năng sống và lao động. Nhờ đó con người tự hoàn thiện mình, công tác cho kết quả tốt, thành đạt và thu nhập cao.
- Phương pháo tự học phù hợp là rất quan trọng đối với mỗi người. Ai cũng có thể tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để tự học. Theo hoàn cảnh của mỗi người, chúng ta có thể sắp xếp thời gian, lên kế hoạch tự học. Tùy theo trình độ, khả năng và hứng thú mà chúng ta lựa chọn tri thức và phương pháp tiếp nhận mà mình thấy tâm đắc, rèn luyện khả năng phát hiện và tư duy sáng tạo. Nhờ đó, sự hứng thú và hấp dẫn của tự học tăng lên và giúp ta vui thích và đam mê tự học.
- Tự học đưa lại nhiều lợi ích, như kỹ năng sống ngày càng hoàn thiện giúp con người thích thú với mọi hoàn cảnh, điều kiện sống, chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao, tay nghề vững và ngày càng tinh thông giúp con người có năng suất lao động cao, giải quyết công việc dễ dàng, trở thành người thành đạt, đời sống ngày càng cao.
- Tự học là cơ sở để xã hội phát triển, ngày nay UNESCO đưa ra phương châm “ Học tập suốt đời”. Học tập suốt đời chủ yếu là tự học.
Mở bài
Xã hội hiện đại nêu cao phương châm “ Học tập suốt đời”. Phương pháp tự học là phương pháp học chủ yếu để thực hiện phương châm học tập suốt đời. Tại sao tự học lại quan trọng như vậy? Tự học đưa lại cho chúng ta những lợi ích gì?
Thân bài
1. Thế nào là tự học ?
Tự học là học ở ngoài nhà trường, học thông qua sách báo, tài liệu, nghe đài phát thanh, xem truyền hình, quan sát thực tiễn, trao đổi với bạn bè, người thân đồng nghiệp…
Tự học là cần thiết cho mọi người vì kiến thức mà loài người tích lũy lại là rộng lớn, mênh mông, vô tận. Học ở nhà chỉ cung cấp một phần, tuy rất cơ bản và quan trọng nhưng không đủ. Thời gian học ở trường tuy khá dài nhưng có giới hạn. Thời gian tự học là không có giới hạn, kéo dài trong suốt cả cuộc đời chúng ta. Tri thức mà tự học đưa lại giúp chúng ta hoàn thiện kỹ năng sống và lao động sản xuất, nhờ đó, cuộc sống của ta có nhiều thuận lợi, làm việc cho năng suất lao động cao, công tác tiến tới, thành công trong sự nghiệp.
2. Lợi ích của việc tự học.
Tự học đưa lại lợi ích to lớn và thành công cho người ham học, ham tự học và có phương pháp tự học phù hợp. Theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi người có thể sắp xếp thời gian, lên kế hoạch tự học. Có thể học ngoại ngữ trên truyền hình, học chuyên môn qua mạng internet, đọc sách nâng cao, chuyên sâu. Nhiều bạn học sinh ở nông thông, vùng sâu, vùng xa, nhờ có tự học ( Không có điều kiện tham gia luyện thị, ôn thi ở trường lớp) mà thi tốt nghiệp phổ thông, thi vào đại học đạt điểm cao, nhiều bạn đạt thủ khoa. Khi đi làm, chúng ta sẽ có rất ít thời gian và điều kiện để đi học tập trung theo trường lớp mà chủ yếu là tự học. Ngày nay, một bác sĩ, kỹ sư, thầy gióa mà hàng ngày không đọc được vài chục trang sách bao chuyên môn thì sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu. Khi đó, không chỉ cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp sẽ kém đi mà công việc sẽ lúng túng, khó khăn, kết quả sẽ không cao.
Tự học có nhiều lợi ích như vậy, nên chúng ta phải luôn luôn có ý thức tự học. Tùy theo hoàn cảnh, trình độ mà chúng ta lựa chọn tri thức và phương pháp tiếp nhận phù hợp, tạo hứng thú trong học tập, rèn luyện khả năng khám phá và tư duy sáng tạo. Nhờ thấy kết quả và lợi ích mà tự học mang lại, chúng ta sẽ thấy hứng thú và đam mê tự học.
3.Tự học như thế nào cho tốt?
Xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì công cụ, phương tiện cho tự học ngày càng nhiều. Đặc biệt , điện thoại di động và mạng internet càng phổ biến thì chúng ta có điều kiện để tự học và tiếp cận với trình độ chuyên môn, chuyên sâu của thế giới. Tự học nhờ đó có thể đưa lại cho người học trình độ chuyên môn cao. Tự học nhờ có nhiều công cụ hiện đại mà cho ta nhiều hứng thú, đam mê.
Con người trong xã hội hiện đại ngày nay là phải học tập suốt đời và suốt đời phải tự học.
Ý thức được sự cần thiết và ích lợi của tự học, bản thân em sẽ luôn cố gắng để tự học, khắc phục mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu cũng phải học và tự học.
4. Bác Hồ là tấm gương sáng về tự học.
Do phải tìm đường cứu nước từ thời trẻ nên thời gian học ở trường của Bác không được nhiều. Nhưng nhờ tự học, Bác uyên thâm chuyên sâu trên rất nhiều lĩnh vực. Thời thanh niên, Bác đã là nhà báo, chủ bút một tờ báo bằng tiếng Pháp. Bác biết rất nhiều ngoại ngữ, chủ yếu là tự học. Các lý luận về Cách mạng, con đường và phương pháp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước do tự học, không những được Bác nắm vững mà còn sáng tạo, phát triển, dẫn dắt nhân dân ta thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên, nêu gương sáng cho toàn thế giới.
Kết luận
Thời đại khoa học công nghệ ngày nay phát triển nhanh chóng đưa loài người lên thời đại tri thức, thời đại hậu công nghiệp. Mỗi người hàng ngày phải tự học để lao động sáng tạo và cống hiến cho hạnh phúc tương lai của đất nước, gia đình và bản thân.
Suy nghĩ về lòng dũng cảm.
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
Lòng dũng cảm là một phẩm chất cao quý trong nhân cách, đạo đức con người. Lòng dũng cảm là sự quả cảm, kiên cường, ý chí nghị lực cao khi đương đầu với các hoàn cảnh và tình huống không thuận lợi trong cuộc sống. Lòng dũng cảm cũng như lòng yêu nước, thể hiện đặc biệt rõ ràng, nổi bật khi chiến đấu với kẻ thù của dân tộc, trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc. Trong cuộc sống thường ngày, lòng dũng cảm thể hiện qua hành động và ý chí, vượt qua tình huống khó khăn, hiểm nghèo. Lòng dũng cảm cũng có thể là nghị lực cao vượt qua các cám dỗ, thói xấu gặp phải trong đời sống thường nhật. Những hành động cụ thể, thiết thực hưởng ứng cuộc vận động “ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” là biểu hiện của lòng dũng cảm.
2. Bàn luận về lòng dũng cảm.
Người có lòng dũng cảm luôn khẳng định năng lực và phẩm chất của mình, coi đó là nguồn sức mạnh chân chính, có ý nghĩa quyết định giúp con người vững vàng, lạc quan và thành công trong cuộc sống. Do đó lòng dũng cảm là đức tính quý báu.
Lòng dũng cảm là đức tính phải được nuôi dưỡng rèn luyện bằng ý chí, nghị lực vượt qua các tình huống, hoàn cảnh khó khăn, bão táp gặp phải trong cuộc sống, học tập và công tác.
Lòng dũng cảm bộc lộ khi đối diện với cái xấu, cái tiêu cực.
3. Bài học về nhận thức và hành động.
Lòng dũng cảm là đức tính tốt, quý báu, cần phải được rèn luyện nuôi dưỡng.
Khi gặp phải những khó khăn, thử thách trong học tập, công tác và đời sống con người phải có ý chí cao để vượt lên, đạt kết quả và thành công.
Khi phải đối đầu với cái xấu, cái tiêu cực hoặc kẻ thù của dân tộc, phải nêu lên lòng dũng cảm để đấu tranh giành thắng lợi.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài:
Thế nào là lòng dũng cảm? Tại sao chúng ta cần có lòng dũng cảm và phải làm gì để có lòng dũng cảm? Đó là những câu hỏi mà em muốn trả lời trong bài văn này.
Thân bài
1. Thế nào là người có lòng dũng cảm, ý nghĩa, vai trò của nó.
Người có lòng dũng cảm là người có nghị lực, có ý chí sắt đá. Lòng dũng cảm thể hiện ở sự quả cảm, kiên cường, vượt qua những khó khăn đặc biệt, thể hiện phẩm chất anh hung, phẩm chất vượt lên chính mình, chống lại sự cám dỗ của thói xấu, hành động bảo vệ chân lý, lẽ phải, chống lại cái xấu, cái tiêu cực, có khi phải hy sinh quyền lợi bản thân và cả bản thân mình cho cộng đồng, xã hội và Tổ quốc.
Chứng minh: lịch sử và thơ văn nước ta đã kể lại nhiều tấm gương về lòng dũng cảm. Đó là anh hung trẻ tuổi Trần Quốc Toan bóp nát quả cam và anh dũng đứng lên chống giặc Nguyên Mông tàn bạo, là Lê Lai liều mình cứu chúa. Đó còn là hình ảnh chú bé liên lạc trong bài thơ “ Lượm” (Tố Hữu) , cô thanh niên xung phong ”Lấy thân mình hứng lấy luồng bom” (Thơ Lâm Thị Mĩ Dạ), anh Nguyễn Văn Trỗi hiên ngang ra pháp trường, chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc dũng cảm lên chiến địa…. tất cả đều là những tâm gương sáng ngời của lòng dũng cảm
2. Bình luận : bàn về lòng dũng cảm.
- Nguồn gốc và vai trò, ý nghĩa của nó.
Cuộc sống luôn luôn phức tạp. Mỗi người và đất nước luôn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, nguy cơ hiểm nghèo, khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, rủi ro. Vì vậy ai cũng cần có lòng dũng cảm để vượt qua các tình huống đó, giúp mình, giúp người khác, giúp cộng đồng và dân tộc, Tổ quốc.
Lòng dũng cảm không phải tự nhiên mà có. Mỗi người có nhận thực, hiểu biết và rèn luyện không ngừng để có lòng dũng cảm.
Phải vượt lên chính mình “Chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản thân mình” . Khắc phục thói xấu, ích kỷ và cá thói xấu khác, sống có lý tưởng vì dân, vì nước là những tiền đề mà mỗi người cần có để chứa chất lòng dũng cảm.
Lòng dũng cảm ấy là phẩm chất quan trọng nhất của những người hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đúng như Tố Hữu đã viết : “Dân ta gan dạ anh hung. Trẻ là đấu súng, già xông lửa đồn. Chân toạc máu, chân đau đuổi giặc. Tay chém thù tay sắc như gươm”. Họ đã cùng toàn dân quyết tâm làm nên một chiến công Điện Biên Phủ “9 năm làm một Điện Biên; nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” Những chiến sĩ Điện Biên là những con người mang trong mình chất thép của lòng dũng cảm: “Chiến sĩ Điện Biện, chiến sĩ anh hung. Đầu nung lửa sắt, gan không núng, chí không mòn…những đồng chí thân chôn làm giá súng; đầu bịt lỗ châu mai, băng mình qua núi thép gai, ào ào như vũ bão, những đồng chí chèn lưng cứu pháo, nát thân, nhắm mắt còn ôm” Vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, lớp lớp thanh niên lại lên đường, mang trong mình truyền thống Điện Biên, quyết xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, bất chấp bom đạn Hoa Kỳ tàn bạo, tiến thẳng vào Sài Gòn để có ngày 30/4 lịch sử: “Ôi buổi trưa nay tuyệt trần nắng đẹp! Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta. Chúng con đến xanh ngời ánh thép.Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa.” Cùng với lòng yêu nước thiết tha, lòng dũng cảm của những người chiến sĩ ấy đã giúp họ có được lẽ sống rất đẹp: sẵn sàng đổ máu mình cho cây Tổ Quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do và viết nên trang sử mới của thời đại Hồ Chí Minh đầy tự hào.
3. Bài học nhận thức hành động.
Lòng dũng cảm phải rèn luyện, thể hiện trong hành động, việc làm. Trong những tình huống khó khăn, hiểm nghèo như gặp phải vụ hỏa hoạn, lũ quét, người bị nạn trên đường, bản thân bị mất việc, bị bệnh ung thư không may nhiễm HIV, viêm gan virust, người ta rất cần tới lòng dũng cảm và biểu hiện bằng bản lĩnh vững vàng, vượt qua một cách sáng suốt, tỉnh táo. Khi đó, lòng dũng cảm là “Nhất biến ứng phó với vạn biến”
Để khuyến khích mọi người tu dưỡng, rèn luyện lòng dũng cảm, nhà trường nhà nước và xã hội phải thường xuyên biểu dương, ca ngợi, khen thưởng người có hành động, việc làm dũng cảm.
Lòng dũng cảm phải dựa trên cơ sở khoa học, hiểu biết tri thức mới thể hiện có hiệu quả, có ích nhiều cho bản thân và xã hội. Nhiệt tình cách mạng cộng cới sự dốt nát sẽ trở thành kẻ phá hoại ( Lenin). Lòng dũng cảm mà không có tri thức sẽ phản tác dụng. Không biết bơi mà nhảy xuống biển cứu người chết đuối không chỉ hại đến thân mà còn gây khó khăn cho người khác trong việc cứu người.
Kết luận :
Lòng dũng cảm là đức tính tốt đẹp xã hội cần đề cao và mỗi người cần tu dưỡng , rèn luyện để có được.
Bản thân em sẽ quyết tâm học tập, rèn luyện để có lòng dũng cảm và tìm các cơ hội để thể hiện lòng dũng cảm.
Suy nghĩ về câu của nhà văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ : “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Bài này cần:
1. Giải thích câu nói:
- Nghèo nàn về vật chất và nghèo nàn về tâm hồn đều khó chữa, nhưng nghèo nàn về tâm hồn khó chữa hơn.
- Nghèo nàn về tâm hồn khó chữa hơn vì nó đòi hỏi sự phấn đấu, tu dưỡng tự giác cao ở mỗi con người.
- Làm thế nào để chữa chứng bệnh “ nghèo về tâm hồn”
2. Bình luận, mở rộng.
- Học tập và lao động để có tri thức, có thu nhập là con đường cơ bản để giàu có cả về vật chất và tâm hồn.
- Sống có lý tưởng, có mục đích cao đẹp cống hiến cho gia đình, cộng đồng, xã hội và tổ quốc là động lực để con người giàu có về tâm hồn.
3. Chứng mình bằng tài liệu thực tế, và thơ văn.
Bác Hồ là tầm gương về sự giàu có tâm hồn.
Anh Nguyễn Văn Trỗi, chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Bá Thạc…. cho chúng ta những bài học sâu sắc về tâm hồn phong phú cao đẹp.
4.Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận: giải thích, bình luận, chứng minh.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài :
Đời sống con người gồm có đời sống vật chất, và đời sống tinh thần. Theo nhà văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ :“Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”. Tại sao lại như vậy và chúng ta học được gì từ câu đó?
Thân bài
1. Thế nào là nghèo nàn về vật chất và tâm hồn.
Đời sống vật chất và đời sống tinh thần đều cao, phong phú là điều ai cũng muốn có nhưng rất khó đạt được. Trong hai mặt đó của đời sống con người, hiểu câu nói của nhà văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ, đời sống tâm hồn khó xây dựng hơn, khi nghèo nàn sẽ khó chữa hơn. Đời sống tâm hồn quan trọng hơn đời sống vật chất.
Nghèo nàn về vật chất là sự thiếu thốn về kinh tế, về thu nhập và của cải, tiền bạc. Người nghèo theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là người có thu nhập quân dưới 1 đô la Mỹ mỗi ngày ( ở thế kỷ 20) và nay, theo tiêu chuẩn mới, là dưới 2 đô la Mỹ mỗi ngày. Cùng với công việc phát triển kinh tế, tỷ lệ người nghèo trên thế giới cũng như ở nước ta đang giảm. Cách đây 30 năm, tỷ lệ người nghèo ở nước ta khoảng 60%, nay chỉ còn khoảng 15%. Người nghèo nếu có quyết tâm và điều kiện, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng và nhà nước, có thể thoát nghèo.
Nghèo nàn tâm hồn là sự đơn điệu, tẻ nhạt, khô cằn, vô cảm trong tình cảm và cảm xúc, không nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, và cuộc sống, xã hội và tư duy. Người nghèo tâm hồn thường có thái độ tiêu cực ( ích kỷ, đố kỵ, ghen ghét), thiếu tấm lòng yêu thương và rộng mở, độ lượng và không có hứng thú trong lao động sáng tạo cũng như biết cách chia sẻ, hòa nhập cộng động.
2. Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa.
“ Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa” vì nó xuất phát từ nhận thức và thái độ đối với bản thân và cuộc sống, với cộng đồng và xã hội. “ Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, tính nết, tình cảm, quan niệm sống được hình thành trong quá trình nhận thức, giao tiếp với môi trường xung quanh. Con người đã trưởng thành rất khó thay đổi về tư duy, tính cách, đạo đức và quan niệm sống. Sống lâu làm con người có thêm kinh nghiệm chứ khó làm tâm hồn biến đổi được.
Tập thơ “ Nhật ký trong tù” của Bác Hồ cho ta thấy mặc dù phải ở cảnh tù tội, gian khổ nhưng nhờ sự giàu có về tâm hồn mà Bác luôn luôn vui vẻ, lạc quan, yêu đời.
Thông điệp mà nhà văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ gửi đến chúng ta là phải luôn luôn nuôi dưỡng tâm hồn, làm cho đời sống tinh thần phong phú, giàu có , dù đời sống vật chất khó khăn.
Đời sống tinh thần khi đã nghèo nàn thì rất khó chữa, khó nhưng phải phải là không chữa được. Sống cới mở, chân thành, sống có lý tưởng, có mục đích đúng đắn sẽ giúp chúng ta sống có tâm hồn, khắc phục sự nghèo nàn trong tâm hồn. “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Hãy có việc làm thể hiện sự quan tâm chăm sóc bản thân, gia đình và cộng đồng. Hãy mở lòng với bạn bè, đồng nghiệp. Hãy thường xuyên gọi điện thoại cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè. Hãy tham gia tích cực các hoạt động cộng đồng như làm vệ sinh đường phố, ủng hộ quỹ vì người nghèo, vui chơi trung thu với các em nhỏ, thăm hỏi người ốm…. ta sẽ thấy “ Cuộc đời vẫn đẹp sao”, lạc quan yêu đời, tâm hồn ngày càng phong phú, giàu có.
3.Học tập và lao động sáng tạo là điều kiện để chữa bệnh tâm hồn.
Học tập để có tri thức, lao động sáng tạo để có thu nhập và thành công trong sự nghiệp, tu dưỡng đạo đức tác phong để không ngừng hoàn thiện bản thân là con người đã có đời sống giàu có, cả vật chất và tinh thần. Đặc biệt chúng ta phải nuôi dưỡng tâm hồn. Tâm hồn giàu có là rất quan trọng và rất khó, khó khăn hơn làm giàu về đời sống vật chất.
4. Sống có lý tưởng, có mục đích cao đẹp để tâm hồn giàu có.
Sống có lý tưởng, có mục đích và phấn đấu không ngừng cho đất nước, dân tộc, xây dựng cuộc sống văn mình, giàu có về vật chất và tâm hồn, là mục tiêu mà em cố gắng đạt được trong đời.
Chúng ta phải thường xuyên bồi đắp cho tâm hồn ngày càng phong phú, cao đẹp. Những câu chuyện cảm động xung quanh cuộc sống và những câu chuyện trong các tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn sẽ nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, cả những cuốn sách dạy về nghệ thuật sống cũng rất quý giá, như Quà tặng cuộc sống, Đắc nhân tâm. Vượt lên chính mình, Phút dành cho mẹ…. Các tấm gương như chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc, anh Nguyễn Văn Trỗi cho ta những bài học sâu sắc về tâm hồn cao đẹp, phong phú trong những hoàn cảnh khó khăn rất ngặt nghèo của đời sống. Lắng tâm hồn mình để suy ngẫm sâu sắc những tấm gương đó làm cho chúng ta trưởng thành hơn trong ý thức, vững vàng trong bản lĩnh, hoàn thiện hơn trong nhân cách và tâm hồn ta sẽ đầy ắp những giá trị nhân văn cao quý.
Kết luận
Đất nước ta đang phấn đấu theo mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn mình”. Xã hội văn mình sẽ được xây dựng từ những con người văn minh, có tâm hồn giàu có về nhân văn, tình người và lẽ sống cao cả. Mọi người phải bồi đắp cho tâm hồn trong sáng, phong phú, cao đẹp cả trong ý thức và hành động thực tiễn hàng ngày.
Anh (chị) hãy viết một bài văn khoảng 600 từ trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến sau đây:
"Nếu không có người bạn tốt thì khó mà biết được những sai lầm của bản thân".
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI - ĐỀ NÀY CẦN
Học sinh phải thể hiện được kỹ năn làm văn nghị luận xã hội (khoảng 600 từ) bộc lộ được quan niệm đúng đắn, những hiểu biết xã hội, có liên hệ với lứa tuổi...
Đề này có thể làm theo nhiều cách, nhưng bài làm phải đảm bảo những ý cơ bản sau:
1. Giải thích ngắn gọn khái niệm và nội dung câu nói:
- "Bạn", theo từ điển Tiếng Việt: "Người quen biết và có tình cảm thân thiện với nhau nhưng không phải là họ hàng" (Trang 97)
- "Bạn tốt": người bạn lý tưởng, giúp nhau những điều có ý nghĩa nhất. Câu nói lập luận theo kiểu giả thiết, điều kiện - kết quả, nhằm nhấn mạnh vào vai trò, ý nghĩa của bạn tốt, giúp ta nhận ra những sai lầm, những điều chưa tốt để hoàn thiện bản thân, giải thích rõ vì sao? (là con người, ai cũng có những khuyết điểm, thiếu sót. Bạn là người dễ thấy khuyết điểm của ta. Bạn là người hiểu tâm tư, hoàn cảnh, sở thích, cá tính của ta nên có thể giúp ta dễ tiếp thu, sửa chữa).
2. Bình luận mở rộng
- Ở lứa tuổi nào và ở đâu, ta cũng cần có bạn, đặc biệt là bạn tốt.
- Nhưng vấn đề là phải biết "ở chọn nơi, chơi chọn bạn" và biết lắng nghe, biết sửa chữa, biết tôn trọng tình bạn, muốn thế trước hết mình phải là người bạn rất chân tình và thuỷ chung.
3. Lấy thực tế để chứng minh làm sáng tỏ ý kiến của mình.
BÀI LÀM THAM KHẢO
I Mở bài: Ca dao ta xưa đã ca ngợi niềm vui gặp gỡ bạn hiền, bạn tốt bằng một hình ảnh thật độc đáo và thi vị:
"Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời"
Vậy bạn hiền, bạn tốt có vai trò, ý nghĩa như thế nào đối với bản thân mỗi chúng ta mà được cha ông ta ngợi ca đến thế? Bởi vì như một ai đó đã khẳng định: "Nếu không có người bạn tốt thì khó mà biết được những sai lầm của bản thân".
II. Thân bài:
1. Giải thích khái niệm và nội dung câu nói
Để hiểu được vai trò của người bạn tốt, trước hết chúng ta phải tìm hiểu thế nào là "bạn" và thế nào là "bạn tốt" ? Bạn là những người không phải là họ hàng mà là những người quen biết và có tình cảm thân thiết với nhau, có quan hệ gần gũi, luôn luôn coi nhau ngang hàng, do hợp nhau về tính tình, quan niệm, sở thích...còn "bạn tốt" là người bạn hiểu ta, luôn luôn quan tâm, chia sẻ với ta những niềm vui, nỗi buồn. Đó còn là người biết đưa ra những lời khuyên hữu ích nhất cho ta và có khả năng giúp ta nhận thức được việc làm sai trái, để ta tu dưỡng, sửa chữa, để trở thành người sống có ích cho xã hội, cộng đồng. Người bạn tốt còn là người luôn luôn ở bên ta, không bao giờ rời bỏ ta lúc ta gặp hoạn nạn. Điều đó cũng có nghĩa: người bạn tốt là người vô cùng cần thiết đối với ta, luôn luôn giúp ta những điều có ý nghĩa nhất trong cuộc sống.
2. Nội dung câu nói: Đề cao vai trò, ý nghĩa của người bạn tốt
Câu nói trên đã dùng kiểu lập luận theo quan hệ giả thiết, điều kiện - kết quả "nếu không có....thì khó mà" để nhấn mạnh vai trò ý nghĩa của bạn tốt. Bạn tốt đã trở thành điều kiện, tiền đề quan trọng để giúp ta nhận ra sai lầm, những điều chưa tốt để ta hoàn thiện bản thân về mọi phương diện như cách cư xử, học tập, tu dưỡng, công tác, sức khoẻ, sự nghiệp....
3. Vì sao bạn tốt lại có vai trò quan trọng như vậy đối với bản thân?
Vì sao bạn tốt lại có vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy đối với mỗi bản thân chúng ta? Bởi lẽ con người thì không mấy ai là không có khiếm khuyết trong lời nói, trong hành động, trong ứng xử, trong quan niệm, trong lối sống. Song không phải lúc nào ta cũng nhận ra được. Trong khi đó bạn, từ góc độ khách quan, dễ thấy những khuyết điểm mà ta không thấy. Từ đó với tư cách là người bạn tốt gần ta về tâm lý, thấu hiểu ta về những điều sâu kín trong tâm tư, nên nhắc nhở, khuyên răn ta bằng những lời lẽ chân tình, tha thiết nên dễ tiếp thu để sửa chữa. Điều này nhiều khi những người thân yêu nhất trong gia đình vẫn không làm được. Chẳng hạn một người chồng có nhiều uẩn khúc trong lòng mà người vợ không thể hiểu hết và có thể giúp chồng giải toả được như những người bạn thân của chồng. Một người mẹ thấy con gần đây có những biểu hiện tâm lý không bình thường như chán học, ít nói và trở nên ưu tư gần như bị trầm cảm, mà mẹ không sao hiểu hết được và giúp con trở về trạng thái bình thường được. Có lẽ trong trường hợp ấy, chỉ có nhờ bạn thân của con gái mẹ mới có thể "chữa lành" căn bệnh bí ẩn của con được. Bở vì theo nhận xét của các chuyên gia tâm lý lứa tuổi thì trẻ em, thanh thiếu niên ở lứa tuổi trung học cơ sở, trung học phổ thông đặc biệt coi trọng tình bạn, đề cao tình bạn và xem đó là một thứ tình cảm rất thiêng liêng và cao cả. Đúng như một nhà văn Nga đã nói: "Người ta có thể quên tất cả những điều đã học, quên cả thầy giáo của mình, nhưng quên sao được những bạn học, những người cùng ta tâm sự về những mối tình đầu, cùng ta chia sẻ đồng bạc cuối cùng, cùng ta xây đắp mộng tương lai" (Ô -lếch - vi -ta) và "Tình bạn có thể làm cho con người ta trở nên cao thượng và đẹp đẽ, làm cho đời sống càng tươi đẹp, sáng mãi và vui vẻ". Vì thế lời khuyên bảo của bạn lắm lúc có một hiệu lực và ý nghĩa thật bất ngờ đối với mỗi chúng ta.
Những điều đã phân tích ở trên cho thấy đã là bạn tốt đúng theo nghĩa của nó thì phải có sự chân thành và luôn luôn thể hiện trách nhiệm với bản thân ta. Nhờ đó mà ta sẽ không mắc sai lầm trong cuộc sống và có thể hoàn thiện bản thân. Ngược lại, nếu không có bạn tốt, hoặc đấy là bạn xấu, thì ta sẽ tiếp tục mắc sai lầm và không hoàn thiện được bản thân.
Bình luận mở rộng Như vậy đến đây ta có thể khẳng định người bạn tốt xứng đáng là một tâm gương sáng nhất để ta luôn luôn soi vào đó mà hoàn thiện mình. Vì thế sống trên đời chúng ta không thể thiếu bạn tốt. Có nhiều bạn tốt chẳng khác nào chúng ta luôn luôn được sống trong bầu dưỡng khí trong sạch và như có được một sự bảo hiểm bằng vàng rất tin cậy. Do đó, ở lứa tuổi nào và ở đâu, chúng ta cũng cần kết bạn và cần nhiều bạn tốt, vấn đề là chúng ta phải luôn luôn nhớ những lời căn bản của cha ông "Ở chọn nơi, chơi chọn bạn" . Khi đã có được những người bạn tốt, ta phải biết lắng nghe, biết sửa chữa, biết trân trọng tình bạn, biết đặt niềm tin vào bạn, chủ động giãi bãy với những người bạn đáng tin cậy về những băn khoăn, day dứt, nh tâm tư, tình cảm, dự định sâu kín trong lòng và như thế chúng ta cũng phải là người bạn tốt.
Thực tế lịch sử loài người đã có biết bao câu chuyện cảm động về những tấm gương của những người bạn tốt đã giúp nhau vươn lên trong cuộc sống và làm nên những sự nghiệp vinh quang. Đó là câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ, là tình bạn giữa Xuân Diệu và Huy Cận và kỳ diệu hơn nữa là "tình bạn vĩ đại và cảm động" giữa hai lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản thế giới: Mác và Ăng ghen.
III.Kết luận
Giờ đây, chúng ta đang ngồi trên ghế nhà trường, đang ở lứa tuổi học sinh, tuổi của hoài bão và khát vọng, của ngưỡng cửa bước vào đời, chúng ra rất cần có nhiều bạn tốt để sẻ chia, giúp đỡ nhau trong học tập, tu dưỡng, phấn đấu để vượt qua những chướng ngại trong cuộc sống, nhằm chiếm lĩnh những "đỉnh olimpia" cho cuộc đời trong một tương lai không xa.
Suy nghĩ về câu ngạn ngữ Hy Lạp “ Học vấn có chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại rất ngọt ngào”.
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
Con người muốn học vấn phải trải qua nhiều gian khổ, vất vả đắng cay trong học tập và lao động.
Học vấn khi có được sẽ đưa lại cho con người nhiều cơ hội, lợi ích và thành công.
2. Bình luận
Học vấn, tri thức có vai trò dẫn đường. Con người muốn thuận lợi và thành đạt phải không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn, nâng cao học vấn.
Để có học vấn, con người phải “ Học, học nữa, học mãi”, học tập suốt đời, vượt qua hoàn cảnh khó khăn “ lao động khổ tử” để học.
Câu ngạn ngữ đề cao vai trò của học vấn và con đường để có học vấn là phải cố gắng học tập.
3. Liên hệ
Con đường để tiến thân, thành công là phải có học vấn.
Muốn có học vấn phải khổ công học tập, “học tập suốt đời”, phải có ý chí vượt qua nhiều khó khăn thử thách trong học tập.
Bản thân đang ở tuổi học sinh phải cố gắng học tốt, sau này đi làm phải học hỏi ( Học thầy, học bạn, học sách vở, học đồng nghiệp) để tinh thông nghề nghiệp.
Học tập kỹ năng sống, “Không để chết vì dốt”
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài:
Ngạn ngữ Hy Lạp có câu : “ Học vấn có chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại rất ngọt ngào”. Hiểu câu này như thế nào và thông điệp mà nó muốn gửi tới chúng ta là gì?
Thân bài:
1. Giải thích câu ngạn ngữ.
Học vần là tri thức mà mỗi người có được trong quá trình sống, học tập và làm việc. Sự tích lũy tri thức làm cho người ta ngày càng trưởng thành, hoàn thiện về kỹ năng sống cũng như tinh thông chuyên môn, nghề nghiệp. Học vấn ngày càng cao làm cho người sở hữu nó có nhiều cơ hội thăng tiến, thuận lợi trong cuộc sống và thành công trong sự nghiệp, cuộc đời có nhiều “ Hoa thơm quả ngọt”.
Học vấn đưa lại cho con người nhiều lợi ích , “hoa quả ngọt”, nhưng để có nó người ta phải cố gắng học tập, rèn luyện, vượt qua vất vả khó khăn, “đắng cay” mới có được. Thiên tài do 99% khổ luyện, chỉ 10% là do năng khiếu trời cho”. Đằng sau các giải thưởng Nobel là sự làm việc bền bỉ hàng chục năm trời tích lũy học vấn và lao động sáng tạo của các nhà khoa học, nhà văn, nhà hoạt động xã hội.
“Chùm rễ đắng” là hình ảnh chỉ công lao học hành, “Quả ngọt ngào” là chỉ kết quả học tập công việc. “Đắng cay” là vì quá trình học tập tốt, là một quá trình phải đổ nhiều mô hôi sức lực và tâm não, và có học vấn thì con người sẽ thuận lợi và thành công, thậm chí sung sướng, hạnh phúc, có khi bất ngờ, trong những hoàn cảnh mà người ta không ngờ tới lại gặt hái được thành quả tốt đẹpm như Nuiton bị quả táo rơi vào đầu, Acsimet ở trong bồn tắm mà khám phá ra các quy luật vĩ đại.
2. Lợi ích của việc học, nâng cao học vấn.
Tri thức của nhân loại tích lũy được là rộng lớn, mênh mông, vô tận. Một bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo mà hàng ngày không đọc được vài chục trang sách báo chuyên môn thì sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu. Muốn có học vấn không có con đường nào khác là “ Học, học nữa, học mãi” Học tập suốt đời để để học tập, con người phải mất nhiều thời gian, tiền bạc, hy sinh một số thú vui để tập trung tiếp thu, suy nghĩ, tìm hiểm làm thí nghiệm, thực hành và sáng tạo. Học tập là trồng cây tri thức, cây học vấn. Cây này lớn lên sẽ cho ta nhiều lợi ích. Lợi ích về kỹ năng sống, để không “ Chết vì dốt nát”. Lợi ích về công việc thuận lợi, làm việc hiệu quả dẫn tới thành đạt trong sự nghiệp.
Học tập, khổ luyện thành tài. Người tài không chỉ giúp mình, giúp gia đình mà còn là “ Nguyên khí quốc gia”, giúp dân giúp nước, làm cho “Dân giàu nước mạnh”. Chính vì thế mà Bác Hồ từ năm 1945 đã dạy, đại ý “ Non sông đất nước Việt Nam có trở nên vẻ vang, sánh vai với các cường quốc năm châu hay không phần lớn là nhờ ở công lao học tập của các cháu”.
3. Làm thế nào để có học vấn cao.
Học tập để có học vấn, không chỉ học ở trường, ở lớp, mà là tự học, học mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Học ở bạn bè, người thân, đồng nghiệp, đồng môn. Học qua sách, tài liệu, học qua đài phát thanh, truyền hình, học qua mạng internet.
Chúng ta cũng cần phê phán thói xấu, lười học của một số thanh niên, học sinh. Thế kỷ 21 là thế kỷ tri thức, hội nhập toàn cầu. Phần lớn thanh niên Việt Nam đang ra sức học tập để đáp ứng nhu cầu về kiến thức, để có điều kiện hội nhập và cống hiến tốt thì các thanh niên đó lại sống buông thảm lười học nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ cá nhân hoặc thiểu bản lĩnh vượt khó khăn, thiểu ý chí vươn lên.
4. Liên hệ bản thân
Bản thân đang ở độ tuổi học sinh phải cố gắng học tốt, học giỏi. Sau này, khi đi làm, bản thân phải cố gắng học tập theo phương châm, “Học tập suốt đời”, chăm sóc cho cây học vấn ngày càng tươi tốt, trường thành, ra nhiều hoa thơm quả ngọt, gặt hái mùa màng bội thu, thành công trong cuộc sống, thành đạt trên đường đời.
Kết luận
Câu ngạn ngữ Hy Lạp đề cao vai trò của học vấn, tri thức và chỉ ra con đường để có học vấn là phải cố gắng học tập.
Dù khó khăn, gian khổ, cay đắng đến đâu, cũng phải vượt qua để học, để có học vấn. Đó là thông điệp mà câu ngạn ngữ Hy Lạp nói với chúng ta.
Quan điểm của anh (chị) về vấn đề thời trang.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Đề này thuộc loại đề mở, nghĩa là không chỉ rõ yêu cầu học sinh phải giải thích, chứng minh hay bình luận. Tuy nhiên những đề bài kiểu suy nghĩ của anh chị, quan điểm của anh chị...về một vấn đề nào đó, thường là kiểu bài thiên về bình luận, giải thích.
2. Vì vậy, ở đây chúng ta có thể triển khai các ý như sau:
a. Vai trò của thời trang, của ăn mặc trang điểm: Thời trang có một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp, nhân cách con người. Nó trở thành văn hoá ăn mặc góp phần tô đậm vẻ đẹp cho mỗi người và lối sống của toàn xã hội.
b. Nhưng phải sử dụng thời trang như thế nào? Phải sử dụng thời trang cho hợp lý, tự nhiên, tương xứng với tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh giao tiếp, có sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp truyền thống với vẻ đẹp hiện đại.
c. Bình luận.
Phê phán lối ăn mặc lập dị, chạy theo mốt giật gân, không thích hợp với quan điểm thẩm mĩ - văn hoá của người Việt Nam hiện đại.
I.Mở bài:
Nhà văn Gorki đã từng khẳng định "Bản chất mỗi người là một nghệ sĩ. Bằng cách này, hay cách khác họ đều muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống". Và để cho cuộc sống đẹp, người ta thường tìm đến thời trang. Vì vậy thời trang là một trong những phương tiện rất hiệu quả để góp phần tôn thêm vẻ đẹp của con người.
II.Thân bài:
1. Vai trò của thời trang, ăn mặc, trang điểm.
"Thời trang" theo từ điển Tiếng Việt là cách ăn mặc được ưa chuộng phổ biến trong từng thời kỳ (trang 1592). Thời trang có một vai trò, ý nghĩa đặc biệt với cuộc sống con người. Cha ông ta xưa đã từng nói "Người đẹp vì lụa". Câu nói ấy đã khẳng định thời trang là phương tiện, nhưng nó có một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp, nhân cách con người. Ăn mặc đẹp, lịch sự là sự tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Người ta thường nói "ăn cho mình, mặc cho người". "Ăn cho mình" là ăn để duy trì sự sống, sức khoẻ cho bản thân mình. Còn "mặc cho người" là những trang phục trên người mình để cho kín đáo, bảo vệ thân thể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài- Anh chị nghĩ gì về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá.doc