Đề tài ACU - Đồng tiền chung Châu Á

Tài liệu Đề tài ACU - Đồng tiền chung Châu Á: Trang 1 Mở đầu Châu Á hiện là nơi đang có những nền kinh tế mạnh và phát triển nhanh nhất thế giới, với nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn. Tuy vậy, sự tồn tại của hàng chục đồng nội tệ đã và đang làm tăng nguy cơ rủi ro từ tỷ giá hối đoái và phương hại các thị trường vốn. Châu Á cũng đang phụ thuộc quá lớn vào các nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển. Sự phụ thuộc đó tiềm ẩn nguy cơ để lại hậu quả, giống như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1998. Trong khung cảnh trên, đồng tiền chung châu Á ra đời có thể giúp củng cố sức mạnh của các nước trong khu vực để đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên thị trường tài chính. Đồng tiền này cũng có thể tham gia hệ thống tài chính thế giới để cùng với đồng USD và Euro ổn định thị trường tiền tệ toàn cầu. Đề tài về một đồng tiền chung ở khu vực Châu Á đang là đề tài được giới tài chính quan tâm, không chỉ những nước trong khu vực quan tâm mà còn cả những nước ngoài khu vực cũng đang theo dõi, đặc biệt là Mỹ, một gã ...

pdf54 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài ACU - Đồng tiền chung Châu Á, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 Mở đầu Châu Á hiện là nơi đang có những nền kinh tế mạnh và phát triển nhanh nhất thế giới, với nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn. Tuy vậy, sự tồn tại của hàng chục đồng nội tệ đã và đang làm tăng nguy cơ rủi ro từ tỷ giá hối đoái và phương hại các thị trường vốn. Châu Á cũng đang phụ thuộc quá lớn vào các nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển. Sự phụ thuộc đó tiềm ẩn nguy cơ để lại hậu quả, giống như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1998. Trong khung cảnh trên, đồng tiền chung châu Á ra đời có thể giúp củng cố sức mạnh của các nước trong khu vực để đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên thị trường tài chính. Đồng tiền này cũng có thể tham gia hệ thống tài chính thế giới để cùng với đồng USD và Euro ổn định thị trường tiền tệ toàn cầu. Đề tài về một đồng tiền chung ở khu vực Châu Á đang là đề tài được giới tài chính quan tâm, không chỉ những nước trong khu vực quan tâm mà còn cả những nước ngoài khu vực cũng đang theo dõi, đặc biệt là Mỹ, một gã khổng lồ đang bị lung lay vị thế số một của mình, thì những đồng tiền chung như EURO và nay, nếu có thể, là ACU ra đời cũng có thể khiến cho Mỹ phải chỉnh sửa lại những chiến lược của mình. Về phương pháp, với các dữ liệu về các chỉ tiêu của các nước trong khu vực sẽ tính ra các chỉ số trung bình chung đáp ứng điều kiện cho một đồng tiền chung. Luận văn này không có tham vọng tự đưa ra các phương pháp hay cách tính cụ thể cho một đồng tiền chung Châu Á (ACU) vì hiện tại, đồng tiền chung Châu Á cũng đang là một trong những vấn đề mà các chuyên gia hàng đầu Châu Á đang quan tâm và đang còn trên “bản thảo”. Chỉ mong ước rằng ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 2 với cái nhìn sơ khởi, chân dung một đồng tiền chung cho Châu Á sẽ tượng hình. Với thời gian hạn hẹp và nguồn tài liệu chưa dồi dào, những vấp váp cũng như những nhận định chủ quan là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, đề tài về đồng tiền chung Châu Á đang là một đề tài mới nên những ý tưởng những quan điểm của mọi người lúc này sẽ càng giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quát và đưa ra định hướng đúng hơn. Nhân đây, riêng bản thân tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình và lòng nhiệt huyết đầy tính nhân văn của PGS.TS. Trần Hoàng Ngân, trưởng khoa Tiền Tệ Ngân Hàng của trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh với một học viên như tôi. Mong nhận được mọi sự góp ý cũng như những tranh luận đóng góp để làm phong phú hơn cho định hướng của đề tài. Ngày 15 tháng 09 năm 2006 Ninh Thị Tuệ Minh ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 3 Chương I : NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ ĐỒNG TIỀN CHUNG KHU VỰC CHÂU ÂU – ĐỒNG EURO 1.1. Giới thiệu quá trình hình thành cộng đồng chung Châu Âu -1965 : Hình thành Cộng đồng Châu Âu : trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức : Cộng đồng than thép Châu Âu; Cộng đồng kinh tế Châu Âu; cộng đồng Châu Âu về năng lượng và hạt nhân -24/4/1972 : Thành lập “ Con rắn tiền tệ Châu Âu” nhằm mục đích giới hạn sự giao động của các đồng tiền Châu Âu ở mức giao động quốc tế -3/1975 : Sáng lập đơn vị tiền tệ Châu Âu (ECU) -13/3/1979 : vận hành hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS) với các giới hạn cho dao động tiền tệ tối đa là 2.25%, riêng đồng Peseta Tây Ban Nha và đồng Bảng Anh là 6%. -7/2/1992 : kí kết hiệp ước Masstricht (tại Hà Lan) thiết lập liên minh Châu Âu, xác định các vấn đề liên quan đến khối đồng tiền chung duy nhất Châu Âu, cơ chế vận hành các tổ chức thể chế Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung, chương trình hợp tác tư pháp. -1/1/1993 : hoàn thành thị trường chung Châu Âu : tự do hóa thị trường ngoại hối, thị trường vốn, và tự do hóa việc đi lại của công dân Châu Âu trong nội bộ EU -14-15/5/1995 : Hội nghị thượng đỉnh Madrid (tại Tây Ban Nha) thông qua lịch trình hành động, qu yết định đặt tên đồng tiền chung Châu Âu là EURO, gọi các đơn vị tiền lẻ của nó là “cent” với 100 cent = 1 EURO ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 4 1/1/1999 Đồng EURO chính thức ra đời với đầy đủ tư cách của một đồng tiền thực, chung và duy nhất cho cả khối EU-11. Tuy vậy cho đến trước ngày 1/1/2002 đồng tiền này mới chiếm giữ vai trò chủ yếu trong các quan hệ giao dịch thanh toán 1/1/2002 : Bắt đầu giai đoạn đổi tiền, diễn ra trong 6 tháng kết thúc vào 1//2002, Châu Âu chính thức tung vào lưu thông tiền tệ đồng EURO bằng giấy và xu 1/7/2002 : Các đồng bản tệ hoàn toàn rút khỏi lưu thông Sau một thời gian dài, cộng đồng kinh tế Châu Âu đã xây dựng và củng cố được những mối quan hệ kinh tế quốc tế chặt chẽ giữa các nước thành viên và đã tạo ra được một thị trường chung về hàng hóa và dịch vụ. Và đồng EURO ra đời là nhờ vào sự quyết tâm cao của các nước EU, để từ đó tạo ra được một hệ thống tài chính lành mạnh, ổn định tiền tệ. Và ngay khi hình thành, cộng đồng Châu Âu đã lập tức đưa ra ngay các tỷ giá quy đổi của đồng Euro với các đồng tiền trong khối. Điều này giúp cho Euro tránh được nguy cơ bị đầu cơ. Dưới đây là một vài tỷ giá của đồng Euro với 12 đồng tiền khác trong khối. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 5 Tỷ giá quy đổi đồng euro: Franc Bỉ 40.3399 Mark Đức 1.95583 Drachma Hy Lạp 340.750 Peseta Tây Ban Nha 166.386 Franc Pháp 6.55957 Bảng Ai Len 0.787564 Lira Ý 1936.27 Franc Lúc-xăm-bua 40.3399 Guilder Hà Lan 2.20371 Schilling Áo 13.7603 Escudo Bồ Đào Nha 200.482 Markka Phần Lan 5.94573 1.2. Những lợi ích của EURO 1.2.1. Loại bỏ rủi ro tỷ giá : Dễ thấy rằng EURO loại bỏ được rủi ro tỷ giá giữa 12 đồng tiền Châu Âu. Chúng ta đã biết rằng rủi ro tỷ giá có thể gây thiệt hại cho bất kỳ nhà sản xuất hay nhà đầu tư nào mà qu yết định đầu tư hôm nay mà lại thu lợi nhuận trong tương lai. Khi đó, những biết động về tỷ giá không theo dự kiến sẽ gây những thiệt hại to lớn cho doanh nghiệp. Cho dù những hình thức bảo hiểm nhằm tránh biến động không theo dự kiến đã ra đời thì doanh nghiệp vẫn phải chịu phí khi sử dụng những dịch vụ này. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 6 Bên cạnh đó, việc giảm thiểu rủi ro về tỷ giá cũng giúp cho việc thông thương hàng hóa, dịch vụ và các luồng vốn đầu tư giữa các quốc gia trong khối EU có điều kiện di chuyển tự do và thuận tiện hơn. Và điều này có nghĩa là đã tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế Châu Âu. 1.2.2. Giảm chi phí giao dịch Một ví dụ nhỏ cho thấy rằng khi các du khách du lịch sang các nước họ phải chịu phí do việc đổi tiền qua lại giữa các đồng tiền khi bước qua biên giới của một nước. Phí này chính là sự chênh lệch giữa giá mua và bán, ngoài ra còn có phí hoa hồng cho việc mua bán này. Trong hoạt động của mình, EU có hàng ngàn giao dịch đổi tiền mỗi ngày. Việc đổi tiền thông qua các tổ chức tài chính lớn, rất khó ước tính tính chính xác các chi phí giao dịch này, nhưng đối với Châu Âu, một lục địa mà thương mại nội khối có vai trò sống còn thì những chi phí này là rất lớn. Những chi phí này thật sự là một gánh nặng cho các công ty ở những nước nhỏ với thị trường ngoại hối có độ thanh khoản không cao và hệ thống ngân hàng chưa phát triển. 1.2.3. Nâng cao tính minh bạch trong giá cả : Những khác biệt trong giá cả hàng hóa, dịch vụ, tiền lương sẽ trở nên rõ ràng hơn khi tính bằng một đồng tiền chung. Khi không còn rủi ro về tỷ giá thì giá cả của các mặt hàng ở các thị trường các nuớc trong khu vực sẽ giảm sự chênh lệch giá, phân biệt giá đồng thời khuyến khích cạnh tranh. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 7 Người tiêu dùng thì có thể thoải mái lựa chọn mua hàng trên toàn bộ khu vực của đồng EURO, còn các công ty thì có thể tùy thích bán hàng ở bất kỳ nơi nào trong khu vực này. Sự cạnh tranh sẽ rõ ràng hơn giữa các nhà sản xuất, sự lựa chọn thì đa dạng hơn, dễ dàng hơn với người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là đã đem lại một động lực mới cho nền kinh tế. 1.2.4. Lãi suất thấp Nhiệm vụ hàng đầu của ngân hàng trung ương Châu Âu là duy trì một mức lạm phát thấp. Mà lạm phát thấp sẽ gây sức ép làm giảm lãi suất. Mà khi lãi suất thấp thì việc vay mượn trên thị trường chứng khoán Châu Âu sẽ giảm và từ đó sẽ thúc đẩy việc phát triển của những thị trường này. 1.2.5. Ổn định kinh tế vĩ mô Lạm phát luôn là vấn đề đau đầu của các nước trong khối EU. Hầu như nước nào cũng dễ bị tổn thương trước lạm phát. Đồng EURO đã thiết lập một cơ chế mới với lạm phát thấp, giúp ổn định kinh tế vĩ mô. Cơ chế này được đảm bảo bởi một ngân hàng Trung ương Châu Âu độc lập thống nhất với mục tiêu hàng đầu là ổn định giá cả. Sự ra đời của đồng EURO sẽ mở ra một thời kỳ ổn định lâu dài cho toàn khu vực. Nó sẽ giúp các nước thành viên tránh được sự phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia cũng như giảm thiểu việc đầu cơ của một số nhà đầu cơ tài chính. 1.2.6. Sẽ là đồng tiền dự trữ quốc tế chủ yếu Trong thực tế thì chỉ có những đồng tiền dễ chuyển đổi, ổn định và được chấp nhận là phương tiện thanh toán dễ dàng mới có khả năng trở thành đồng tiền dự trữ chủ yếu. Hiện nay, đồng đô la Mỹ đang là đồng tiền dự trữ quốc tế ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 8 số một, và các nhà lãnh đạo Châu Âu đang mong muốn EURO sớm trở thành một đồng tiền dự trữ quốc tế chủ yếu trong tương lai không xa. 1.3. Những hạn chế tất yếu phải chấp nhận 1.3.1.Chi phí chuyển đổi Việc ghi nhận thêm một đồng tiền mới vào hệ thống cơ sở dữ liệu đã khiến cho các tổ chức, cơ quan của chính phủ, các doanh nghiệp…đã tiêu tốn khá nhiều để điều chỉnh nhằm thích ứng. Việc cập nhật thông tin, thay đổi các phần mềm vi tính, sửa đổi các chứng từ thanh toán, thay đổi cá hệ thống kế toán, đồng thời nhu cầu đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng kiến thức mới về sử dụng và lưu thông đồng EURo cũng phát sinh. Ngoài ra, các chính phủ các nước trong khu vực còn phải tiêu tốn chi phí quảng cáo về đồng EURO để cho nó thực sự đi vào cuộc sống hằng ngày của người dân Châu Âu. Sản xuất và phân phối tiền mới cũng tiêu tốn hàng tỷ USD. Việc sản xuất lập tức một lượng tiền khổng lồ đã gây một tốn kém lớn trong khi việc phân phối nó đến tay người tiêu dùng lại càng tốn kém hơn. 1.3.2. Mất việc làm Đội ngũ những người buôn bán tiền tệ đang không biết kiếm sống bằng cách nào khi EURO ra đời. Price Warterhouse ước tính rằng một ngân hàng có thể mất 50% nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối và 60% doanh thu từ việc mua bán trái phiếu. Một đồng tiền chung ra đời cũng đồng nghĩa với là loại bỏ các giao dịch giữa một số các đồng tiền và điều này cũng có nghĩa là không cần đến các công cụ tự bảo hiểm. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 9 Đồng tiền chung ra đời sẽ tạo ra một thị trường tài chính Châu Âu rộng lớn hơn, khi đó các công ty Châu Âu sẽ chuyển dần sang huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán chứ không còn mặn mà với vốn của ngân hàng như trước đây. Việc được gia nhập vào khối cộng đồng chung bắt buộc chính phủ các nước phải cắt giảm ngân sách, thắt lưng buộc bụng nhằm giảm thâm hụt ngân sách, nợ chính phủ. Điều này tất yếu sẽ có thêm nhiều người mất việc làm. Có thể vấn đề này chỉ là ngắn hạn nhưng nó có thể tạo nên sự bất ổn định chính trị, xã hội ở các nước thành viên. 1.3.3. Mất chủ quyền trong hoạch định và thực thi chính sách Tham gia vào liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu (EMU), các nước phải từ bỏ quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ. Vì lúc này, EMU sẽ điều hành chính sách tiền tệ chung. Lúc này các nước sẽ mất đi một công cụ quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các nước này khi nền kinh tế gặp khủng hỏang. Với chính sách còn lại để điều tiết nền kinh tế là chính sách tài khóa thì lại bị ràng buộc bởi Hiệp ước tăng trưởng và ổn định vì hiệp ước này kiểm soát và đề ra biệt pháp trừng phạt với những nước có mức thâm hụt ngân sách quá mức cho phép là 3% GDP. Điều này khiến cho việc điều tiết nền kinh tế trong tình hình xấu sẽ gặp nhiều khó khăn, lúc này chính sách thuế sẽ có thể gây nên những phản ứng mạnh mẽ từ dân chúng và sẽ khiến cho chính phủ đương nhiệm gặp nhiều kho khăn khi các cuộc bầu cử đến gần. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 10 1.4. Quá trình hình thành đồng EURO 1.4.1.Ý tưởng thiết lập Mong muốn có một đồng tiền chung đã hình thành từ lâu ở Châu Âu, nền tảng là sự ra đời của tiền tệ Latinh, liên minh tiền tệ Đức, bản vị vàng… nhưng đến khi có sự bất ổn về tiền tệ vào những năm 1920, 1930 đã làm cho nhu cầu này trở nên bức thiết. Tuy vậy, khi thị trường chung Châu Âu đã được thành lập vào những năm 1950 thì liên minh về tiền tệ vẫn chưa được lưu tâm trong các chương trình nghị sự, tuy đã xác định được tỷ giá là một trong những vấn đề mang lại lợi ích chung. Vì trong thời gian này, tỷ giá cố định Bretton Woods vẫn đang tồn tại và gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Thế giới. Mãi đến năm 1969, khi mà Pháp và Đức lần lượt phá giá đồng FR và DM – phá vỡ hệ thống Bretton Woods – đã đe dọa đến sự ổn định cuả các đồng tiền Châu Âu khác. Thủ tướng Đức lúc đó là W.Brandt đã đề nghị phải khôi phục lại các kế hoạch về Liên minh tiền tệ Châu Âu. Kế hoạch này đã được thủ tướng của Luxambua là ông P.Werner đưa vào báo cáo của mình, và năm 1970, lần đầu tiên thuật ngữ Liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU – economic and monetary Union) đã được sử dụng. Một kế hoạch cho đồng tiền chung Châu Âu do thủ tướng Werner đưa ra bao gồm hai bước : -Bước 1 : liên kết các đồng tiền của các nước Châu Á vào một đơn vị tiền tệ thống nhất gọi là “Đơn vị tiền tệ Châu Âu – ECU”, với việc cùng phối hợp để giải quyết các vấn đề về tiền tệ. -Bước 2 : ECU sẽ được sử dụng là đồng tiền chung song song với các đồng tiền quốc gia. ECU sẽ làm đồng tiền dự trữ và thanh toán trong EEC và sau đó trên phạm vi quốc tế. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 11 Báo cáo của Werner được phê chuẩn năm 1971, nhưng ngay sau đó bị gạt ngang, do hệ thống Bretton Woods bị sụp đổ. Châu Âu nhanh chóng cho ra đời một hệ thống gắn các đồng tiền của các nước thành viên với đồng DM gọi là “con rắn trong đường hầm”. Tuy vậy, hệ thống này cũng không suôn sẻ. Anh đã rút khỏi hệ thống này sau sáu tuần tham gia. Ngay cả Pháp và Đức, hai nước chủ chốt cũng đã hai lần rút khỏi hệ thống này. Không còn khả năng quay trở lại chế độ tỷ giá cố định, Châu Âu đã tìm sự ổn định tiền tệ thông qua việc hình thành hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS). Cơ chế này giới hạn biên độ giao động của tỷ giá là cộng/trừ 2.25% so với tỷ giá trung tâm. Tuy vậy, Pháp và Ý đều không thỏa mãn với cơ chế tỷ giá này đã liên tục phá giá đồng tiền. Bộ trưởng bộ Tài chính Pháp lại một lần nữa kiến nghị về một đồng tiền chung trên toàn Châu Âu. 1.4.2. Các giai đoạn thực hiện : có ba giai đoạn : *Giai đoạn 1 : thống nhất tính chất tiền tệ quốc gia, rút ngắn sự cách biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Vào ngày 1/1/1993, việc thực hiện tự do hóa lưu thông vốn và thanh toán thông qua việc hoàn thành thị trường thống nhất. Các ngân hàng trung ương các nước thành viên phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá cố định giữa các đồng tiền trong hệ thống tiền tệ Châu Âu. *Giai đoạn 2 : Ra đời viện tiền tệ Châu Âu ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 12 Ngày 1/1/1994, Viện tiền tệ Châu Âu (EMI – EUROpean Monetary Institute) ra đời. EMI không thực hiện chính sách tiền tệ cũng như can thiệp hối đoái trong toàn Liên minh. EMI có nhiệm vụ chủ yếu là : -Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng TW quốc gia trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. -Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống ngân hàng TW Châu Âu và Liên minh kinh tế - tiền tệ Châu Âu. *Các mốc thời gian đáng ghi nhận : -EURO được nhất trí là tên của đơn vị tiền tệ chung vào tháng 12/1995 -EMI hoàn thành những nền tảng cho cơ chế tỷ giá mới vào tháng 12/1996 và được thông qua vào tháng 6/1997. Cũng lúc này, những thiết kế chi tiết mệnh giá cho EURO cũng đã được thông qua. -Tháng 5/1998, 11 nước thành viên đủ tiêu chuẩn đã được lựa chọn tham gia đồng EURO đợt đầu. Tỷ giá chuyển đổi song phương được thiết lập trên cơ chế tỷ giá EMS. -Tháng 6/1998, hệ thống ngân hàng TW Châu Âu hình thành, EMI hoàn thành nhiệm vụ của nó và chính thức ngưng hoạt động. -Giai đoạn kiểm tra cuối cùng các hệ thống và các thủ tục cho việc xuất hiện đồng EURO trong nửa năm cuối 1998. *Giai đoạn 3 : EMU đi vào hoạt động và thực hiện một chính sách tiền tệ chính thức trong toàn khu vực Giai đoạn này có thể chia thành 3 bước : -Bước 1 : Chuẩn bị - bắt đầu từ 2/5/1998 đến 1/1/1999 ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 13 Mở đầu bằng hội nghị thượng đỉnh đặc biệt của EU tại Brussels (Bỉ). Hội nghị quyết định trong 15 nước thì những nước nào sẽ được tham gia liên minh tiền tệ. Đây cũng là vấn đề mang tính chính trị gây nhiều tranh cãi nhất ở Châu Âu. Ngay khi danh sách thành viên được đưa lên thì tỷ giá hối đóai song phương vĩnh viễn giữa đồng tiền các nước này cũng được công bố. Đây chính là một bước đi táo bạo đầy sáng tạo nhằm tạo nên sự ổn định và tránh cho EURO khỏi những đợt tấn công của giới đầu cơ ngay trong những ngày mới phát hành. Cũng tại hội nghị này, EU đã công bố quyết định thành lập Ngân hàng TW Châu Âu (ECB – European Central Bank). Cũng giống như Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED), ECB sẽ chịu trách nhiệm vận hành chính sách tiền tệ chung trong toàn khu vực đồng EURO. -Bước 2 : thời kỳ quá độ - diễn ra trong ba năm 1999, 2000, 2001 Bắt đầu bằng việc giới thiệu đồng EURO là đồng tiền chính thức hợp pháp của 11 nước thành viên. Tuy nhiên, trong ba năm này, EURO chỉ tồn tại như một đồng tiền ghi sổ, nghĩa là chưa lưu hành trên thực tế. Tại bước này, liên minh Châu Âu đã áp dụng quy tắc “không bắt buộc, không ngăn cấm” đối với việc sử dụng EURO trong các giao dịch. Các công ty đa quốc gia lớn đã áp dụng đồng tiền này trong việc lên các báo cáo tài chính ngay từ 1/1/1999, mặc dù các cửa hàng chi nhánh không bị bắt buộc phải thu tiền là EURO. Nghe qua thì tưởng chừng như vai trò của EURO không có gì ở giai đoạn này, nhưng thật ra lại rất rõ nét do việc thanh toán bằng tiền mặt chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong các hoạt động kinh tế. Chỉ khỏang 6% GDP của khu vực Châu Âu. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 14 Đây cũng là bước chuyển giao quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ của các nước thành viên cho ECB. -Bước 3 : Đổi tiền thực sự - sau năm 2002 Các tiền giấy và xu được phát hành vào lưu thông. Ước tính có khoảng 13 tỷ tiền giấy đã được phát hành vào năm 2002. Vào tháng 6/2002, các đồng tiền quốc gia thành viên cuối cùng đã bị loại khỏi lưu thông, nhường chỗ cho đồng EURO. 1.5. Những tác động của đồng EURO đối với nền kinh tế Thế Giới 1.5.1.Vai trò của Châu Âu trên thế giới: Tăng cường mạnh mẽ vai trò của Châu Âu trên các diễn đàn và tổ chức quốc tế như IMF, WB và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế • Là tiền tệ thế giới, đồng Euro đảm nhiệm vai trò quan trọng như tiền tệ dự trữ và đầu tư quốc tế • Việc sử dụng đồng Euro trong thương mại quốc tế cũng đang mở rộng, phản ánh trọng lượng của Châu Âu trong kinh tế thế giới • Lãi suất thấp: Mức lãi suất được hưởng lợi từ những triển vọng lạm phát thấp, việc kiểm soát nợ chính phủ được cải thiện và kích cỡ thị trường chứng khoán Euro được gia tăng, cải thiện tính thanh khoản • Thúc đẩy tăng trưởng, đầu tư và việc làm: Sự ổn định giá cả , tình hình tài chính công tốt và lãi suất thấp cấu thành nên những điều kiện lý tưởng để kích thích sự tăng trưởng kinh tế, đầu tư và tạo việc làm trong khu vực đồng Euro ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 15 • Bảo vệ khỏi những cú sốc từ bên ngoài: Bởi vì tầm quan trọng của kinh tế khu vực đồng Euro và vấn đề là thương mại của khối Euro diễn ra trong khu vực, khu vực đồng Euro được trang bị tốt hơn các loại tiền tệ quốc gia trước đây để chống lại những cú sốc kinh tế từ bên ngoài hợac những rủi to tỷ giá hối đoái so sánh với USD và những loại tiền tệ chính khác 2. Sự hợp nhất chính trị: 1.5. • Đồng Euro là biểu tượng của sự đồng nhất, những giá trị chia sẻ và thành công của sự hợp nhất Châu Âu mang người dân và các quốc gia Châu Âu đến gần nhau • Đồng Euro đóng vai trò như một tác nhân kích thích sự hợp nhất sâu hơn bằng cách chỉ ra rằng hành động chung của các nước thành viên có thể đem lại những lợi ích rộng rãi cho tất cả những nước tham gia Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích ứng. Về mặt chính trị vẫn còn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nổi lo ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro được đưa vào lưu hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia (không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 16 Chương II : KINH TẾ XÃ HỘI CHÂU Á VÀ NHU CẦU VỀ MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG 2.1. Giới thiệu về khu vực Châu Á Nhìn nhận chung về các nước trong khu vực 2.1.1. Điều kiện tự nhiên : Với diện tích tự nhiên là 13.487.561km2, chiếm 9,94% diện tích thế giới. Đều tiếp xúc trực tiếp với biển Thái Bình Dương, một vị trí hết sức thuận lợi trong các hoạt động thương mại quốc tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đa số các nước này có nguồn tài nguyên thiên nhiên khá dồi dào, giàu các loại khoáng sản, nhiều nhất ở Trung Quốc và các nước ASEAN, nhưng các nước NICs lại nghèo khoáng sản, trong đó Nhật Bản phải nhập khẩu từ bên ngoài hơn 90% nguyên liệu. Tiềm năng về nông nghiệp ở các nước Châu Á rất phát triển. Bằng chứng là Thái Lan đứng hàng thứ nhất trên thế giới về xuất khẩu gạo và Việt Nam thì ở hàng thứ hai. 2.1.2. Điều kiện về Kinh tế - Xã hội Dân số là 2.062,8 triệu người, chiếm 32,2% dân số thế giới. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có khả năng cung cấp một lượng lao động khá dồi dào và đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm đáng kể. Ảnh hưởng bởi nền văn hóa Khổng giáo, nét đặc trưng của ngừơi Châu Á là sống nhân bản và chú trọng đến giáo dục. Trình độ học vấn của khu vực Châu Á được đánh giá là khá cao so với một vài nước đang phát triển. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 17 Trong tình hình thế giới đầy bất ổn với những cuộc chiến tranh nhằm tranh chấp về lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo… thì sự ổn định của Châu Á cũng là một trong những điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư cho khu vực này. 2.1.3. Một số chỉ tiêu về nền kinh tế Bảng 2.1. Những chỉ tiêu kinh tế cơ bản của các nước Châu Á Tên nước Mức tăng trưởng GDP (%) GDP bq đầu người (USD) GNP bq đầu người (USD) Mức lạm phát (%) Khối lượng xuất khẩu 1 năm (tỷ USD) Cán cân thanh toán (tỷ USD) Dự trữ ngoại tệ không kể vàng (tỷ USD) Nợ tổng nợ dịch vụ ngoài (tỷ USD) Dân số (triệu người) Số tivi / 1000 dân Số điện thoại / 1000 dân Tuổi thọ bình quân (năm) Chi sức khoẻ, % GDP Nhật Bản 3.9 26,940 36,748 -0.1 522 156 837.9 127.3 784 558 81.6 8 Trung Quốc 9.2 4,240 1,222 4.3 584.5 35.8 532.5 214.8 1300 350 167 70.7 5.5 Hàn Quốc 4.7 16,950 13,720 3.8 251 27.4 195 141.8 48.2 363 488 73.9 6 Đài Loan 5.8 13,687 1.8 171.1 20 237.1 74.4 22.7 76 Hongkong 7.4 26,910 22,857 0.4 269 14 124 67.7 7 504 564 79.9 Singapore 8.6 24,040 24,500 1.7 175.2 20.5 103.8 23.4 4.2 302 463 78.4 3.9 Indonexia 4.8 3,090 1,122 6.1 66.9 3.1 35 138.6 223.8 153 36 66.6 2.4 Thái Lan 5.8 7,010 2,463 2.8 93 2.8 45.1 49.5 64.5 300 105 69.2 3.7 Malaysia 7.6 9,120 4,509 1.4 125.2 11.7 56.1 54 25.5 210 190 72.8 3.8 Philipine 5.6 4,170 975 5.6 38.3 2.7 12.6 66.3 86.2 182 42 69.7 3.3 Brunei 1.1 12,468 4 2.6 0.5 20 0.35 628 255 76.6 3.1 Việt Nam 7.3 2,300 533 7.8 25.2 -1.6 6.6 16.6 82.6 197 48 69.7 5.1 Mianma -1.5 1,920 179 17.2 2.12 -0.41 0.58 6.7 50.2 76 7 57.1 2.1 Lào 6 1,720 379 11.6 0.43 -0.07 0.2 5.8 52 11 54.5 3.1 Campuchia 4.8 2,060 317 4 2.2 -0.16 0.8 14.5 176 3 54 1.1 Nguồn : The Economic Intelligence Unit Limited 2005 - Word Development Indicators 2004 ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 18 Với số liệu của bảng 2.1 đã khắc họa nên những điểm khác nhau về diện tích, dân số, chỉ tiêu kinh tế của khu vực. Nổi bật vẫn là Nhật bản, một nước tư bản phát triển trong khu vực. Tuy nhiên, về tốc độ tăng trưởng thì Nhật đang chựng lại, trong khi đó Trung Quốc, Indonexia đang là những nước có tiềm năng lớn về khả năng phát triển trong khu vực. Trong đó những nước như Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản vẫn giữ một tốc độ tăng trưởng khá ổn định. ¾ Tóm lại : Nhìn chung, các nước này đang trên đà phát triển, nhưng sự phát triển là không đồng đều. Có những nước rất giàu, nhưng cũng có những nước rất nghèo. Điều này sẽ khiến cho việc thiết lập một đồng tiền chung là vô cùng khó khăn. Vì các nước tham gia trong một khối phải có những nền tảng về kinh tế và ổn định chính trị gần tương thích nhau. Nhưng nổi bật lên là ba nước đầu đàn : Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đây là những nước có sự phát triển đáng nể. Trong đó, Nhật Bản đã là một trong những cường quốc đáng gờm, không chỉ trong khu vực mà trên bề mặt của Thế giới. Với những tiềm năng của mình, đã hình thành và tích lũy trong một thời gian khá dài, thì Nhật bản đủ bản lĩnh để đứng ngang hàng với các cường quốc khác như Mỹ. Hàn Quốc cũng là một trong những cường quốc với bề dày lịch sử phát triển trên lĩnh vực kinh tế. Những tập đoàn lớn của Hàn Quốc đã có mặt trên các thị trường. Đã có những nhãn hiệu hàng hóa trở nên phổ biến ngay tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp. Và cũng đã có những ông chủ lớn là người Hàn Quốc tồn tại và điều hành ở các công ty lớn của các nước phát triển. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 19 Trung Quốc tuy đi sau, nhưng sự lĩnh hội cũng như nhanh nhạy nắm bắt đã giúp cho Trung Quốc phát triển với tốc độ siêu phàm. GDP hàng năm của quốc gia này tăng chóng mặt, đến nỗi chính phủ Trung Quốc phải dùng nhiều biện pháp để làm giảm độ nóng này. Đây cũng là một trong những nước “cứng đầu” về vấn đề tỷ giá, khiến cho Mỹ đã bao phen phải đàm phán qua lại nhằm can thiệp vào tảng đá khá cứng này. Ngay cả khả năng cạnh tranh và phân phối hàng hóa của Trung Quốc cũng là một trong những đề tài khiến cho các nước nhập khẩu hàng Trung Quốc cũng phải đau đầu để đưa ra những chính sách bảo hộ ngành trong nước cũng như phải tiến hành việc kiện tụng nhằm “giữ chân” các doanh nghiệp Trung Quốc. Khu vực Châu Á cũng là khu vực hiện đang có lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn, đã khiến cho Mỹ phải nhiều lần điều chỉnh lãi suất để giảm bớt lượng dự trữ đô la Mỹ ở khu vực này. Những nhận định về tương lai Châu Á : 9 Châu Á sẽ chiếm một nửa nền kinh tế Thế giới trong một tương lai gần Trong chuyến đi tới Thượng Hải, Ông George Yeo – Bộ trưởng Bộ ơng mại và công nghiệp Singapore - cho rằng Châu Á sẽ sớm chiếm lĩnh một nửa nền kinh tế thế giới từ mức 1/3 như hiện nay nhờ sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ. Thư Sự chuyển đổi - dự kiến trong vài thập kỷ - sẽ khởi đầu một sự thay đổi đáng kể trong cán cân kinh tế thế giới đang làm giảm tầm quan trọng của nền kinh tế Mỹ. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 20 Theo ông Yeo, Đông Á, Ấn Độ và Đông Nam Á chiếm khoảng nửa dân số thế giới và có thể sẽ chiếm nửa nền kinh tế toàn cầu trong vài thập kỷ nữa. Trung Quốc có thể đạt được vị trí là nền kinh tế lớn nhất thế giới vị trí mà nước này đã từng có trong lịch sử loài người. Nền kinh tế Trung quốc tăng trưởng 9,8% trong quý 1 năm nay và các quan chức đang cố gắng để làm giảm nhiệt cho nền kinh tế. Trong khi đó ngân hàng Trung ương Ấn Độ dự báo nền kinh tế nước này sẽ tăng trưởng khoảng 6,5-7% trong năm tài khoá kết thúc vào tháng 3/2005. Ấn Độ có thể đạt được tốc độ này sau khi năm tài khoá trước đã đạt được 8,1%. Toàn Châu Á tình hình hiện tại rất khả quan. Ấn Độ đã trở thành một câu chuyện tăng trưởng đầy hứa hẹn. Trong 6 tháng cuối năm nay, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ sẽ ganh đua với Trung Quốc. Tuy nhiên, bức tranh khu vực có thể bị bao phủ nếu căng thẳng chính trị giữa eo biển Đài Loan hay tình hình Bắc Triều Tiên, nhưng tình hình này có thể được giải quyết. Mặc dù Mỹ vẫn chiếm ưu thế về mặt quân sự nhưng càng ngày chúng ta càng nhận thấy một thế giới đa cực với EU, Nga, Trung quốc, Ấn Độ, Brazil, Nam Phi đang trở thành quyền lực của khu vực và thế giới. 9 Kinh tế ASEAN đang bùng nổ Ông Ernest Broower – Chủ tịch Hiệp hội kinh doanh Mỹ - ASEAN đã đưa ra nhận định trên khi cùng 5 vị đại sứ Mỹ tại các nước ASEAN kêu gọi đầu tư vào Đông Nam Á. Tham dự sự kiện này có các đại sứ Mỹ tại Indonesia, Lào, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 21 Các vị đại sứ này nhận thấy sức hấp dẫn đầu tư vào ASEAN đang tăng lên rất nhanh. Có nhiều yếu tố thúc đẩy điều này, đặc biệt là sự hồi phục của kinh tế Mỹ, Trung Quốc, và Nhật Bản - mà kéo theo đó là nhu cầu tăng cao. Ông Bower cho rằng, không phải là không có những hạn chế trong môi trường đầu tư ASEAN. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Mỹ đã và đang hợp tác chặt với các đối tác sở tại để giải quyết khó khăn. “Chẳng lâu nữa ASEAN sẽ là một thị trường khổng lồ. Bất cứ khoản đầu tư nào vào đây đều đem lại lợi nhuận tiềm tàng”. 2.2.Những xu thế và nhu cầu về một đồng tiền chung Châu Á Những khó khăn và cả nhu cầu phát triển mới đang hối thúc việc nhất thể hóa tiền tệ giữa các nền kinh tế trong khu vực Đông Á. Và với những bước đi mới đây của giới chức tài chính khu vực cùng sự hưởng ứng mạnh mẽ từ Ngân hàng Phát triển Châu Á có thể khiến việc hiện thực hóa mong ước này sớm trở thành hiện thực. Theo lời Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thì sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997 - 1998, người ta nhận thấy tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày một mạnh mẽ và việc hợp tác kinh tế, đầu tư không thể hoàn thiện nếu không có những bước đi tiến tới việc thống nhất tiền tệ như những gì EU đã làm. Thật ra thì ý tưởng về một đồng tiền chung đã có từ rất lâu. Tuy nhiên sau đó chưa có một nỗ lực cụ thể nào để thực hiện ý tưởng này. Từ sau khủng hoảng tài chính năm 1997, vấn đề đồng tiền chung Châu Á trở nên cấp thiết khi giao lưu thương mại giữa các nước tăng vọt qua các năm ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 22 Một đồng tiền chung rõ ràng sẽ đóng góp một vai trò rất lớn vào việc thúc đẩy kinh tế Châu Á phát triển và củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế Châu Á. Mà điều này phù hợp với trào lưu toàn cầu hóa. Hơn thế nữa, người ta còn nhận thấy sự bất hợp lý và phiền toái khi kéo dài việc cát cứ tiền tệ trong khi lại ra sức thúc đẩy khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế quốc tế. Nhìn lại thời điểm năm 1945, khi Thế chiến I mới kết thúc, toàn thế giới chỉ có 74 nước, nhưng nay con số này đã lên tới 200. Và việc chia nhỏ này với số lượng đóng góp đông đảo từ các quốc gia mới độc lập từ Châu Á đã làm gia tăng đáng kể chi phí giao dịch, phí đổi tiền, đẩy cao tỷ giá thả nổi, ảnh hưởng tiêu cực tới các hoạt động đầu tư, kinh doanh xuyên biên giới. Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, người ta ít hoài nghi hơn về tính thiết yếu, cùng thời điểm để tiến tới một đồng tiền chung Đông Á (cho các nền kinh tế ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc). Bởi một đồng tiền thống nhất với những ràng buộc từ 13 nền kinh tế này sẽ hạn chế những cú "sốc" tiền như đã diễn ra ở Thái Lan, Indonesia và Philippines trước đó, nhất là khi các nền kinh tế này đang mở cửa mạnh mẽ, hội nhập quốc tế. Hơn thế nữa, một đồng tiền chung sẽ có tác dụng thúc đẩy cải cách tài chính giữa các nền kinh tế khu vực, sớm bắt kịp các tiêu chí cũng như hạn chế tính thụ động khi các đồng ngoại tệ mạnh biến động. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 23 Chương III : LỘ TRÌNH VÀ GIẢI PHÁP CHO ACU – ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU Á 3.1. Những hạn chế : Ở Châu Á những bước tiền đề cho quá trình hợp tác này còn quá mong manh. Mong muốn có được một đồng tiền chung như đồng EUR của Liên minh Châu Âu (EU) thật sự là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự đầu tư nghiêm túc của tất cả các nước trong khu vực. Thế nhưng tới tận thời điểm này Châu Á mà trực tiếp là các nền kinh tế Đông Á vẫn chưa hoàn thiện được khu vực mậu dịch tự do - FTA. Bên cạnh đó, việc chênh lệch đẳng cấp phát triển cũng là những thách thức mà ngay cả EU hiện nay cũng phải điên đầu. Theo những chỉ số mà chính ADB đưa ra thì mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất ở Châu Á hiện gấp rất nhiều lần mức thấp nhất. Trong khi đó ở EU, những cấp độ không qua chênh lệch cũng đã làm nảy sinh những vấn đề rất nan giải. Tinh thần thống nhất của khối bị xói mòn bởi mâu thuẫn về giành giật việc làm, đầu tư. Đó là còn chưa kể tới những thách thức từ vấn đề tài khóa khi nhất thể hóa đồng tiền. Ở Châu Âu, không hiếm nước thành viên khu vực đồng tiền chung, kể cả những thành viên chủ chốt đã phá rào khi để lạm phát vượt quá ngưỡng 3% cho phép. Kịch bản này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi, thậm chí còn diễn biến phức tạp nếu đồng tiền chung Châu Á xuất hiện trong thời gian gần tới ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 24 3.2. Ý tưởng thành lập: Trên thế giới hiện có khoảng 200 quốc gia độc lập, với rất nhiều các nước nhỏ. Chi phí để mỗi nước duy trì một đồng tiền riêng và chính sách tỷ giá thả nổi là rất cao và vì vậy việc thành lập các liên minh tiền tệ rất được khuyến khích. Tốc độ toàn cầu hoá nhanh (bao gồm thương mại hàng hoá, dịch vụ và các giao dịch tài chính được mở rộng) cũng cần hình thành một liên minh tiền tệ. Toàn cầu hoá nhanh cũng có nghĩa là sự đồng bộ hoá các chu kỳ kinh doanh giữa các nước sẽ lớn hơn, thế giới sẽ ngày càng hội nhập hơn, khối lượng giao dịch liên quan đến công dân của các nước khác nhau tăng lên. Các giao dịch quốc tế lớn sẽ thu hút một đồng tiền chung liên quan đến số đông các đồng tiền khác cũng sẽ tăng lên. Thực tế cho thấy, Liên minh châu Âu (EU) đã thu hút được nhiều lợi ích to lớn kể từ khi quyết định thành lập một đồng tiền chung. Nhưng liệu việc thành lập một liên minh tiền tệ ở châu Á có thể trở thành hiện thực? Những yếu tố liên quan đến việc thành lập đồng tiền chung châu Á là gì? Ý tưởng Đơn vị tiền tệ châu Á (ACU) do ADB khởi xướng được hình thành dựa trên một rổ đồng tiền hoặc dựa vào tỷ trọng tiền tệ được sử dụng ở 10 nước ASEAN cộng với Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Đơn vị tiền tệ châu Á không phải là tiền giấy hoặc tiền xu được sử dụng trong lưu thông. ACU chỉ là bước khởi đầu hướng tới sự hội nhập các đồng tiền ASEAN thành một đồng tiền chính thức và trước mắt ACU chỉ là một công cụ hữu ích cho các cơ quan quản lý tiền tệ trong việc hoạch định chính sách hối đoái. Từ tháng 01/1992, thành viên thuộc khối nước ASEAN đã thống nhất thành lập một khu Mậu dịch tự do ASEAN với hàng rào thuế quan thấp (từ 0- ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 25 5%), tiến tới miễn thuế hoàn toàn thông qua mức thuế quan ưu đãi (CFPT). Việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do ở ASEAN chính là cơ sở để hình thành một liên minh tiền tệ giữa các nước. Thách đố lớn nhất để thành lập một liên minh tiền tệ chính là việc mất đi quyền tự chủ trong điều hành chính sách tiền tệ của mỗi nước. Các nước tham gia liên minh tiền tệ sẽ không còn lưu hành đồng tiền riêng của nước mình nữa. Tuy nhiên, chi phí của việc mất đi tính độc lập về tiền tệ phụ thuộc vào từng nền kinh tế đang điều hành chính sách tiền tệ trước khi gia nhập liên minh tiền tệ. Nhiều nước đang phát triển cho phép mở các tài khoản vốn có hạn chế trong điều hành hiệu quả chính sách tiền tệ độc lập, đặc biệt các nước đang phát triển có thị trường vốn chưa phát triển và các tổ chức ngân hàng yếu kém. Khuynh hướng thành lập liên minh tiền tệ cũng nhằm mục đích thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nước. Tạo thuận lợi trong các giao dịch về thương mại và dịch vụ; giảm chi phí trong các giao dịch qua biên giới. Các nền kinh tế có quan hệ thương mại lớn với nhau sẽ thu được nhiều lợi ích khi tham gia vào liên minh tiền tệ do chi phí giao dịch giảm và hạn chế được những biến động của tỷ giá. Ngoài ra, các cú sốc kinh tế sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đối với từng nước trong liên minh và mỗi thành viên trong liên minh sẽ không có khả năng thực hiện các chính sách riêng lẻ để đối phó với các cú sốc về kinh tế. Việc phát hành đồng tiền chung sẽ giúp xác định nguyên nhân gây ra các đợt biến động trên thị trường tiền tệ châu Á, giúp định giá chính xác mức độ biến động của đồng tiền này so với đồng EURO và USD và tăng khả năng đối phó với các cú sốc kinh tế. Khi các nước ASEAN sử dụng một đồng tiền chung thì sẽ có cùng một chính sách tiền tệ, chế độ tỷ giá thả nổi sẽ được thay thế ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 26 bằng chế độ tỷ giá cố định. Chế độ thả nổi tỷ giá có xu hướng biến động hơn là đảm bảo các chỉ số kinh tế vĩ mô. Điều này đặc biệt đúng với các nước đang phát triển. Một số nước đang phát triển có lượng lớn tài sản nợ ngoại tệ không được phòng ngừa rủi ro thưởng rất e ngại chế độ tỷ giá thả nổi. Việc sử dụng một đồng tiền chung có thể giảm nhẹ một số ảnh hưởng ngược chiều của chế độ tỷ giá thả nổi. Các nước có quy mô thương mại lớn rất thích hợp để tham gia vào liên minh tiền tệ bởi vì tỷ giá chung được sử dụng là để duy trì cân bằng đối ngoại. Liên minh tiền tệ sẽ tạo ra sự linh hoạt hơn trong vấn đề giá cả, tiền lương và các yếu tố sản xuất (lao động và vốn) giữa các nước. Trong hoạt động kinh tế sẽ xuất hiện những cú sốc đối xứng giữa các nước và mức độ mở cửa nền kinh tế giữa các nước trong liên minh sẽ lớn hơn, do vậy một khối lượng lớn giao dịch thương mại sẽ được thực hiện. Nếu một nền kinh tế phải đương đầu với cú sốc về cầu xuất khẩu, nền kinh tế phải chuyển sản xuất từ khu vực phi mậu dịch sang khu vực mậu dịch để duy trì cân bằng đối ngoại. Nếu giá trong nước của hàng hoá phi mậu dịch được cố định, việc điều chỉnh sẽ được thực hiện bằng việc giảm giá tiền tệ. Tuy nhiên, việc giảm giá tiền tệ cũng tạo áp lực lớn lên toàn bộ mức giá của nền kinh tế mà sẽ được bù đắp bằng một số lợi ích do việc giảm giá tiền tệ. Các nước có quy mô thương mại lớn sẽ chịu áp lực lớn hơn do vậy sẽ giảm bớt được việc phá giá. Trong những năm đầu thành lập, ASEAN dường như chỉ tập trung vào việc thiết lập an ninh và ổn định trong khu vực. Hiện nay mục tiêu ổn định và hoà bình gần như đã đạt được trong khu vực, ASEAN tiếp tục giữ vững an ninh trong khu vực và hướng tới mục tiêu hợp tác về kinh tế và bước quan trọng là đã thành lập được khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Mục tiêu của AFTA là hạ thấp thuế quan đối với hoạt động thương mại trong khu vực ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 27 ASEAN và theo lộ trình mức thuế tối đa được xuống 5% vào năm 2008. Malaysia, Inđônêsia, Philipine, Singapore và Thái Lan là 5 quốc gia có nền kinh tế tương đối phát triển, tuy nhiên về qui mô dân số cũng có sự khác biệt. Khi tham gia liên minh tiền tệ, các nước có thể gặp một số khó khăn như: -Các nước có mức độ phát triển kinh tế khác nhau; -Sự yếu kém của các khu vực tài chính ở một số nước; -Sự không tương xứng về cơ chế chính sách để hình thành và quản lý liên minh tiền tệ; -Thiếu các điều kiện chính trị để hợp tác về tiền tệ và xây dựng đồng tiền chung. -Sự đa dạng về văn hoá, lịch sử, tôn giáo, ngôn ngữ và mức độ phát triển cũng có thể tạo nên cản trở hội nhập giữa các nước. Có thể nói sự khác nhau về kinh tế là rất lớn. Ví dụ Singapore được coi là nước giàu nhất trong nhóm, bình quân thu nhập đầu người gấp khoảng 40 lần Inđônêsia. Trình độ phát triển kinh tế ở các nước châu Á có mức chênh lệch lớn xem xét trên các khía cạnh về GNP, GDP, kim ngạch thương mại và khả năng chu chuyển vốn... Do vậy, việc hình thành một đồng tiền chung sẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề đặt mệnh giá cho đồng ACU vẫn đang trong quá trình xem xét. Ý tưởng thành lập ACU đã có từ lâu. Tuy nhiên, chưa có một nỗ lực cụ thể nào để thực hiện ý tưởng này. 10 năm trước ACU được xem như chỉ tồn tại trên lý thuyết. Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, vấn đề ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 28 đồng chiền chung châu Á được nhấn mạnh. Thời gian gần đây, nhu cầu có một đồng tiền chung châu Á trở nên cấp thiết khi giao lưu thương mại giữa các nước tăng. ACU sẽ được lập ra theo hình mẫu của đơn vị tiền tệ châu Âu (ECU). Châu Á sẽ được lợi nhờ tham khảo kinh nghiệm quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu (thành lập đồng EURO kéo dài hơn 30 năm). Theo đánh giá của các chuyên gia phân tích kinh tế, việc ra đời của đồng ACU sẽ nhanh hơn đồng Euro. Theo thoả thuận, cuối năm 2006, 3 nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ thành lập một nhóm chuyên gia bao gồm các quan chức chính phủ, các chuyên gia viện nghiên cứu để đưa ra một khuôn khổ chung cho đồng ACU. Đồng tiền chung ra đời sẽ đóng góp một phần rất lớn vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế ở châu Á và củng cố quá trình liên kết châu Á, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường trái phiếu và củng cố thị trường vốn góp phần giảm bớt các cú sốc tài chính từ bên ngoài 3.3. Lộ trình: Nhìn nhận những khó khăn : ¾ -Đối đầu với thiên tai dịch họa cũng là điều mà các nước ở Châu Á hay gặp phải do vị trí địa lý -Giống nhau ở vài nét, nhưng nhìn chung những nước này có những khác biệt khá lớn về phong tục tập quán, truyền thống văn hóa… nên sự hội nhập là khó khăn hơn so với một số khu vực khác trên thế giới. -Bản tính kín đáo, giữ ý cũng gây ra những phiền toái khi đàm phán với các nước phương Tây -Sự bất đồng về ngôn ngữ là điều cản trở lớn nhất cho quá trình hội nhập. Do mỗi nước có một ngôn ngữ khác nhau, không có nhóm ngôn ngữ nhất ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 29 định. Vì vậy mọi giao dịch thường phải thông qua tiếng Anh, mà có những nước vẫn chưa đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai của mình. -Trừ Nhật Bản và bốn nước công nghiệp mới NICs, đa số các nước còn lại vẫn là những nước đang phát triển, còn nghèo nàn với mức sống thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, chưa hiện đại. Trình độ người lao động cũng chưa cao, chỉ chuyên nhiều về lao động phổ thông… -Một số nước tiền thân là những nước Xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào mới bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tề thị trường nên chưa có nhiều kinh nghiệm cũng như đang chập chững trong các lĩnh vực như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, cổ phần hóa các xí nghiệp quốc doanh… ¾ Những tiềm năng : Với dân số đông, nền kinh tế thì đang tăng trưởng khá, Châu Á đang trở thành một thị trường rộng lớn và rất hấp dẫn để tiêu thụ nhiều loại sản phẩm. Thị trường đa dạng, phong phú… nhu cầu đã bão hòa ở các nước phát triển và chuyển sang các nước đang phát triển. Một số dự báo cho tương lai : -Châu Á sẽ là thị trường xe hơi lớn nhất thế giới Do thị trường xe hơi đang giảm sút ở các nước phát triển, trong khi Châu Á đang rất đông dân. Đồng thời mức tăng trưởng kinh tế đang tăng, thu nhập người dân đã khá dần. Cơ sở hạ tầng ở các nước Châu Á đang ngày càng được nâng cấp, nhất là hệ thống giao thông đường bộ. -Châu Á sẽ là nơi tiêu thụ cao su nhiều nhất thế giới ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 30 Do công nghiệp sản xuất xe hơi ở khu vự này phát triển nhanh, kéo theo ngành sản xuất lốp xe sẽ phát triển. Do đó, nhu cầu về mủ cao su tăng là hiển nhiên. Từ năm 1992 đã tăng 16% trong vòng 5 năm. -Nhu cầu về điện tăng nhanh : Theo các nhà kinh tế thì nếu duy trì mức độ tăng trưởng là 5% mỗi năm thì nhu cầu về điện sẽ tăng 7-8%. Như vậy, đến đầu năm 2000, công suất điện lực của châu Á sẽ bằng của Mỹ. Điều này cũng có nghĩa là Châu Á phải chuẩn bị nhiều cho việc cung cấp điện này. -Nhu cầu vận chuyển bằng đường hàng không tăng : Theo dự báo, thì số lượng hành khách đi máy bay của Châu Á sẽ tăng gấp đôi vào năm 2010. Trong đó, Malaysia sẽ xây dựng một sân bay trọng tâm trong vùng, đầu tư hàng tỷ USD ở Kualalumpur, mỗi năm sẽ vận chuyển 100 triệu hành khách. Bên cạnh đó, với mức sống tăng nhanh thì sẽ dẫn đến nhu cầu đi du lịch cũng sẽ tăng cao ở Châu Á, đặc biệt là tầng lớp trung lưu. -Châu Á sẽ là thị trường dầu quan trọng Nhu cầu dầu của các nước trong khu vực đã tăng từ 14,2 triệu thùng/ ngày năm 1992 lên đến 16,4 triệu thùng/ tháng năm 1995 và 19,7 triệu thùng/ tháng năm 2000. Mặc dù đang có những nước xuất khẩu dầu như Trung Quốc, Indonexia, Malaysia nhưng trong tương lai thì lại phải nhập dầu từ Trung Đông. -Nhu cầu về vàng cũng tăng nhanh Chỉ riêng mỗi quí, nhu cầu về vàng của Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã là 85-90 tấn. Riêng khu vực Trung Quốc mở rộng, bao gồm Trung Quốc, Hongkong, Đài Loan thì đã tiêu thụ từ 103 đến 105 tấng/ quí. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 31 Ngoài những tiềm năng phát triển ở trên thì Châu Á còn là thị trường hấp dẫn về các sản phẩm đã danhư điện toán, thẻ tín dụng… -Châu Á sẽ là thị trường cung cấp sức lao động lớn nhất thế giới. Với dân số trên 2 tỷ người chiếm 30% dân số thế giới, Châu Á là nơi cung cấp sức lao động vô tận cho nền kinh tế Thế Giới. Do đời sống kinh tế ngày càng cao, đời sống người lao động càng được cải thiện cùng với trình độ dân trí được nâng cao, sự tác động của khoa học kỹ thuật mà nguồn lao động này ngày càng có trình độ cao. Với truyền thống hiếu học, chịu khó tìm tòi và có óc sáng tạo, người lao động ở các nước này dễ dàng thích ứng nhanh với những tiến bộ trên thế giới. Trong khi đó, ở các nước phát triển, đội ngũ lao động đang ngày càng già đi, tỷ lệ sinh đẻ thấp thì Châu Á sẽ là thị trường cung cấp nguồn lao động rẻ, với trình độ chuyên môn đang được nâng cao. -Châu Á là thị trường hấp dẫn thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, đặc biệt là với Mỹ, Tây Âu. Với nguồn lao động rẻ, dồi dào, trình độ ngày càng cao; lại với nguồn tài nguyên sẵn có, Châu Á đã và đang trở thành khu vực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Đồng thời với những thuận lợi sau đây mà các nhà đầu tư nước ngoài đang ngày một hướng đến khu vực Châu Á : +Đây là khu vực khá ổn định so với các khu vực khác trên thế giới, đặc biệt là về mặt chính trị. Mặc dù phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính 1997, các nước này vẫn giữ được một mức ổn định nhất định cần thiết. Theo đánh giá của các nhà đầu tư, thì trong những năm kế tiếp, thì nhu cầu đầu tư vào các nước ở Châu Á sẽ tiếp tục tăng ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 32 +Mỹ và Tây Âu là những đối tác có nhiều kinh nghiệm về đầu tư ở những nước này. Họ rất hiểu biết những lề lối và cung cách làm ăn của các nước chủ nhà, từ đó họ sẽ yên tâm hơn. Tính tích tụ trong đầu tư tăng đã làm giảm những rủi ro. +Là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới trong những năm qua, Châu Á đang được nhiều nước quan tâm. Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư có thể dự đoán được tương lai tránh những rủi ro. +Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, khu vực Châu Á đang mọc lên nhiều trung tâm công nghiệp và trung tâm thương mại. Nhiều thành phố có GDP bình quân đầu người cao từ 1000USD trở lên như Thượng Hải, Mãn Châu, Hồ Chí Minh … sẽ là những địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư. 3.3.1. Chuẩn bị tất yếu: -Giải quyết các chênh lệch (không hoàn toàn) về trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực là điều hiển nhiên mà Ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB – một tổ chức đang tồn tại phải tiên phong xúc tiến với các ngài bộ trưởng tài chính của các nước cùng bàn bạc và đưa ra giải pháp. Việc chiênh lệch về kinh tế sẽ là một đề tài nan giải mà không thể một sớm một chiều có thể giải quyết đựơc. Có ba chiến lược phát triển kinh tế mà các nước đang phát triển thường lựa chọn : +Chiến lược phát triển kinh tế - chính trị +Chiến lược tăng trưởng nhanh +Chiến lược hỗn hợp ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 33 Mỗi chiến lược đều có những ưu và nhược điểm, nhưng đa phần đều chọn chiến lược tăng trưởng nhanh. Chiến lược này sẽ giúp tạo ra một tăng trưởng khá cao vì biết tập trung vào các yếu tố đầu vào, vào những ngành có lợi thế so sánh lớn nhất. Tuy vậy chiến lược này sẽ gặp phải những khó khăn cần phải chấp nhận là : +Sự lệ thuộc vào tư bản nước ngoài +Các vấn đề về xã hội có những lệch lạc +Hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng tăng +Ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng… Đó là cái giá phải trả cho sự phát triển này. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là một số nước Châu Á đã gặt hái được trong ba thập kỷ qua mà nổi bật là tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao và các nước này đang trở thành khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Bảng 3.1 : Mức tăng trưởng kinh tế của 10 nước cao nhất năm 1997 : Tên nước Mức độ tăng trưởng GDP (%) Xếp hạng Singapore 10,1 1 Việt Nam 9,5 2 Malaysia 8,4 3 Mehico 8,1 4 Trung Quốc 8,0 5 Indonesia 7,8 6 Đài Loan 6,9 7 Lào 6,9 8 Ấn Độ 6,8 9 Thổ Nhĩ Kỳ 6,7 10 Nguồn : Công nghiệp – thương mại, 25.03.1998 ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 34 Bảng 3.2: Dự báo mức tăng trưởng GDP STT Tên nước và lãnh thổ GDP/đầu người đến năm 2010 (USD) GDP/đầu người năm 1998 (USD) Tốc độ tăng trưởng trung bình năm giai đoạn 2000-2010 (%) 1 Nhật Bản 33,985 22,720 1.0 2 Trung Quốc 9,740 3,860 6.5 3 Hàn Quốc 28,090 12,995 5.0 4 Đài Loan 39,980 17,495 5.5 5 Hồng Kông 37,095 23,105 3.3 6 Singapore 58,035 28,565 5.4 7 Thái Lan 42,405 6,285 4.4 8 Malaysia 21,640 10,680 5.8 9 Indonexia 6,370 3,275 4.8 10 Philipine 6,030 3,475 4.4 11 Brunei 24,035 19,985 2.1 12 Việt Nam 4,340 1,755 7.4 13 Mianma 1,765 825 6.1 14 Lào 2,775 1,325 6.4 15 Campuchia 2,360 1,550 4.9 Nguồn : Tạp chí Asia Week các năm 1998, 1999, 2000 Theo bảng số 3.1 cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP của các nước thuộc khu vực Châu Á trong năm 1997 có những vị thế khá cao. Điều này cho thấy tín hiệu của sự vươn mình mạnh mẽ của các nước Châu Á. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 35 Với bảng số 3.2, dự báo về tốc độ tăng trưởng của các nước cho thấy mức độ tăng trưởng khá đồng đều về mặt tương đối của các nước khu vực Châu Á. Nhưng thật sự thì GDP/đầu người của các nước trong khu vực này thì không tương đương chút nào. Trong khi Thái Lan có GDP/đầu người cao nhất là 42.405 USD thì vẫn còn ba nước là Mianma, Lào và Campuchia vẫn có mức GDP/đầu người rất thấp. Chính khoảng cách này cũng gây đau đầu cho các nhà kinh tế Châu Âu thì việc đối mặt của Châu Á là điều hiển nhiên. Giải pháp cho Châu Á cũng sẽ giống Châu Âu, đó là lựa chọn những nước nào , ở giai đoạn nào sẽ được đưa vào rổ. Và dần dần, với sự bình ổn ban đầu, các nước sau sẽ được kết nạp vào. -Bình ổn về mặt chính trị - là điều kiện đi kèm rất quan trọng, sau việc giảm thiểu các chênh lệch về kinh tế. Tuy phần đông các nước trong khu vực khá ổn định và an toàn về mặt chính trị thì vẫn có những nước rất bất ổn về chính trị với các cuộc tranh chấp, đảo chính. Với việc bình ổn về chính trị, sẽ giúp cho các nước này có nhiều cơ hội đón nhận các nguồn đầu tư để phát triển đất nước mình. Hiện tại, với sự bất ổn về chính trị ở các quốc gia đa đảng đang khiến cho quốc gia đó phải mất nhiều công sức để giải quyết thay vì hoạch định những chiến lược phát triển kinh tế cho đất nước. 3.3.2. Thiết lập lộ trình Học hỏi và điều chỉnh có chọn lọc theo lộ trình hình thành đồng tiền chung Châu Âu là điều Châu Á nên làm. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 36 3.3.2.1./Thiết lập một tổ chức gồm các chuyên gia hàng đầu của các nước nhằm cùng nghiên cứu và thúc đẩy quá trình hình thành là điều kiện tiên quyết. Đơn giản vì đoàn tàu không thể chạy được nếu không có đầu tàu. Tổ chức này sẽ quy tụ những chuyên gia của tất cả các nước. Công việc của họ là sẽ cố gắng thực thi vai trò như một tổ chức sơ khai trong việc nối kết các nước trong khu vực lại với nhau để từng bước hình thành những mốc thời gian chủ yếu và cần thiết cho một đồng tiền chung Châu Á trong tương lai. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc mới đây đã thỏa thuận cùng nghiên cứu ở cấp chính phủ, nhằm đẩy nhanh quá trình ra đời đồng tiền chung của Châu Á. Vào ngày 5/5/2006, Bộ trưởng Tài chính Hàn Quốc Han Duck Soo và hai người đồng nhiệm Jin Renqing – Trung Quốc và Sadakazu Tanigaki – Nhật Bản đã bàn thảo về vấn đề này bên thềm hội nghị hàng năm của ADB lần thứ 39 họp tại Hyderabad, Ấn Độ. Thỏa thuận rằng tới cuối năm 2006, ba nước sẽ thành lập một nhóm chuyên gia bao gồm các quan chức chính phủ, chuyên gia các viện nghiên cứu để đưa ra khuôn khổ chung cho ACU. Diễn đàn Bộ trưởng Tài chính ASEAN và ba nước đối tác Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ trở thành một diễn đàn tương tự như Nhóm các nước công nghiệp phát triển, để điều phối các chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái tại 13 nước trong khu vực. Quỹ Tiền tệ Châu Á – Cần thành lập : Thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi mới đây đã kêu gọi các nước trong khu vực thành lập một quỹ tiền tệ cho châu Á, độc lập với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Song đến nay, chưa có kế hoạch cụ thể nào về việc thành lập Quỹ được tiết lộ. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 37 Dù vậy, ý kiến này đang được dư luận tán đồng, có nhiều nước tỏ ý ủng hộ trong đó có cả Trung Quốc, đối tác quan trọng trong khu vực. Tại hội nghị Đông Á tổ chức ở Kuala Lumpur, ông Abdullah phát biểu về khả năng thành lập một quỹ tiền tệ cho châu Á, cho rằng nếu được sự đồng tình của các nước trong khu vực, cơ chế tài chính mới này ra đời sẽ hỗ trợ các quốc gia đẩy mạnh hơn nữa công cuộc phát triển kinh tế. Ý tưởng này, thực ra, không phải bây giờ mới xuất hiện. Nó đã được đưa ra lần đầu vào thời gian xảy ra khủng hoảng tài chính châu Á. Năm 1998, Nhật đã thành lập một quỹ 30 tỷ USD để hỗ trợ các quốc gia châu Á thoát khỏi khủng hoảng. Trước đó, năm 1997, lúc mới bắt đầu khủng hoảng, Nhật cũng đã có một quỹ tương tự nhưng vấp phải sự phản đối bởi Mỹ và EU. Lý do là quỹ này động chạm đến chức năng của IMF. Có vẻ như đã rút kinh nghiệm, lần này, vị thủ tướng Malaysia khẳng định Quỹ Tiền tệ châu Á, một khi được thành lập sẽ không ảnh hưởng tới hoạt động của IMF mà sẽ hành xử rất độc lập. Việc thành lập quỹ tiền tệ Châu Á cũng sẽ giống như việc thành lập “con rắn tiền tệ Châu Âu” nhằm mục đích giới hạn sự dao động của các đồng tiền Châu Á ở một mức dao động nào đó mà có thể an toàn với mức dao động quốc tế. Nhiệm vụ hàng đầu của quỹ tiền tệ Châu Á sẽ là bình ổn giá cả. Mức bình ổn lạm phát sẽ là dưới mức trung bình của khu vực. Lạm phát thấp hơn cũng sẽ gây sức ép làm giảm lãi suất. Mà khi lãi suất giảm, thì chi phí cho việc vay mượn trên thị trường chứng khóan Châu Á sẽ giảm, và kết quả là sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường này. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 38 3.3.2.2./Vai trò của nước đầu đàn Một cuộc điều tra cho hay 37% các nhà kinh doanh của Trung Quốc được hỏi tin rằng đồng nhân dân tệ (NDT) sẽ trở thành "đồng tiền chủ chốt" vào năm 2020. Đồng yen vẫn sẽ là đồng tiền quốc tế nhưng sẽ không còn giữ vai trò chủ chốt vì Nhật Bản rất có thể không còn giữ vị trí hàng đầu về quy mô kinh tế và thị trường trong những năm tới. Trong khi đó, Trung Quốc có thể phát huy lợi thế đang có của mình bằng việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao kết hợp với ngoại giao năng động. Đồng NDT hiện đang được sử dụng rộng rãi ở các nước láng giềng của Trung Quốc. Khi mở rộng khu vực thương mại tự do của mình thông qua hội nhập kinh tế với 10 nước ASEAN, Trung Quốc khuyến khích sử dụng đồng NDT rộng rãi hơn nữa trong khu vực. Với việc hợp tác với các nước châu Á khác để thành lập hệ thống tiền tệ châu Á, Trung Quốc có thể tạo ra một môi trường thuận lợi hơn để đồng NDT trở thành một đồng tiền chủ chốt. Đồng NDT, hiện đang được gắn chặt với đồng USD, nên được gắn với một rổ tiền tệ bao gồm đồng USD và nhiều đồng tiền khác. Chính sách vĩ mô thận trọng sẽ mang lại niềm tin đối với đồng NDT. Khi đó, đồng NDT sẽ trở thành một đồng tiền chủ chốt như đồng USD và euro. Năm nay thượng đỉnh ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ thảo luận về vấn đề Cộng đồng Đông Á với ý tưởng là thể chế hóa tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay và tăng cường an ninh, phát triển kinh tế. Bản chất của phát triển kinh tế khu vực là một hệ thống tiền tệ châu Á nhằm kiềm chế sự biến động của thị trường hối đoái. Một đồng tiền chung châu Á sẽ ngăn chặn sự biến động của tỷ giá hối đoái; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư. Hiện nay, các đồng tiền châu Á đang được gắn chặt với cả đồng ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 39 Khoảng năm 1990, rất ít người nghi ngờ đồng yen sẽ trở thành đồng tiền chủ chốt, nhưng điều đó đã không xảy ra, trước hết là bởi Nhật Bản đã thất bại trong việc triển khai những chiến lược tiền tệ hiệu quả. Kết quả là Nhật Bản đã rơi vào cuộc khủng hoảng cơ cấu trong khi quá trình quốc tế hóa đồng yen không được thực hiện một cách thích hợp. Nhật Bản còn ngần ngại trong các cuộc đàm phán nghiêm chỉnh về Cộng đồng Đông Á và đồng tiền chung, có thể do lo liên minh với Mỹ sẽ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, vấn đề hội nhập châu Á đang trở nên cấp thiết. Nếu Nhật Bản không tham gia, cơ hội vai trò đầu tàu sẽ dành cho Trung Quốc. Hideo Tamura của tờ Nihon Keizai Shimbun đã ví đồng NDT như một chiếc đồng hồ khổng lồ không có nút dừng. Chính phủ Nhật Bản, có vẻ như đã thức sau một giấc ngủ dài, đã quyết định sẽ theo đuổi những hiệp định thương mại tự do để tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi cho các chiến lược chính trị và ngoại giao của Nhật Bản, bao gồm cả vấn đề Cộng đồng Đông Á. Nếu Chính phủ Nhật muốn thực hiện những điều đó thì điều đầu tiên mà nước này phải làm là tăng cường quan hệ Trung - Nhật. Trong 3 năm qua, lãnh đạo hai nước đã tạm dừng các cuộc thăm viếng chính thức, trong khi các cuộc trưng cầu ý kiến cho thấy thái độ chống Nhật ở Trung Quốc và thái độ không thích Trung Quốc ở Nhật Bản đang tăng lên mức cao chưa từng thấy. Sự tin tưởng lẫn nhau giữa Trung Quốc và Nhật Bản sẽ là tiền đề tạo ra một Cộng đồng Đông Á và một đồng tiền chung. Giới lãnh đạo chính trị nên cố gắng hơn nữa xây dựng sự tin tưởng lẫn nhau này. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 40 Rõ ràng rằng vai trò đầu tàu của Nhật bản và Trung Quốc sẽ vô cùng quan trọng và là chủ chốt dẫn đến sự thành công khi thiết lập đồng tiền chung cho khu vực. Với lịch sử phát triển đầy ấn tượng và đầy kinh nghiệm, hai con rồng này sẽ thể hiện được vai trò của nước lớn với tầm ảnh hưởng mang tính quốc tế. Châu Á có thể rút ngắn thời gian hình thành do dựa vào những kinh nghiệm của EURO. Không cần phải nghiên cứu các lí thuyết cho một đồng tiền chung, Châu Á được thừa hưởng những khó khăn, thất bại của EURO để từ đó lược bỏ những bước không quan trọng, hay những thử nghiệm ban đầu mà Châu Âu đã phải trải qua. Dưới đây là bảng số 3.3 cho thấy tốc độ tăng trưởng của các nước Châu Á trong giai đoạn 1995-2004 cho thấy những nền kinh tế nóng bỏng trong khu vực. Và việc chọn “hàng” vào “rổ “ là điều cần thiết phải từng bước nghiên cứu để tiến hành. Bảng 3.3 : Tốc độ tăng trưởng của các nước Châu Á từ 1995 – 2004 (%) Tên nước 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Nhật Bản 1.9 3.4 1.8 -1.1 0.9 2.4 -0.9 -1.3 2.7 3.9 Trung Quốc 10.5 9.6 8.8 7.8 7.1 8.0 7.5 8.0 9.3 9.2 Hàn Quốc 8.9 6.7 5.0 -6.7 1.1 9.3 3.1 6.3 3.1 4.7 Đài Loan 3.3 5.8 Hồng Kông 3.9 4.3 5.1 -5.0 3.4 1.0 4.7 2.3 3.2 7.4 Singapore 8.0 8.1 8.5 -8.5 6.4 9.4 -2.4 2.2 1.1 8.6 Indonexia 8.4 7.6 4.7 -13.1 7.9 4.9 3.4 3.6 4.5 4.8 ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 41 Thái Lan 9.2 5.9 -1.4 -10.0 4.4 4.7 2.1 5.4 6.8 5.8 Malaysia 9.8 10.0 7.3 -7.3 6.1 8.5 3.0 4.1 5.3 7.6 Philipine 4.6 5.8 5.2 -5.8 3.4 5.9 2.9 4.4 4.7 5.6 Brunei 3.1 1.1 Việt Nam 9.5 9.3 8.1 5.7 4.7 6.8 6.9 7.0 7.2 7.3 Lào 7.0 6.7 7.0 3.9 7.3 5.8 5.7 5.0 5.9 6.0 Campuchia 4.9 6.8 3.7 1.1 7.0 5.6 5.5 5.1 4.8 Mianma 6.9 6.4 5.6 5.8 1.1 1.3 9.7 -2.0 -1.5 Nguồn : The Economic Intelligence Unit Limited 2005 World Development Indicators 2004 3.3.3. Các tiêu thức về Kinh tế, Xã hội của các nước trong khu vực Dưới đây là các tiêu chuẩn mà EURO đã áp dụng, ACU liệu có khả năng đáp ứng ? Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế và tiền tệ (còn gọi là những tiêu chỉ hội nhập) là: lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có mức lạm phát thấp nhất; • Trong khi đó, tỷ lệ lạm phát ở các nước trong khu vực Châu Á không hề bình ổn. Nếu áp dụng điều kiện trên, thì các nước tham gia vào ACU có thể sẽ không được phép lạm phát vì theo bảng số 05 dưới đây thì HongKong, Mianmar, Việt Nam đang thiểu phát chứ không được lạm phát. Vậy liệu một nước như Lào thì đến khi nào mới có cơ hội tham gia vào ACU khi mà năm 1999 nước này có mức lạm phát lên đến 128.4% ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 42 Bảng 3.4: Lạm phát của các nước trong khu vực Châu Á từ 1993-2000 (%) Tên nước 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Trung Quốc 14.7 24.1 17.1 8.3 2.8 -0.8 -1.4 0.4 Hongkong 8.8 8.8 9 6.4 5.8 2.9 -4 -3.7 Hàn Quốc 4.8 6.2 4.4 5 4.4 7.5 0.8 2.2 Đài Loan 2.9 4.1 3.7 3.1 0.9 1.7 0.2 1.3 Campuchia 114.3 -0.5 7.8 7.1 8 14.8 4 -0.8 Indonesia 9.7 8.5 9.5 7.9 6.2 58.5 20.3 9.3 Lào 90 128.4 Malaysia 3.6 3.1 4 3.4 2.8 5.2 2.8 1.5 Mianmar 25.3 21.3 -0.2 Philippines 5.6 8.3 6.7 7.5 5.6 9.3 5.9 4 Singapore 2.3 3 1.8 1.4 2 -0.3 0.1 1.3 Thái Lan 3.3 5 5.7 5.9 5.6 8.1 0.2 1.7 Việt Nam 5.7 3.2 7.8 4.2 -1.6 Nguồn : www.ADB.org thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP; • nợ nhà nước dưới 60% GDP và biên độ giao động tỷ giá giữa các đồng tiền ổn định trong hai năm so với đơn vị so sánh ACU. • Trong khi đó, hiện đang có những nước đang bị thâm hụt ngân sách rất lớn và đang có những món nợ khổng lồ với nước ngoài ngay trong khối ASEAN. lãi suất (tính theo lãi suất công trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không quá 2% so với mức trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất. • Chỉ số lãi trên thị trường tài chính giống nhau • Đồng tiền quốc gia phải vững • ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 43 Đây cũng hẳn là những điều kiện để một nước được chọn vào vùng tiền ACU. Hẳn nhiên chính phủ các nước tham gia sẽ phải kí kết một hiệp định như dạng “hiệp đinh về sự vững vàng và phát triển kinh tế nhằm mục đích giữ vững những tiêu chuẩn trên đây” nhằm đảm bảo cho ACU. Đơn vị tiền tệ mới, được phát hành trên cơ sở giá trị trung bình của các đồng tiền sử dụng tại các nước ASEAN và 3 nước đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, sẽ là công cụ thực sự hữu ích cho các cơ quan tiền tệ trong việc hoạch định chính sách hối đoái. Tuy nhiên, ADB vẫn nỗ lực xem xét đồng tiền của nước nào tham gia trong khối tiền tệ châu Á đang ở trong sự nhạy cảm về chính trị. "Rổ" tiền tệ ban đầu được làm cơ sở xem xét cho việc hình thành chỉ số ACU bao gồm 13 đồng tiền của 13 nền kinh tế châu Á (Trung Quốc – bao gồm Đài Loan và Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, và 10 nước thành viên ASEAN). Sau đó có thể được bổ sung thêm để nâng tổng số lên tới 40 đồng nội tệ, trong đó có tiền của Ấn Độ, Ôxtrâylia và Niu Dilân. ACU sẽ được dùng làm tiêu chuẩn đánh giá các biến động giá trị của 13 đồng tiền ở châu Á. ADB đang tham khảo ý kiến của chính phủ các nước trong khu vực về kế hoạch thiết lập ACU, nhằm theo dõi tỷ giá của các đồng tiền châu Á đối với các đồng tiền lớn như USD và Euro. ACU sẽ được tính dựa trên các số liệu như GDP, giá trị thương mại và giá trị các đồng nội tệ. Các nhà phân tích cho rằng nếu chỉ số ACU được các thị trường trong khu vực sử dụng rộng rãi thì nó sẽ là bước đi đầu tiên hướng tới việc ban hành một đồng tiền chung cho châu Á ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 44 Đây cũng là lần đầu tiên một cơ quan tài chính quốc tế như ADB tạo ra một đơn vị chuẩn về tiền tệ cho khu vực châu Á theo hình mẫu của Đơn vị tiền tệ châu Âu (ECU). ECU là Đơn vị tiền tệ danh nghĩa của Cộng đồng Kinh tế châu Âu trước kia và là một trong những bước đi lâu dài tiến tới việc phát hành đồng tiên chung châu Âu (euro) ngày nay. 3.3.4. Các vấn đề khác : 3.3.4.1./ Một chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn : Lựa chọn một chiến lược phát triển nhanh, đi tắt – đón đầu để từ đó có tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ, thu nhập đời sống của người dân được cải thiện, việc tích lũy của cải cho xã hội bước đầu được thực hiện. Tuy vậy, cái giá phải trả sẽ rất khốc liệt. Rút kinh nghiệm, chiến lược phát triển hỗn hợp như ở Trung Quốc, Việt Nam … tức là đặt nặng vấn đề tăng trưởng nhưng ngay từ đầu sẽ quan tâm đến vấn đề xã hội. Hướng đi này sẽ giúp các nước có nền kinh kế vũng mạnh, một trật tự xã hội văn minh, hạn chế những tiêu cực của những nước đã và đang mắc phải. 3.3.4.2./Mệnh giá của ACU nên là bao nhiêu ? Trong giai đoạn đưa EURO chính thức ra thị trường, Châu Âu đã ngay lập tức đưa ngay ra một hệ thống tỷ giá chuyển đổi cho EURO và các đồng tiền trong khối, và tỷ giá này là cố định. Điều này giúp EURO tránh bị đầu cơ và nhanh chóng đi vào ổn định. Vậy ACU cũng sẽ phải xây dựng tỷ giá này với các nước trong khu vực Châu Á. Có nhiều đề nghị mệnh giá cho ACU, như tạm cho rằng 1ACU= 1EURO Nhưng điều này liệu có hợp lí. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 45 Nhưng việc xác định tỷ giá này còn là một trong những bước kỹ thuật cần xem xét nhiều, có tham khảo Châu Âu khi tính cho EURO. Vì ngoài chỉ số về GDP, thì các loại tiền nào trong “rổ” và các tiềm năng về thương mại của nước tham gia cũng sẽ góp phần tạo nên tỷ giá này. 3.4. Những tác động nếu có đồng tiền chung Châu Á 3.4.1. Lại một lần nữa, một đồng tiền chung Châu Á sẽ thách thức vị trí độc tôn của đồng USD Vị trí quốc tế của một đồng tiền mạnh, như đồng USD thật ra được thể hiện trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, dự trữ quốc tế và trên thị trường vốn. Trong khuôn khổ thương mại quốc tế, đồng ACU hoàn toàn có thể khẳng định được vị trí của mình, cạnh tranh được với đồng EURO và USD. Trong khuôn khổ thị trường tài chính, sự ra đời của đồng ACU sẽ làm cho các thị trường tài chính Châu Á trở nên sâu rộng hơn, có độ thanh khoản cao hơn. Điều này khiến cho việc huy động vốn, đầu tư bằng đồng ACU trở nên hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, giá trị của đồng ACU được bảo đảm bởi một ngân hàng Trung ương Châu Á mang tính độc lập với mục tiêu hàng đầu là ổn định giá cả. Đây là sự lựa chọn số một của các nhà đầu tư muốn đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình, giảm bớt các hạng mục tài sản tính bằng đồng USD. Nhưng giá trị thực của đồng ACU so với USD hay EURO lại phụ thuộc vào lòng tin của thế giới đối với Châu Á, vào giới đầu tư quốc tế vào khả năng phản ứng nhanh nhạy của Châu Á trước những đột biến của tình hình kinh tế Thế giới qua từng thời kỳ, vào khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Châu Á. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 46 Châu Á có hai vấn đề nan giải là làm sao ổn định được giá cả trong khu vực đồng tiền chung và bảo vệ được đồng tiền này trước các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới. Điều cơ bản để đồng tiền chung Châu Á giữ được giá so với đồng USD là những chính sách kinh tế của Châu Á phải luôn thống nhất và đồng nhất và Ngân hàng Trung ương các nước thuộc khu vực đồng tiền chung phải thực sự tuân thủ Ngân hàng Trung ương Châu Á. Điều khó nhất là phải làm cho Châu Á thống nhất với nhau về giá cả cùng mức lạm phát. Điều khó khăn nữa, đó chính là làm sao để thuyết phục những quan chức Ngân hàng Trung ương của các nước để họ đưa đồng tiền chung Châu Á vào rổ các đồng tiền dự trữ, vì hiện nay đồng USD vẫn đang là lựa chọn số một. Theo đánh giá, để đồng EURO và đồng USD có vai trò ngang nhau trong hệ thống tài chính quốc tế thì Châu Âu phải mất 4 năm cố gắng cật lực nữa thì mới có thể đánh bật được vị trí độc tôn của đồng USD như hiện nay. Vậy thì ACU sẽ phải mất một khoảng thời gian không những gấp đôi EURO mà có lẽ là rất lâu để khẳng định được vị trí của mình trên trường Quốc tế. 3.4.2. Sự ra đời của một đồng tiền chung Châu Á sẽ tạo ra một trật tự tiền tệ đa cực trong hệ thống tiền tệ Thế giới. Hiện nay, các chuyên gia kinh tế thế giới cho rằng nền kinh tế thế giới dựa trên ba cực lớn xoay quay ba đồng tiền lớn trong hệ thống tiền tệ quốc tế : đồng USD- Mỹ, đồng EURO-khối Châu Âu và khối Châu Á với đồng Yên Nhật. Tam giác tiền tệ quốc tế như trên về cơ bản đã được hình thành, tạo ra ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 47 một sức mạnh tiền tệ cân bằng và ổn định hơn giữa các khu vực trên thế giới, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Sự ra đời của ACU với ba nước chủ lực là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ đem đến cho Châu Á một sức mạnh mới trên thị trường quốc tế, cạnh tranh ngang ngửa với Mỹ và các nước Châu Âu. Trong vòng một hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, hệ thống tiền tệ thế giới sẽ phát triển thành chế độ đa cực tương ứng với các khối liên minh minh tế và tiền tệ đã và đang hình thành. Hiện nay đã có những dự báo cho rằng trong khoảng 20 năm tới đại bộ phận thế giới sẽ tham gia vào một loại hình liên minh tiền tệ khu vực nào đó như dạng đồng EURO. 3.4.3. Thúc đẩy thương mại nội khối Bình thường thì các giao dịch trong khu vực sẽ chủ yếu là bằng đồng USD, nhưng việc sử dụng đồng tiền này sẽ khiến cho các nước phải tốn một khỏan chi phí cho việc chuyển đổi giữ đồng nội tệ của mình ra USD. Đồng thời rủi ro về tỷ giá USD cũng rất tiềm ẩn và điều này khiến cho các nhà kinh doanh phải dè chừng trong các giao dịch. Việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tiết kiệm chi phí và thiết lập được tính an toàn trong quan hệ nội khối. Việc sử dụng đồng tiền chung, mặt khác, còn thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các thành viên trong khối. Các rào cản thương mại sẽ bị xóa bỏ, tạo điều kiện cho mua bán hàng hóa dễ dàng hơn, chi phí giao dịch rẻ hơn… và điều này khuyến khích các công ty sản xuất hàng hóa có chất lượng cao hơn. Một đồng tiền chung cũng giúp góp phần nâng cao vị thế thương mại toàn cầu của Châu Á. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 48 KẾT LUẬN Thiết lập được một đồng tiền chung, đó là kết quả của quá trình hợp tác truyền thống, lâu dài, tuần tự từ thấp đến cao. Các bước đi của nó đều phải rất thận trọng, dựa trên những cơ sở thực tiễn để không gây ra những rủi ro, bất ổn trên một thị trường như Châu Á. Sự cố gắng giữa các nước thành viên trong ổn định tỷ giá hối đoái, thắt chặt tiền tệ, tăng cường kỷ luật tài chính, ngân sách… sẽ tạo nên sự đồng đều nhau hơn về mặt kinh tế, làm cho các nước thành viên xích lại gần nhau hơn, đồng nhất hơn, tạo nên cơ sở bền vững cho ACU. Được lợi từ việc tham khảo kinh nghiệm trong quá trình hình thành đồng tiền chung Châu Âu mà đã kéo dài trong 30 năm, thì khả năng cho việc ra đời đồng tiền chung Châu Á sẽ nhanh hơn. Tuy nhiên, quá trình hình thành và đưa vào sử dụng đồng ACU cũng sẽ gặp khó khăn. So với Châu Âu trình độ phát triển của Châu Á chênh lệch sâu hơn, xem xét trên các khía cạnh về GDP, GDP tính theo đầu người, kim ngạch thương mại, khả năng chuyển đổi của đồng tiền từng quốc gia, dòng chảy của tư bản… Trong khi Châu Á có những nền kinh tế khổng lồ như Nhật Bản, Trung Quốc … thì lại có những nước có nền kinh tế quá nhỏ, lạc hậu như Lào, Campuchia. Nhìn nhận những lợi ích nếu có ACU. -Thuận lợi trong việc xác định nguyên nhân gây ra các đợt biết động trên thị trường tiền tệ Châu Á và định giá chính xác mức độ biến động của các đồng tiền này so với USD và euro. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 49 Châu Á, nơi đang có nền kinh tế mạnh và phát triển nhanh nhất thế giới, có nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn nhưng sự tồn tại của vài chục đồng nội tệ đã làm tăng nguy cơ rủi ro từ tỷ giá hối đoái và phương hại các thị trường vốn. Châu Á hiện cũng phụ thuộc quá lớn và các nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển. Sự phụ thuộc đó tiềm ẩn nguy cơ để lại hậu quả như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1998. Trong khung cảnh trên, đồng tiền chung châu Á ra đời có thể giúp củng cố sức mạnh của các nước trong khu vực để đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên thị trường tài chính. Đồng tiền này cũng có thể tham gia hệ thống tài chính thế giới để cùng với đồng USD và euro ổn định thị trường tiền tệ toàn cầu. Các công ty Mỹ đang hoạt động ở Đông Nam Á tỏ ra lạc quan về triển vọng phát triển kinh tế-thương mại của khu vực này. Đây là động lực thúc đẩy họ lên kế hoạch mở rộng sản xuất, tuyển thêm nhân công và tăng vốn đầu tư. Theo kết quả điều tra của các phòng thương mại Mỹ ở Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philipin và Việt Nam, hơn 80% số công ty được hỏi khẳng định họ sẽ mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ở châu Á trong 2 năm tới. -Ngoài ra, ACU góp phần tạo điều kiện cho việc phát triển thị trường trái phiếu châu Á và tăng cường các thị trường vốn nhằm giảm bớt tác động trước những biến động từ bên ngoài. Do các nhà đầu tư chứng khoán thường tính một khoản “tiền bù lạm phát” vào tỷ suất lợi nhuận của các chứng khóan phát hành từ những nước có thành tích chống lạm phát thấp kém. Việc này lại có xu hướng lại đẩy lãi suất tăng lên. Lãi suất sẽ tiếp tục bị đẩy lên khi còn tồn tại các khỏan tiền “bù rủi ro tỷ giá” mà những nhà đầu tư dự tính trước những biến động tỷ giá. Lãi suất cao đồng nghĩa vói một nền kinh tế trì trệ. Đồng tiền ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 50 chung sẽ loại bỏ những khỏan tiền “bù rủi ro tỷ giá” này, tiền bù lạm phát và làm giảm lãi suất. -Sẽ là một công cụ thực sự hữu ích cho việc hoạch định chính sách hối đoái: ACU sẽ hỗ trợ các nước trong khu vực giám sát hoạt động chung của các đồng tiền châu Á trước những đồng tiền mạnh ở bên ngoài như đồng USD và đồng EURO, cũng như hoạt động của mỗi đồng tiền châu Á trước đồng ACU. -Một đồng tiền chung sẽ khuyến khích các nước cải tổ lại cơ cấu. Vì những nước muốn tham gia vào rổ phải tiến hành các chương trình cải tổ cơ cấu kinh tế triệt để nhằm đáp ứng các tiêu chí hội tụ do những hiệp ước chung của khối đưa ra. Sau đó, họ còn phải tuân thủ các hiệp ước về tăng trưởng và ổn định – là một hiệp ước giới hạn việc chi tiêu, vay mượn của chính phủ và quy định phạt những nước vượt qua giới hạn này. Tất cả những nước tham gia đồng ACU sẽ phải cắt giảm chi tiêu ngân sách, cải tổ các chính sách phúc lợi xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế. Chính phủ các nước còn phải nhận thức lại tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế bền vững. Các chương trình cải tổ này nhất định sẽ nhận được sự phản ứng tích cực từ phía các thị trường tài chính, một điều rất có lợi với tăng trưởng kinh tế. Hẳn nhiên, những chương trình cải tổ cơ cấu hà khắc sẽ đẩy rất nhiều người vào đội ngũ thất nghiệp. Mặc dù vấn đề này chỉ mang tính ngắn hạn nhưng nó có thể tạo nên tính bất ổn về chính trị và xã hội. -Không còn được chủ quyền trong hoạch định và thực thi chính sách :Với một đồng tiền chung ra đời sẽ gắn liền với một cơ chế giám sát thâm hụt ngân sách và quy phạt những nước nào có mức thâm hụt vượt qua quy định. Điều này cũng sẽ hạn chế khả năng nới lỏng chính sách tài khóa của các nước. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 51 Khi tăng trưởng kinh tế giảm sút, một nước trong khu vực sẽ khó có thể tăng chi tiêu ngân sách để kích thích tăng trưởng trở lại. Một số quan điểm khác của các chuyên gia về ACU Theo các chuyên gia Tài chính của khu vực Châu Á thì một đồng tiền chung cho khu vực Châu Á có lẽ là chưa thể trong giai đoạn hiện nay, dù tương tác thương mại giữa các thành viên đang ngày một tăng lên Ban đầu, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đã lên kế hoạch phát hành đơn vị tiền tệ châu Á (ACU) vào tháng 3 hoặc tháng 4 năm 2006, và dễ có hiểu nhầm về sự ra đời của một đồng tiền chung (dưới hình thức tiền giấy hoặc tiền xu) được lưu hành ở các nước trong khu vực. Cách hiểu trên thường đánh đồng ACU với đồng EURO đang được lưu hành trên thế giới. Nhưng cho đến nay thì vấn đề này vẫn đang còn trên bản thảo, do nhiều vấn đề phát sinh buộc tất cả các nước trong khối phải cùng nhau thảo luận và nghiên cứu. - Xu hướng của các đồng tiền châu Á riêng lẻ giữa các đồng đôla Mỹ, Euro, hay Yên Nhật hiện nay là rất rõ rệt. Tuy nhiên, trong khi mối quan hệ tương tác về kinh tế ở châu Á đang tăng lên, vẫn còn rất khó để có thể nhận định xem các đồng tiền châu Á đang tác động qua lại lẫn nhau như thế nào cũng như các đồng tiền này trong một tổng thể đang tương tác như thế nào với các đồng tiền của các quốc gia khác như đồng đôla Mỹ, đồng Euro, hay đồng bảng Anh. Dự tính thiết lập một đơn vị tiền tệ châu Á, như một chỉ số của các đồng tiền của khu vực Đông Á, tạo ra một mức chuẩn khu vực nhằm theo dõi những xu hướng tác động như trên. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 52 ADB hiện đang xem xét các lựa chọn khác về các khía cạnh kỹ thuật có liên quan đến việc tính toán ACU, bao bồm bản chất của rổ tiền tệ, việc lựa chọn các đồng tiền để đưa vào rổ tiền tệ, các tiêu chí để đánh giá lại theo từng thời kỳ cũng như nhiều yếu tố khác… -ACU được coi là công cụ để giám sát những biến động về giá trị của các đồng tiền trong khu vực. Như vậy có thể hiểu rằng ACU sẽ có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia thành viên.ACU sẽ tạo ra một chuẩn khu vực để giám sát sự chuyển động của các đồng tiền châu Á. Mỗi quốc gia sẽ tự do tận dụng chỉ số thống kê này theo cách riêng của mình. -ACU có phải là tiền đề cho một đồng tiền chung châu Á trong tương lai không ? ACU không phải là một đồng tiền châu Á. Trước mắt thì nó chỉ nên là một chỉ số thống kê và hoàn toàn không có chức năng như một đồng tiền. Các nước châu Á có thể có nhiều bài học từ việc thành lập đơn vị tiền tệ châu Âu (ECU), đặc biệt trong mối quan hệ với các khía cạnh kỹ thuật có tính quyết định đối với việc thành lập rổ tiền tệ ACU. Một khi châu Âu thiết lập đồng Euro với tư cách là đồng tiền chung châu Âu sau khi ECU ra đời 20 năm, thì rõ ràng là còn quá sớm để nói đến việc thành lập của một đồng tiền chung châu Á trong tương lai gần Như vậy, việc ADB công bố ACU là động thái đầu tiên nhằm tiến tới việc ban hành một đồng tiền chung cho châu Á. Trước đây, châu Âu đã công bố một đơn vị trao đổi tiền tệ tương đương ECU vào năm 1979 trong giai đoạn khởi đầu cho việc thiết lập một hệ thống tiền tệ chung ở châu Âu. Và đến tháng 1/1999, đơn vị tiền tệ này đã được thay thế bằng đồng euro Ông Srinivasa Madhur - nhà kinh tế học chủ chốt của Bộ phận giám sát kinh tế khu vực của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) - cho rằng, đồng tiền ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 53 chung dành cho các quốc gia Châu Á có thể ra đời trong tương lai. Tuy nhiên, Chính phủ các nước cũng nên cân nhắc kỹ lưỡng về những ưu nhược điểm của đồng tiền chung này. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, các quốc gia Đông Nam Á đã quan tâm nhiều hơn đến hỗ trợ, hợp tác tài chính và tiền tệ trong khu vực. Gần đây nhiều quốc gia đã chú ý tới sự thay đổi bất thường của đồng USD để đánh giá hoạt động của đồng Yên Nhật Bản và EUR. Theo ông Srinivasa Madhur nhận xét thì “Cần phải có sự ổn định tiền tệ trong khu vực". Bước hai là thiết lập hệ thống chuyển tiền SWAP trong khu vực ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Giờ đây, nhiều Chính phủ trong khu vực đã chấp nhận trao đổi song phương những lượng tiền giá trị hơn 20 tỷ USD khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ và còn nhiều thỏa thuận đang được đàm phán. Dự án này không thể thành công nếu ADB đặt kế hoạch trong 5 năm tới. Tuy nhiên, các quốc gia Châu Á có nhiều thuận lợi vì EU đã đi tiên phong trong lĩnh vực này. Vì người đi sau sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Hãy nhìn những gì xảy ra trong lĩnh vực công nghệ và đừng quên là khả năng rút ngắn thời gian của Châu Á là rất tốt. Bên cạnh đó việc thừa nhận những khó khăn có thể xảy ra trong việc thiết lập một cơ quan siêu quốc gia, giống như Viện Tài chính châu Âu (tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu) sẽ mất cả thập kỷ. Theo ông Madhur "Trước đây người ta tin rằng bạn phải hội nhập thương mại trước khi sử dụng đồng tiền chung. Nhưng thực tế các cuộc nghiên cứu gần đây lại cho thấy các quốc gia áp dụng hệ thống đồng tiền chung lại giao dịch với nhau nhiều hơn là các quốc gia khác". Các nhà nghiên cứu Nhật Bản vừa đưa ra một nghiên cứu độc lập theo dự án Kobe, trong đó bao gồm vài kiến nghị của ADB. Các vấn đề chính là lập ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân Trang 54 ra một đơn vị quản lý và giám sát kinh tế khu vực mới, nhu cầu củng cố chương trình Chiang Mai để phát triển một qũy dự trữ ngoại hối lớn mạnh hơn và có sự hợp tác trong khu vực chặt chẽ hơn về cải tổ khu vực tài chính. Ông Madhur cho rằng có một số trở ngại để tiến tới một đồng tiền chung, đặc biệt do sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia, như thu nhập hàng năm của Singapore cao gấp 40 lần so với Indonesia, và rất nhiều quốc gia có khu vực tài chính yếu kém. Việc hoạch định một lộ trình cho ACU là điều nghiêm túc mà các chuyên viên Tài chính trong khu vực Châu Á phải tiến hành. Tuy những bài học từ đồng EURO sẽ giúp chúng ta tiết kiệm thời gian và tránh những thử nghiệm không cần thiết thì việc áp dụng những bài học này cũng cần có nhiều cải biến cho phù hợp với tình hình hiện nay. Một Châu Á đang phát triển, một Châu Á đang vươn cao, và một đồng tiền chung là rất cần thiết, thì nhất định trong một tương lai gần, ACU sẽ thật sự hiện diện trong các hoạt động giao dịch của khối Châu Á nói riêng, và Thế giới nói chung. ACU - Đồng tiền chung Châu Á GVHD : PGS.TS. Trần Hoàng Ngân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45422.pdf
Tài liệu liên quan