Tài liệu Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 86 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam: 1
ĐỀ CƢƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 86 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 - 03/02/2016) GẮN VỚI KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY BÁC HỒ VỀ
NƢỚC TRỰC TIẾP LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG (28/01/1941- 28/01/2016)
-------
I. Quá trình thành lập, xây dựng và trƣởng thành của Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN)
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 mở ra bƣớc ngoặt lịch sử
của cách mạng Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng, bắt đầu cuộc
chiến tranh xâm lược và thôn tính nước ta. Triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, yếu
thế không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Ngày 6/6/1884, triều đình nhà Nguyễn
ký Hiệp ước Giáp Tuất (Hiệp ước Patơnốt) đầu hàng, dâng nước ta cho thực dân
Pháp. Từ đó, thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo
cùng chế độ phong kiến suy tàn công khai cấu kết và làm tay sai cho giặc. Với
chương trình khai thác thuộc địa trên quy mô lớn, nhân dân Việt Nam sống kiếp
lầm than, phải gánh chịu ách bóc lột một...
13 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1072 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 86 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐỀ CƢƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 86 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 - 03/02/2016) GẮN VỚI KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY BÁC HỒ VỀ
NƢỚC TRỰC TIẾP LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG (28/01/1941- 28/01/2016)
-------
I. Quá trình thành lập, xây dựng và trƣởng thành của Đảng Cộng sản
Việt Nam (ĐCSVN)
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 mở ra bƣớc ngoặt lịch sử
của cách mạng Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng, bắt đầu cuộc
chiến tranh xâm lược và thôn tính nước ta. Triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, yếu
thế không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Ngày 6/6/1884, triều đình nhà Nguyễn
ký Hiệp ước Giáp Tuất (Hiệp ước Patơnốt) đầu hàng, dâng nước ta cho thực dân
Pháp. Từ đó, thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo
cùng chế độ phong kiến suy tàn công khai cấu kết và làm tay sai cho giặc. Với
chương trình khai thác thuộc địa trên quy mô lớn, nhân dân Việt Nam sống kiếp
lầm than, phải gánh chịu ách bóc lột một cổ hai tròng. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát vọng đấu tranh
giành độc lập dân tộc ngày càng trở nên bức thiết. Các cuộc khởi nghĩa, các phong
trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp liên tiếp diễn ra nhưng đều thất
bại, cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu
nước.
Chứng kiến cảnh mất nước, nhân dân sống một cuộc đời lầm than cơ cực,
Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc) đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Năm 1919, Người bắt gặp bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
V.I.Lênin, từ đó Người đã tin tưởng và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành
người Cộng sản đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Người ra sức truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Cuối năm 1929 và đầu năm 1930, ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã lần
lượt ra đời - điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi. Ngày 3/2/1930, tại Hương
Cảng (Trung Quốc), được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản thành một đảng duy nhất và
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam gồm Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Chánh cương vắn tắt đã đề ra mục tiêu cụ thể của cách
mạng Việt Nam đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
2
người đồng thời vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Tháng 10 năm 1930, tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất Luận cương
Chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo được thông qua. Kế thừa cương lĩnh đầu
tiên của Đảng, Luận cương Chính trị xác định cách mạng Việt Nam phải trải qua
hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm đánh đổ chế độ thực dân
phong kiến, giải phóng dân tộc và và tiến lên giai đoạn xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa (cách mạng xã hội chủ nghĩa). Luận cương cũng xác định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cần phải tăng cường đoàn kết với
giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh đúng đắn,
vạch ra con đường cứu nước khác về chất so với những con đường cứu nước do
những nhà yêu nước đương thời vạch ra và đã bị bế tắc, thất bại. Sự ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân.
Đánh giá ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết“Việc
thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng”.
II. Chặng đƣờng 86 năm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng
giành thắng lợi vĩ đại, không ngừng trƣởng thành và lớn mạnh
1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
- Với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lần lượt ba cao trào cách
mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng
Tám giành chính quyền về tay nhân dân: Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh
cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939)
và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939 - 1945).
Đó là quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ của Đảng và dân
tộc ta.
- Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân
dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản
trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát
triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, đó là:
+ Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu
dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
+ Quan hệ giữa các mục tiêu chiến luợc lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt,
giữa giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành
thắng lợi hoàn toàn.
3
+ Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng
đúng đắn các hình thức, phương pháp đấu tranh phù hợp với từng điều kiện lịch sử
cụ thể.
+ Quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng đảng và xây dựng, phát
triển lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp trong Mặt trận Dân tộc
thống nhất.
+ Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực
lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, độc
lập, tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình
hình quốc tế đem lại.
+ Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ, tổ chức và sử
dụng các lực lượng cách mạng...
- Đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với Đảng và chuẩn bị
về nước. Ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Ngày 8-2-1941, Người tới Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Từ ngày 10
đến ngày 19-5-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Pác Bó. Từ sự phân tích diễn biến của chiến tranh thế giới và
tình hình trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách
mạng là giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5-1941 có ý nghĩa
lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm
giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ
trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy. Cùng với Nghị quyết Hội nghị Trung ương
tháng 11-1939, Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 có ý nghĩa quyết
định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân,
phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước
Công Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong
lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ
nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX.
2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám,
kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại (1945-1954)
Ngày 2/9/1945, giữa quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc lời Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thế giới sự ra đời của Nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, khẳng định nhân dân Việt Nam có quyền được sống trong tự do,
4
hạnh phúc. Tuy nhiên, trong hai năm 1945-1946, chính quyền non trẻ phải đối diện
với muôn vàn khó khăn, thách thức, vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc
ngoại xâm. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua với phương
châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách
mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả của Cách mạng tháng Tám; thực hành sách
lược khôn khéo, lúc thì hoà hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp, lúc thì hoà
hoãn với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc và triệt để
lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm
nghèo. Chính quyền nhân dân được xây dựng và củng cố vững chắc qua kỳ tổng
tuyển cử, bầu cử Quốc hội (6/1/1946) và xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên
(9/11/1946) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chỉ trong hơn một năm xây
dựng, chính quyền non trẻ đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể
tự bảo vệ trong khi chưa có sự chi viện, giúp đỡ từ bên ngoài; chủ động chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp trên phạm vi cả nước.
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân
Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với
quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường
kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng
hộ của bè bạn quốc tế, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế
hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, nhất là việc đập tan kế hoạch Nava với chiến
thắng Đông - Xuân năm 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ ngày 7/5/1954. Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ cùng với việc
ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở
nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn
toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên theo con đường XHCN, làm hậu phương
vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3. Thời kỳ trƣờng kỳ kháng chiến, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lƣợc và
thống nhất non sông (1954-1975)
Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm mang tính đặc thù của
cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu xã hội chủ nghĩa
được đặt ra trực tiếp.
- Ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gơnevơ, hất chân thực dân
Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của chúng. Dân tộc ta lại phải đương đầu với chủ nghĩa thực dân mới của
đế quốc Mỹ. Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo vệ nền
độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân
5
được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương đầu với một để quốc hùng
mạnh bậc nhất thế giới, chúng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến
hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận
quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh
tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử
dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc trong điều kiện hai miền thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trong
điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm các nước
xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được
những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người,
sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững mạnh, trở thành căn cứ địa cách
mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt cho tiền tuyến đánh thắng; mở rộng quan hệ
đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước trên thế giới; tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước; tạo những cơ sở vật chất và
những kinh nghiệm quý báu trong sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
sau này.
4. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nƣớc, thực
hiện công cuộc đổi mới đất nƣớc từ năm 1975 đến nay
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:
* Từ 1975 đến 1986:
- Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo
nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống
xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia.
6
- Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội,
từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng
trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn
phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực
hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết
điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì
trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ
thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua các mốc
sau: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng 8/1979); Chỉ thị
100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp;
Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng 6/1985) thừa
nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết luận của Bộ
Chính trị (tháng 9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới. Đại hội VI của
Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước
ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
* Từ 1986 đến nay:
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng
(tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với
những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng.
- Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận
về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng
hoàn thiện.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã
giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đảng ta lãnh đạo tiến hành
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những kết quả tích
cực. Đất nước vượt qua khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực (1997 - 1998); khắc
phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và
Chính phủ, thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
7
mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt,
vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh,
quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày
càng nâng cao.
III. Những bài học kinh nghiệm quý giá qua 86 năm chiến đấu, xây
dựng và trƣởng thành
Một là, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh.
Hai là, với tinh thần “Dân là gốc”, dựa vào dân, tất cả vì lợi ích của nhân
dân, Đảng ta luôn biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức
sáng tạo của nhân dân trong quá trình tiến hành đấu tranh cách mạng.
Ba là, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên chăm lo xây dựng
và chỉnh đốn Đảng để mãi mãi xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
và của dân tộc Việt Nam.
IV. Đảng bộ Bà Rịa- Vũng Tàu – Những chặng đƣờng lịch sử (1934 -
2016)
1. Sự ra đời của tổ chức cơ sở Đảng đầu tiên ở Bà Rịa- Vũng Tàu
Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kỳ bế tắc,
khủng hoảng về đường lối hơn hai phần ba thế kỷ kể từ khi nước ta bị thực dân
Pháp xâm lựơc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời
của chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh cũng nằm trong quy luật chung đó.
Trước năm 1930, Bà Rịa đã có hoạt động của Thiên Địa Hội tuyên truyền và
tổ chức lực lượng chống Pháp nổi lên có một số nhân vật tiêu biểu như Hoà thượng
Pháp Trí, ông Hai Tâm (Long Điền), ông Của, ông Khuê (Long Phước) Từ năm
1930, các tổ chức quần chúng dưới ảnh hưởng của Đảng cộng sản bắt đầu hình
thành, gắn với các hoạt động truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin và xây dựng Đảng
cộng sản.
Dương Bạch Mai (1908) là một trong số người cộng sản đầu tiên của tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu. Xuất thân là con một điền chủ lớn ở Bà Rịa, được cho ăn học tử tế,
ông làm việc ở nhà in Nguyễn Văn Của (Sài Gòn). Sau khi sang Pháp, ông đã tham
gia phong trào công nhân và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp với bí danh
Bounov. Năm 1931, ông trở về Sài Gòn thực hiện truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin.
Nhưng người đầu tiên gây dựng tổ chức cách mạng ở Bà Rịa là đồng chí Hồ Tri
8
Tân. Ông là liên lạc viên của Tỉnh uỷ Quảng Trị. Trong đợt khủng bố trắng vào
tháng 5-1931, nhiều cơ sở Đảng ở các khu công nghiệp, thành phố lớn trên cả nước
bị địch tàn sát. Một số cán bộ, đảng viên của Đảng ở Bắc, Trung bộ bị giặc truy nã
phải vào Nam ẩn náu hoạt động trong đó có Hồ Tri Tân.
Năm 1932, Hồ Tri Tân cùng Trần Văn Ý- một thợ mộc ở Long Hương,
Nguyễn Văn Lăng làm nghề vận tải xe bò ở Lò Vôi (Phước Tỉnh) đã tổ chức lễ kết
nghĩa tại chùa Châu Viên, thề cùng nhau "hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly". Từ
mối quan hệ khăng khít này, đã có thêm nhiều nhóm nòng cốt được hình thành sau
đó mở rộng thành Hội Châu Viên kết nghĩa, một hình thức Phường hội công khai,
che mắt chính quyền thực dân để tuyên truyền cách mạng.
Đêm 13/7/1933, Hội đã treo 6 là cờ đỏ búa liềm tại xã Long Hương, thị xã
Bà Rịa, thị trấn Long Điền, Nhà kiểm lâm Đất Đỏ, Nhà hội làng Long Nhung, Nhà
hội làng Long Mỹ và đỉnh núi Hòn Ngang thuộc ấp Lò Vôi, Phước Tỉnh. Gần một
ngàn truyền đơn ký tên Việt Nam cộng sản Đảng đã được rải từ thị xã Bà Rịa đến
Long Điền, Đất Đỏ với nội dung: Bỏ thuế thân, giảm thuế điền thổ trạch, chống
tham quan ô lại,công nông binh liên hiệp lại
Với những hoạt động cách mạng ngày càng phong phú, cần thiết phải có cơ
sở đảng để lãnh đạo giành chính quyền về tay nhân dân, tháng 2-1934, được sự
đồng ý của Xứ uỷ Nam Kỳ, Chi bộ Cộng sản đầu tiên đã được thành lập tại nhà ông
Trần Văn Thiên, xã Phước Hải (Đất Đỏ). Chi bộ có 3 đảng viên: Trần Văn Cừ,
Nguyễn Văn Long, Hồ Tri Tân. Đồng chí Trần Văn Cừ là Bí thư. Sau đó, nhiều
quần chúng yêu nước ở vùng Long Điền, Đất Đỏ, Ngãi Giao đã được giác ngộ và
kết nạp vào Đảng như Nguyễn Thị Sanh (Sáu Mười Mẫu) cùng chồng là Huỳnh
Văn Sinh (tức Minh Rỗ), công nhân cao su ở khu vực lộ 2, Võ Văn Thiết, Lê Công
Cẩn ở Long Mỹ, Hồ Thị Trinh, Hồ Thị Tường ở Đất Đỏ, Trần Văn Hoá, Trần Văn
Thiên, Hồ Ngọc Hạ ở Phước Hải.
Trong thời gian này, lực lượng tù chính trị giam ở các nhà tù Bà Rịa và Vũng
Tàu tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, phát động đấu tranh chính trị, gây
tiếng vang lớn đối với quần chúng. Nhiều báo cáo của mật thám Nam Kỳ đã báo
động về việc tuyên truyền cộng sản và đấu tranh của tù chính trị ở hai nhà tù này.
Với sự ra đời của một tổ chức cơ sở Đảng ở Bà Rịa- Vũng Tàu tuy chưa có
một tiếng vang lớn trong phong trào chống chủ nghĩa thực dân, chưa có quy mô
mạnh mẽ, nhưng không khí cách mạng sôi nổi ở Sài Gòn, Biên Hoà, Bà Rịa đã thực
sự làm thức tỉnh ý thức dân tộc của các tầng lớp nhân dân, công nhân trên mảnh đất
giàu truyền thống cách mạng.
2. Lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền (8 -1945)
Giữa năm 1937, Ban cán sự lâm thời Bà Rịa được thành lập do đồng chí
Trương Văn Bang làm Bí thư chỉ đạo phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ cùng 5
đồng chí khác, đó là Hồ Tri Tân, Nguyễn Văn Nhàn (Năm Nhàn), Võ Văn Thiết,
9
chị Tư Móm và đồng chí Nguyễn Văn Tư. Giữa năm 1940, các cơ sở binh vận của
Xứ uỷ đẩy mạnh hoạt động trong binh lính người Việt tại Vũng Tàu và Bà Rịa,
chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Vũng Tàu khi đó là một trong những trọng
điểm của Tiểu ban binh vận Vùng 2 của Xứ ủy. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940)
thực dân Pháp tiến hành cuộc khủng bố trắng khiến hầu hết các cơ sở Đảng của ta
bị tê liệt. Từ giữa năm 1943, phong trào cách mạng tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từng
bước được khôi phục.
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới và chiến tranh Thái Bình Dương đã đưa
mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp lên cao, thúc đẩy tình thế cách mạng mau chín muồi.
Đêm 9-3-1945, phát xít Nhật làm đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm
Đông Dương. Nhân cơ hội phát xít Nhật hất cẳng Pháp, nhiều cán bộ bị đày ở
nhiều nhà tù đã vượt ngục trở về, cùng các đảng viên còn bám trụ xây dựng lại
phong trào. Chi bộ Bà Rịa được thành lập lại tại Long Mỹ (5-1945), khôi phục tổ
chức và phát triển phong trào, Võ Văn Thiết là bí thư, tập hợp các đảng viên cũ như
Trương Văn Tân, Hà Du, Hồ Thị Trinh, Hồ Thị Tường, Lê Công Cẩn, Nguyễn Văn
Phải, Nguyễn Văn Lê... Chi bộ giao cho Phạm Văn Tỷ xây dựng một đội thanh
niên tự vệ (hơn 20 đội viên) làm nhiệm vụ bảo vệ Mặt trận Việt Minh và cán bộ
lãnh đạo.
Ngày 15-8-1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh, Trung ương
Đảng quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Thực
hiện nghị quyết và chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ về việc chuẩn bị lực lượng giành
chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, ngày 23-8-1945, Chi bộ Bà Rịa họp
mở rộng tại Long Điền, quyết định sử dụng lực lượng Thanh niên Tiền phong, tất
cả các xã trong tỉnh có trang bị vũ khí thô sơ và huy động đồng bào toàn tỉnh về Bà
Rịa giành chính quyền.
Rạng sáng ngày 25/8/1945, một vạn người hàng ngũ chỉnh tề tập hợp tại
trung tâm tỉnh lỵ. Lực lượng thanh niên xung kích canh gác bảo vệ lễ đài, án ngữ
các ngả đường vào tỉnh lỵ. Sau bài diễn văn hùng hồn của Thủ lĩnh Thanh niên
Tiền phong, thay mặt cho Uỷ ban khởi nghĩa tuyên bố nền độc lập, Tỉnh trưởng Lê
Thành Long đã xin từ chức, trao lại chính quyền cho nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thực hiện chủ trương
của Chính phủ, Ủy ban nhân dân Bà Rịa và Vũng Tàu tập trung vào ba nhiệm vụ
chính: diệt giặc đói, giặc dốt và chống giặc ngoại xâm.
3. Đoàn kết, quyết tâm đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lƣợc (1946 – 1975)
Ngày 9/02/1946, Pháp trở lại tái chiếm Bà Rịa và Vũng Tàu. Nhiều tấm
gương chiến đấu và hy sinh vô cùng anh dũng đã cổ vũ cuộc kháng chiến chống
Pháp của quân và dân Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời kỳ này. Theo sự chỉ đạo của
10
Xứ ủy, Tỉnh ủy Bà Rịa được thành lập tháng 4/1947. Tại Hội nghị đại biểu lần thứ
hai diễn ra vào tháng 12/1949 họp tại Bưng Riềng đã chủ trương tiếp tục xây dựng
căn cứ địa toàn diện, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, phát triển chiến
tranh du kích, phát triển cơ sở trong vùng tạm chiếm và khu tập trung.
Tỉnh ủy Bà Rịa được thành lập lại tháng 10/1954, tiếp tục triển khai thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam
(1/1959), giành chính quyền về tay nhân dân. Cùng với quần chúng, bộ đội tỉnh
đồng loạt tiến công bót hiến binh, đồn bảo an Bình Ba mở màn cho phong trào
Đồng Khởi nổi dậy trong toàn tỉnh. Sau chiến thắng Bình Ba, phong trào nổi dậy
diệt ác phá kềm phát triển mạnh, mở rộng vùng giải phóng và mở rộng quyền làm
chủ của nhân dân.
Tỉnh Bà Biên được Trung ương Cục quyết định thành lập tháng 6/1963, xác
định nhiệm vụ chính trị trọng tâm của toàn Đảng bộ lúc này là chống phá ấp chiến
lược, mở Bến Lộc An, xây dựng kho bãi, chọn người, mở đường trên biển ra miền
Bắc đưa vũ khí về miền Đông Nam bộ.
Cuối năm 1963, tỉnh Bà Rịa và Biên Hòa được tách ra, nắm thời cơ trong lúc
các tướng lĩnh ngụy làm đảo chính, giết chết Diệm - Nhu (1/11/1963), Tỉnh ủy chỉ
đạo các huyện phát động quần chúng, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công, phá rã,
phá lỏng trên 80 % ấp chiến lược góp phần to lớn vào việc chuẩn bị chiến trường,
phối hợp với lực lượng chủ lực giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Bình Giã
1964-1965.
Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột (3/1975), hàng loạt các tỉnh Tây Nguyên và
Trung bộ được giải phóng. Bộ chính trị Trung ương Đảng hạ quyết tâm mở cuộc
tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất. Thành ủy
thành phố Vũng Tàu và Tỉnh ủy Bà Rịa-Long Khánh được Trung ương Cục quyết
định trực thuộc Khu ủy miền Đông để trực tiếp chỉ đạo việc giải phóng ba địa bàn
quan trọng của miền Đông Nam Bộ. Lực lượng vũ trang địa phương đã cùng với sư
đoàn Sao Vàng nổ súng tấn công vào chi khu Đức Thạnh và thị xã Bà Rịa, mở màn
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngày 27/4/1975, ta cơ bản làm chủ thị xã Bà Rịa và hầu hết địa bàn các
huyện Xuyên Mộc, Long Đất, Châu Đức. Địch đánh sập cầu Cỏ May, tử thủ Vũng
Tàu. Đêm 28, rạng sáng 29/4/1975, quân và dân Bà Rịa - Vũng Tàu sát cánh cùng
sư đoàn Sao Vàng chia làm hai mũi, vượt sông Cỏ May và Cửa Lấp, tiến về giải
phóng Vũng Tàu. Đúng 13 giờ 30 ngày 30/4/1975, bọn sỹ quan ngoan cố nhất cố
thủ ở khách sạn Palace đã kéo cờ trắng ra hàng, cuộc tổng tấn công và nổi dậy của
quân và dân Bà Rịa - Vũng Tàu và sư đoàn Sao Vàng anh hùng đã kết thúc hoàn
toàn thắng lợi.
Ngày 30-5-1979, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại
kỳ họp thứ 5, khóa VI đã ra Nghị quyết thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo,
11
gồm thị xã Vũng Tàu, xã đảo Long Sơn thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện Côn Đảo
thuộc tỉnh Hậu Giang với những nhiệm vụ quan trọng về du lịch, dịch vụ phục vụ
dầu khí, hải sản và an ninh quốc phòng. Đảng bộ Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo
được thành lập theo Quyết định số 41 ngày 21-6-1979 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng trên cơ sở hợp nhất các Đảng bộ: Đảng bộ thị xã Vũng Tàu, Đảng bộ huyện
Côn Đảo thuộc tỉnh Hậu Giang và Chi bộ xã Long Sơn thuộc tỉnh Đồng Nai với
620 Đảng viên.
4. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phấn đấu xây dựng quê
hƣơng ngày một giàu mạnh
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được thành lập theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc
hội khoá VIII, ngày 12-8-1991, trên cơ sở Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và ba
huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc của tỉnh Đồng Nai. Ngay sau khi tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu được thành lập, Bộ Chính trị đã có quyết định số 64/QĐ-TW
ngày 25-9-1991 thành lập Đảng bộ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Từ năm 1991 đến nay,
Đảng bộ tỉnh đã tiến hành 06 kỳ Đại hội với những quyết sách quan trọng trong
việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà. Từ khi thành lập tỉnh,
Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nỗ lực phấn đấu,
đoàn kết một lòng, biến vùng quê nghèo, giàu truyền thống cách mạng, trở thành
địa phương có bước phát triển vượt bậc trên nhiều lĩnh vực.
Năm 2015, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục gặp nhiều
khó khăn, thách thức, nhưng với tinh thần đoàn kết, nhất trí và quyết tâm cao của
Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và cộng đồng các doanh nghiệp, tình hình kinh tế -
xã hội của tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tiếp tục chuyển biến tích cực, kết quả đạt được
khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Về kinh tế, phần lớn các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đạt, vượt kế hoạch đề ra.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trừ dầu khí đạt 6,55%; sản xuất công nghiệp trừ dầu khí
tăng trưởng khá, ước đạt 7,52%, cao nhất trong 4 năm trở lại đây; dịch vụ cảng tăng
10,2%; xuất khẩu trừ dầu khí ước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 8,4%; kim ngạch nhập khẩu
đạt 3,91 tỷ USD, tăng 33,68%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, giá cả, thị trường
hàng hóa khá ổn định; dự kiến đến hết năm 2015 có 13/43 xã đạt tiêu chí nông thôn
mới, thu nhập bình quân của người dân tại các xã nông thôn mới đạt 33,37 triệu
đồng/năm; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước khoảng 39.431 tỷ đồng, tăng
11,4%.
Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa
- thể thao đƣợc triển khai đồng bộ. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT quốc gia năm
học 2014-2015 đạt 95,8%, tỷ lệ huy động cháu đi nhà trẻ đạt 25% (KH 25%), tỷ lệ
huy động cháu đi mẫu giáo đạt 92,4% (KH 89%), riêng số cháu đi mẫu giáo 5 tuổi
đạt tỷ lệ 98,7%, đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 12 trường học, đến nay có 197
trường đạt chuẩn Quốc gia, chiếm tỷ lệ khoảng 46,5%, triển khai mô hình trường
học mới tại 174 trường tiểu học và THCS với 1.004 lớp và 30.966 học sinh. Khánh
12
thành và đưa vào sử dụng Bệnh viện Đa khoa Bà Rịa, Trung tâm y tế huyện Long
Điền; tổ chức khám, chữa bệnh cho trên 02 triệu lượt người; huy động hiến máu
tình nguyện được khoảng 15.000 đơn vị máu, đạt 100% kế hoạch; tỷ lệ trẻ em trong
độ tuổi được tiêm chủng mở rộng theo chương trình đạt 98%. Thực hiện tuyển mới
dạy nghề cho khoảng 29.000 học viên, đào tạo nghề cho 2.400 lao động nông thôn.
Giải quyết việc làm cho 42.533 lượt lao động, đạt 100% kế hoạch; tổ chức 12 phiên
giao dịch việc làm, có 327 đơn vị và 14.000 lượt người tham dự. Chương trình
giảm nghèo đạt hiệu quả tích cực, số hộ thoát nghèo theo chuẩn Quốc gia là 257 hộ,
đạt 128,5% kế hoạch; số hộ thoát nghèo theo chuẩn tỉnh là 1.257 hộ, đạt 100,6% kế
hoạch; đến nay, tỷ lệ hộ nghèo chuẩn Quốc gia còn là 0,43%; tỷ lệ hộ nghèo chuẩn
tỉnh là 1,17%. Chính sách đối với người có công, công tác bảo trợ xã hội, chính
sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được quan tâm và thực hiện tốt, với
nhiều nội dung cụ thể, thiết thực.
Quốc phòng, an ninh đƣợc giữ vững, trật tự an toàn xã hội đƣợc bảo
đảm, công tác tƣ pháp có nhiều chuyển biến tích cực. Các đơn vị lực lượng vũ
trang trên địa bàn tỉnh đã tăng cường công tác huấn luyện, tuần tra, kiểm soát bảo
vệ, nắm chắc địa bàn; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình
hình trên không, trên biển, đảo và nội địa, tuần tra canh gác bảo vệ an toàn địa bàn,
góp phần giữ vững tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội; đảm bảo kịp
thời, đầy đủ các thiết bị kỹ thuật cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu,
huấn luyện, diễn tập và các hoạt động khác; hoàn thành công tác tuyển quân năm
2015 đạt 100% chỉ tiêu đề ra. Thành lập Ban Chỉ đạo Xây dựng phong trào phòng
cháy chữa cháy và cứu hộ, cứu nạn. Các cấp, các ngành phối hợp tham mưu, xử lý,
giải quyết các vụ khiếu nại đông người, phức tạp giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Công tác cải cách tư pháp có nhiều chuyển biến tích cực; công tác điều
tra, truy tố , xét xử , thi hành án hình sự , dân sự , đào tạo , bồi dưỡng đội ngũ thẩm
phán, điều tra viên , kiểm sát viên , chấp hành viên được tăng cường , góp phần
phòng, chống oan sai và bỏ loṭ tôị phaṃ, bảo đảm các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.
Công tác xây dựng Đảng được tăng cường và đạt kết quả tích cực, nổi bật
là việc tổ chức thành công đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
(nhiệm kỳ 2015-2020); hệ thống chính trị tiếp tục được kiện toàn, đáp ứng được
yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên;
khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc. Công tác xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị
“về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”, rà soát việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và đề ra giải pháp
khắc phục. Xem đây là giải pháp quan trọng để khắc phục và phòng chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức. Cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của cấp mình. Công tác phát
13
triển đảng và đảng viên đạt nhiều kết quả, tính đến ngày 15/10/2015 đã kết nạp
1.133 đảng viên mới, đạt 3,41% so với tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ; trong
đó kết nạp 38 đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
* *
*
Tự hào hơn 86 năm truyền thống của Đảng Cộng sản Việt Nam và thành tựu
đạt được trong 25 năm qua từ khi thành lập tỉnh (1991), cùng với sự lãnh đạo, chỉ
đạo sát sao của Ðảng và Nhà nước, sự giúp đỡ của các bộ, ban, ngành, Ðảng bộ,
chính quyền, quân và dân tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu tiếp tục phát huy tinh thần đoàn
kết, vượt mọi khó khăn, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội đại biểu
Ðảng bộ tỉnh lần thứ VI.
Tự hào bao nhiêu về Đảng quang vinh, chúng ta càng tự hào về Bác Hồ vĩ
đại, bấy nhiêu. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, mỗi người dân
càng thấy rõ hơn bao giờ hết trách nhiệm to lớn và nặng nề là tiếp tục làm cho
Đảng ta mãi mãi xứng đáng là ngọn cờ tiên phong của giai cấp và của dân tộc, giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng và củng cố niềm tin yêu của nhân dân để nhanh
chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Để làm được điều đó, Đảng ta phải không ngừng tự đổi mới,
tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo về mọi mặt để đủ sức lãnh đạo cách mạng
nước ta phát triển không ngừng. Đó không chỉ là yêu cầu tự thân của Đảng, mà còn
là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_cuong_tuyen_truyen_3_2_2016_kem_huong_dan_08_3721.pdf