Đề cương ôn thi tốt nghiệp trung cấp chính trị

Tài liệu Đề cương ôn thi tốt nghiệp trung cấp chính trị: KHỐI KIẾN THỨC I Câu 1: Phân tích biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. K/N: CSHT là tổng hợp những quan hệ xã hội tạo thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhật định. KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, với những thể chế tương ứng nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Như vậy CSHT hình thành 1 cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã hội, trong xã hội có giai cấp cơ sở hạ tầng cũng có giai cấp. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: - Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng ( CSHT) đối với kiền trúc thượng tầng ( KTTT). + CSHT nào sinh ra KTTT ấy + KTTT là sự phản ánh CSHT, CSHT nào cũng có sự phát triển KTTT tương ứng tính chất của KTTT do tính chất của CSHT quy định. + Khi CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũ mất đi, KTTT mới ra đời đảm bảo sự tương ứng của nó. + Trong xã hội có giai cấp, giai c...

doc21 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 12575 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề cương ôn thi tốt nghiệp trung cấp chính trị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHỐI KIẾN THỨC I Câu 1: Phân tích biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. K/N: CSHT là tổng hợp những quan hệ xã hội tạo thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhật định. KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, với những thể chế tương ứng nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Như vậy CSHT hình thành 1 cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã hội, trong xã hội có giai cấp cơ sở hạ tầng cũng có giai cấp. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: - Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng ( CSHT) đối với kiền trúc thượng tầng ( KTTT). + CSHT nào sinh ra KTTT ấy + KTTT là sự phản ánh CSHT, CSHT nào cũng có sự phát triển KTTT tương ứng tính chất của KTTT do tính chất của CSHT quy định. + Khi CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thì sớm hay muộn KTTT cũ mất đi, KTTT mới ra đời đảm bảo sự tương ứng của nó. + Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì chiếm địa vị thống trị tinh thần mâu thuẫn trong đời sống kinh tế quy định tính chất, mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế. - Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT. + Trong bất kỳ tình huống nào KTTT cũng ra sức bảo vệ và phát triển CSHT đã sinh ra nó trong đó nhà nước là mạnh nhất gần CSHT nhất và bảo vệ CSHT trực tiếp nhất. + Trong XH có giai cấp, KTTT có vai trò định hướng cho CSHT hoạt động theo nhu cầu, mục đích của GC thống trị trong đó KTTT chính trị giữ vai trò định hướng cho sự phát triển kinh tế. + Các bộ phận của KTTT cũng tác động trở qua lại lẫn nhau và đều tác động qua lại đối với CSHT nhưng các bộ phận đó chỉ thực sự phát huy tác dụng hiệu lực thông qua nhà nước, pháp luật và các thể chế tương ứng. + Sự tác động trở lại của KTTT với CSHT theo 2 hướng đó là sự tác động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, CSHT phát triển. Nếu không phù hợp thì sẽ cản trở kìm hãm sự phát triển của kinh tế thạm chí đẩy nền kinh tế rơi vào trạng thái cải tạo khủng hoảng trầm trọng. Câu 2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn *Khái niệm về thực tiễn: là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất, có mục đích chung mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Thực tiễn không phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất – cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. VD Hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, đắp đê, cày ruộng,v.v Thực tiễn là những hoạt động có tính LS-XH. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định. Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn. VD Đào một cái ao, mục đích của đào ao là để nuôi cá. *Các Hthức của thực tiễn Có ba hthức thực tiễn cbản Một là, sản xuất vật chất. Đó là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người. Hai là, những hoạt động chính trị-xã hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, mít tinh, biểu tình ... Ba là, hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức đặc biệt, bởi lẽ trong thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào nhận thức và cải tạo thế giới. VD Muốn tìm ra một loại giống lúa tốt thì phải đưa vào thực nghiệm khoa học (dùng phương pháp lai, khi đạt được lúa giống tốt thì mới đưa ra ngoài xã hội áp dụng. Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất. *Khái niệm về lý luận: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận có những đặc trưng Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ. Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận. Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất, hiện tượng Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong mối quan hệ đó được thể hiện ở hai vai trò cụ thể như sau: - Vai trò của thực tiễn đối với lý luận: Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Ví dụ: chính đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hilạp-cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, pitago, ra đời. Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách khác, thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức phát triển. VD dịch cúm gà H5N1 đặt ra cho nhân loại nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo vắcxin cho loại dịch cúm này. Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan cho con người và thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu quả hơn. VD thông qua sản xuất, chiến đấu những cơ quan cãm giác như thích giác, thị giác,được rèn luyện. các cơ quan cảm giác rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại, ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn, nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng. Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận, muốn biết một tri thức, ý tưởng nào đó có đạt tới chân lý khách quan hay không nên đưa tri thức, ý tưởng đó vào thực tiễn để kiểm nghiệm. VD: để giảm thiểu số người chết do tai nạn giao thông nhà nước ta quy định người tham gia giao thông khi ngồi trên xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm. qua thời gian thực hiện đã làm giảm được số lượng người chết do tai nạn giao thông điều đó chứng tỏ quyết định này của nhà nước ta là đúng đắn. - Vai trò của lý luận đối với thực tiễn : Mặt dù thực tiễn đóng vai trò quyết định lý luận, thế nhưng khi hình thành lý luận có vai trò tác động tích cực trở lại đối với hoạt động thực tiển, sự tác động thường diễn ra theo hai hướng sau: Nếu lý luận khoa học cách mạng tiến bộ thì nó soi đường dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn, nó vạch ra phương hướng đề ra mục tiêu cho hoạt động thực tiển, làm cho hoạt động con người trở nên chủ động tự giác hơn, hạn chế tình trạng mò mẫm tự phát. VD: Công cuộc cải cách đối với nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trước hết là nhờ có lý luận đúng đắn soi đường. Căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước, Đảng ta đã vận dụng, sáng tạo lý luận CN Mác-Lênin vào xây dựng nhà nước XHCN, tập trung được sức người, sức của của toàn dân tộc đưa nền KT nước ta từ nghèo nàn lạc hậu sang giai đoạn phát triển mới, giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá từng bước hội nhập kinh tế thế giới. Ngược lại nếu lý luận lâc hậu phản khoa học, phản cách mạng thì sẽ làm kiềm hãm thực tiễn, thậm chí làm cho hoạt động thực tiễn bị lệch hướng. Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thiết phục, động viên quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiển rộng lớn của đông đảo quần chúng. Lý luận đóng vai trò định hướng cho hoạt động thực tiển giúp hoạt động thực tiển bớt mò mẫm, vòng vo, tự giác hơn. Câu 3: Phân tích những ưu thế của sản xuất hàng hóa? Sản xuất hàng hoá có ưu thế sau: Thứ nhất, sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất, do đó nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xh, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như của từng vùng, từng địa phương khi sản xuất và trao đổi hàng hoá mở rộng giữa các quốc gia thì nó còn khai thác được lợi thế của mỗi quốc gia đối với nhau. Lợi thế về điều kiện tự nhiên: quy hoạch phát triển của từng vùng, phải tính đến hướng đột phá, đòi hỏi sự sáng tạo của từng vùng, mang tính chất đặc trưng của từng vùng. VD: Các khu vực có điều kiện tự nhiên ưu đải như ĐBSCL, chính phủ quy hoạch cho SX lúa nước hoặc nuôi trồng thủy hải sản, tùy điều kiện có thể điều chỉnh quy hoạch để tận dụng ưu đải tự nhiên. Lợi thế về điều kiện XH: yếu tố nổi bật là yến tố văn hóa như: Hàng thủ công mỹ nghệ, tranh đông hồ, nón lá, áo dài Việt Nam gắn liền với nền VH dân tộc của nước việt Nam. Do đó, cần khai thác những nét đặc trưng của nền SXHH. VD: Có thể dựa vào nét VH để khai thác ĐKXH. Khách du lịch nước ngoài đến VN thường mua các sản phẩm thủ công mỹ nghệ để làm quà lưu niệm như áo dài, nón lá, Lợi thế về điều kiện kỹ thuật: Những nơi nào có trình độ kỹ thuật cao thì nơi đó sẻ phát triển nhiều. VD: thành phố HCM đang xây dựng phần mềm công nghệ Quang Trung. Thứ hai, Trong nền SXHH, quy mô, tính chất, tổ chức SX kg bị giới hạn chật hẹp mà nó được mỡ rộng xã hội hóa ngày càng cao dựa trên cơ sở ngày càng tăng nhu cầu và nguồn nhân lực XH. Điều đó tạo điều kiện ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy sản xuất phát triển. VD: trang phục chúng ta đang mặc là một quá trình cải tiến của con người theo nhu cầu của con người. Hay do nhu cầu đi lại của con người cần nhanh hơn, nên đã sx ra xe hơn, máy bay, tàu vũ trụ, Thứ ba, trong nền SXHH, sự tác động của những quy luật vốn có của SX và trao đổi hàng hóa như quy luật giá trị, cung-cầu, cạnh tranh, buộc người SX phải luôn năng động, nhạy bén, tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa SX, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả KT. Thứ tư, SXHH phát triển trở thành một trong những điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho mọi người dân. Câu 4: Phân tích nội dung, tác động của Quy luật giá trị Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị - Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. - Yêu cầu của quy luật giá trị: + Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa + Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được chi phí chí người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết, chứ không phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng. - Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó hình là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. Tác động của quy luật giá trị -   Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.          Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác lộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu. *     Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng. *     Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng. *    Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta thường gọi là “bão hòa”. Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên biến động liên tục. Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị. + Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt. Như vậy, sự biến động của giả cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá. -      Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. -    Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo. Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó. Câu 5: Phân tích những điều kiện khách quan, chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Học thuyết Mác – Ăngghen về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là luận chứng khoa học về địa lý, kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân về mục tiêu và con đường để giai cấp ấy hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Và sứ mệnh ấy được quy định bởi điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan, cụ thể như sau. - Điều kiện khách quan: Thể hiện ở 3 nội dung. + Thứ nhất, do quy định của địa vị KT – XH của giai cấp công nhân GCCN trong nền công nghiệp hiện đại với năng xuất lao động ngày càng cao đã tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật để GCCN xây dựng CNXH. Nền công nghiệp hiện đại đã rèn luyện cho GCCN có những đặc điểm riêng mà những giai cấp khác không có được. Nền công nghiệp hiện đại đòi hỏi GCCN ngày càng nâng cao trình độ không ngừng đó cũng là một điều kiện trực tiếp nhất cung cấp ngày càng nhiều tri thức cho GCCN. Khi nền công nghiệp hiện đại ngày càng phát triển, làm biến đổi cơ cấu KT, kỹ thuật, từng bộ phận nông dân, trí thức tiến bộ ngày càng gắn bó với GCCN làm cho giai cấp này ngày càng đông đủ, hiện đại hơn. VD: Trước đây sử dụng Trâu kéo cày nên năng suất lao động không cao. Từ sau năm 1986, với chủ trương CNH – HĐH người nông dân đã tiếp nhận và ứng dụng những sản phẩm công nghiệp vào trong nông nghiệp nên năng suất tăng vọt. + Thứ hai, Những tiền đề vật chất của chủ nghĩa Tư bản và sự vận động của mâu thuẩn Tư bản về phương thức sản xuất TBCN. Xã hội hóa sx là tiền đề quan trọng nhất đã thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sx TBCN. Trong chế độ TBCN mâu thuẫn khách quan giữa LLSX và QHSX ngày càng gay gắt, biểu hiện về mặt XH là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp Tư sản, để giải quyết mâu thuẫn này chỉ có thể tiến hành làm một cuộc CM do GCCN lãnh đạo, điều đó là một đòi hỏi khách quan. + Thứ ba, mâu thuẫn về lợi ích cơ bản của GCCN và GCTS tất yếu dẫn đến sứ mệnh lịch sử của GCCN. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết bằng việc thực hiện nội dung chính trị trong sứ mệnh lịch sử của GCCN là phải: Lật đổ chủ nghĩa Tư bản; Xóa bỏ chế độ áp bức bót lột; Từng bước xác lập QHSX xã hội chủ nghĩa. - Điều kiện chủ quan: Có 3 vấn đề cần lưu ý. + Thứ nhất, Sự phát triển của GCCN. Nói đến sự phát triển của GCCN là nói đến sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. ++ Sự phát triển về số lượng: Là lượng công nhân trong tổng số lao động xã hội và cơ cấu công nhân phân bổ trong các ngành sản xuất. ++ Sự phát triển về chất lượng: Do trưởng thành trong nền công nghiệp hiện đại buộc người công nhân phải nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ KHKT để đáp ứng được nhu cầu phát triển của TLSX ngày càng cao. Tính tự giác XHCN và Chủ nghĩa Mác Lê nin làm cho lập trường giai cấp vững vàng. + Thứ hai, ĐCS là nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN. Giữa ĐCS và GCCN có mối quan hệ mật thiết với nhau. GCCN coi ĐCS là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời của Đảng là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp. Còn ĐCS coi GCCN là cơ sở hàng đầu. Quan hệ giữa ĐCS và GCCN là mối quan hệ máu thịt. Điểm phân biệt giữa ĐCS và GCCN đó là trình độ giác ngộ chính trị, năng lực lãnh đạo và tính tiền phong gương mẫu. Từ đây có thể khẳng định ĐCS là nhân tố quyết định sự thành công sứ mệnh lịch sử của GCCN toàn thế giới. + Thứ ba, Vai trò của ĐCS trong quá trình lãnh đạo GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử. ĐCS, Đảng tiên phong của GCCN trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử, được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. ĐCS là nhân tố chủ quan hàng đầu lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GCCN. Vì ĐCS là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu, là đội tiên phong của GCCN và nhân dân lao động. Do đó Đảng thường xuyên được XD vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tóm lại, GCCN tất yếu có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, bốc lột trong các cuộc đấu tranh, từng bước xóa bỏ CNTB và xây dựng thành công CNXH và tiến đến CNCS. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của mình thì GCCN phải được phát triển về số lượng, chất lượng và tập trung nêu cao vai trò của ĐCS trong quá trình lãnh đạo GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Câu 6: Phân tích những nội dung cơ bản của liên minh công – nông – trí thức trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên minh công – nông – trí thức thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ba nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, Nội dung chính trị: - Là sự đoàn kết của lực lượng liên minh công – nông – trí thức để thực hiện các nhiệm vụ chính trị nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ chính trị, giữ vững định hướng CNXH. - Là việc giữ vững lập trường chính trị, tư tưởng của GCCN, đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo của GCCN đối với khối liên minh trong quá trình xây dựng bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và định hướng XHCN. Trong TKQĐ lên CNXH phải từng bước XD và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo các lợi ích chính trị, các quyền công dân, quyền dân chủ, quyền làm chủ, quyền con người của GCCN, tầng lớp trí thức và nhân nhân dân lao động. Từ đó thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân. ( xét về bản chất chính trị, nền dân chủ là của GCCN và nhân dân lao động; xét về nền kinh tế là công hữu TLSX). - Là động viên các lực lượng trong khối liên minh gương mẫu chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ những thành quả CM, bảo vệ chế độ XHCN, cương quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại với mọi hình thức, chống âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch và phản động. Tóm lại: Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, nền chính trị bị đe doạ thì chúng ta phải đoàn kết lại, phải liên minh mọi tầng lớp giai cấp lại để bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Thứ hai, Nội dung kinh tế. Đây là nội dung cơ bản nhất, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nó được cụ thể hóa ở những điểm sau đây: + Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng KT của cả nước và sự hợp tác quốc tế, từ đó xác định đúng cơ cấu KT gắn liền với nhu cầu KT của công – nông – trí thức và toàn xã hội. + Phải tổ chức các hình thức giao lưu hợp tác, liên kết KT, công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ giữa các ngành KT, các thành phần KT, các vùng KT, giữa trong nước và quốc tế để phát triển SX kinh doanh nâng cao đời sống cho công – nông – trí thức và toàn xã hội. + Phải nâng cao hiệu quả chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình SX nông nghiệp và công nghiệp nhằm gắn kết chặt chẽ 3 lĩnh vực KT cơ bản của quốc gia qua đó gắn bó chặt chẽ công – nông – trí thức làm cơ sở cho KT – XH và cho sự phát triển của quốc gia. VD: Việc chuyển giao và ứng dụng máy gặt đập liên hợp vào trong nông nghiệp, giúp người nông dân giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Việc này giúp GC nông dân sít lại gần hơn với GCCN và tầng lớp trí thức. Thứ 3: Nội dung văn hóa XH Nội dung văn hóa XH của liên minh thực chất là sự đoàn kết hợp lực của liên minh công – nông – trí thức nhằm XD nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Nội dung VH – XH của liên minh là đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp giữa tăng trưởng KT với phát triển VH, tiến bộ, công bằng xã hội, XD nền VH mới XHCN; bảo vệ môi trường sinh thái, XD nông thôn mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong đó GCCN và tầng lớp trí thức là nguồn lực quan trọng nhất và cơ bản nhất của quốc gia. Liên minh trên lĩnh vực VH – XH đòi hỏi phải thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt các chính sách XH, phải nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân trong liên minh nhằm đảm bảo cho liên minh thực hiện tốt nội dung cơ bản của mình trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Tóm lại, để liên minh Công – Nông – Trí hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử của mình thì liên minh phải biết kết hợp và vận dụng tốt các nội dung kinh tế, chính trị, VHXH; đồng thời phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của NN và của các tổ chức CT XH nhằm tăng cường tính liên minh để khối liên minh thật sự là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Câu 7: Phân tích nội dung TTHCM về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. CT HCM xác định mục tiêu chiến lược độc lập DT gắn liền với CNXH ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (3/2/1930), Người đã khẳng định: CMVN phải trải qua hai gđoạn CMDT dân chủ và CMXHCN. Theo quan điểm biện chứng của Người các giai đoạn của CMVN có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau giai đoạn trước gây những mầm mống cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kế tiếp giai đọan trước. Qua đó chúng ta tìm hiểu về nội dung TTHCM về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Thứ nhất, Quan niệm của HCM về độc lập dân tộc. Theo tư tưởng HCM, độc lập dt phải là 1 nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ về chính trị, kinh tế, VH, AN, QP. Độc lập dân tộc phải gắn với quyền tự quyết của dt trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại, CT HCM đã khẳng định: VN độc lập phải trên ngtắc nước VN của người VN. Độc lập dt là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, mọi người phải có trách nhiệm giữ gìn, bất kể thế lực nào vi phạm vào quyền thiêng liêng ấy đều bị đánh đổ và “quét” sạch ra khỏi bờ cõi VN. Bất kể ai bán rẽ quyền thiêng liêng này điều bị trừng trị trước PL. Độc lập dt phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân, bởi vậy nếu nước nhà được độc lập mà không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập củng chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ biết rõ gía trị của tự do của độc lập, khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Khi nước độc lập phải đi đến dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành. Đi đến 4 điều đó để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập. Chỉ có độc lập dt thực sự trong 1 nền hòa bình chân chính và chỉ có hòa bình mới có độc lập dt. Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc lập dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với CN quốc tế. Hiện nay trên thế giới vẫn còn 1 số nước tuy độc lập nhưng chưa thật sự độc lập vẫn còn phụ thuộc các nước khác về kt, chính trị như Triều Tiên, Nhật Bản, IRắc... Cũng theo tư tưởng HCM, CNXH là 1 chế độ do nông dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thứ hai, quan niệm của HCM về CNXH. CNXH là 1 XH có nền kt phát triển cao dựa trên lực lượng SX hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến và chế độ công hữu về TLSX chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân mà trước hết là nhân dân lao động. CNXH là 1 XH phát triển cao về vhóa, đạo đức, trông đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em. Con người được giải phóng khỏi ấp bức, bóc lột có cuộc sống v chất, tinh thần phong phú được tạo đkiện để phát triển mọi khả năng sẵn có của mình. CNXH là 1 nền XH công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, ko làm ko hưởng, các dt điều bình đẳng, miền núi tiến kịp tới miền xuôi. CNXH là 1 công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự XD dưới sự Lđạo của ĐCS. Thứ ba, mối quan hệ giữa ĐLDT và CNXH trong TTHCM. Giành độc lập dt để đi lên CNXH. Điều này khác với những bác tiền bối yêu nước trước đó, họ đề cập đến giàng độc lập dt mà chưa gắn bó giữa độc lập dt với tiến bộ XH, với CNXH. Theo tư tưởng HCM, để có được độc lập cho dt, tự do hạnh phúc cho toàn thể nhân dân ko có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, Bởi vì CNXH là 1 XH hết sức tốt đẹp do nhân dân tự dựng lên dưới Lđạo của Đảng, 1 XH dân chủ, công bằng, bình đẳng mà ở đó con người sống dung hòa với nhau và được giải phóng triệt để. Độc lập dt gắn liền với CNXH, CM giải phóng dt thuộc địa gắn liền vóa CMVS 9 quốc. Người đã đưa CM giải phóng dt VN hòa vào dòng chảy CM thời đại, đó là nguồn cội cho mọi thắng lợi của CM VN. CMVN ko thể là 1 cuộc CM đơn độc mà phải là 1 bộ phận của CM thế giới, phải đoàn kết với tất cả các dt thuộc địa trên thế giới, qua đó ta mới có thể nắm bắt thời cơ, thông tin phục vụ cho CM thành công. Mùa thu năm 1945 Đảng ta có chỉ thị “ Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và CM giải phóng dt VN đã thành công, nhà nước VN dân chủ cộng hòa đã được thành lập. Giành độc lập dt là mục tiêu trực tiếp, trước hết là tiền đề đi lên CNXH. Con đường giải phóng dân tộc phát triển đất nước của CTHCM dù diển đạt từ ngữ khác nhau trong mõi thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng có hai yếu tố ĐLDT và CNXH . hai yếu tố này tạo nên nội dung hoàn chỉnh của con đường CMVN và nó có mối quan hệ chặt chẻ với nhau Quá trình giải quyết mâu thuẩn chủ yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc thực hiện đọc lập dân tộc cũng là quá trình tạo các tiền đề trên tất cã các mặt về KT,CT,VHXH, để đưa dân tộc đi lên CNXH, thực hiện bước toàn diện của đất nước. Xây dựng CNXH là tạo ra những cơ sở để giữ vững và phát triển độc lập dân tộc. Theo HCM ĐLDT là mục tiêu là tiền đề đi lên CNXH là phương hướng tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là mục tiêu của CMVN. CMXHCN làm cho CM dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho nền ĐLDT được giữ vững và ngày càng chũng cố và phát triển. XD thành công CNXH thì dt có tiềm lực mạnh về kt, 9 trị, QP, địa vị 9 trị trên trường qtế được nâng cao, từ đó bvệ vững chắt thành quả CM và nền độc lập dt. CT HCM chỉ ra những đkiện để độc lập dt gắn liền với CNXH ở VN, trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh 3 đkiện. Một là: xác lập, giữ vững và phát huy vai trò Lđạo của Đảng, đây là đkiện kiên quyết. HCM xác định cách mệnh “ trước hết phải có đảng cách mệnh” để giữ vững và phát huy vai trò Lđạo của Đảng trong suốt qtrình CM, Người luôn lưu ý Đảng phải định ra đường lối đúng đắn, thường xuyên hoàng chỉnh đường lối CM của mình, phải XD, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngủ cán bộ đảng viên thật sự trong sạch vững mạnh, Lđạo giành 9 quền và XD cho được 1nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân để tổ chức, QL toàn dt đi lên CNXH là bvệ vững chắc tổ quốc là những nhiệm vụ rất khó khăn đòi hỏi phải có Đảng mạnh và đội ngủ cán bộ đảng viên thực sự là người Lđạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Hai là XD củng cố tăng cường liên minh gccn với gcnd và đội ngủ trí thức làm nền tảng XD khối đại đoàn kết toàn dt. Theo HCM công – nông –trí thức là gốc, là nền tảng của CM. Thực hiện độc lập dt tiến lên CNXH phải XD lực lượng CM của toàn dt, trên cơ sở XD khối liên minh công – nông- trí thức vững chắc, làm gốc, làm nền, Người chủ trương và thực hiện đkiện rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài mõi giai tầng, dt, TG và các ca nhân trong cộng đồng dt VN, ko bỏ sót bất kể là ai là người yêu nước để hình thành lực lượng CM to lớn nhất của toàn dt, thực hiện độc lập dt và CNXH. Ba là: thường xuyên gắn bó CM VN với CM thế giới. Khi xác định con đường CMVN, ngay từ đầu HCM đã xác định CMVN là 1 bộ phận của CM thế giới trước HCM, chưa có người VN yêu nước nào xác định rõ như vậy. Là 1 bộ phận CM thế giới, CMVN có mối q hệ hữu cơ, biện chứng với CM thế giới theo Người, CMVN phải chủ động hoàn thành nhiệm vụ của mình và góp phần xứng đáng vào CM thế giới. Bởi vậy từ rất sớm, Người chủ trương làm CM phải tự lực, tự cường, tự chủ ko ỷ lại. Người cho rằng, 1 dt ko tự lực, tự cường, tự chủ thì dt đó ko xứng đáng được hưởng độc lập, tự do. Mặt khác, Người chỉ rõ: CMVN là 1 bộ phận CM thế giới thì củng phải biết tranh thủ sức mạnh của CM thế giới, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của các lưc lượng CM thế giới làm tăng sức mạnh của mình để vượt qua khó khăn, chiến thắng kẻ thù, đưa CM đến thành công. HCM khẳng định, ba đkiện này cũng là ba bài học lớn của CMVN mà cán bộ, đảng viên phải nắm vững và luôn thực hiện tốt./. Câu 8: Phân tích nguyên tắc phương pháp đại đoàn kết dân tộc theo TTHCM. Theo Đ/c cần làm gì để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở tỉnh BL trong gian đoạn hiện nay? Đại đoàn kết xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng nhân dân tiến hành và vì lợi ích của quần chúng. Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ đường lối chiến lược của cách mạng. *Theo tư tường HCM đại đoàn kết dân tộc có các nguyên tắc sau: - Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo những lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân lao động và quyền thiêng liêng của mỗi con người. +Hồ Chí Minh đã tìm ra mẫu số chung để đoàn kết toàn dân tộc, đó là độc lập, tự do. Người khẳng định: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng +Ta thường thấy trong mỗi dân tộc có mối quan hệ lợi ích của cá nhân với tập thể, giai cấp với dân tộc, quốc gia với quốc tế, đây là các mối quan hệ chồng chéo với nhau, để đoàn kết các dân tộc lại với nhau phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích này. Theo HCM là phải đặt lợi ích cái chung lên trên lợi ích cái riêng. Ví dụ: giai đoạn 1945 là giai đoạn chiến tranh bùng nổ ở Việt Nam, Bác chủ trì hội nghị trung ương 8, Bác đã giải quyết được các mối quan hệ lợi ích của dân tộc lên trên dẫn đến thắng lợi cách mạng tháng 8 năm 1945. -Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. +Nguyên tắc này là vừa là sự kế thừa tư duy chính trị truyền thống của dân tộc “dân là gốc của nước”, vừa là sự quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. HCM cho rằng: dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết. Dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của khối đại đoàn kết. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng cộng sản và hệ thống chính trị. -Thứ ba, đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ. +Đại đoàn kết theo tư tưởng HCM là đoàn két trên lập trường vô sản, theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là một tập hợp tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nền tảng là khối liên minh công-nông-trí thức. +Nó không phải là một tổ chức lõng lẽo mà phải là một tổ chức kết hợp chặt chẽ tập hợp mọi lực lượng và xúc tiến thành lập các hội phù hợp với các đối tượng trong xã hội như: hội Thanh niên, hội Nông dân, hội Phụ nữ, hội Cựu chiến binh... -Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái, đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê bình. + Ngoài những điểm chung, mục tiêu chung thì họ vẫn có những yếu tố riêng biệt, ta phải hài hòa giữa cái chung lấy tinh thần phê bình và tự phê bình để làm cho mọi người phát triển và hoàn thiện hơn, gắn kết chặt chẽ với nhau hơn. *Theo tư tường HCM phương pháp đại đoàn kết dân tộc cụ thể như sau: - Phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục. +Tuyên truyền, vận động, giáo dục thuyết phục nhằm thức tỉnh mọi người, để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đoàn thể trong Mặt trận. +Nội dung tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng phải phản ánh đúng quyền lợi cơ bản nhất của dân tộc và nguyện vọng chung của toàn dân tộc. +Nội dung tuyên truyền giáo dục vận động phải phản ánh đúng tâm lý, tình cảm, nhận thức của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. +Sử dụng các hình thức tuyên truyền giáo dục vận động quần chúng đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, mà HCM là một mẫu mực. +Người làm công tác tuyên truyền phải là tấm gương sáng về đạo đức, đoàn kết, mẫu mực từ lời nói đến việc làm, tận tụy vì dân vì nước. - Phương pháp tổ chức. +Để xây dựng khối đại đoàn kết trước tiên phải đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp để hướng dẫn họ đấu tranh cách mạng. để đưa quần chúng vào tổ chức cần phải tổ chức và xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị bao gồm: Đảng, nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Vì đây là vấn đề quan trọng nhất trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. +Là hạt nhân lãnh đạo khối đại đòan kết, HCM yêu cầu Đảng phải đề ra được đường lối đại đoàn kết đúng đắn, Đảng phải đòan kết, thống nhất cả trong tư tưởng lẫn hành động, từ trên xuống dưới, Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, tực giác, đảng viên là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giứ gìn con ngươi của mắt mình. -Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ. +Trong một cuộc đấu tranh cách mạng thường được chia thành 3 trận tuyến: Trận tuyến cách mạng, trận tuyến trung gian, trận tuyến phản cách mạng. Đối với lực lượng CM, nồng cốt là liên minh C-N-TT , sự đoàn kết , thống nhất của LLCM là điều kiện tiên quyết giúp cho CM thành công. Đối với lực lượng trung gian, phương pháp đại đoàn kết (DDK) của HCM là xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, chân thành hợp tác, trọng dụng những người có tài, có đức giúp dân, giúp nước. Đối với các thế lực thù địch, phản CM, Phương pháp DDK của HCM là chủ động kiên quyết tấn công tiêu diệt trên cơ sở phân hóa, cô lập chúng đến cao độ. Kết hợp đồng bộ các giải pháp ứng xữ nhằm mỡ rộng trận tuyến CM thu hẹp trận tuyến thù địch. Phân biệt rõ bạn-thù, để đoàn kết với bạn, cô lập kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các LLCM, dân chủ tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới. VD: Kỷ sư Trần Đại Nghĩa là người trung gian, khi Bác sang pháp gặp được và Bác đã cảm hóa được về phía mình, Trần Đại Nghĩa đã về nước phục vụ cho cách mạng. * Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay theo tôi cần có các phương pháp sau: - Cần xây dựng những chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, lấy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ trung tâm; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo. Phát triển văn hóa, y tế giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi; thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Làm tốt công tác giáo dục cho thế hệ trẻ. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực. Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân trong tỉnh đặc biệt là người cao tuổi. Thực hiện bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Chống âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường hợp tác, hữu nghi với đồng bào định cư ở nước ngoài, động viên và tạo điều kiện cho họ tham gia đóng góp xây dựng tỉnh Bạc liêu -Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đòan kết dân tộc: Thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây Đảng hiện nay. Củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong từng tổ chức Đảng. Đảng viên tiên phong gương mẫu, làm nòng cốt trong các tổ chức nhân dân, động viên nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và chê độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận Tổ quốc. -Phát triển mạnh mẽ vai trò của chính quyền trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết : Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, pháp lệnh. Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Hoạt động của các cơ quan Nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng và nhanh chống các công việc có quan hệ trực tiếp đến đời sống nhân dân. Xây dựng phong cách và phương thức công tác của cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với đạo đức cách mạng và đáp ưnag yêu cấu tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. -Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Mở rộng Mặt trận Tổ quốc, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc trong cộng đồng dân cư. -Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước: -Giữ gìn môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thận lợi cho công cuộc đổi mới; góp phần tích cực vào cóp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Câu 9: ý nghĩa lịch sử và một số kinh nghiệm chủ yếu của cách mạng tháng 8/1945. *Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc và thời đại hết sức sâu sắc. -Đối với dân tộc: Cách mạng Tháng Tám đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong tiến trình lịch sử của dân tộc, đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng Cộng sản Đông Dương từ một đảng hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Nước ta từ một nước thuộc địa nữa phong kiến trở thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. +Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám xác lập và nâng cao vị trí quốc tế của dân tộc Việt Nam trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong, thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội. -Đối với quốc tế và thời đại: Cách mạng Tháng Tám góp phần mở ra thời kỳ suy sụp tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế giới, thúc đẩy và cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ trong thời đại ngày nay, một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa do toàn dân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, có đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại hoàn toàn có khả năng thắng lợi. Cuộc cách mạng ấy có thể thành công trước khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước đế quốc có thể giành được chính quyền. * Một số kinh nghiệm chủ yếu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. -Từ hiện thực lịch sử, có thể đúc kết một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây: Một là, Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ độc lập dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Hai là, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng vững chắc của khồi liên minh công nông, đấu tranh vì độc lập,tự do. Ba là, kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền, đồng thời triệt để lơi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ những phần tử trung lập, lưng chừng, tâp trung mọi lực lượng chống kẻ thù nguy hiểm nhất. Bốn là, kịp thời năm bắt thời cơ, chủ động sáng tạo trong sử dụng các hình thức, phương pháp thích hợp khởi nghĩa giành chính quyền. Năm là, xây dựng Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh giành chính quyền. Câu 10: Phân tích những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do đảng ta đề ra tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của đảng(năm 1986). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đ hợp từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, tại thủ đô Hà Nội. với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã phân tích những sai lầm khuyết điểm trong gian đoạn 1975-1985, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra đường lối đổi mới của đất nước. Nhiệm vụ bao trùm mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn dịnh mọi mặt tình hình KT-XH, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặt đường tiếp theo. Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, gồm những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, đổi mới cơ cấu KT. Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần KT khác ngoài KTXHCN theo quan điểm của Lênin: “ coi nền KT có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”. Các thành là: KTXHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó; KT tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); KT tư bản tư nhân; KT tư nhà nước dưới nhiều hình thức cao là công ty hợp doanh; KT tự nhiên tự túc tự cấp trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Nhận thức và vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Bố trí cơ cấu SX, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Bố trí lại cơ cấu SX, chú trọng hàng đầu của SX nông nghiệp. Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý KT. Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập chung quan liêu hành chính bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kế hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền KT vận hành theo cơ chế thị trường, từng bước đưa nền KT vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý KT là “xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế phù hợp với quy luật khách quan và với trình đọ phát triển của nền KT. Trong cơ chế quản lý đó, tính kế hoạch là đặc trưng số một và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ là đặc trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập chung dân chủ. Nền KT phải được quản lý bằng các phương pháp KT chủ yếu, với động lực thúc đẩy sự kết hợp hài hòa lợi ích toàn XH, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động. Thứ ba, đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của nhà nước về KT. Tăng cường bộ máy từ trung ương đến địa phương thành một thể thống nhất, có sự phân biệt rành mạnh nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp theo nguyên tắc TCDC: “phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính –KT của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị KT-XH cơ sở”. Nhà nước có nhiệm vụ cụ thể hóa đường lối chủ trương cảu Đ thành pháp luật và chính sách cụ thể. Xây dựng chiến lược KTXH và cụ thể hóa chiến lược đó thành kế hoạch phát triển KTXH. Thứ tư, đổi mới hoạt động KT đối ngoại. Đổi mới hoạt động KT đối ngoại trên cơ sở mỡ rộng và nâng cao hiệu quả KT đối ngoại. Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài thông qua việc công bố chính sách khuyết kích đầu tư với nhiều hình thức, nhất là những ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho người nước ngoài và Việt Kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh. Thứ năm, đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng. Đổi mới sự lãnh đạo của Đ trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận dụng quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ trì trệ. Đổi mới bắt đầu từ dổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy KT trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng, khoa học CN Mác-Lênin, kế thừa tư tưởng cách mạng của CTHCM. Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy “dân làm gốc”, phải năm vững thực tiển và kg ngừng nâng cao trình độ trí tuệ và đổi mới phong cánh phương pháp làm việc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiêph hóa độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng KTXH bằng việc đè ra đường lối đổi mới, đặt nền tảng cho sự tìm ra con đường lên CNXH. Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy khoa học của toàn Đ, toàn dân, thể hiện quyết tâm đổi mới của đảng. Điều hết sức quan trọng là ĐCSVN khi quyết định đường lối đổi mới đã nắm vững những chỉ dẫn của V.I.Lênin về những đặc trưng cảu thời kỳ quá độ, nhất là sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần KT và tính lâu dài của thời kỳ quá độ lên CNXH. “ Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm. Suốt cã thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta, lại chia thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo láo cảu chính sách là ở chổ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó’’. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI coi chặng đường đầu tiên cảu thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN như một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn, nhiệm vụ chủ yếu của chặt chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề CT, KT,XH cần thiết để triển khai công nghiệp hóa XHCN trên quy mô lớn. Câu 11: Phân tích nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ? Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản để xây dựng ĐCS thành một tổ chức chặt chẻ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người vừa phát huy sức mạnh của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ chức. Nguyên tắc tập trung dân chủ là một thể thống nhất kg tách rời giữa tập trung và dân chủ. Tập trung và dân chủ là hai khái niệm có nội hàm riêng. Trong nguyên tắc tập trung dân chủ chúng kg tách rời nhau mà kết hợp chặt chẻ, thống nhất biện chứng với nhau.. Mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ là mối quan hệ nội tại bên trong của một nguyên tắc thống nhất. Vì vậy chúng ta đi tìm hiểu nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Đảng ta chỉ rõ trong Điều 9 Điều lệ Đảng do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua: “1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy). 3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện phê bình và tự phê bình. 4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. 5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nữa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. 6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắt, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”. Qua nghiên cứu nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ cho chúng ta thấy: Cơ quan lãnh đạo điều do đảng viên bầu ra. Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đ điều do đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mình. Các văn kiện đó lại do các cuộc hội nghị của đảng thảo luận giải quyết, chứ kg ai được tự ý độc đoán quyết định. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo do đảng viên giao phó cho, kg phải tự ai tranh giành được, vì vậy, người lãnh đạo pahir gần gũi và học hỏi quần chúng đảng viên, lắng nghe ý kiến của họ. Nếu lên mặt với quần chúng ĐV, lạm dụng quyền lực – như thế là sai lầm và đưa tới hệ lụy cực kỳ nguy hiểm. Trật tự của Đ là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ích phải phục tùng số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng trung ương. Tập trung dân chủ là nguyên tắc hướng tới sự tập trung, thống nhất, nhưng đó là sự tập trung trên cơ sở dân chủ, mọi quyết định điều phải được thảo luận trên cơ sở dân chủ, toàn bộ quá trình đi tới sự tập trung phải là một quá trình dân chủ. Nguyên tắc TCDC nhằm tạo lập sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, về đường lối, quan điểm, về tổ chức và hành động tránh cho toàn Đ và các tổ chức Đ không bị phân tán, chia rẽ, bè phái, biến Đ thành một câu lạc bộ bàn cãi suông mà đi đến quyết định, hành động thì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược’’. vì vậy, yêu cầu hàng dầu là Đ phải tạo lập cho sự thống nhất, tập trung về tư tưởng, ý chí, hành động, dùng sức mạnh của tổ chức để giải quyết mọi vấn đề, có sự lãnh đạo điều hành thông suốt từ trên xuống dưới, sự hiệp đồng chăth chẻ giữa các tổ chức Đ và các ĐV trên cơ sở đường lối chung, nghị quyết đã được nhất trí thông qua. Tập trung theo nguyên tắc TCDC đối lập hoàn toàn với tập trung quan liêu, tập trung độc đoán, cá nhân người lãnh đạo hay cơ quan lãnh đạo áp đặt ý kiến, ý chí của mình cho tổ chức đảng và cấp dưới. ở đây mọi quyết định tập trung điều phải được hình thành và tổ chức thực hiện thông qua con đường dân chủ, bằng việc phát huy tối đa mọi sáng tạo. Việc chấp hành các nghị quyết, quyết định của cấp trên và kỷ luật của Đ đều phải dự trên cơ sở tự giác. Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đ phải xem xét rất kỹ lưỡng đẻ lập danh sách những đV ứng cử. toàn thể ĐV phải theo đúng Đ chương thống nhất, kỹ luật thống nhất, sự lãnh đạo thống nhất từ trên xuống. Trong nguyên tắc thống nhất này, tập trung và dân chủ tác động cùng chiều theo tỷ lệ thuận, đòi hỏi và bảo vệ lẫn nhau. Khi tập trung đã trên cơ sở dân chủ thì tập trung càng cỗ vũ cho dân chủ, trở thnahf đòi hỏi của dân chủ, càng thúc đảy dân chủ rộng rãi và có chất lượng hơn. Cũng tương tự,dân chủ trong sự hướng tới tập trung, phục vụ cho tập trung, đi tới sự thống nhất, những đề xuất đúng đắn của cá nhân sẻ trở thành ý chí chung của tập thể và được bảo đảm bằng tổ chức, thành quyết định và hành động chung, khi đó dânn chủ thật sự có tổ chức, có mục đích, có thực chất. Tập trung là tập trung trí tuệ, tập trung lực lượng, tập trung sức mạnh, tập trung ý chí, tập trung hành động. Vì tập trung của Đ gắn liền với dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Tập trung càng cao thì dân chủ càng phải rộng, và dân chủ càng rộng thì tập trung càng cao. Nếu tập trung càng cao mà dân chủ bị hạn chế thì tức là tập trung đó kg trên cơ sở dân chủ, trở thành tập trung quan liêu, hình thức hoặc độc đoán. Nếu mỏ rộng dân chủ mà dẫn tới làm lỏng lẻo, suy giảm tập trung, mất đoàn kết nội bộ, kg đi tới quyết định chung buộc mọi người tuân theo thì tức là dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, mất kỷ cương. Thứ dân chủ đó hoàn toàn xa lạ với nguyên tắc TCDC. Câu 12: Theo đồng chí cần có những giải pháp gì để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ ở tổ chức cơ sở đảng nơi đồng chí đang công tác? Để thực hiện tốt nguyên tắt tập trung dân chủ ở tổ chức cơ sở Đảng nơi tôi đang công tác cần có những giải pháp như sau: -Cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ cho các cán bộ, đảng viên, đi đôi với phát huy dân chủ rộng rãi trong nội bộ của chi bộ và Đảng bộ. Nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng sáng tạo của cán bộ Đ trong xây dựng nghị quyết của chi bộ. -Duy trì chặt chẽ và thường xuyên chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; cấp ủy cần định kỳ thông báo chương trình hành động tới tổ chức đảng và nhân dân, tổ chức cho nhân dân tham gia góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên. -Phải tăng cường kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trong Đảng, làm cơ sở để thiết lập kỹ cương. -Các đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt đảng, các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và nghị quyết của cấp mình. Đảng viên ở mọi cương vị phải gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và các chính sách pháp luật của Nhà nước, cac quy định của chính quyền địa phương. -Tăng cường kiểm tra giám sát đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, chấp hành đường lối, chính sách và thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Kịp thời phát hiện uốn nắn những sai sót lệch lạc của ĐV trong việc chấp hành các quy định của Đ, pháp luật của nhà nước, nghị quyết của chi bộ. -Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy đảng, để phát huy dân chủ và tăng cường kỷ luật. - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi bộ và đơn vị làm cơ sở thống nhất đoàn kết nội bộ và thực hiện tốt nhiệm vụ. Đây là biện pháp rất quan trọng để thực hiện nguyên tắc TCDC, cơ quan và đơn vị phải cùng nhau xây dựng và thống nhất quy chế làm việc thiết thực phù hợp với dơn vị. - Thể chế hóa nguyên tắc TCDC thành các quy chế hoạt động của đơn vị tiến hành triển khai, quán triệt đến toàn thể DV cán bộ đơn vị nắm mà thực hiện. - Mõi cá nhân cần thẳn thắng, trung thực bày tỏ ý kiến, chín kiến của mình trong mọi vấn đề. Đồng thời, lãnh đạo đảng bộ hay chi bộ cần tạo bầu không khí làm việc thực sự dân chủ để mọi đảng viên được mạnh dạng tự do bài tỏ ý kiến quan điểm của mình. - Trong Chi Bộ, đơn vị cần tổ chức quán triệt những vấn đề đã tở thành ý kiến chung của tập thể và là ý kiến chung trong toàn thể cán bộ, đảng viên trong đơn vị. KHỐI KIẾN THỨC 2 Câu 13: Phân tích những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân. Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội. Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay. - Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó. Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách mạng chân chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con người. Do vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước, luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều Hội nghị của Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X và nhiều Nghị quyết trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định: Xây dựng một chính quyền không có đặc quyền, đặc lợi, hoạt động vì cuộc sống của nhân dân. Nghị quyết trung ương 8 khoá VII xác định trên nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá báng pháp luật Dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật Văn kiện Đại hội Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định. - Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nước mới được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khoá VII), (1995) quan niệm của Đảng về ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nghị quyết đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng đất nước thấp kém quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đều có bổ sung quan tâm vấn đề kiểm soát quyền lực trong cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Theo đó nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được hoàn thiện một bước quan trọng. Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. + Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là ở chỗ sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng. + Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại Câu 14: Phân tích vai trò của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Cho ví dụ làm rỏ Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không thể không khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật đối với quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vai trò của pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau đây: - Vai trò của pháp luật đối với kinh tế: Đối với kinh tế, pháp luật là phương tiện hàng đầu xác định địa vị pháp lý bình đẳng đối với các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế; tạo lập các “khung pháp lý” để các chủ thể quản lý nhà nước dựa vào các chuẩn mực pháp lý để điều khiển hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi tin cậy và chính thức cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thực hiện có hiệu quả. Pháp luật là phương tiện làm cho các quan hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật. Khi đó pháp luật xác định rõ các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, quyền và nghĩa vụ cũng như khách thể mà các bên tham gia hoạt động kinh tế. Pháp luật là phương tiện cũng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền kinh tế thị trường như: tính quy định của lợi ích, nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản xuất, bảo đảm tôn trọng sự cạnh tranh, cạnh tranh lành mạnh Ví dụ: công ty bột giặt Aba được quảng cáo cho thương hiệu sản phẩm mình trên các phương tiện truyền thông nhằm cạnh tranh với các sản phmẩ bột giặc khác nhưng không được lấy tên sản phẩm bột giặc khác đặt tên cho sản phẩm mình, trong khi quảng cáo có thể nói bột giặc Aba trắng hơn các loại bột giặc thường, chớ không được nói sản phẩm này trắng hơn một sản phẩm cụ thể nào Pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ít kinh tế tốt nhất cho các bên tham gia hoạt động kinh tế trong trường hợp xảy ra tranh chấp kinh tế, vi phạm hợp đồng kinh tế, Ví dụ: công ty A ký họp đồng đến ngày 9/8/2015 sẽ giao cho công ty B là 10 tấn gạo 5% tấm thơm nhẹ. Nhưng đến ngày quy định mà bên cty A giao cho bên B 10 tấn gạo 5% tấm là gạo thường. pháp luật sẽ bảo vệ cho bên B và buộc phía cty A bồi thường thiệt hại kinh tế cho bên B theo quy định của pháp luật,. - Vai trò của pháp luật dối với chính trị Đối với sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật là phương tiện để thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chúng trên quy mô toàn xã hội. Đồng thời pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đừơng lối của mình trong thực tiễn. Mặt khác, pháp luật còn là phương tiện phân định rõ phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý, điều hành của Nhà nứơc. Ví dụ: mọi ngừơi khi tham gia giao thông khi đi trên xe môtô phải đội mủ bảo hiểm, Đối với nhà nước, pháp luật là cơ sở pháp lý tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cà nhân, công dân, là phương tiện quản lý có hiệu lực đối với mội mặc đời sống xã hội. Pháp luật là phương tiện chứa đựng trong nó sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ, giữa năng động, sáng tạo với kỷ cưong, kỷ luật. Do đó, khi thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước không thể không sử dụng phương tiện pháp luật. Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, pháp luật là cơ sở pháp lý bảo đảm cho nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội thyông qua các tổ chúc chính trị - xã hội của mình. Pháp luật thể chế và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân dựa vào pháp luật để phản ứng đấu tranh với các hành vi lạm quyền, cường chế ngoài quy định của pháp luật. Vai trò của pháp luật đối với đạo đức và tư tưởng Đối với đạo đức, các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật, hay nói cách khác, giữa đạo đức và pháp luật có sự đang xen về mặt nội dung. Do vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ và phát triển đạo đức xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính công bằng, chủ nghĩa nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Sự ghi nhận bằng pháp luật các nghĩa vụ, đạo đức trước xã hội nhằm cũng cố và bảo vệ hạnh phúc gia đình, giáo dục thế hệ trẻ, khuyến khích sự giúp đỡ đồng chí tính lương thiện, thật thà,..thể hiện vai trò của pháp luật. Ví dụ: Đối với tư tưởng, có thể nói, pháp luật là phương tiện đăng tải thế giới quan khoa học, các tư tưởng tiến bộ và các giá trị nhân loại. Vì thế, pháp luật xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng trong cũng cố và nâng cao nhận thức tư tưởng cho con người dưới chủ nghĩa xã hội. -Vai trò của pháp luật đối với quá trình hội nhập quốc tế Trong thời đại ngày nay, xu thế hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan của mọi quốc gia. Nhưng hội nhập quốc tế trên cơ sở nào, phương tiện nào là những vấn đề được các quốc gia quan tâm. Cùng với những tuyên bố chính trị, các quốc gia đang hướng xây dựng một hệ thống pháp luật, tạo cơ sỡ vững chắc cho quá trình hội nhập quốc tế. Hệ thống pháp luật này một mặt, ghi nhận chủ quyền của mọi chủ thể tham gia quan hệ quốc tế; mặt khác khẳng định mọi chủ thể tham gia quan hệ quốc tế phải tôn trọng trong các cam kết đã ký, phải gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra,Với ý nghĩa đó, pháp luật là công cụ, phương tiện thực hiện chủ trương, chính sách đối ngoại của các quốc gia trên trường quốc tế. Đồng thời, pháp luật còn là phương tiện bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong quá trình hội nhập quốc tế. Ví dụ: quy pháp quốc tế về các cam kết chủ quyền biên giới, biển đảo của từng quốc gia là bắt khả xâm phạm khi chưa được quốc gia đó cho phép Câu 15: Phân tích vai trò của quản lý hành chính Nhà nước đối với sự phát triển của XH Quản lý hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ưng đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự, an ninh, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Quản lý hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội: -Góp phần quan trọng trong việc hiện thực hoá chủ trương, đường lối chính trị. Đường lối chính trị của Đảng được thể chế hoá vào trong các văn bản pháp luật, chính sách của nhà nước. chính sách pháp luật của Nhà nước là các quy định cụ thể, thể hiện và là cơ sở để triển khai quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễ cuộc sống. Thông quan việc sử dụng chính sách, pháp luật để tổ chức triển khai các hoạt động quản lý đối với xã hội, quản lý hành chính nhà nước góp phần hiện thực hoá quan điểm, đường lối chính trị của Đảng. Định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hệ thống pháp luật và chính sách Nhà nước. Để hoạt động kinh tế - xã hội phát triển theo đúng mục tiêu các cơ quan hành chính nhà nước quản lý vĩ mô đối với các đơn vị, tổ chức. Những định hướng lớn, mục tiêu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ được thể hiện trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua sự tác động các công cụ quản lý như: pháp luật, kế hoạch, chính sách lên các quan hệ xã hội, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước chủ động dự kiến những mục tiêu và phương hướng thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Làm như vậy sẽ hướng các hoạt động kinh tế - xã hội vận hành đạt được những mục tiêu phát triển mà nhà nước đã đặt ra - Điều hành xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Trong hoạt động quản lý của Nhà nước đối với xã hội, vai trò tổ chức, điều hành xã hội thuộc về quền hành pháp do các cơ quan quản lý hành chính nàh nước thực hiện. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước có vai trò điều hành các quá trình kinh tế - xã hội, điều chỉnh, điều hoà các mối quan hệ xã hội nhằm hướng tới sự phát triển ổn định, hài hoà của xã hội. Hỗ trợ, duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có năng lực và điều kiện cụ thể khác nhau nên hiệu quả hoạt động thu được cúng khác nhau. Thông qua các chính sách ưu tiên phát triển trong một số lĩnh vực, đối với một số đối tượng, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước hõ trợ kinh tế - xã hội phát triển hài hoà. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước còn có vai trò duy trì sự phát triển của xã hội thông qua việc tạo môi trường phát triển cho các hoạt động kinh tế- xã hội. Môi trường chính trị ổn định giúp các cá nhân, tổ chức trong xã hội có nhiều cơ hội tham gia vào các quan hệ khinh tế - xã hội. Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ giúp cho các chủ thể kinh tế - xã hội chủ động lựa chọn công việc hợp pháp theo năng lực, sở trường của mình. Đồng thời, nó cũng tạo nên sự minh bạch, công khai giữa các chủ thể với nhau và với nhà nước. Môi trường kinh tế thích ứng không làm biến dạng các quy luật của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho các chủ thể trong xã hội hoạt động. môi trường văn hoá lành mạnh sẽ tạo sự đồng thuận cao trong tư duy về những giá trị chung của xã hội, từ đó giúp họ có hành động đúng để đạt được mục tiêu. Thông qua hoạt động quản lý hành chính, Nhà nước tạo động lực thúc đẳy hoạt động kinh tế- xã hội có hiệu quả của các chủ thể. Nhà nước khuyến khích các chủ thể bằng những lợi ích vật chất và tinh thần thông qua các chính sách kinh tế - xã hội. các chính sách kinh tế- xã hội đó có thể là chính sách cho thuê mặt bằng với giá ưu đãi để khuyến khích phát triển kinh tế làng nghề, biểu dương việc lựa chọn nguyên liệu sạch để sản xuất sản phẩm, ưu tiên ứng dụng rộng rãi những thành tự khoa học công nghệ mới vào quá trình chế tạo sảm phẩm để đạt năng suất lao động cao, khuyến khich mở rộng thị trường, điều tiết tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ một cách hợp lý,... - Trọng tài, giải quyết các mâu thuẫn ở tầm vĩ mô. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, các chủ thể có thể có những mâu thuẫn không thể tự điều hoà, giải quyết được. chẳng hạn những tranh chấp trong thực hiện các hợp đồng kinh tế - xã hội; vì lợi nhuận vi phạm cac quy điịnh trong các hợp đồng kinh tế - xã hội. trong những trường hợp như vậy các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền sử dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Câu 16: Phân tích nội dung cải cách hành chính ở cơ sở: Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 1.1. Những nội dung chủ yếu của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 - Trọng tâm cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 là: + Cải cách thể chế; + Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi công cụ có chất lượng và hiệu quả cao; + Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công. - Những nội dung trên nhằm đạt các mục tiêu: + Thứ nhất: xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. + Thứ hai: tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lơi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính. + Thứ ba: xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước. + Thứ tư: đảm bảo thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước. + Thứ năm: xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. 1.2. Thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 bao gồm 6 nhiệm vụ với 39 nội dung cụ thể: - Một là: Cải cách thể chế +Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp; +Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật; +Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội; +Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất; +Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác định rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà nước; +Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; +Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp; +Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. - Hai là: Cải cách thủ tục hành chính +Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp; + Trong giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững. + Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước; + Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật; + Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức thiết thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước; duy trì và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính; + Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục hành chính hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện; +Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. - Ba là: Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước +Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước); trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận; + Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp. Ví dụ: Thí điểm bỏ HĐND huyện, quận, phường. Dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND xã và Nhất thể hoá chức danh Bí thư = Chủ tịch xã Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên, khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành; Ví dụ: Quyết định 81/QĐ-TTg ngày 15/01/2009 về hỗ trợ tiền Tết cho người nghèo đón Tết Kỷ Sửu. Cần đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực hiện Điều kiện về pháp lý (quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn), điều kiện về tài chính (đã hoặc sẽ được phân cấp kèm theo), điều kiện về cán bộ (đảm bảo đảm đương được nhiệm vụ), điều kiện về quy hoạch chi tiết, lộ trình cụ thể để cơ quan được phân cấp không làm trái chủ trương chung, không bị mắc về chuyên môn khi thực hiện. +Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020; +Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020. - Bốn là: Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức +Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; +Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả; +Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý; VD: Luật cán bộ, công chức được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực ngày 1/1/2010 đã có bước tiến lớn trong phân biệt rõ hơn đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị; nhất là phân biệt công chức hành chính, viên chức sự nghiệp và công chức cơ sở. +Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm; +Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống; +Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; +Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm; VD Ở Việt Nam cũng có nhiều trí thức thực tài nhưng bằng cấp rất khiêm tốn: GS Tôn Thất Tùng (Bác sỹ), GS Tạ Quang Bửu (Cử nhân), GS Trần Đại Nghĩa (Kỹ sư) + Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội. Ví dụ: Lương cải cách theo hệ số, thang bảng lương => Cào bằng trong cống hiến. GS Ngô Bảo Châu - Giảng viên kiêm chức Viện toán học Việt Nam - đặc cách bậc lương cao nhất của chức danh Giáo sư cũng chỉ là 8,0 => Không đủ tiền vé để Giáo sư đi lại giữa Pháp và Việt Nam. Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ; +Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. - Năm là: Cải cách TCC + Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là cải cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách; + Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn; + Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ; + Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; + Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao. Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. - Sáu là: Hiện đại hóa hành chính + Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau; + Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công; + Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách thủ tục hành chính; + Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính nhà nước; + Thực hiện Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đầu tư trụ sở cấp xã, phường bảo đảm yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; + Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại, tập trung ở những nơi có điều kiện. Ví dụ: Đề án 112 - Đề án tin học hoá quản lí hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 (dự toán khoảng 3500 tỷ đồng) Câu 17: Phân tích nội dung những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay ở nước ta: Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau: a)       Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc: Trước đây, trong điều kiện phải chiến đấu chống xâm lược, giải phóng Tổ quốc, tư duy chiến lược của chúng ta về bảo vệ Tổ quốc thiên về dùng vũ trang chống lại sự tấn công từ bên ngoài là chủ yếu. Ngày nay, trong điều kiện rất mới của quốc tế và trong nước, một mặt phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hòa bình, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình huống; mặt khác, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức mạnh và các biện pháp phi vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mà không phải tiến hành chiến tranh, ngăn chặn không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới. Chúng ta nhận thức về đối tượng và đối tác linh hoạt, uyển chuyển và biện chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy rõ vai trò quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện, sâu sắc, biện chứng hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đó là một thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta. b)   Bảo vệ Đảng, NN, nhân dân và chế độ XHCN: Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không sợ giặc mạnh, chỉ sợ lòng dân không theo” và chính vì không được lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải “thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”. c)   Bảo vệ sự nghiệp đổi mới CNH –HĐH: Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế. d)   Bảo vệ lợi ích Quốc gia, dân tộc Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đây là mục tiêu mà chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi chông gai, quyết phấn đấu thực hiện cho bằng được, cũng là cơ sở để chúng ta phân định những việc cần phải làm và những việc cần phải tránh, như lời Bác Hồ dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh; là tiêu chuẩn để chúng ta nhận diện ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác, ai là đối tượng trong từng lĩnh vực, từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể; những quan điểm của Đảng ta: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Làm trái thế, xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc là vong thân, hại quốc, là có tội với tổ tiên, các thế hệ cha ông, là phụ lại lòng tin và sự ủy thác của hơn 90 triệu đồng bào! e)   Bảo vệ An ninh chính trị, Trật tự An toàn XH và nền VH Việt Nam Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng. Đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu toàn diện và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy lực lượng quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại là cần thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đi kèm với đó, quan trọng là ta phải giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên vì lợi ích chung, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực. f)     Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định hước XHCN: Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Điều dễ nhận thấy là nội hàm mục tiêu của quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta rất rộng, rất toàn diện và ngày càng sâu sắc. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nhưng trên hết là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến Câu 18: Phân tích nội dung việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp nông thôn nông dân Câu 19: Đ/c hãy trình bày nội dung hoạt động lãnh đạo quản lý nơi đ/c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_cuong_on_thi_tot_nghiep_trung_cap_chinh_tri_khoa_37_264.doc
Tài liệu liên quan