Tài liệu Đề án Tìm một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam: Lời nói đầu
Sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam đã và đang đạt được những thắng lợi rất khả quan, trước hết phải kể đến thắng lợi của mặt trận nông nghiệp. Trong nông nghiệp, thắng lợi lớn nhất là bước ngoặt phát triển về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
Từ một nước nông nghiệp thiếu đói kéo dài, Việt Nam không chỉ tự túc được lương thực ổn định, mà còn vươn lên đẩy mạnh xuất khẩu và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Đó là một kỳ tích mà cả thế giới biết đến.
Thành tựu đó chứng minh đường lối đổi mới nông nghiệp của Đảng nói chung, định hướng chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng là đúng đắn.
Tuy nhiên, chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức gay gắt, thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển khôn ngoan, có sự tính toán kỹ càng, cẩn trọng trong một tổng thể chiến lựơc ph...
44 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Tìm một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam đã và đang đạt được những thắng lợi rất khả quan, trước hết phải kể đến thắng lợi của mặt trận nông nghiệp. Trong nông nghiệp, thắng lợi lớn nhất là bước ngoặt phát triển về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
Từ một nước nông nghiệp thiếu đói kéo dài, Việt Nam không chỉ tự túc được lương thực ổn định, mà còn vươn lên đẩy mạnh xuất khẩu và trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Đó là một kỳ tích mà cả thế giới biết đến.
Thành tựu đó chứng minh đường lối đổi mới nông nghiệp của Đảng nói chung, định hướng chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo nói riêng là đúng đắn.
Tuy nhiên, chuyển sang kinh tế thị trường, trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có nhiều biến đổi, cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức gay gắt, thì vấn đề sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó, đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển khôn ngoan, có sự tính toán kỹ càng, cẩn trọng trong một tổng thể chiến lựơc phát triển chung mới dành được thắng lợi và đạt được hiệu quả tối ưu.
Đối với nước ta xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ngoại tệ thu được từ xuất khẩu là nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng thu nhập đặc biệt đối với người nông dân.
Cùng với Việt Nam, trên thị trường gạo thế giới còn có nhiều nước khác tham gia như:Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Pakistan…đó là những đối thủ cạnh tranh lớn của nước ta.
Mười bốn năm qua xuất khẩu gạo cuả Việt Nam đã thu được những thành tựu nhất định nhưng bên cạnh đó còn nhiều bất cập cần giải quyết như vấn đề thị trường, giá cả, chất lượng gạo, vấn đề đầu ra… Nếu những vấn đề trên được giải quyết một cách hợp lý thì xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có bước phát triển cao hơn trong thời gian tới.
Với đề tài “ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam” em xin được đưa ra một vài đánh giá về thực trạng xuất khẩu gạo và cách giải quyết để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta.
Nội dung của đề án gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về xuất khẩu gạo.
Chương II: Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu gạo.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề án em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy, cô đặc biệt là thầy Hoàng Văn Định, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô.
Do trình độ có hạn nên đề án của em không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hân
Nội dung
Chương 1
Lý luận chung về xuất khẩu gạo
I.Thực chất và vai trò của xuất khẩu gạo
Thực chất xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài và với các khu chế xuất làm giảm nguồn vật chất trong nước. Bao gồm xuất khẩu mậu dịch và phi mậu dịch
Cơ sở của xuât khẩu là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng vùng, từng quốc gia trong phân phối lao động quốc tế.
Hoạt động khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi nền kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất máy móc thiết bị công nghệ cao. Tất cả hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Các loại hìng xuất khẩu chính:
-Xuất khẩu trực tiếp: Các nhà sản xuất giao hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nước ngoài. Phần lớn hàng hoá ở thị trường thế giới qua xuất khẩu trực tiếp (trên 2/3 kim nghạch)
-Xuất khẩu gián tiếp là xuất khẩu qua khâu trung gian.
-Tạm xuất, tái nhập như hàng đưa đi triển lãm, đưa đi sửa chữa( máy bay, tàu thuỷ ) rồi lại mang về.
-Tạm nhập, tái xuất như hàng đưa đi triển lãm, hội chợ, quảng cáo sau đưa về.
Hình thức kinh doanh “tạm nhập, tái xuất” được hiểu là việc mua hàng của một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam rồi lại làm thủ tục xuất khẩu mà không qua gia công chế biến.
- Chuyển khẩu: Mua hàng của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục xuất nhập khẩu
- Dịch vụ xuất khẩu
2. Vai trò của xuất nhập khẩu gạo
Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại.Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu , khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập, ngoại tệ cho đất nước.
2.1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Quá trình công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện đại của các nước đã phát triển.Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ rất nhiều nguồn vốn khác nhau:
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch
- Xuất khẩu…
Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu , xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Hiện nay các nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn chủ yếu là các nước đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan…Chính vì thế nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất quan trọng.
2.2. Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước đều phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi gạo đã trở thành một lợi thế trong xuất khẩu của một nước thì các nước đó sẽ tập chung vào sản xuất lúa gạo với quy mô lớn, trình độ thâm canh cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng xuất, sản lượng và chất lượng gạo. Từ sự tập chung sản xuất đó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành có liên quan và dẫn tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích ghi với thị trường.
- Đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới hoàn thiện công việc sản xuất kinh doanh.
2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân
Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây lúa. Sau nữa, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa trong nước. Khi thực hiện tăng cường xuất khẩu thì kéo theo nó là vấn đề xay xát, chế biến phát triển, vấn đề vận chuyển hàng hoá …những công tác trên thu hút khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến có trình độ cao. Việc tạo việc làm ổn định cũng chính là một biện pháp hữu hiệu để tăng thu nhập, ổn định xã hội.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo là một lợi thế lớn. Bởi sản xuất và xuất khẩu gạo có những lợi thế căn bản như: đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực … Và đặc biệt yêu cầu về vốn kỹ thuật trung bình, với các lợi thế như vậy tăng cường xuất khẩu gạo là hướng đi đúng đắn nhất.
Xuất khẩu gạo hay xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung có tác động to lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất cả các lợi thế tương đối cũng như tuyệt đối của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Trong quá trình sản xuất lúa gạo, Việt Nam đã thu đước những kết quả to lớn từ một nước nhập khẩu trở thành một nước xuất khẩu thứ hai thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu gạo Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Cần có giải pháp cụ thể cho vấn đề này.
II. Đặc điểm xuất khẩu gạo
Đặc điểm về sản xuất
Về mặt sinh thái, sức đề kháng sâu bệnh và khả năng chịu đựng của lúa kém do vậy sản xuất lúa phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến xu hướng phát triển chung cũng như mùa màng thu hoạch trong từng thời điểm cụ thể.
Do sản xuất lúa gạo phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên do đó lúa chỉ được trồng phổ biến ở các nước có đồng bằng châu thổ, khí hậu nhiệt đới ẩm, nắng lắm, mưa nhiều, những nước này chủ yếu là các nước đang phát triển như : Thái Lan, Việt Nam, ấn Độ , Pakistan…Hiện nay do trình độ đô thị hoá, việc tăng dân số quá nhanh cũng như việc xây dựng các khu công nghiệp ồ ạt nên diện tích nông nghiệp hay diện tích trồng lúa ngày càng bị hu hẹp. Do đó việc tăng sản lượng lúa phụ thuộc vào khả năng tăng năng suất, vì thế mà yêu cầu cần có trình độ thâm canh cao, khoa học tiến bộ trong sản xuất lúa.
Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm với hai đồng bằng châu thổ rộng lớn, với lượng dân số tập trung ở nông thôn khá cao (80% dân số) do đó rất thuận lợi cho phát triển lúa nước. Nhưng đồng thời với những thuận lợi là các khó khăn như: bão , lũ lụt, hạn hán, hay các biến động bất thường của thời tiết luôn đe doạ tới hoạt động sản xuất.
Hiện nay lúa gạo đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam do đó sản xuất lúa gạo rất được chú trọng cả về tăng năng suất và diện tích bằng các biện pháp như thâm canh, xen canh, gối vụ hay áp dụng các biện pháp khoa học trong khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và tạo giống chất lượng tốt…
Đặc điểm xuất khẩu lúa gạo
- Tính thời vụ trong trao đổi:
Sản xuất lúa gạo mang đặc điểm cố hữu của sản xuất nông nghiệp tính thời vụ do vậy mà hình thành tính thời vụ trong trao đổi sản phẩm trên thị trường. Tức là số lượng lúa gạo cung cấp trên thị trường là không đều vào mỗi thời điểm trong năm , điều này phụ thuộc vào thời gian gieo trồng. Để khắc phục đặc điểm này yêu cầu các nước xuất khẩu phải luôn có kế hoạch bảo quản, dự trữ hợp lý tránh tình trạng lúc thừa lúc thiếu sẽ dẫn tới bị ép giá.
- Phần lớn gạo được tiêu thụ tại chỗ:
Tình hình đó là do một mặt, năng lực sản xuất của các nước này bị hạn chế mặt khác do quy mô dân số và tốc độ tăng dân số nhanh. Vì vậy phần lớn lúa gạo còn lại đem trao đổi trên thị trường gạo thế giới chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Các nước đang phát triển sản xuất 53-55% sản lượng gạo thế giới, các nước Châu á, Châu Phi sản xuất nhiều nhất chiếm 85% sản lượng gạo tiêu thụ trên thế giới. Trong khi đó các nước này chỉ cung cấp 4-5% lượng gạo được trao đổi trên thế giới, Châu á là khu vực sản xuất nhiều nhất và cũng tiêu thụ lượng gạo lớn nhất. Năm 1995 trừ số lượng đã xuất khẩu đi các lục địa khác, mức tiêu thụ gạo còn lại của Châu á vẫn gấp 21,4 lần Châu Mỹ, 23,2 lần Châu Phi và 80,5 lần Châu Âu.
- Buôn bán giữa các chính phủ là phương thức chủ yếu vì thế xuất khẩu sản phẩm lúa gạo ổn định hơn so với hàng công nghiệp.
Nguyên nhân , thứ nhất, là do yếu tố chính trị quốc gia. Mỗi nước đều phải đảm bảo an ninh lương thực, nếu lương thực không được đảm bảo sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới chính trị quốc gia đó. Vì thế buốn bán chủ yếu được ký kết giữa các chính phủvới nhau thông qua các hiệp định, các hợp đồng có tính nguyên tắc, dài hạn và định lượng cụ thể hàng năm vào đầu các niên vụ. Thứ hai, một số nước dùng xuất khẩu gạo để thực hiện các ý đồ chính trị thông qua viện trợ, cho không, bán chịu dài hạn…điều này được thực hiện giữa các chính phủ là chủ yếu.
- Các nước lớn đóng vai trò chi phối thị trường gạo thế giới:
Trên thế giới chỉ một vài nước là xuất khẩu với một lượng gạo lớn và có uy tín: Thái Lan, Mỹ, Ttung Quốc, Việt Nam…. Nếu lượng gạo xuất khẩu của các nước này có sự biến động có thể ảnh hưởng đến giá cả của gạo dẫn tới những biến động trong cung – cầu gạo, hay có thể ảnh hưởng đến tình hình sản xuất đến các loại hàng hoá khác.
- Trong mậu dịch gạo thế giới, có rất nhiều loại gạo khác nhau của các nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Tương ứng với mỗi loại gạo , tuỳ thuộc chất lượng, phẩm cấp khác nhau lại hình thành một mức giá cụ thể phù thuộc vào các tiêu chuẩn cụ thể về chọn giá quốc tế mà trong nhiều thập kỷ qua, người ta vẫn lấy giá gạo xuất khẩu của Thái Lan làm giá gạo quốc tế. Vì gạo có rất nhiều loại nên khi nói giá gạo xuất khẩu thường nói rõ cấp loại nào (5% tấm, 10% tấm…) vào điều kiện giao hàng nào (FOB. CIF,C&F…)
Tuy có giá gạo quốc tế nhưng giá gạo của một cấp gạo cụ thể, giữa các nước xuất khẩu là không đồng nhất: như giá gạo của việt nam thường thấp hơn của Thái Lan hoặc của một số nước khác mặc dù cùng cấp. Điều này là do chất lượng của từng loại, do uy tín sản phẩm , do điều kiện tự nhiên, nguồn giống tạo nên loại gạo đó.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo.
1. Nhân tố thị trường.
Nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lớn chi phối toàn bộ hoạt động xuất khẩu gạo của mỗi quốc gia tham gia xuất khẩu. Trong đó co thể xét trên các yếu tố cơ bản sau:
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm gạo: Gạo là hàng hoá thiết yếu, cũng giống như các loại hàng hoá khác nó cũng phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư, thị hiếu… Khi thu nhập cao thì cầu về số lượng gạo giảm nhưng trong đó cầu về gạo chất lượng cao có xu hươngs tăng lên (ở các nước phát triển: Nhật, Châu âu, ..) ngược lại cầu đối với gạo chất lượng thấp giảm đi chính vì thế tỷ trọng tiêu dùng cho gạo trong tổng thu nhập vẫn tăng.
- Cung gạo trên thị trường là một nhân tố quan trọng trong xuất khẩu. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần phải tìm hiểu kỹ về khả năng xuất khẩu từng loại gạo của mình cũng như khả năng của các đối thủ cạnh tranh. Trên thị trường thế giới sản phẩm gạo rất đa dạng, phong phú, nhu cầu về gạo co giãn ít so với mức giá do đó nếu lượng cung tăng quá nhiều có thể dẫn tới dư cung điều đó là bất lợi cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
- Giá cả là một yếu tố quan trọng là thước đo sự cân bằng cung – cầu trong nền kinh tế thị trường. Tuy cầu về gạo là ít biến động nhưng với những sản phẩm đặc sản thì gái có quyết định khá lớn.
2. Nhân tố về cơ sở vất chất – kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Các nhân tố về cơ sở vật chất – kỹ thuật đó là hệ thống vận chuyển, kho tàng, bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này bảo đảm việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo cung cấp nguồn hàng một cách nhanh nhất, tiết kiệm thời gian và chi phí lưu thông.
- Các nhân tố về kỹ thuật, công nghệ sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong việc tăng khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ gạo. Hệ thống chế biến với công nghệ dây truyền hiện đại sẽ gạp phần tăng chất lượng và giá trị của gạo.
Nhân tố về chính sách vĩ mô.
Nhóm nhân tố này thể hiện sự tác động của nhà nước tới hoạt động xuất khẩu gạo. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia thị trường xuất khẩu rất cần tới sự quan tâm hướng dẫn của nhà nước. Đặc biệt hiện nay khả năng marketinh tiếp cận thị trường, sự am hiểu luất kinh doanh, khả năng quản lý của doanh nghiệp còn hạn chế, vì thế việc đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác tiêu thụ là rất quan trọng. Hơn nữa hiện nay xuất khẩu gạo gọp phần rất lớn vào phát triển nền kinh tế nhưng đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn yêu cầu nhà nước cần có sự điều tiết lợi ích giữa nhà nước – doanh nghiệp – người nông dân sao cho thoả đáng và hợp lý nhất.
Chương 2
Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu gạo của
Việt Nam
I. Thực trạng về sản xuất và chế biến lúa gạo ở Việt Nam
1.Sản xuất lúa gạo
Từ sau đổi mới sản xuất lúa gạo của nước ta không ngừng phát triển cả về diện tích, năng suất, sản lưọng. Từ chỗ thiếu đói triền miên và phải nhập khẩu lương thực bình quân hàng năm trên nửa triệu tấn gạo nhưng nhờ đường lối đổi mới và quyết sách trong nông nghiệp từ năm 1989 trở đi Việt Nam chẳng những đã sản xuất đủ lúa gạo cho nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn dành một khối lượng lớn cho xuất khẩu.
Bảng: Sản xuất lúa nói chung của cả nước
từ năm 1990-2003
Năm
Diện tích(1000ha)
Năng suất(tạ/ha)
Sản lượng(1000 tấn)
1990
6042.8
31.8
19225.1
1991
6302.8
31.1
19621.9
1992
6475.3
33.3
21590.4
1993
6559.4
34.8
22836.5
1994
6598.6
35.7
23528.2
1995
6765.6
36.9
24963.7
1996
7003.8
37.7
26396.7
1997
7009.7
38.8
27523.9
1998
7362.7
39.6
29145.5
1999
7653.6
41.0
31393.8
2000
7666.3
42.4
32529.5
2001
7492.7
42.9
32108.4
2002
7504.3
45.9
34447.2
2003
7449.3
46.3
34518.6
Tổng
97976.9
379829.4
Nguồn: Tổng cục thống kê 1-2001và Bộ NN & PTNT, Vụ Kế hoạch và quy hoạch 2002
1.1. Về sản lượng
Từ năm 1990-2003 sản lượng lúa có xu hướng tăng và ổn định. Trung bình mỗi năm tăng 1776.2 tấn tương ứng 5.03% so với năm trước. Đây là mức tăng của năm 1992 là khá cao 10.2% so với năm 1991 về số tuyệt đối là 1986.5 nghìn tấn mức tăng này là khá cao đặc biệt trong thời gian này nước ta mới bắt đầu thực hiện cơ chế mở cửa, nền kinh tế mới có sự chuyển biến tích cực. Từ 1990- 2003 sản lượng lúa luôn tăng tuy không đều qua các năm, có năm tăng 2338.8 nghìn tấn(2002) có năm tăng 71.4 nghìn tấn (2003) và đặc biệt năm 2001 đã bị giảm sút 421.1 nghìn tấn so với năm 2000. Tuy nhiên năm 2002 lại tăng với lượng cao nên sản lượng 2002 so với 2000 vẫn tăng 1917.7 nghìn tấn.
Năm
Sản lượng(1000tấn)
Chênh lệch
+/-
%
1990
19,225.1
-
-
1991
19,621.9
396.8
2.06
1992
21,590.4
1968.5
10.03
1993
22,836.5
1246.1
5.77
1994
23,528.2
691.7
3.03
1995
24,963.7
1435.5
6.10
1996
26,396.7
1433.0
5.74
1997
27,523.9
1127.2
4.27
1998
29,145.5
1621.6
5.89
1999
31,393.8
2248.3
7.71
2000
32,529.5
1135.7
3.62
2001
32,108.4
- 421.1
- 1.30
2002
34,447.2
2338.8
7.30
2003
34,518.6
71.4
0.21
Nguồn: Niên gián thống kê- 2003
Nguyên nhân chính của việc tăng liên tục như trên là:
- Do sự nỗ lực của hàng chục triệu nông dân trong điều kiện đổi mới, người lao động làm chủ ruộng đất từ đó làm chủ tất cả các khâu trong quá trình sản xuất tiêu thụ, được đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, khi xuất khẩu gạo ngày càng tăng, gạo ngày càng được giá sẽ khuyến khích trực tiếp những người nông dân tích cực sản xuất nhằm tăng thu nhập cải thiện đời sống.
- Do những tiến bộ về khoa học công nghệ trong sinh học, thuỷ lợi, phân bón …đặc biệt trong lĩnh vực sinh học chẳng hạn như áp dụng các giống lúa mới vào sản xuất, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mùa vụ, đẩy mạnh thâm canh, tăng nhanh sản lượng. Cùng với hàng chục triệu người nông dân trên đồng ruộng còn phải kể đến sự đóng góp không nhỏ cuả các nhà khoa học đã trực tiếp làm nên thành quả của mặt trận nông nghiệp những năm qua.
1.2. Diện tích
Từ 1990-2003 diện tích gieo trồng không ngừng tăng, nhưng được chia làm hai giai đoạn rõ rệt. Từ 1990-2000 diện tích tăng và ổn định qua các năm, năm 1991 diện tích tăng 260 nghìn ha- tương ứng tăng 4.3% so với năm 1990, năm 1998 tăng 263 nghìn ha –3.7% so với năm 1997. Đây là hai năm diện tích gieo trồng tăng với tốc độ cao. Nguyên nhân là do nhà nước thực hiện đổi mới quản lý trong nông nghiệp từ đó khuyến khích được sản xuất với quy mô lớn và số vụ trong năm cũng tăng để đáp ứng nhu cầu gạo hàng hoá. Từ năm 2001 –2003 diện tích có sự biến động không ổn định , năm 2001 diện tích giảm 173.6 nghìn ha, đến năm 2002 diện tích có tăng 11,6 nghìn ha so với năm 2001 nhưng vẫn thấp hơn năm 2000 là 162 nghìn ha. Đến năm 2003 diện tích lại giảm so với năm 2002 là 55 nghìn ha. Nguyên nhân do trình độ đô thị hóa ngày càng tăng các khu công nghiệp, dân cư chủ yếu đuợc xây dựng ở vùng đồng bằng dẫn đến diện tích trồng lúa ngày càng bị thu hẹp . Do đó những năm sắp tới cần tăng cường thâm canh thực hiện tăng sản lượng dựa vào tăng năng suất cây trồng chính là chủ yếu.
1.3.Về năng suất
Xu hướng tăng của năng suất ổn dịnh hơn so với xu hướng tăng của diện tích. Từ năm 1991-2003 năng suất luôn tăng trong đó năm 1992 mức tăng khá cao 2.2 tạ / ha – 7.07%, năm 2002 mức tăng 3 tạ/ha – 7% so với năm trước. Có được mức tăng liên tục như trên là do nông nghiệp nước ta đã có được những đầu tư về vốn, khoa học, kỹ thuật cho sản xuất nhưng mức sản lượng này còn thấp so với tiềm năng và so với nhiều nước trên thế giới. Do đó Viêt Nam cần chú ý đầu tư vào sản xuất hơn.
Theo tạp chí con số và sự kiện –7-2004. Trong 6 tháng đầu năm 2004 diện tích lúa đông xuân cả nước ước tính đạt 2978,4 nghìn ha , giảm 44,2 nghìn ha và bằng 98,5 % vụ đông xuân năm 2003. Các địa phương phía Bắc đạt 1146 nghìn ha bằng 98,6%. Do đầu vụ năm nay ở phía Bắc có rét đậm kéo dài và hạn hán trên diện rộng làm ảnh hưởng đến tiến độ gieo cấy. Các tỉnh phía Nam đạt 1814,4 nghìn ha, bằng 98,5 % do một phần diện tích lúa năng suất thấp được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Thời tiết cuối vụ diễn biến thuận lợi hơn tạo điều kiện cho trà lúa chính vụ phát triển tốt và năng suất khá. Đến trung tuần tháng 6 các địa phương phía bắc thu hoạch 856 nghìn ha chiếm 74 % diện tích gieo trồng, năng suất ước đạt 57,8 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2003, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng đạt 62,2 tạ/ha tăng 0,8 tạ/ha ,vùng trung bộ đã thu hoạch xong với 56,6 tạ/ha tăng 2,2 tạ/ha, miền núi phía bắc 49,4 tạ/ha, tăng 0,3 tạ/ha. Sản lượng lúa phia bắc ước tính đạt 6,73 triệu tấn, tăng 3,4 vạn tấn so với vụ đông xuân trước. Các địa phưong phía nam đã thu hoạch xong với năng suất đạt 56,6 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha ,sản lượng ước tính đạt 10,3 triêu tânông dân tăng 14 vạn tấn. Trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 8,6 triệu tấn tăng 11,9 vạn tấn. Tính chung năng suất lúa đông xuân năm nay cả nước đạt 57,1 tạ/ha tăng 1,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2003 và sản lượng đạt 17 triệu tấn tăng 17,4 vạn tấn. Có thể nói triển vọng năng suất và sản lượng sẽ đạt ở mức cao
2 . Thực trạng về chế biến lúa gạo
Những năm gần đây công nghệ sau thu hoạch của nước ta đã có những tiến bộ đáng kể.
-Tổn thất sau thu hoạch giảm xuống: tổn thất sau thu hoạch ( còn gọi là “ mất mùa trong nhà”) là tổn thất xảy ra ở tất cả các khâu của hệ thống sau thu hoạch từ khi thu hoạch, sơ chế , bảo quản, chế biến đưa nông sản ra thị trường cho đến khi tiêu dùng.
Theo số liệu thống kê và số liệu điều tra những năm trước đây (1990-1991) của viện công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê thì tổn thất sau thu hoạch lúa ở Việt Nam từ 13%-16% trên tổng sản lượng lúa thu hoạch , tương đương 1-2% GDP hàng năm. Mức tổn thất được chi tiết cho các khâu sau:
+Khâu thu hoạch: 1.3-1.7%
+Khâu vận chuyển:1.2-1.5%
+Khâu đập, tuốt lúa: 1.4-1.8%
+Khâu phơi sấy, làm sạch:1.9-2.1%
+Khâu bảo quản :3.2-3.9%
+Khâu xay xát:4-5%
Theo điều tra của viện công nghệ sau thu hoạch, trong gần 10 năm (1992-2002), nhờ áp dụng công nghệ sau thu hoạch của lúa giảm xuống 10-12%. Như vậy trung bình đã giảm được 3- 4% tương đương 1 triệu tấn lúa. Các nhà kinh tế đã tính toán rằng cứ 1% tổn thất tương đương 7 triệu USD hay 100 tỷ đồng .
Việc giảm tỷ lệ tổn thất xuống còn 3- 4% tương ứng việc tăng thêm 1-28 triệu USD hay 300- 400 tỷ VND cho đất nước.
Giá trị sản lượng của lúa gạo tăng lrên: Nhờ áp dụng công nghệ sau thu hoạch đặc biệt công nghệ bảo quản, chất lượng gạo xuất khẩu thay đổi theo hướng tỷ trọng gạo có chất lượng cao tăng lên , tỷ trọng gạo có chất lượng thấp giảm xuống. Năm 1990 tỷ lệ gạo 40% tấm chiếm 55% tổng khối lượng gạo xuất khẩu, gạo phẩm chất cao 5% tấm chỉ chiếm 3.3%. Năm 1998 gạo phẩm chất cao tăng lên 27% từ 1999 gạo phẩm chất cao xuất khẩu chiếm 35- 40%. Công nghệ chế biến gạo tiên tiến đặc biệt công nghệ tách hạt và đánh bóng gạo đã góp phần quan trọng đưa Việt Nam lên hàng thứ hai trong số các nước xuất khẩu gạo.
Hệ thống máy xay xát lúa gạo ở Việt Nam
Số máy
Tổng công suất (tấn/ha)
1.Khối cơ sở quốc doanh
Miền Bắc
Miền Nam
950
278
348
3600
2756
5844
2.Khối cơ sở tự nhiên
3890
17400
3.Các cơ sở khác
160
10000
Tổng số
5000
26000
Nguồn : Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn –2001
Hiện nay các cơ sở xay xát đã đủ sức xay xát hết số thóc cho tiêu dùng và xuất khẩu, trung bình mỗi năm khoảng 13.5 triệu tấn tronmg đó Đồng bằng sông Hồng là 4 triệu tấn, sông Cửu Long là 9 triệu tấn. Các cơ sở xay xát quốc doanh thực hiện một quy trình xay xát khép kín từ khử trấu, xát trắng đánh bóng, tạo màu, phân loại, đóng bao. Các cơ sở tư nhân chỉ tiến hành 1 hay 2 công đoạn của quá trình xay xát gạo nhưng chiếm 75% lượng gạo xay xát của cả nước.
II. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm 1989 Việt Nam đã có mức tăng trưởng đầy ấn tượng về lượng gạo xuất khẩu . Năm đó chúng ta xuất khẩu được hơn 1.4 triệu tấn gạo, thu về 290 triệu USD với giá bình quân 204 USD/tấn trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới sau Thái Lan và Mỹ. Những năm tiếp theo lượng gạo xuất khẩu có xu hướng tăng ở mức ổn định và trở thành 1 trong 10 mặt hàng xuất khẩu thu về lượng ngoại tệ lớn cho đất nước .
10 nhà xuất khẩu gạo năm 2003
STT
Tên nước
Sản lượng (tấn)
1
Thái Lan
7,500,000
2
ấn Độ
4,000,000
3
Việt Nam
3,500,000
4
Mỹ
2,950,000
5
Trung Quốc
2,250,000
6
Burma
1,500,000
7
Pakistan
800,000
8
Urugoay
650,000
9
ôtrâylia
500,000
10
Ai Cập
500,000
Nguồn : Báo cáo thực trạng và tổng quan thị trường gạo thế giới được bộ nông nghiệp Mỹ công bố.
Tính chung trong 15 năm, nứơc ta tham gia thị trường gạo xuất khẩu, chúng ta đã cung cấp hơn 40 triệu tấn, bình quân 2.7 triệu tấn/ năm, thu về cho đất nước hơn 9 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan.
1.Số lượng và kim ngạch xuất khẩu
Do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức lương thực bình quân nói chung và lúa gạo nói riêng liên tiếp được cải thiện, Việt Nam không những tự túc được lương thực trong nước, mà còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Năm 1989 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với nền kinh tế và ngoại thương nước ta. Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với vị trí là một nước xuất khẩu thứ 3. Trên thực tế, số lượng và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây càng gia tăng hơn.
Bảng: Số lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm
Số lượng (nghìn tấn)
Giá trị(triệu USD)
Số lượng
% thay đổi so với năm trước
Giá trị
% thay đổi so với năm trước
1989
1450
-
290
-
1990
1624
12.00
374
28.96
1991
1033
-36.39
234
-37.43
1992
1946
88.38
418
78.63
1993
1722
-11.51
362
-13.40
1994
1983
15.16
424
17.13
1995
1988
0.25
530
25.00
1996
3003
51.06
855
61.32
1997
3575
19.05
870
1.75
1998
3730
4.33
1024
17.70
1999
4508
20.86
1025
0.09
2000
3476
-22.89
672
-34.44
2001
3729
7.28
619
-7.89
2002
3240
13.11
726
17.28
2003
3890
20.06
734
1.10
Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê
Xu hướng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng được chia làm 3 giai đoạn khá rõ.
Từ năm 1989-1992 giai đoạn này lượng xuất khẩu không đều đến năm 1991 giảm ở mức thấp 1033 nghìn tấn kéo theo kim ngạch cũng ở mức thấp giảm hơn năm trước(1990) là 37.43%. Khi đó Pakistan đã giành mất vị trí thứ 2 của nước ta. Tuy nhiên đến năm 1992 nước ta nhanh chóng giành lại vị trí thứ hai của mình với số lượng 1946 tăng gần 90%, kim ngạch tăng gần 80%.
Từ 1993-1999 lượng xuất khẩu tăng đều qua các năm. Tuy năm 1993 lượng xuất khẩu giảm so với 1992-11.51%, kim ngạch giảm -13.4% nhưng đến 1994 lượng xuất khẩu đã tăng 1983 nghìn tấn lớn hơn1992, kim ngạch cũng tăng lên 424 triệu USD (năm 1992 –418 triệu USD).
Đặc biệt năm 1999 lượng xuất khẩu tăng cao nhất 4508 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 1025 triệu USD cao nhất từ trước tới nay.
Tuy nhiên so với các nước xuất khẩu gạo trên thế giới thì lượng gạo xuất khẩu của nước ta được coi là khá ổn định. Theo đánh giá của FAO khu vực Châu á - Thái Bình Dương, ở Châu á ngoài cường quốc xuất khẩu gạo à Thái Lan, còn có 3 nước khác có khả năng cạnh tranh với Việt Nam trong xuất khẩu gạo là ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc. Song thời gian qua sản lượng gạo xuất khẩu của cả 3 nước đều không ổn định: ấn Độ có năm xuất khẩu 5 triệu tấn (năm 1995) vươn lên vị trí thứ 2 sau Thái Lan, nhưng các năm khác lại đạt rất thấp phổ biến dưới 1 triệu tấn gạo:năm 1993 là 767 nghìn tấn; năm 1994 là 890 nghìn tấn ; năm 1997 dưới 2 triệu tấn. Pakistan cao nhất 1.8 triệu tấn (1995), các năm khác dưới 1 triệu tấn. Trung Quốc năm cao nhất là năm 1994 xuất 1.6 triệu tấn, năm 1998 sản lượng lương thực đạt mức kỉ lục 490 triệu tấn nhưng xuất khẩu vẫn chỉ đạt 1 triệu tấn.
Khác với các nước trong khu vực 17 năm qua thực hiện chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn, theo tinh thần của nghị quyết 10 của Bộ chính trị và các chính sách kinh tế tài chính của Đảng và Nhà nước sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng ở nước ta phát triển ổn định và tăng trưởng nhanh.
2.Chất lượng vầ chủng loại gạo
Chất lượng gạo trên thế giới được phân thành 5 loại dựa trên 9 chỉ tiêu: Tỉ lệ tấm, kích thước hạt, màu gạo, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ Amilaza, tỷ lệ Protêin, nhiệt hoá, mùi thơm. Còn gạo của chúng ta chủ yếu chỉ quan tâm đến 3 chỉ tiêu đầu.
Cùng với sự tăng lên về số lượng chủng loại, chất lượng gạo của Việt Nam trong những năm gần đây được cải thiện đáng kể. Trong những năm đầu xuất khẩu gạo, tỷ lệ gạo chất lượng thấp và trung bình chiếm tới 80-90%, đến năm 1998 chỉ còn 47% và cuối năm 2003 tỷ lệ này là 40%. Tỷ lệ gạo chất lượng cao( 5-10%) đã tăng từ 1% năm 1989 lên 55% năm 2003 tỷ lệ gạo chất lượng thấp chỉ còn 21%.
Bảng : Chất lượng gạo xuất khẩu qua các năm
Năm
Cấp loại gạo(% tấm )
5
10
15
20
25
>25
1989
0.35
-
-
2.22
5.02
92.41
1990
3.98
10.21
5.69
3.42
20.47
56.23
1991
7.51
27.58
4.98
5.58
25.85
28.50
1992
18.96
21.48
11.03
4.25
13.82
30.96
1993
25.62
25.62
13.24
8.23
19.08
16.21
1994
44.51
25.00
4.03
9.03
7.31
10.12
1995
30.50
24.58
12.02
10.73
18.11
4.06
1996
30.59
17.66
5.45
6.23
21.70
18.37
1997
27.63
16.20
7.11
1.27
35.98
12.08
1998
26.92
26.15
13.97
0.41
30.82
1.73
1999
18.30
15.80
22.30
1.40
35.10
7.10
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, vụ kế hoạch và quy hoạch.
3.Thị trường và giá cả xuất khẩu
3.1.Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
Bảng: Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2002-2003
Khu vực
Năm 2002
Năm 2003
Khối lượng
(tấn)
%
Khối lượng
(tấn)
%
Châu á
2295.100
59
1.55.200
48
Châu Phi
778.000
20
324.000
10
Trung Đông
350.000
9
939.600
29
Châu Mỹ
311.000
8
226.800
7
Châu Âu
155.600
4
194.400
6
Nguồn : Thời báo kinh tế- Niên giám thống kê
Trong cả thời kỳ 1991-2003 gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường thế giới luôn chiếm tỷ trọng lớn từ 7-18%, do tăng sản lượng xuất khẩu kỷ lục 4.5 triệu tấn, Việt Nam chiếm thị phần thị trường gạo thế giới 18.2% và đạt kim ngạch xuất khẩu 1.025 triệu USD. Hơn nữa gạo Việt Nam giá rẻ phù hợp với nhu cầu các thị trường những nước đang phát triển. Thị trường gạo nhập khẩu Việt Nam từ nước năm 1991 mở rộng ra 80 nước và có mặt ở cả 5 châu lục.
Bảng tỷ trọng xuất khẩu gạo của Việt Nam
Năm
1990
1995
1999
2000
2001
2002
Tỷ trọng
So với TG (%)
7.7
9.0
18.2
14.8
15.4
13.6
Nguồn : Theo số liệu tổng cục Thống kê 2002
Năm 2003 thị trườnggạo khu vực Châu á 59%, Châu Phi 20%, Trung Đông 9%(năm 2002 các số liệu tương ứng 485, 10%,29%) . Đây là 3 thị trườngtiêu thụ với lượng lớn trong đó thị trường Châu á khá ổn định, thị trường Châu Phi và Trung Đông mức dao động khá lớn,thị trường Châu Mỹ và Châu Âu nhỏ hơn nhưng ổn định hơn. Thị trường Châu Phi tiêu thụ chủyêú gạo chất lượng thấp 25% tấm, trong khi Trung Đông lại nhập khẩu gạo với chất lượng trung bình 10-12% tấm, Châu Mỹ và Châu Âu nhập khẩu gạo chất lượng gạo chất lượng cao 5% tấm. Thực tế cho thấy, một mặt xu hướng vạn động thay đổi cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là tích cực (tăng gạo chất lượng khávà giảm loại gạo chất lượng thấp); mặt khác, sự thay đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu lại có nguy cơ mất dần thị trường Châu Phi vốn là thị trường dễ tính, quen tiêu thụ gạo phẩm chất thấp vốn phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Giá xuất khẩu gạo
Việt nam đã có sự trưởng thành rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng gạo cũng như trình độ nghiệp vụ thương mại quốc tế, trong việc đàm phán kí kết hợp đồng xuất khẩu . Do vậy giá xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm có xu hướng nhích dần gần lại với giá cả quốc tế. Khoảng chênh lệch giữa giá xuất khẩu gạo của Thái Lan với giá gạo cùng loại của Việt Nam bngày càng được thu nhỏ hơn.
Bảng: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Giá BQ
(USD/tấn)
214
267
285
243
275
227
192
165
224
188
Nguồn : Tổng hợp từ niên giám thống kê và thời báo kinh tế
Giá gạo bình quân của Việt Nam ở các thời kỳ của giai đoạn 1989-2003 như sau: Thời kỳ 1989-1993 là 208 USD/tấn, từ 1994-1998 là 256 USD/ tấn, từ 1999-2003 là 199 USD/ tấn. Giá bình quân cả thời kỳ từ 1989-2003 là 221 USD/tấn. Tốc độ tăng trưởng giá bình quân 1994-1998 so với 5 năm trước là 1.23 lần và thời kỳ 1999-2003 so với 5 năm trước là 0.77 lần.
Giá gạo của chúng ta những năm đầu xuất khẩu thường thấp hơn giá gạo của Thái Lan 40-50 USD/tấn những năm 1989-1994, xuống còn 20-24 USD/tấn những năm 1995-2000, đôi khi giá gạo của nướcta còn cao hơn giá gạo của Thái Lan.
Tổng cộng trong 15 năm xuất khẩu gạo nước ta đã thu về trên 8 tỷ USD, đạt mức bình quân 572 triệu USD/năm, một con số đáng tự hào mà trước đó mới chỉ là mơ ướ. Xét về giá trị ngoại tệ mạnh thu được, xuất khẩu gạo đứng thứ hai sau dầu thô, song xét về tính chất sản phẩm thì xuất khẩu gạo cố nhiều điểm trội hơn hẳn dầu thô. Thứ nhất, gạo xuất khẩu là phần dư của nước ta sau khi đã thoả mãn mọi tiêu dùng trong nước, khác với dầu thô xuất khẩu toàn bộ. Thứ hai, gạo xuất khẩu là sản phẩm 100% của Việt Nam , khác với dầu thô là sản phẩm của liên doanh.Thứ ba dầu lảan phẩm khai thác từ tài nguyên thiên nhiên, càng xuất khẩu tài nguyên càng cạn kiệt, trong khi đó gạo là sản phẩm trồng trọt, số lượng và chất lượng gạo xuất khẩu chỉ phụ thuộc vào kết quả sản xuất và trìnhđộ thâm canh, xuất khẩu gạo tăng, đầu ra của lúa gạo mở rộng tạo động lực mới để phát triển sản xuất theo huớng thâm canh cao (do kích thích giá lúa tăng, nông dân tăng thu nhập, tăng mức đầu tư thâm canh, tăng văng suất và chất lượng gạo). Thứ tư, hỉệu quả kinh tế - xã hội – quốc phòng – an ninh và môi trường của sản xuất và xuất khẩu gạo cao hơn nhiều so với bất kỳ một hàng xuất khẩu nào của nuớc ta. Hiệu quả đó không chỉ trước mắt mà còn lâu dài vì nhu cầu lúa gạo cho an ninh lương thực thế giới đang có xu hướng tăng, hạt gạo Việt Nam còn có thể vượt xa đến nhiều nước so với hiện nay. Thứ năm, giá gạo trên thị trường thế giái ổn định hơn so với các mặt hàng xuất khẩu khác do quan hệ cung cầu ít biến động hơn.
Xét trên 5 góc độ đó, rõ ràng xuất khẩu gạo là lợi thế của nước ta và lợi thế này nếu biết khai thác hợp lý sẽ tồn tại lâu daì và là một hướg làm giàu cho đất nước ít có sản phẩm nào sánh kịp.
II. Đánh giá chung về sản xuất và xuất khẩu gạo thời gian qua
1.Về sản xuất – chế biến gạo
1.1. Về sản xuất
Trong nhưng năm vừa qua sản xuất lúa gạo Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó còn rất nhiềt bất cập tồn tại:
- Sản xuất chưa thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hoá lớn,chưa có quy hoạch tổng thể và kế hoạch cụ thể về sản xuất lúa gạo xuất khẩu (vùng nào, địa phương, nào bao nhiêu, cơ cấu giống, đầu tư thâm canh). Một sốvùng và địa phương đã hình thành vùng quy hoạch và kế hoạch nhưng vẫn nặng tính tự phát, cục bộkể cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng.
- Trong vài năm vừa qua diện tích gieo trồng có xu hướng giảm đi, năng xuất , sản lượngtăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có.
- Sản xuất lúa gạo đặc sản chưa đước chú trọng một cách thoả đáng. Nguyên nhân:
- Mặc dù đã có nhiều cố gắng khắc phục nhưng tình trạng không ổn định của thời tiết cũng đã có ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp đặc biệt cho sản xuất lúa gạo.
- Hiện nay với trình độ đo thị hoá cao đã làm giảm một lượng lớn diện tích gieo trồng lúa gạo.
- Do sự dịch chuyển cơ cấu gieo trồng nên những diện tích trồng lúa kém hiệu quả được chuyển sang gieo trồng các loại cây trồng hiệu quả hơn hoặc nuôi trồng thuỷ sản.
- Trình độ thâm canh của nước ta còn thấp, năng suất lao động chưa cao; công nghệ sản xuất giống lạc hậu do đó giống lúa chất lượng kém, năng xuất thấp còn phổ biến; trình độ cơ giới hoá thấp chủ yếu là lao động thủ công (đặc biệt vùng Đồng bằng sông Hồng).
- Với sự ảnh hưởng của một thời gian dài chiến tranh, rồi sang thời kỳ kế hoạch hoá tập trung nước ta không chú trọng tới việc giữ gìn và phát triển các giống lúa đắc sản nên hiện nay lúa ác sản của nước ta chất lượng không cao, năng xuất thấp do đó không được chú trọng trong trông lúa xuất khẩu.
1.2. Công nghệ sau thu hoạch
- Cơ sở vật chất phục vụ chế biến, bảo quản xuất khẩu còn yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện nay tuy có đước trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố chí ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trpng khi đó, những vùng và địa phương có nhiều lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu như An Gianh, Đồng Tháp, Sóc Trăng…lại không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo xuất khẩu hiện đại. Đầu mối xuất khẩu gạo tập chung quá lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, trong khi đó nguồn gạo là ở Đồng bằng sông Cửu Long, làm tăng chí phí vận chuyển và chí phí trung gian khác. Vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Nam Trung Bộ tuy có thừa lúa gạo nhưng thu gom, chế biến rất khó khăn nên xuất khẩu không đáng kể.
- Tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch khá cao 10 – 12%, trong khi ở các nước tiên tiến như Nhật Bản tỷ lệ này là 3.9 – 5.6%. Nếu lấy mức tổn thất trung bình là 10% và sản lượng lúa năm 2001 là 32 triệu tấn thì mức tổn thất là 3.2 triệu tấn lúa, khoảng 1,92 triệu tấn gạo và tương ứng 460 triệu USD. Để có thêm 3.2 triệu tấn lúa cần có được một diện tích trồng lúa là 640 nghìn ha. Điều này là không thể có được trong thực tế.
1.3. Hiện nay sản xuất lúa gạo khá phát triển, xuất khẩu thu về một lượng ngoại tệ lớn nhưng đời sống của người nông dân gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trọng điểm lúa số một của cả nước, xuất khẩu gạo nhiều song cũng là nơi có nhiều lũ lụt mỗi mùa nước đến. ậ đây phần lớn các hộ gia đình chưa có nhà kiên cố, các thôn, xã chưa có đường ô tô, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp, mức sống còn quá nghèo. Do vậy nhu cầu vốn cho sản xuất vẫn là vấn đề nổi cộm. Do thu nhập thấp, do nhu cầu vốn bức bách, nông dân buộc phải bán thóc cho tư thương với mức giá bất lợi cho chính họ. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất lúa gạo.
2. Về xuất khẩu
Xuất khẩu gạo nước ta 14 năm qua dac đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp một lượng ngoại tệ lớn cho nền kinh tế trong nước, nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết.
2.1 Về thị trường
Chúng ta vẫn chưa thiết lập được hệ thống thị trường thực sự ổn định với mạng lưới khách hàng thực sự tin cậy. Cho đến nay, phương thức xuất khẩu qua khâu trung gian vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng để tăng cường xuất khẩu trực tiếp. Đặc biệt việc xuất khẩu qua khâu trung gian vào Châu Phi vẫn còn diễn ra khá phổ biến.
Nguyên nhân do việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu chưa được chú trọng, các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần lắm bắt kịp thời mọi thông tin cập nhật, chính xác nhằm bảo đảm hiệu quả hơn nữa cho hoạt động xuất khẩu. Nhiều năm qua, các nguồn và loại tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ hoạt động kinh doanh xuất khẩu cũng như phục vụ cho công tác quản lý xuất khẩu và công tác nghiên cứu, nhìn chung còn quá ít ỏi chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu đòi hỏi phải có những thông tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời về hệ thống và diễn biến cung- cầu và giá cả.
2.2. Giá cả xuất khẩu
Hiện nay giá xuất khẩu của nước ta còn thấp hơn giá quốc tế cũng như giá xuất khẩu ở các nước khác.
Bảng: Giá gạo xuất khẩu FOB ngày 12-7-2001 của 4 nước xuất khẩu.
Cấp loại gạo
Giá xuất khẩu của Thái Lan (giá quốc tế)
Việt Nam
ấn độ
Pakixtan
Giá xuất khẩu
Chênh lệch giá so với quốc tế
Giá xuất khẩu
Chênh lệch giá so với quốc tế
Giá xuất khẩu
Chênh lệch giá so với quốc tế
5%
168- 171
152- 153
-18
170
-1
168-170
+1
10%
159- 160
144- 146
-14
155
-5
158-169
0
15%
154- 156
136- 138
-18
138
-17
153-155
-1
Nguồn: International Trade Centre (UNCTAD): “Market News Service, Rice”, isue, No. 10-2001.
Qua bảng ta thấy giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với giá quốc tế, gạo 5% tấm là -18, 10% tấm là-14, 15%tấm là -18, trong khi đó giá gạo tương ứng của ấn Độ là -1, -5, -17, của Pakixtan là +1, 0, -1.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
- Chất lượng gạo Việt Nam thấp - điều này do trình độ kỹ thuật lạc hậutừ khâu tạo giống đến khâu chế biến chính vì thế với cùng cấp gạo nhưng giá gạo của Việt Nam luôn thấp hơn so với các nước khác.
- Gạo Việt Nam chưa có được uy tín trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam chưa biết quảng bá xây dựng một thương hiệu vững mạnh được người tiêu dùng tin tưởng.
2.3. Chất lượng và chủng loại gạo
Hiện nay chất lượng gạo Việt Nam còn thấp, gạo xuất khẩu loại cấp cao năm 1993 là 51.2% đến năm 1999 là 40% ngược lại gạo có phẩm chất thấp lại tăng từ 27.3% đến 45%.
Nguyên nhân chính là do trình độ sản xuất và chế biến lúa gạo hiện nay còn quá thấp không theo kịp yêu cầu của thị trường thế giới, không thể canh tranh với các nước xuất khẩu gạo khác trên thế giới.
Do chưa có sự chú trọng tới chủng loại gạo xuất khẩu nên chủng loại gạo xuất khẩu còn nghèo nàn, không phong phú so với các nước xuất khẩu khác.
2.4 Về vấn đề tổ chức
-Việc điều hành xuất khẩu gạo hiện nay đang bộc lộ những nhược điểm. Hạn ngạch xuất khẩu giao từ đầu năm trong khi chưa biết kết quả sản xuất lúa trong năm như thế nào, do đó liên tục phải điều chỉnh kế hoạch, kể cả huỷ hợp đồng đã ký với khách hàng. Hạn ngạch xuất khẩu gạo giao cho từng tỉnh cũng dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương. Từ 2001 tuy đã bỏ quota nhưng tổ chức thu mua xuất khẩu gạo còn nhiều bất cập. Đã xuất hiện tình trạng một số tỉnh báo cáo sản lượng lúa hàng hoá nhiều hơn so với thực tế để xin hạn ngạch xuất khẩu gạo, sau đó lại đi mua gạo của địa phương khác về “tái xuất”. Một số địa phương không có lúa hàng hoá vẫn xin hạn ngạch xuất khẩu gạo và được cấp.
- Việc phân bố lợi nhuận xuất khẩu gạo giữa người nông dân trồng lúa với các doang nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo chưa hợp lý, trong đó phần thiệt thòi vẫn thuộc về nhà nước và nguời nông dân. Năm 2001 nhà nước phải bù lỗ hàng trăm tỷ đồng để mua tạm trữ 2 triệu tấn là thí dụ rõ nét nhất.
- Các bộ, ngành chức năng, Hiệp hội lương thực Việt Nam và các địa phương chưa chủ động đưa ra những quyết định quản lý kịp thời vào những thời điểm thị trường có những biến động phức tạp. Dẫn tới những hiện tượng các doanh nghiệp tranh bán khi thị trường tiêu thụ khó khăn, tranh mua khi thị trường xuất khẩu thuận lợi thường xuyên diễn ra, chưa khắc phục được trong những năm qua.
Chương 3
Một số giải pháp cơ bản đẩy mạnh xuất khẩu gạo của
Việt Nam
Nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời kỳ mới, phương hướng chính không phải là phấn đấu tăng diện tích, quy mô và doanh số gạo xuất khẩu, mà cần tập chung đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, cải tiến chất lượng và phẩm cấp, tổ chức tốt và khép kín các khâu thu mua, chế biến, marketinh bán hàng, đảm bảo nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả cũng như ổn định thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. Có những nhóm giải pháp sau:
I. Hoàn thiện tổ chức khâu trồng lúa cung cấp cho xuất khẩu
1. Thực hiện tốt quy hoạch phân vùng thâm canh trồng lúa cho xuất khẩu
Trọng điểm là các Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long vốn có những điều kiện ưu đãi về thổ những, hệ thống kênh mương tưới tiêu nội đồng khá phát triển cũng như tập quán – kinh nghiệm canh tác lúa nước.
- Đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đây là vùng lúa trọng điểm số một của nước ta. Trong tương lai, đây vẫn là vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu chủ yếu. Vùng này nên quy hoạch phát triển sản xuất các loại gạo có chất lượng tốt, khối lượng xuất khẩu lớn. Tuy nhiên, dù là vùng sản xuất gạo xuất khẩu loại nào đều phải phấn đấu trước hết về mặt chất lượng. Để nâng cao phẩm chất gạo xuất khẩu, cần chú ý quy hoạch tổng thể hệ thống cơ sở hạ tầng từ sản xuất đến chế biến lúa gạo. Ngoài ra ở vùng này nên tiến thí điểm việc khu vực hoá một số giống lúa chất lượng cao có thể nhập nội. Từng bước tăng dần tỷ lệ gạo xuất khẩu chất lượng cao và một phần lúa gạo đặc sản như Nàng Hương, Chợ Đào… trong cơ cấu gạo xuất khẩu của vùng này.
- Đối với vùng Đồng bằng sông Hồng.
Đây là vùng lúa trọng điểm thứ hai của nước ta. Tuy nhiên vùng này có những mặt hạn chế về số lượng gạo xuất khẩu do đất chật người đông, đất canh tác không được bổ sung độ phì nhiêu tự nhiên hàng năm như ĐBSCL. Nhưng vùng này lại có những ưu thế về mặt chất đất, nguồn nước, thời tiết khí hậu rất thuận lợi cho phát triển các giống lúa đặc sản chất lượng cao như: Tám Thơm, lúa Dự… Đó là các sản phẩm có thể nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường thế giới, trước hết là những nước phát triển như Bắc Mỹ, Tây âu, Nhật Bản. Đồng thời đó cũng là loại gạo có thể thu được lượng ngoại tệ khá cao trên một đơn vị diên tích.
Mỗi tỉnh, mỗi huyện trong vùng cần quy haọch từng tiểu vùng, từng huyện, từng xã phục hồi lại các giống lúa truyền thống có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Ngoài ra, cần tiến hành thí điểm khu vực hoá các giống lúa nhập nội có chất lượng cao, năng suất khá của một số nước trong khu vực. Điều đó làm phong phú thêm chủng loại gạo cao cấp cho xuất khẩu, khai thác tốt hơn lợi thế của vùng này trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
- Đối với các vùng khác
Nhìn chung những vùng này không có nhiều tiềm năng về xuất khẩu gạo vì diện tích ít, năng suất thấp, thường bị thiếu đói lương thực. Đối với những vùng này cố gắng phấn đấu sản xuất lúa để có thể tự túc được nhu cầu lương thực, góp phần tích cực bảo đảm bền vững yêu cầu an ninh lương thực quốc gia.
2. Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về tín dụng, bảo trợ sản xuất
Khá động những người trồng lúa xuất khẩu ở nước ta thuộc tầng lớp nghèo của xã hội. Những hộ gia đình xếp loại trung bình của nông thôn đời sống cũng rất khó khăn nên thường xuyên thiếu vốn cho sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, để có sản phẩm lúa gạo xuất khẩu trong quá trình trồng trọt chế biến nhiều khi phải tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém, đặc biệt là các loại lúa đặc sản chất lượng cao. Trong tình hình đó cần có sự hỗ trợ về vốn cho nông dân.
Hiện nay với sự ổn định của nền kinh tế các ngân hàng cần tăng cường vốn cho nông dân vay có thể dưới hình thức ngắn hạn hay dài hạn, có như vậy các hộ gia đình mới có điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất theo cả bề rộng lẫn theo chiều sâu.
Cùng với tăng số lượng cho vay, cần cấp tín dụng kịp thời đến hộ nông dân đúng thời vụ sản xuất. Có thể nói, sự ràng buộc bởi những quy định hành chính đã kéo dài thời gian làm thủ tục cho vay mỗi lần đến hộ nông dân. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn: ngân hàng Nhà nước thừa tiền cho vay, hộ nông dân vẫn phải đi vay nóng ở các thị trường tín dụng chợ đen. Hiện nay chế độ hành chính đã thông thoáng hơn, Nhà nước đã chú ý nhiều hơn tới việc cho người nông dân vay phát triển sản xuất nhưng vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm cần khắc phục.
3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học - kỹ thuật trong sản xuất gạo xuất khẩu
- Giải pháp về giống lúa:
Đây là giải pháp cần đi trước một bước, kể cả nghiên cứu, triển khai và việc áp dụng vào thực tiễn, nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản cho các giải pháp kỹ thuật khác phát huy hiệu quả cải tiến cơ cấu sản xuất.
+ Xúc tiến nhanh việc bình tuyển các loại giống lúa đặc sản của các địa phương, từ đó hình thành quỹ gen về giống lúa chất lượng cao để xuất khẩu.
+ Hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về giống lúa theo hướng: rút ngắn thời gian từ khâu thử nghiệm đến sản xuất đại trà, đồng thời vẫn giữ được độ an toàn khi đưa các giống mới ra sản xuất đại trà.
+ Hình thành hệ thống nhân giống lúa thích hợp để thường xuyên thay giống lai tạp bằng giống thuần cho nông dân, do phần lớn các giống lúa mới đều bị xuống cấp nhanh, dễ bị lai tạp.
+ Mỗi vùng, tỉnh, huyện cần nghiên cứu đế xác định được cơ cấu giống lúa, chủng loại lúa thích hợp với nhu cầu của thị trường ngoài nước.
Hiện nay có rất nhiều giống lúa phẩm chất tốt: ngắn ngày, năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu được sâu bệnh, hay thiên tai như CR203, OM 80-81,IR58, IR64, các giống lai Trung Quốc, hay các giống đặc sản… nhưng thực sự trong khâu giống chưa có được những đột pháđáng kể, nguyên nhân là do khoa học công nghệ kém phát triển, vốn ít… Do đó nhà nước cần chú ý tới công tác đầu tư nghiên cứu giống đồng thời cần có chính sách ưu đãi đôí với các nhà khoa học, tránh tình trạng các nhà khoa học bỏ công việc nghiên cứu của mình chỉ vì vấn đề thu nhập không thoả đáng.
- Giải pháp về phân bón.
Đây là giải pháp kỹ thuật cần tiến hành đồng bộ với giải pháp về giống lúa . Vì rằng, phần lớn các loại giống lúa mới kể cả một số giống lúa đặc sản đều chịu được cường độ thâm canh cao, và chỉ trong điều kiện đó các giống lúa mới đạt hiệu quả kinh doanh cao.
+Với điều kiện kinh doanh hiện nay cần duy trì việc sử dụng phân hữu cơ truyền thống (phân chuồng, phân xanh…). Do các loại phân hữu cơ rẻ tiền, có tác dụng tốt với cây trồng và đất, có sẵn đặc biệt tại các vùng trồng lúa. Sử dụng loại phân này là một cách tận dụng có hiệu quả chất thải của ngành chăn nuôi, lại có tác dụng bảo vệ môi trường.
+ Cần chuyển dịch cơ cấu phân bón giữa các loại phân hoá học và phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh theo hướng tăng dần tỷ trọng phân hữu cơ công nghiệp và phân vi sinh.
+ Tăng cường sản xuất phân trong nước kết hợp với nhập khẩu các loại phân hoá học tổng hợp. Cách đó vừa để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón vừa tránh lối bón phân đơn điệu kếm hiệu quả của nông dân ta: chỉ chý ý tới bón phân đạm, ít chý ý tới các loại phân lân, kali và các yếu tố vi lượng kkhác.
+ Cần chấn chỉnh lại cơ chế quản lý sản xuất và nhập khẩu các loại phân bón.
+ Cần tăng cường quản lý của Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh phân bón: đảm bảo quảng cáo chất lượng phân bón trung thực, sản xuất đúng chất lượng đã đăng ký, chống sản xuất phân bón giả…
- Giải pháp về phòng trừ sâu bệnh
Khi sử dụng thuốc trừ sâu cần chý ý nguyên tắc: đúng chỗ, đúng mức, đúng cách, đúng lúc. Hiện nay việc sử dụng thuốc trừ sâu đang bị lạm dụng ảnh hưởng đến vấn đề kinh tế và sức khoẻ của người nông dân. Do đó cần nâng cao hiểu biết của người nông dân về các loại sâu bệnh cũng như tính năng của các loại hoá chất phòng trừ.
Nhà nước cần có biện pháp quản lý chặt chẽ việc sản xuất và mua bán thuốc phòng trừ sâu bệnh trên thị trường tránh được hàng giả xâm nhập thị trường.
4. Cần có những cải tiến trong cơ cấu mùa vụ, tập quán canh tác nhằm nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất, hạn chế, tránh né được những thiệt hại do thời tiết gây ra. Đặc biệt vùng ĐBSCL với việc sản xuất luôn chịu ảnh hưởng lớn của thời tiết thì việc tính toán thời vụ là rất cần thiết.
5. Đồng thời với việc thực hiện quy hoạch, phân vùng thâm canh càn khắc phục tình trạng manh mún và chia nhỏ ruộng đất như hiện nay, khuyến khích người nông dân “dồn điền, đổi thửa”, tích luỹ và tập trung ruộng đất theo quy hoạch để hình thành những đơn vị trồng lúa hàng hoá cũng như vùng trồng lúa hàng hoá xuất khẩu lớn. Chỉ trên cơ sở này mới có thể áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào thâm canh trồng lúa, làm tăng năng suất, sản lượng, chất lượng, hạ giá thành và tăng tỷ suất lúa hàng hoá vùng sản xuất lúa xuất khẩu. Việc xác định quy mô và hiệu quả kinh tế tối ưu trồng lúa là phức tạp nhưng vẫn cần nghiên cứu để tìm lời giải đáp. Đặc biệt để ổn định việc trồng lúa và đảm bảo lợi ích của người trồng lúa xuất khẩu, cần có những biện điều phối vĩ mô của Nhà nước, căn cứ vào tín hiệu giá cả thị trường và mức chi phí bình quân (ATC). Theo một điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vào năm 1998- 1999 thì ở vùng ĐBSH khi mốc giá lúa xuống 1500đ/kg và ĐBSCL khi mốc giá xuống 1250đ/kg, tức là ở vào thời điểm hoà vốn, thì Nhà nước phải có sự can thiệp nhất định.
II. Hoàn thiện khâu tổ chức nguồn hàng cho xuất khẩu
Do tổn thất sau thu hoạch còn khá lớn, mất mát ở các công đoạn như: thu hoạch, phơi sấy, vận chuyển, đập tuốt, bảo quản, xay xát, chế biến; điều này có ý nghĩa giá thành lúa gạo tăng lên một cách không cần thiết (12- 15%). Nếu mức tổn thất sau thu hoạch hợp lý là 5- 7% thì đây chính là tiềm năng nâng cao hiệu quả, hạ giá thành sản xuất lúa gạo xuất khẩu. Hiện nay tổng lượng bảo quản lương thực cả nước là 1875 ngàn tấn, nhưng hiệu suất sử dụng mới đạt 57%. Về mặt năng lực chế biến và công nghệ xay xát, cơ bản chúng ta đã đáp ứng dược yêu cầu của các thị trường cấp cao (công suất xay xát thiêt kế là 15 triêụ tấn gạo/năm với các trang thiết bị hiện đại, đồng bộ của Nhật và một số nước tiên tiến kể cả thiết bị tách tấm, phân loại, đánh bóng gạo…). Như vậy, chất lượng gạo chế biến chỉ còn phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu đầu vào, thời gian cần thiết để hạt lúa có thể chuyển hoá hoàn toàn trước khi chế biến là 1,5- 2 tháng lưu kho. Nhưng hầu hết các nhà máy mua tới đâu chế biến tới đó, không có điều kiện kho bãi và khả năng dự trữ. Trên thực tế chỉ đáp ứng 30- 35% tổng chế biến gạo xuất khẩu. Đây có thể là sự lệch pha giữa sản xuất và yêu cầu chế biến gạo cho xuất khẩu có nguồn gốc từ nguyên liệu.
Về mặt tổ chức thu mua lúa gạo cho xuất khẩu, hiện nay do chúng ta đã bãi bỏ quy định hạn chế đầu mối xuất khẩu gạo, mà số lượng các đơn vị kinh doanh lên tới khoảng 100 doanh nghiệp. Điều này tạo nên sự cạnh tranh tích cực trong việc thu mua lúa gạo xuất khẩu. Trong đó tổng công ty lương thực miền Bắc (Vinafood I) và tổng công ty lương thực miền Nam (Vinafood II) là hai đơn vị Nhà nước chủ lực đã xuất khẩu khối lượng lớn các hợp đồng chính phủ cũng như các hợp đồng thương maị thuần tuý. Tuy nhiên, theo đánh giá thì hiện 80% lượng lúa hàng hoá ở ĐBSCL lượng mua chủ yếu qua các kênh tư nhân để sau đó bán lại cho các đơn vị kinh doanh xuất khẩu. Vì vây, lúa hàng hoá từ sau khi thu hoạch và xay xát đã liên tục được hcuyển quyền sở hữu đảo kho vận chuyển và sơ chế nhiều lần. Điều này khác với Thái Lan, lúa hàng hoá sau khi thu hoạch được người dân đem bán “tươi” cho các công ty chế biến, rồi thông qua các công ty xuất khẩu để bán ra nước ngoài. Trong khi ở Việt Nam, người nông dân luôn bị động trước giá cả thị trường, thì người xuất khẩu lại không phải là người có hàng, nên xảy ra tình trạng tranh bán khi thị trường tiêu thụ khó kkhăn, tranh mua khi tiêu thụ thuận lợi. Hiện tượng một doanh nghiệp cùng chào bán cho một khách hàng thường xảy ra, đây là nguyên nhân gây ép giá và hiệu quả xuất khẩu lúa gạo thấp. Một số giải pháp giải quyết tình trạng trên:
1. Hệ thống phơi sấy
Sử dụng và lắp đặt hệ thống máy sấy phù hợp, từ đó cần hoàn thiện kỹ thuật và nhân ra diện rộng một số mô hình thiết bị sấy có quy mô phù hợp, sử dụng các loại nguyên liệu rẻ tiền có sẵn tại địa phương (như rơm, trấu, củi, than…) do các cơ sở trong nước nghiên cứu và chế tạo.
1.1. Tăng cường công nghệ bảo quản thóc gạo theo hướng:
- áp dụng công nghệ và thiết bị bảo quản kín gạo xát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong môi trường khí CO2 hoặc khí N2 trong các kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh.
- Sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho người và gia súc không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản thóc ở các kho lớn và gia đình.
- Sản xuất các thiết bị kho chứa có dung tích gia đình từ 200- 2000kg cho các tỉnh phía Bắc và 1000- 5000kg cho các tỉnh phía Nam.
- Nâng cấp hệ thống kho chứa, bến bãi tại các đầu mối thu mua thóc gạo ở ĐBSCL. đầu tư vào hệ thống này vừa làm giảm tổn thất vừa nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, đồng thời làm giảm thời gian bốc xếp tại các bến bãi đầu mối.
1.2. Nâng cao công nghệ xay xát
Đối với hệ thống máy móc nhỏ dưới 1 tấn/giờ, nên cải tiến theo kiểu Nhật Bản: dùng máy xay quả lô cao su, sàng phân ly kiểu Yanmar và dùng máy xát Nada. Đối với các máy xay xát 15 tấn/ca cần cải tạo và bổ sung vào đoạn cuối dây truyền các thiết bị tách tấm, đánh bóng, phân loại gạo. Trong tương lai gần, cần trang bị hơn nữa các công nghệ xay xát tiên tiến của thế giới.
1.3. Nhà nước thực hiện các biện pháp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
Nhà nước cần tăng cường cấp tín dụng cho một số doanh nghiệp và địa phương mua tạm trữ lúa gạo đẻ điều tiết cung- cầu, lập quỹ bình ổn giá cả trong nước xây dựng hạ tầng nhà kho, bến bãi, sân phơi, tàu thuyền vận tải phục vụ cho vận chuyển và dự trữ, bảo quản lúa gạo xuất khẩu nghiên cứu xây dựng thí điểm và áp dụng một cơ chế khuyến khích nông dân gửi gạo vào kho chờ tiêu thụ, nhằm giúp người nông dân bảo quản thóc, vừa bảo đảm cho doanh nghiệp có lượng gạo ổn định để xuất khẩu, đảm bảo cho các hợp đồng xuất khẩu đến cuối năm với giá cao. Để có thể tránh “nghịch cảnh” như hiện nay: nhu cầu xuất khẩu gạo trên thế giới đang tăng và các hợp đồng với bạn hành đã cam kết, nhưng giá gạo thu mua nội lại tăng lên vòn vọt, có nguy cơ thua lỗ cho các nhà xuất khẩu nếu thực hiện đúng hợp đồng.
III. Đẩy mạnh hoạt động marketing trong xuất khẩu gạo
1. Các biện pháp thích ứng với thị trường
Thị trường xuất khẩu gạo nhìn chung không ổn định về khách hàng và lượng hàng. Thực tế một số nước nhập khẩu gạo cũng là những nước sản xuất nhưng chưa tự túc được lương thực. Để đảm bảo hơn hiệu quả kinh tế xã hội của sản xuất và xuất khẩu gạo, cần nâng caokhả năng thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. Để làm được như vậy cần phải:
- Kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá các doanh nghiệp xuất khẩu gạo về loại hình doanh nghiệp, về quy mô daonh nghiệp.
- Cần có cơ chế mềm trong quản lý và giao hạn ngạch xuất khẩu gạo cho các doanh nghiệp. Có cơ chế quản lý giám sát chặt chẽ xuất khẩu gạo tiểu ngạch thông qua các nước láng giềng nhằm tăng khả năng, cân đối cung cầu gạo trên thị trường nội địa.
- Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để lắm bắt kịp thời nhu cầu gạo, đồng hợp không bị khách hàng ép giá bán cũng như các điều kiện khác. Kinh phí để nghiên cứu thị trường nên có cơ chế để huy động thích hợp từ các doanh nghiệp, giảm gánh nặng đối với ngân sách Nhà nước.
- Quan hệ chính trị đối ngoại cần đi trước một bước dể tạo điều kiện cho việc thâm nhập và mở rộng thị trường. Ví dụ như thị trường Châu Phi có nhu cầu lớn, song khả năng thanh toán lại bị giới hạn. Thời gian qua để chiếm lĩnh thi trường này phải thông qua các nước Châu âu, bán gạo cho họ để họ viện trợ cho các nước Châu Phi. Làm như vậy là do ta có quan hệ tương đối tốt với các nước chủ dự ánviện trợ. Cần phát huy tiếp tục hướng đi này trong thời gian tới.
2. Các biện pháp chống tranh giành bán gạo ở thị trường thế giới
- Thực hiện phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu gạo lớn.
- Có cơ chế quản lý giá xuất khẩu gạo thích hợp.
- Tăng cường hiệp định xuất khẩu gạo cho các nước theo cấp chính phủ. Sự phân bố hạn ngạch hàng năm cần hướng vào các hiệp định, các hợp đồng dài hạn tương đối ổn định.
3. Nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu
Để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp trước hết là những giải pháp cấp bách và thiết thực sau:
- Không ngừng nâng cao chất lượng. Nếu muốn vậy phải hoàn thiện từ khâu lai tạo giống lúa, xác định cơ cấu giống phù hợp với nhu cầu thị trường. Tiếp đó cần hoàn chỉnh hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ thu hoạch, bảo quản và xay xát gạo. Hơn nữa để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu cần tăng dần tỷ trọng các loại gạo cao cấp và đặc sản. Điều này có liên quan đến việc quy hoạch các vùng trồng lúa đặc sản; việc xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến, vận chuyển; việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa đặc sản.
- Cần chủ động chân hàng để chủ động đàm phán và thực hiện nhanh chóng các hợp đồng đã ký kết, nhất là trong khâu giao hàng. Hiện nay tâm lý khách nước ngoài chưa thật tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp đồng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam và cũng rất ngại thời gian giao hàng tại cảng bị kéo dài. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới giá xuất khẩu gạo của Việt Nam thường thấp hơn giá xuất khẩu gạo của Thái Lan. Để chủ động chân hàng cần tăng cường dự trữ kinh doanh, kết hợp giữa dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh xuất khẩu gạo.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần xây dựng cho mình một thương hiệu có uy tín trên thị trường quốc tế. Hiện nay, rất nhiều nông sản Việt Nam bị các công ty nước ngoài đăng ký bản quyền, do đó các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cần chú ý tới vấn đề bản quyền và nghiên cứu kỹ về luật kinh doanh ở những nước mà mình xuất khẩu. Hiện nay kiến thức về luật kinh doanh của các công ty còn rất kếm đó cũng là nguyên nhân làm cho các công ty này luôn thua thiệt trên thị trường quốc tế. Khắc phục tình trạng này nỗ lực chính là từ các công ty và Nhà nước cũng cần kết hợp với các công ty trong vấn đề này bởi trên thị trường quốc tế mọi vấn đề đều liên quan đến lợi ích quốc gia.
- Đầu tư thoả đáng cho việc xây dựng đồng bộ hệ thống chế biến, giao thông vận chuyển, cảng khẩu, hệ thống thiết bị bốc xếp tại các bến bãi đầu mối. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc rút ngắn thời gian bốc xếp gạo xuất khẩu. Giảm hao hụt về số lượng, tăng cường chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo.
- Về quan hệ đối ngoại, cần tăng cường liên minh với các nước xuất khẩu gạo trước hết là với Thái Lan tăng cường quan hệ với các trung tâm tài chính quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu gạo trược tiếp, đa phương hoá các hình thức như hiệp định dài hạn xuất khẩu, tín dụng xuất khẩu, đấu thầu xuất khẩu …
4. Các giải pháp mở rộng thị trường
Trong thời gian tới cần tăng nhanh tỷ trọng gạo đặc sản trong xuất khẩu. Nên coi đó là một trong những phương sách để mở rộng thị trường gạo cao cấp như Châu âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản… Từ uy tín của gạo đặc sản để mở rộng thị trường tiêu thu các loại gạo thông thường.
Hợp tác với các nước Tây âu và các tổ chức quốc tế để tranh thủ bán gạo theo các chương trình viện trợ cho Châu Phi. Giải pháp này cần được coi như một trong những phương sách để mở rộng thị trường xuất khẩu gạo.
Hiện nay gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước, một số nước đã trở thành bạn hàng truyền thống nhưng việc ổn định các thị trường này cũng cần phải đưọc chú ý, bởi đây là những thị trường dễ tính, phù hợp với gạo Việt Nam. Do đó trong xuất khẩu cần luôn đảm bảo uy tín về chất lượng, thời gian, lượng hàng…đồng thời cần luôn có những biện pháp thị trường để tăng cầu. Bên cạnh đó cần chú ý tới việc mởi rộng thị trường ở các nước này, cần lắm vững đặc tính của từng vùng để có thể cung cấp tốt nhất loại gạo phù hợp với thị hiếu khách hàng.
Cùng với phát triển kinh tế, tiềm lực tài chính của Nhà nước ta sẽ lớn mạnh, theo đà đó cần tăng cường trợ cấp cho xuất khẩu gạo. Có thể trong vòng một vài thập niên tới, ý nghĩa xuất khẩu gạo để thu ngoại tệ về tỷ trọng sẽ giảm dần nhưng ý nghĩa về tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động vẫn không bị giảm sút. Đồng thời khi một số lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta bị giảm dần thì khi đó biện pháp trợ cấp sản xuất gạo sẽ phải tăng dần lên về mức độ. Tình hình đó cần lường trước ngay từ bây giờ để có định hướng phát triển thích hợp.
IV.Đổi mới một số chính sách vĩ mô
1. Nhất quán chính sách kuyến khích nhiều thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo
Đây là một trong các chính sách có tác dụnh khai thác mọi tiềm năng để phát triển kinh tế, trong đó có lúa gạo. trong lĩnh vực xuất khẩu gạo cần có nhiều thành phần kinh tế tham gia, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới. Điều quan trọng để công tác xuất khẩu gạo đi vào nền nếp là khâu quản lý Nhà nước theo luật pháp trong hoạt động này. Dù doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân, đều phải kinh doanh theo đúng pháp luật quy định.
2. Hoàn thiện chính sách ruộng đất
Trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo, chính sách ruộng đất thời gian qua đã trực tiếp tạo ra động lực mới ở nông thôn. Chính sách này đã đi theo hướng chuyển dần ruộng đát từ chỗ được làm chủ bởi các tập thể đến chỗ được làm chủ bởi hộ nông dân, từ chỗ người nông dân chỉ được chủ động một số khâu công việc trogn quá trình trồng lúa đến chỗ họ được làm chủ toàn bộ quá trình đó – làm chủ việc sử dụng ruộng đất. Trong quá trình triển khai luật đất đai cần hoàn thiện một số vấn đề:
- Cần khẩn trương thể chế hoá 5 quyềncủa người được giao đất. Trong đó phải làm rõ để thực hiện 5 quyền người đuợc giao đất cần làm những thủ tục gì? ở đâu?..
- Nhà nước cần phân cấp rõ ràng trong việc theo rõi sự vận động đa rạng và phức tạp các quan hệ đất đai, đưa việc quản lý đất đai vào nền nếp.
3. Hoàn thiện chính sách về chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ đến hộ nông dân
Tăng cường xuất khẩu gạo không phải là vấn đề có thể giải quyết trong một thời gian ngắn, nó đòi hỏi phải có thời gian đáng kể. Chính vì vậy để thực hiện thành công cần có sự kết hợp tất cả các biện pháp, tất cả các cấp từ trung ương tới địa phương, và tất cả mọi người dân trong nước.
Kết luận
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước 17 năm qua sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng đã có những bước phát triển nhanh và khá ổn định. Năm 1989, sản lượng gạo cả nước mới đạt 18,9 triệu tấn thì 14 năm sau, năm 2000 con số lên tới 32,7 triệu tấn đạt tốc độ tăng 5%/năm. Lương thực bình quân đầu người luôn tăng năm sau cao hơn năm trước năm 1990 là 324,4 kg đến 1991 324,9 kg, năm 2001 là 433 kg đến năm 2002 là 435 kg. Phải thừa nhận rằng xu hướng này ít thấy trong lịch sử sản xuất lúa gạo của các nước Châu á và lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta gắn liền với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Xu hướng đó đạt được trong điều kiện thiên nhiên, thời tiết không phải năm nào cũng thuận lợi ngược lại nhiều năm rất khắc nghiệt như hạn hán, sâu, rầy, lũ lụt lớn không kém các nước trong vùng. Cũng theo FAO thì 17 năm qua sản lượng lúa gạo thế giới tăng thêm khoảng 70 triệu tấn, thì Việt Nam đã đóng góp 10 triệu tấn. Và chính sự tăng nhanh, ổn định của sản lượng lúa gạo sản xuất ở nước ta đã góp phần tích cực giảm sự căng thẳng về thiếu lương thực trên thế giới. Đối với nước ta, xu hướng này đã khắc phục một cách căn bản tình trạng thiếu đói giáp hạn kéo dài nhiều thập kỷ trước đổi mới biến một nước nhập khẩu gạo thành nước xuất khẩu gạo với sản lượng liên tục tăng trong 14 năm liền. Ngay cả những năm thiên tai dồn dập, hạn hán và lũ lụt gây hậu quả hết sức nặng nề trên phạm vi cả nước liên tục từ 1995-2002, an ninh lương thực quốc gia vẫn giữ vững, xuất khẩu gạo vẫn tăng cả về số lượng và chất lượng, thị trường, giá cả ổn định.
Hiện nay gạo Việt Nam đã có mặt tren 80 quốc gia trên thế giới, xuất khẩu gạo thu về một lượng ngoại tệ lớn cho đất nước, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.Thành tựu đạt được của sản xuất và xuất khẩu gạo là rất lớn nhưng bên cạnh đó còn nhiều tồn tại cần giải quyết như vấn đề: công nghệ sau thu hoạch còn lạc hậu, thị trường chưa thực sự ổn định, giá gạo xuất khẩu còn thấp so với giá quốc tế, chất lượng gạo chưa cao, các chính sách quản lý còn có nhiều bất cập…
Với đề tài này em xin đưa ra một vài biện pháp để từng bước khặc phục những tồn tại trên và từ đó thúc đẩy xuất khẩu gạo của nước ta, một hoạt động kinh tế còn nhiều tiềm năng chưa khai thác hết, phát triển hơn nữa.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế nông nghiệp
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Kinh Tế Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn
Nhà xuất bản thống kê
2. Giáo trình quản trị doanh nghiệp nông nghiệp
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Khoa Kinh Tế Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn
Nhà xuất bản thống kê - Hà Nội 2001
3. Lương thực Việt Nam thời đổi mới, hướng xuất khẩu
PTS. Nguyễn Trung Vãn
Nhà xuất bản chính trị quốc gia
4. Tạp chí kinh tế số 310 – tháng 3-2004
5. Tạp chí kinh tế và phát triển số 77 – tháng 11-2003
6. Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn số2-2004; 6-2004
7. Tạp chí kinh tế và dự báo số 11-2003; 4-2004; 5-2004
8. Tạp chí thị trường giá cả và dự báo số 9-2004
9. Niên giám thống kê 2002; 2004
Nhà xuất bản thống kê
Phụ lục
Lời nói đầu 1
Nội dung 3
Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu gạo 3
I. Thực chất và vai trò ccủa xuất khẩu gạo 3
1. Thực chất xuất khẩu 3
2.Vai trò của xuất khẩu gạo 4
II. Đặc điểm xuất khẩu gạo 6
1. Đặc điểm về sản xuất 6
2. Đặc điểm về xuất khẩu gạo 7
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo 8
1. Nhân tố thị trường 8
2. Nhân tố về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm 9
3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô 9
Chương 2: Thực trạng về sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam 10
I. Thực trạng về sản xuất chế biến lúa gạo ở Việt Nam 10
1. Sản xuất lúa gạo 10
2. Thực trạng về chế biến lúa gạo 13
II. Thực trạng về xuất khẩu gạo của Việt Nam 14
1. Số lượng và kim nghạch xuất khẩu 15
2. Chất lượng và chủng loại gạo 17
3. Thị trường và giá cả xuất khẩu 18
III. Đánh giá chung về sản xuất xuất khẩu gạo trong thời gian qua 20
1. Về sản xuất chế biến 20
2. Về xuất khẩu 22
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam 25
I. Hoàn thiện việc tổ chức khâu trồng lúa cung cấp cho xuất khẩu 25
2. hoàn thiện khâu tổ chức nguồn hàng cho xuất khẩu 29
3. đẩy mạnh hoạt động marketing trong xuất khẩu gạo 31
4. đổi mới một soó chính sách vĩ mô 34
Kết luận 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA061.Doc