Tài liệu Đề án Tìm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Lời nói đầu
Ngày nay, hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu, một nước không thể phát triển nếu không tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng trước tình hình đó, nền kinh tế Việt Nam đang có cơ hội đầu tư, phát triển. Nhưng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài những cơ hội còn rất nhiều những thách thức, do quy mô vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh thấp, có nguy cơ bị phá sản trước các doanh nghiệp lớn và trước các đối thủ nặng ký từ nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm góp phần lớn vào GDP của cả nước. Với vai trò rất lớn, nhưng lại đứng trước nhiều khó khăn, em không khỏi băn khoăn về khả năng tồn tại và phát triển của nó. Đó là lý do em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ” để làm đề án của mình.
Để giải quyết đề tài này em xin trình bày những nội dung sau:
- Chương I: Cơ sở lý luận về kh...
71 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1059 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Tìm giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Ngày nay, hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu, một nước không thể phát triển nếu không tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng trước tình hình đó, nền kinh tế Việt Nam đang có cơ hội đầu tư, phát triển. Nhưng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài những cơ hội còn rất nhiều những thách thức, do quy mô vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh thấp, có nguy cơ bị phá sản trước các doanh nghiệp lớn và trước các đối thủ nặng ký từ nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm góp phần lớn vào GDP của cả nước. Với vai trò rất lớn, nhưng lại đứng trước nhiều khó khăn, em không khỏi băn khoăn về khả năng tồn tại và phát triển của nó. Đó là lý do em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ” để làm đề án của mình.
Để giải quyết đề tài này em xin trình bày những nội dung sau:
- Chương I: Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam hiện nay
- Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
Trong phạm vi của đề án môn học, em xin trình bày một cách ngắn gọn ý kiến của mình, hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương I :
cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ
I. Hội nhập thị trường thế giới:
1. Sự cần thiết của hội nhập:
1.1. Khái niệm hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu, trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung.
1.2. Xu thế thế giới:
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu sự tác động sâu sắc của một loạt những xu thế mới. Đó là xu thế phát triển cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ và ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của thế giới đã tăng từ 50 tỷ USD trong đầu những năm 50 lên hơn 5500 tỷ USD năm 1999; tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới tăng bình quân từ 1,2 đến 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư đang trở thành trục đỡ cho sự tăng trưởng kinh tế của thế giới với tỷ lệ tăng trưởng đầu tư bình quân hàng năm cao hơn tỷ lệ tăng trưởng của hảng thương mại.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng được nâng cao, ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới; tầm hoạt động mới của các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng.
Ngày nay, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế lớn phản ánh đòi hỏi, bức xúc của các quốc gia, dân tộc vì sự phát triển kinh tế giữa các nước. Thế giới đang xây dựng nền kinh tế với những chính sách hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó chú trọng đến hiệu quả và tăng sức cạnh tranh cho các nền kinh tế.
Khi toàn cầu hoá đang trở thành xu thế khách quan thì yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ phát triển cao của nền sản xuất, phân công lao động quốc tế và việc quốc tế hoá sản xuất trở nên phổ biến. Đặc điểm quan trọng của toàn cầu hoá là nền kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó nền kinh tế của các quốc gia chỉ là các bộ phận có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Bất kỳ một quốc gia nào khi tham gia vào kinh tế quốc tế đều có thể thu được lợi ích nếu quốc gia đó biết tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương quan thuận lợi hơn về mặt chi phí so với các quốc gia khác. Do vậy, chỉ những quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức mới có thể đứng vững và phát triển. Quốc gia nào không thực hiện hội nhập tức là đã tự loại mình ra khỏi lề của sự phát triển. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một tất yếu khách quan.
1.3. Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đã được kiểm nghiệm qua thực tế, thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam trước đây yếu kém, chậm phát triển. Sau đó tư tưởng đươc khai thông, Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách kinh tế mới phù hợp với tiến trình lịch sử, đã góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Bắt đầu từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và Nhà nước chủ chương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Từ đó đến nay nền kinh tế Việt Nam ngày càng năng động hơn. Nhiều đơn vị kinh doanh có hiệu quả, nhiều ngành nghề đạt và vượt mức kế hoạch đặt ra. Lĩnh vực có thành tích ấn tượng nhất là ngoại thương, với kim ngạch xuất khẩu tăng 10% năm 2002 gần gấp đôi năm 2001. Đã có 20 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch xuất khẩu trên100 triệu USD/ năm. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ đạt 900 triệu USD, xuất khẩu thuỷ sản đạt 2, 03 tỷ USD. Hội nhập đã làm tăng sự năng động trong bản thân người sản xuất, do đó, trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có nhiều triển vọng, nhiều lĩnh vực mới được chú trọng đầu tư như nuôi thuỷ sản, năng suất lúa liên tục tăng.
Nước ta ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế, điều đó là hết sức cần thiết và phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, giúp chúng ta hạn chế đước những yếy kém như đã kể trên. Như vậy, có thể nói nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế.
2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập thị trường thế giới:
Với một nước có nền kinh tế thấp kém như Việt Nam thì hội nhập quốc tế đem lại rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức.
2.1. Cơ hội:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, Việt Nam đẩy nhanh quá trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của quá trình tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện quốc tế để tranh thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không chỉ tạo ta điều kiện cho việc phát triển các ngành khai thác chế biến mà còn thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn, Việt nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu trị trường thế giới.
Thứ ba: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị mới và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế.
Trên thực tiễn nhièu công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới của Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty Nhật Bản khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số các quốc gia (10 quốc gia) lớn hơn Lào, Campuchia và Myanma Nguồn:Thời báo kinh tế, năm 2001
.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật công nghệ mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và qúa trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam.
Thứ tư: Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua Việt Nam đã thu được kết quả rất đáng tự hào. Sau gần hai thập kỷ tăng trưởng GDP đã tăng lên gấp 2 lần, từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước có mức xuất khẩu gạo lớn. Năm 2002 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 3,5 triệu tấn, năm 2001-3,55 triệu tấn, năm 2002-3,25 triệu tấn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê năm 2002
.
Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện. Thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới.
Thứ năm: mặc dù kinh tế Việt Nam chưa phát triển nhưng không phải hội nhập với hai bàn tay trắng, ngoài tài nguyên thiên nhiên nguồn lực cùng với sự ổn đinh về chính trị xã hội, Việt Nam cũng có kinh nghiệm nhất định sau hơn 17 năm đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. Nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn bên cạnh các thuận lợi chung cho mọi thành phần kinh tế.
2.2 Thách thức:
Bên cạnh những thuận lợi kể trên nền kinh tế Việt Nam còn nhiều thách thức trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực dồi dào nhưng nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp cận khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành “bãi rác” của các công nghệ lạc hậu. Với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) thì khả năng nhập các công nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ hai, sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá thấp do đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọ chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo AFTA, WTO có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho hàng hoá của các DNVVN bị cạnh tranh gay gắt.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ nị tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các nước ngoài và quốc tế ngày càng tăng.
Thứ tư, hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ quyền lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cức trực tiếp đến an ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối loạn và làm lợi cho các thế lực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thông như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây thiệt hại sảy ra.
Thư năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi định hướng, mục đích phát triển.
II. Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1. Khái niệm:
Không có một khái niệm chung nào thống nhất trên thị trường quốc tế về những gì cấu thành nên một doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các khái niệm và sự phân loại thay đổi từ nước này sang nước khác. Quy mô của doanh nghiệp thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu bao gồm quy mô của tài sản, số người lao động, cơ cấu sở hữu, nguồn và loại hình tài chợ, lĩnh vực doanh nghiệp hoạt động. Đối với Việt Nam theo nghị định số 90/2001/ND- CP ngày 23/11/2001 thì DNVVN được định nghĩa như sau: DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh theo pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người. Đối với một số lĩnh vực có quy định cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu thức vốn và lao động.
Quy mô doanh nghiệp
Vốn tối đa (đồng)
Số người lao động tối đa
Lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
500
100
Lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp và hải sản
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
1000
200
Lĩnh vực thương mại và dịch vụ
Trong đó DN nhỏ:
5 tỷ
500 triệu
250
50
Nguồn: Những nội dung cơ bản về quản trị DNVVN, tháng 1/2002.
Theo cách chung nhất, phân loại doanh nghiệp phụ thuộc vào số người lao động hoặc số vốn kinh doanh. Tuy nhiên còn cách phân loại khác được sử dụng trong các tài liệu phát triển đó là theo lĩnh vực chính quy và phi chính quy. Theo hướng này thì “phi chính quy” ám chỉ các doanh nghiệp nhỏ, một thành viên, thường làm việc bán thời gian hay theo thời vụ mà thông thường chúng không có tài sản cố định và có thể hoạt động tại gia đình. Thêm vào đó các doanh nghiệp thường hoạt động dưới dạng không đăng ký chính thức và ngoài vòng kiểm soát của Chính phủ về mặt thuế và quản lý. Thuật ngữ doanh nghiệp nhỏ thường được sử dụng để nói đến thu nhập nhỏ phát sinh từ các hoạt động thuộc loại này. Khu vực doanh nghiệp “chính quy” thường được sử dụng để kể đến các loại hình và quy mô doanh nghiệp sử dụng một số lượng lao động lớn hơn, không điều hành hoạt động từ gia đình. Loại doanh nghiệp này phải chịu chi phối bởi pháp luật và có khả năng tiếp cận dễ dàng đến các thể chế tài chính và dự án phát triển. Khái niệm thường được sử dụng cho doanh nghiệp chính quy là: “DNVVN là đơn vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng, trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường để tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp” PGS.TS.Đồng Xuân Ninh: Những vấn đề quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ, trường ĐH KTQD
.
2. Đặc trưng cơ bản của DNVVN:
- Hình thức sở hữu: Có đủ các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập thể, tư nhân và hỗn hợp.
- Về hình thức pháp lý: Các DNVVN được hình thành theo Luật doanh nghiệp và những văn bản dưới luật. Đây là những những công cụ pháp lý xác định tư cách pháp nhân rất quan trọng để điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp nói chung trong đó có DNVVN, đồng thời xác định rõ vai trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Lĩnh vực và địa bàn hoạt động: DNVVN chủ yếu phát triển ở ngành dịch vụ, thương mại (buôn bán). Lĩnh vực sản xuất chế biến và giao thông còn ít (tập trung ở ba ngành: Xây dựng, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thương mại dịch vụ), địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ và đô thị.
- Công nghệ và thị trường: Các DNVVN chủ yếu có năng lực tài chính rất thấp, có công nghệ, thiết bị lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động thủ công. Sản phẩm của các DNVVN chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất lượng sản phẩm kém; mẫu mã bao bì còn đơn giản, sức cạnh tranh yếu. Tuy nhiên có một số DNVVN hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông lâm, hải sản có sản phẩm xuất khẩu với giá trị kinh tế cao.
- Trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động còn thấp và yếu. Hầu hết các DNVVN hoạt động độc lập, việc liên doanh, liên kết còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn.
3. Vai trò của DNVVN:
Mặc dù có những yếu kém và bất lợi nhất định nhưng do đặc điểm, tính chất của chúng nên các DNVVN có vị trí, vai trò và tác động kinh tế xã hội rất lớn.
Thứ nhất, các DNVVN có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. ở hầu hết các nước, số lượng DNVVN chiếm khoảng 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNVVN lớn hơn tốc độ ra tăng số lượng các doanh nghiệp lớn. ở nước ta hiện nay DNVVN chiếm 65,9% so với tổng số doanh nghiệp Nhà nước và chiếm 33,6% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
Thứ hai, các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP mỗi nước. ở Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu và quản lý trung ương, DNVVN đóng góp 24- 25% GDP của cả nước, 31% giá trị sản xuất công nghiệp; chiếm 78% mức bán lẻ của ngành thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá. Trong nhiều ngành sản xuất và dịch vụ khác các DNVVN cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Thứ ba, tác động kinh tế- xã hội lớn nhất của DNVVN là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, thì khu vực này vươn xa hơn hẳn các khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. ở hầu hết các nước, DNVVN lại thu hút nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. ở Việt Nam, cũng theo đánh giá của viện nghiên cứu và quản lý trung ương, số lượng lao động của các DNVVN trong các lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người, chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước.
Thứ tư, các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân. Hầu hết các DNVVN dựa vào vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít với 7% DNVVN có vay không trả lãi và trên 2% vay từ ngân hàng. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách, yêu cầu vốn ban đầu không nhiều cho nên các DNVVN có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển địch cơ cấu kinh tế, đặc biệt với khu vực nông thôn.Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút người lao động ở nông thôn thiếu hoặc chưa có việc làm vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, rút dần lực lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ.
Thứ bẩy, các DNVVN là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp, giúp họ làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà kinh doanh sẽ trưởng thành, có kinh nghiệm quản lý, biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh tróng phát triển.
III. Cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay:
1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh:
1.1. Khái niệm:
Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học giả trường phái tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình”.
Qua thời gian và không gian các quan niệm về cạnh tranh cuãng khác nhau. Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh ” một số nhà khoa học cho rằng cạnh tranh là vấn đề dành lợi thế về giá cả hàng hoá- dịch vụ và đó là phương thức để dành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi là dành lợi thế để hạ thấp các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh doanh và nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Và từ đó cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện thị trường Nguyễn Quốc Dũng: “ Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam “_ Luận án tiến sĩ kinh tế, 2000, Hà Nội
.
1.2. Phân loại cạnh tranh:
Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, tuy nhiên, một số cách phân loại cơ bản đó là:
- Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia thành hai loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ. Trong đó, các doanh nghiệp yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá sản, các doanh nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh tranh tất yếu xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn tới sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Xét theo mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách, chủng loại, mẫu mã. Giá cả sản phẩm là do cung- cầu trên thị trường quyết định. Các doanh nghiệp được tự do ra nhập, rút lui khỏi thị trường. Do đó, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh muốn thu được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường phổ biến nhất hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa những loại hàng hoá, dịch vụ này ở nhãn hiệu. Có những loại hàng hoá, dịch vụ chất lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín, nhãn hiệu sản phẩm. Các hình thức của cạnh tranh không hoàn hảo đó là độc quyền, độc quyền tập đoàn, cạnh tranh mang tính độc quyền.
2. Sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
2.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh:
- Sức cạnh tranh: Nhìn chung khi xác định sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải xem xét đến năng lực và tiềm năng sản xuất, kinh doanh. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Theo diễn đàm cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “ Cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ”. Khái niệm này được coi là phù hợp nhất vì nó được sử dụng kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành, quốc gia, phản ánh được mối liên hệ giữa cạnh tranh quốc gia với cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh, khả năng dành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB từ điển Bách khoa Hà Nội, trang 349).
2.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của sản phẩm hàng hoá. Chúng có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Vì vậy trước khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, em xin được đề cập sơ lược đến năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia:
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “ năng cạnh tranh của một quốc gia là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. ở Việt Nam năng lực cạnh tranh cấp quốc gia còn thấp đứng thứ 65 trên 80 nước (năm 2002), tăng 5 bậc so với năm 2001 (là 60/75 nước).
2.2.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá:
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. đó là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của hàng hoá có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3. Vai trò của cạnh tranh:
Cạnh tranh có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của bản thân mỗi DNVVN nói riêng. Bất kỳ một nền kinh tế nào cũng cần thiết phải duy trì sự cạnh tranh. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả rẻ. Chính vì vậy cạnh tranh là để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ là điều kiện thuân lợi để mỗi doanh nghiệp tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên dành ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất nhằm dành dật người mua, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, tạo ưu thế về mọi mặt cho doanh nghiệp nhằm thu được lợi nhuộn lớn nhất.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung ứng những sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng. Cạnh tranh thực chất là cuộc chạy đua không có đích, là quá trình mà các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế đích thực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thương trường và tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra ưu thế về sản phẩm và giá bán thì phải tăng chất lượng sản phẩm và giá bán phải rẻ. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp, nhất là DNVVN phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuậtvào sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bên cạnh đó phải tố ưu hóa các yếu tố đầu vào của sản xuất để tối đa hoá thành quả của sản phẩm. Trong cơ chế thị trường doanh nghiệp nào cung cấp hàng hoá, dịch vụ với chất lượng tốt nhất mà giá thành rẻ nhất thì sẽ chiến thắng. Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp chi phí cao trong sản xuất kinh doanh và khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có chi phí thấp vươn lên.
Để tham gia vào thị trường doanh nghiệp phải tuân thủ quy luật đào thải chon lọc. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao chất lượng của chính mình, nâng cao trình độ kiến thức về kinh doanh. Do đó, cạnh tranh là điều kiện rất tốt để đào tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Cạnh tranh là động lực cơ bản nhằm kết hợp một cách tối ưu nhất lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội. Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh được coi là cá lớn nuốt cá bé, do đó không được khuyến khích. Song hiện nay, cạnh tranh đã được nhìn nhận theo xu hướng tích cực, tác dụng của nó được thể hiện rất rõ ở sự phá sản của một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và sự phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp khác biết sử dụng hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất, kinh doanh.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực phát triển của hệ thống doanh nghiệp nói chung và của từng DNVVN nói riêng, là công cụ hữu hiệu của Nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh doanh trên thị trường.
4. Các chiến lược cạnh tranh cơ bản:
Đôi khi một doanh nghiệp có thể theo đuổi rất nhiều chiến lược và coi tất cả các chiến lược đó là mục tiêu cơ bản của mình, mặc dù điều này rất hiếm có khả năng thực hiện. Vì việc thực hiện bất cứ một chiến lược nào cũng đều đòi hỏi tâm huyết của toàn doanh nghiệp và những sắp xếp, tổ chức hướng vào thực hiện nó rất dễ bị phân tán nếu doanh nghiệp cùng một lúc theo đuổi nhiều mục tiêu. Các chiến lược cạnh tranh cơ bản mà doanh nghiệp có thể theo đuổi là:
- Chiến lược nhấn mạnh chi phí:
Chiến lược nhấn mạnh chi phí yêu cầu việc xây dựng mạnh mẽ các điều kiện vật chất, kết hợp được giữa quy mô và tính hiệu quả, theo đuổi việc giảm chi phí từ kinh nghiệm. Kiểm soát chặt chẽ chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, tối thiểu hoá các chi phí về nghiên cứu và phát triển, chi phí bán hàng, chi phí quảng cáo…
Việc đạt được mức chi phí thấp thường đòi hỏi phải có thị phần tương đối cao hoặc những lợi thế khác. Điều đó cũng đòi hỏi việc thiết kế sản phẩm phải thuận tiện cho việc sản xuất, duy trì nhiều loại sản phẩm có liên quan để trải đều chi phí và phục vụ được tất cả các nhóm khách hàng cơ bản. Thực hiện chi phí thấp thường đòi hỏi việc đầu tư vốn ban đầu lớn. Thị phần cao, đến lượt nó, có thể tạo ra tính kinh tế cao trong quá trình mua nguyên vật liệu,… làm giảm chi phí hơn nữa. Vị trí chi phí khi đã đạt được sẽ cho phép làm tăng tỷ lệ lợi nhuận và như vậy có thể tái đầu tư vào những phương tiện mới, máy móc hiện đại để duy trì lợi thế về chi phí.
Chiến lược nhấn mạnh chi phí đôi khi có thể làm thay đổi lớn một ngành nơi mà nền móng lịch sử của cạnh tranh có kiểu khác và các hãng cạnh tranh chưa chuẩn bị tốt về mặt nhận thức và kinh tế để thực hiện những bước cần thiết cho việc tối thiểu hoá chi phí.
- Chiến lược khác biệt hoá:
Chiến lược này làm khác biệt hoá sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tạo ra điểm độc đáo riêng được thừa nhận trong tòan ngành. Các phương pháp khác biệt hoá sản phẩm được thể hiện dưới nhiều hình thức: Sự điển hình về thiết kế hoặc danh tiếng sản phẩm, công nghệ sản xuất, đặt tính của các sản phẩm, dịch vụ khách hàng… Tuy nhiên, chiến lược này không cho phép doanh nghiệp bỏ qua yếu tố chi phí, mặc dù chi phí không phải là mục tiêu chiến lược cơ bản.
Khác biệt hoá sản phẩm, nếu đạt được, sẽ là chiến lược tạo khả năng cho doanh nghiệp thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn mức bình quân bởi vì nó tạo nên một vị trí chắc chắn cho doanh nghiệp trong việc đối phó với các lực lượng cạnh tranh khác. Khác biệt hoá tạo nên sự tin tưởng của khách hàng vào nhãn hiệu, dẽ dẫn đến khả năng ít biến động hơn về giá cả. Nó làm tăng tỷ lệ lợi nhuận vì thế tránh được sự cần thiết phải tạo ra mức chi phí thấp. Dễ dàng giảm bớt quyền lực của người mua vì họ thiếu những điều kiện để so sánh. Sự khác biệt hoá sản phẩm sẽ thuận lợi hơn khi phải đương đầu với sản phẩm thay thế.
Thực hiện chiến lược khác biệt hoá sản phẩm đôi khi có thể loại trừ khả năng đạt được thị phần cao vì tính riêng biệt không đi liền với thị phần cao. Tuy nhiên thực hiện chiến lược này nhiều khi đã thực hiện sự đánh đổi về chi phí nếu chiến lược này yêu cầu những hoạt động đòi hỏi chi phí cao.
- Chiến lược trọng tâm hoá:
Chiến lược trọng tâm hoá là sự tập trung vào một nhóm người cụ thể, một bộ phận trong các loại hàng hoá hoặc một vùng thị trường nào đó. Chiến lược này khác hai chiến lược trên ở chỗ nó được xây dựng xoay quanh việc phục vụ thật tốt một thị trường mục tiêu và những chính sách kèm theo đều được phát triển theo tư tưởng này. Chiến lược dựa vào tiền đề cho rằng doanh nghiệp có thể phục vụ một thị trường chiến lược hẹp của mình một cách tích cực và hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh. Kết quả là doanh nghiệp có thể đạt được sự khác biệt hoá qua việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu của một đối tượng cụ thể hoặc đạt được mức chi phí thấp hơn hoặc đạt được cả hai.
5. Các yếu tố ảnh hưởng :
Đã có nhiều nghiên cứu, trong đó nghiên cứu của M.E Porter là một điển hình rất rõ nét, về vai trò tác động của các yếu tố cấu trúc quyết định cường độ cạnh tranh trên thị trường. Theo M.E Porter thì có 5 yếu tố tham gia quyết định cường độ cạnh tranh, đó là:
5.1. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành:
Trớc hết các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành quyết định tính chất và mức độ tranh đua nhằm giành giật lợi thế trong ngành mà mục đích cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo có thể có được mức lợi nhuận cao nhất. Sự cạnh tranh của các đối thủ hiện tại có xu hướng làm tăng cường độ cạnh tranh và làm giảm mức lợi nhuận của ngành. Có nhiều hình thức và công cụ cạnh tranh được các đối thủ sử dụng khi cạnh tranh trên thị trờng, ví dụ như cạnh tranh về giá hoặc cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, các đối thủ khi cạnh tranh với nhau thường sử dụng công cụ cạnh tranh tổng hợp, trên cơ sở cạnh tranh về giá với các hình thức và công cụ cạnh tranh khác như : chất lượng sản phẩm cùng với áp dụng sự khác biệt về sản phẩm, marketing…
Thờng thì cạnh tranh trở nên khốc liệt khi ngành ở giai đoạn bão hoà, hoặc suy thoái, hoặc có đông các đối thủ cạnh tranh bằng vai phải lứa với các chiến lược kinh doanh đa dạng và do những rào cản kinh tế làm cho các doanh nghiệp khó tự do di chuyển sang ngành khác. Để có thể bảo vệ khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp cần phải thu thập đủ thông tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh chính có sức mạnh trên thị trường và tình trạng ngành để làm cơ sở hoạch định chiến lược.
5.2. Nguy cơ đe doạ nhập ngành từ các đối thủ tiềm ẩn :
Hiểu biết đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn luôn có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp vì sự xuất hiện của các đối thủ mới, đặc biệt khi các đối thủ này có khả năng mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị phần, sẽ làm cạnh tranh trở nên khốc liệt và không ổn định. Để hạn chế sự đe doạ các đối thủ tiềm ẩn, các doanh nghiệp thờng duy trì và không ngừng nâng cao các hàng rào bảo vệ hợp pháp, đặc biệt là về công nghệ. Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế hiện nay, các công ty xuyên quốc gia hoặc các công ty nớc ngoài có tiềm lực tài chính và công nghệ đáng kể thực sự là đối thủ “nặng ký” đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nước là những doanh nghiệp có tiềm lực rất hạn chế và sức cạnh tranh thấp.
5.3. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người mua:
Đối với các doanh nghiệp thì mọi việc chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được sản phẩm và có lãi. Chính vì vậy, sự tín nhiệm của khách hàng luôn là tài sản có giá trị quan trọng của doanh nghiệp và doanh nghiệp có được là do doanh nghiệp biết cách thoả mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh khác. Người mua luôn muốn trả giá thấp vì vậy sẽ thực hiện việc ép giá, gây áp lực đòi chất lượng cao hơn hoặc đòi đợc phục vụ nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện, điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp . Để hạn chế bớt quyền thương lượng của người mua, các doanh nghiệp cần phải phân loại khách hàng hiện tại và tương lai cùng với các nhu cầu và thị hiếu của họ làm cơ sở định hướng cho kế hoạch marketing và chiến lược kinh doanh nói chung.
5.4. Quyền lực thương lượng hay khả năng ép giá của người cung ứng:
Người cung ứng các yếu tố đầu vào luôn muốn thu nhiều lợi nhuận, vì vậy họ có thể đe dọa tăng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm đặt mua, nhằm làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp khi họ có điều kiện, ví dụ trong trường hợp người cung ứng có lợi thế về nguồn nguyên vật liệu hoặc sản phẩm của người cung ứng là vật tư đâù vào quan trọng của khách hàng. Trong thực tế, các doanh nghiệp luôn phải ứng phó một cách thờng xuyên đến nguồn cung ứng ngay trong nội bộ doanh nghiệp, có thể đó là lực lượng lao động, đặc biệt với những lao động có trình độ cao vì khả năng thu hút và giữ được các nhân viên có năng lực là một tiền đề quan trọng đảm bảo sự thành công của doanh nghiệp .
5.5. Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm thay thế:
Các sản phẩm thay thế luôn có thể có tác động lớn đến mức độ lợi nhuận tiềm năng của ngành, nhất là những sản phẩm có chu kỳ sống ngắn như máy tính, đồ điện tử…Vì phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của quá trình thay đổi công nghệ, nên thường có ưu thế về chất lượng và giá thành sản phẩm, mặc dù giá thành ban đầu có thể cao hơn so với các sản phẩm hiện có bán trên thị trường. Biện pháp chủ yếu sử dụng để hạn chế sự tác động của sản phẩm thay thế là tăng cường đầu tư cho R&Doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý… nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tăng cường tính độc đáo khác biệt của sản phẩm.
Chương ii :
thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở việt nam hiện nay
I. Đánh giá tổng quát tình hình hội nhập quốc tế của việt nam:
1. Môi trường cạnh tranh quốc tế của Việt Nam:
Môi trưòng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam không ngừng được mở rộng, với các hình thức hợp tác kinh tế với các nước khác, tham gia vào các tổ chức phi Chính phủ. Năm 1995 tham gia hợp tác á-âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập, năm 1999 là thành viên chính thức của APEC, Việt Nam đã cam kết gia nhập WTO năm 2005, gia nhập ASEAN/AFTA năm 2006; có quan hệ kinh tế với trên 160 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới… Nhiều tổ chức nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam với nhiều hình thức: cho vay vốn, hỗ trợ về khoa học công nghệ… Hàng hoá Việt Nam chất lượng được nâng cao, có khả năng và có cơ hội chiếm lĩnh được nhiều thị trường mới.
Bên cạnh sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, Việt Nam cũng phải cam kết thực hiện các điều khoản của các hiệp định. Thực hiện cắt giảm thuế quan đối với các sản phẩm xuống còn 0.5% theo chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (AFTA), tuyên bố các danh mục hàng hoá cắt giảm thuế ngay (IL), danh mục hàng hoá loại trừ hoàn toàn (GEL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL). Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp nhằm mục tiêu đưa ra một môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế ngày càng tự do, thuận lợi, bình đẳng giữa các quốc gia thành viên, nhưng hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang chịu thiệt thòi khi thâm nhập thị trường các nước thành viên của WTO vì ta chưa phải là thành viên của WTO. APEC yêu cầu tuân thủ 9 nguyên tắc cơ bản và thực hiện 4 chương trình hoạt động chủ yếu: kế hoạch hành động quốc gia (IAP), kế hoạch hành động tập thể (CAP), hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH), các sáng kiến hợp tác mới…
Kinh tế Việt Nam hiện nay ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh tế thế giới được đo bằng “độ phụ thuộc mậu dịch đối ngoại”. Độ phụ thuộc mậu dịch đối ngoại của nước ta năm 1995 khoảng 65%, năm 2000 tăng lên 100%. Độ phụ thuộc xuất khẩu tương ứng tăng từ 26% lên 48% và chỉ số nhập khẩu từ 39% lên 52%.
Tuy nhiên thị trường quốc tế của Việt Nam cần được nhìn nhận lại, mối quan hệ chủ yếu là các nước châu á.
Bảng 2: xếp hạng khả năng cạnh tranh tổng thể của các nước Đông Nam á.
Nước
1998
(53 nước)
1999
(53 nước)
2000
(59 nước)
2001
(59 nước)
Singapo
1
1
1
2
Hồng Kông
2
2
2
8
Đài Loan
8
6
4
11
Malasyia
9
17
16
25
Inđônêsa
15
31
37
44
Thái Lan
18
21
30
31
Hàn Quốc
21
19
22
29
Trung Quốc
29
28
32
41
Philipin
34
33
33
37
Việt Nam
49
39
48
53
Nguồn: Đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) các năm tương ứng.
2. Môi trường kinh doanh, cạnh tranh trong nước :
Nhìn chung, môi trường kinh doanh cạnh tranh trong nước đã được cải thiện, môi trường cạnh tranh trong nước đã dần hình thành qua hơn 10 năm đổi mới, song còn nhiều ách tắc, bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy chưa trở thành động lực thúc đẩy việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập. Theo đánh giá của WEF từ năm 5 trở lại đây cho thấy, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam vào loại yếu kém so với các nước trên thế giới, xếp thứ 49/53 nước năm 1999, 53/59 nước năm 2000, và 62/75 nước năm 2001.
Năng lực cạnh tranh quốc gia yếu kém là hậu quả của môi trường kinh doanh, cạnh tranh trong nước chưa thuận lợi. Nhưng đến nay nhà nước đã có một vài thay đổi về cơ chế chính sách làm cho các doanh nghiệp có điều kiện phát triển nhất định.
- Về chính sách: Trước đây (trước năm 1989) với nguyên tắc nhà nước độc quyền ngoại thương, toàn quốc chỉ có một vài công ty lớn trực thuộc bộ ngoại thương, lúc đó được quyền xuất khẩu. Đến nay có nhiều quy định mới cho phép mở rông quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sở làm hàng xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế. Tiếp đó là xoá bỏ toàn bộ chế độ cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu, bãi bỏ thủ tục phê duyệt xất khẩu đối với một số doanh nghiệp .
- Số lượng các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều với nhiều loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đa dạng, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có hàng xuất khẩu. Trong đó số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 87% trong tổng số doanh nghiệp, 99% trong tổng số doanh nghiệp tư nhân, 97,38% tổng số hợp tác xã, 94,72% trong tổng số các công ty trách nhiệm hữu hạn, 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần, 65,88% trong tổng số các công ty Nhà nước.
- Các thành phần kinh tế có sự chuyển đổi, khu vực tư nhân có xu hướng tăng nhanh hơn các khu vực khác:
Bảng3 : Cơ cấu thành phần kinh tế năm 1995 và năm 2000.
Năm
1995
2000
1.Kinh tế Nhà nước
2.Kinh tế tập thể
3.Kinh tế tư nhân
4.Kinh tế cá thể
5.Kinh tế hỗn hợp
40,1
10,0
3,12
36,0
13,4
40,2
9,0
3,4
34
13,4
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
- So sánh tương quan lợi thế cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp với 12 tiêu chí được lựa chọn để nghiên cứu, trong đó quy định pháp lýthuận lợi nhất được đánh giá là A, thuận lợi ở mức trung bình là B, kém thuận lợi nhất là C. Trong số 12 tiêu chí được lựa chọn, doanh nghiệp Nhà nước có 6 tiêu chí xếp loại A, chiếm 50%, bốn tiêu chí xếp loại B (chiếm 33,3%) và chỉ có 2 tiêu chí xếp loại C (16,7%). Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có 5 tiêu chí xếp loại A (chiếm 41,7%), 6 tiêu chí xếp loại B (chiếm 50%), một tiêu chí xếp loại C (8,3%). Trong khi đó khu vực doanh nghiệp dân doanh chỉ có 3 tiêu chí xếp loại A (25%), một tiêu chí xếp loại B (8,3%), còn lại 8 tiêu chí xếp loại C (66,7%).
Bảng 4: Phân tích lợi thế cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp .
STT
Tiêu chí so sánh
DNNN
DN FDI
DN DÂN DOANH
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Về vốn thành lập và đăng ký kinh doanh.
Về giải thể doanh nghiệp .
Về phá sản doanh nghiệp .
Về vốn vay và tham gia thị trường vốn.
Tuyển dụng lao động.
Chính sách tiền lương, tiền công.
Thuế và các chính sách tài chính.
Chính sách đất đai.
Về chuyển giao công nghệ và sở hữu công nghiệp.
Hợp tác kinh doanh và liên doanh với nước ngoài.
Về xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại.
Về thanh tra kiểm tra.
C
C
A
A
A
B
B
A
B
A
A
B
B
B
A
B
C
A
A
B
A
B
B
A
A
A
A
C
B
C
C
C
C
C
C
C
Nguồn : Lê Xuân Thành, lợi thế cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp –nhìn từ góc độ quản lý, tạp chí thương mại, số 22/2001.
Theo bảng số liệu này thì rõ ràng là các quy định pháp lý hiện hành đang tạo ra rất nhiều bất lợi cho khu vực doanh nghiệp dân doanh trong so sánh tương quan với các loại hình doanh nghiệp khác.
ii. thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt nam trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện bằng khả năng bù đắp chi phí sản xuất kinh doanh, duy trì được lợi nhuận và được đo bằng thị phần hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường .
1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNVVN
1.1. Chi phí :
Để một sản phẩm đến tay người tiêu dùng cần có các loại chi phí sau: chi phí nguyên vật liệu, nhân công, máy móc thiết bị (chi tài sản cố định), chi quản lý, chi bán hàng, quảng cáo, phân phối và dịch vụ tương ứng…Trong đó chia thành chi phí đầu vào và chi phí trung gian, cả hai loại này đều có xu hướng tăng giá.
1.1.1. Chi phí đầu vào:
Trong một điều tra mới đây của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam với 500 doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy các doanh nghiệp này chỉ đạt 2,1 điểm (theo thang điểm từ 1 đến 5) cho khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong khi đó khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước đạt 2,85 điểm. Đặc biệt so với năm 1999, thang điểm về sức cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thị trường trong nước tăng từ 2,9 đến 3,2 điểm trong năm 2002. Rõ ràng sự vững tin của các doanh nghiệp này chỉ thực sự mạnh mẽ tại thị trường với những đối thủ quen thuộc. Cũng theo cuộc điều tra trên có tới 29% doanh nghiệp trong số 500 doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn sử dụng trên 40% nguyên, phụ liệu nhập khẩu, thậm chí có ngành còn sử dụng tới 70-80% nguyên, phụ liệu nhập khẩu.
Chi phí đầu vào của các doanh nghiệp cao hơn 30-50% so với các đối tác ASEAN, cao hơn 50% so với mức trung bình của thế giới. Chi phí đầu vào có xu hướng tăng theo thời gian, tăng 33,4% từ năm 1996 đến nay. Vì vậy tỉ lệ giá trị gia tăng trong hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được đánh giá thấp. Trong xu thế giảm giá hàng hoá xuất khẩu công nghiệp của thế giới, việc giữ thị trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng trước thách thức lớn.
1.1.2. Chi phí trung gian :
Chi phí trung gian của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cao hơn mức trung bình của các doanh nghiệp khác thuộc các nước trong khu vực. Chẳng hạn cước điện thoại quốc tế đang ở mức rất cao so với các nước trong khu vực, nếu lấy Nhật Bản làm ví dụ là điểm gọi đến thì cước từ Việt Nam cao gấp 3,5 lần so với Inđônêxia, gấp 3 lần so với Thái Lan và gấp 10 lần so với Xingapo, chi phí vận hàng cảng đắt gấp hai lần ở Băng Cốc. Theo thời gian, chi phí trung gian cũng tăng. Theo số liệu thống kê mới đây cho thấy tiền công tăng 75%, thuế sử dụng đất tăng 90,9%, ngoại tệ tăng 20,2%, xăng dầu tăng 42,8%, nước tăng 130%, điện tăng 37,5%. Ngoài ra còn thêm các khoản tiền tiêu cực phí khác cũng làm tăng chi phí trung gian của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu đối chiếu với bảng chi phí đầu tư của các nước trong khu vực thì chi phí trung gian tại Việt Nam tương đối cao.
Bảng 5: so sánh chi phí đầu tư tại một số thành phố chính ở châu á (tháng 12-2002).
Khoản mục
Hà Nội
TP
HCM
Singapor
Bangkok
Kuala Lumpur
- Lương tháng công nhân.
- Phí thuê văn phòng
(m2/tháng)
- Phí điện thoại tối thiểu (máy/tháng)
- Giá điện dành sx-dd
(kwh)
- Giá nước dùng cho sx-kd (m3)
- Cước phí vận chuyển contenier 40 feet
- Thuế thu nhập doanh nghiệp mức chuẩn %
- Thuế giá trị gia tăng mức cơ bản (%)
79-190
18-22
1,86
0,07
0,21
1500
25
10
76-116
14-19
1,86
0,07
O,28
1400
25
10
442-596
49,91
4,78
0,07
1,05
500-600
25,5
3
175
10,09
2,29
0,04
0,22-0,36
1350
30
7
342
18
9,21
0,05
0,32
970
28
5-15
Nguồn : báo cáo của WB năm 2002
1.2. Cạnh tranh về giá:
Từ năm 1996 đến nay, tỷ lệ tăng giá đầu ra là 22,82%, tỷ lệ tăng này còn thấp. Những năm qua, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chiếm một thị phần ít ỏi trên thị trường, chủ yếu là cạnh tranh trong nước.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng như lương thực, thực phẩm, đồ uống, giày dép…Hiện nay, giá cả các mặt hàng này có xu hướng giảm thể hiện ở chỉ số đầu ra giảm, được thể hiện qua bảng sau đây:
Bảng 6: So sánh chỉ số giá đầu vào của một số mặt hàng.
Mặt hàng
Kỳ gốc (2000)
Tháng 12/2002
Tháng 6/2003
Lương thực thực phẩm
Đồ uống và thuốc lá
May mặc, mũ nón, giày dép
Thiết bị đồ dùng gia đình
Phương tiện đi lại
109.1
106.9
104.8
103.2
97.9
101.1
102.1
102.1
101.1
101.8
99.5
100.0
100.0
100.0
99.9
Nguồn : Tạp chí thị trường giá cả, số 197-trang 1
Sau đây em xin chọn một số mặt hàng như gạo, xi măng là những ngành có giá trị sản xuất khá lớn để phân tích vì các mặt hàng này không chỉ được kinh doanh bởi các doanh nghiệp lớn mà còn có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ độc lập và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trực thuộc các tổng công ty.
Do chi phí của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cao hơn chi phí của các doanh nghiệp khác nên giá cả của các doanh nghiệp này tăng lên rõ rệt so với hàng hóa nhập từ nước ngoài, đặc biệt còn khó khăn hơn khi các thỏa thuận của AFTA có hiệu lực, ví dụ về giá xi măng :
Bảng 7: Giá xi măng ở Việt Nam và Thái Lan
Thái Lan
Việt Nam
Khác biệt
Giá một tấn(USD)
Chi phí chuyên chở về Việt Nam
Thuế nhập khẩu (40%)
Giá một tấn ở cảng Việt Vam/giá sản xuất
20
8
8
36
50
50
39%
Nguồn: Phạm Đỗ Chí, Trần Nam Bình (chủ biên). Những vấn đề kinh tế Việt Nam, thử thách của hội nhập, trang 187.
Bảng trên cho thấy xi măng nhập từ Thái Lan khi tới cảng Việt Nam có giá là 50 USD/Tấn. Sau khi các thỏa thuận của AFTA có hiệu lực, xóa bỏ hạn ngạch nhập khẩu và giảm thuế nhập khẩu xuống còn một nửa, sẽ đưa giá xi măng của Thái Lan xuống còn 32 USD/Tấn, rẻ hơn xi măng Việt Nam 56%, liệu các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam có thể kéo được giá xi măng của mình xuống thấp như vậy không? Điều này đặt ra nhiều băn khoăn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xi măng quy mô vừa và nhỏ về khả năng tồn tại trên thị trường nước nhà.
Đối với một số mặt hàng xuất khẩu, giá cả thấp hơn nhiều so với giá thị trường thế giới. Đây không phải do các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hạ thấp giá để cạnh tranh mà không thể bán được cao hơn hoặc bằng so với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong cùng một thời điểm, cùng phẩm cấp, chất lượng, cùng thị trường nhưng giá cả hàng hóa của ta lại thường thấp hơn. Sự mất giá này do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến uy tín, chất lượng và hiệu quả quản lý bán hàng của doanh nghiệp. Các hàng hóa thuộc loại này thường là do tận dụng được ưu thế về số lượng lao động và giá lao động rẻ, ví dụ như gạo.
Bảng 8: So sánh tương quan giá gạo của Việt Nam và Thái Lan từ năm 1996-2000
Năm
Loại gạo
Việt Nam
USD/Tấn
Thái Lan
USD/Tấn
So sánh
(Việt Nam &TháiLan)
giá tỷ lệ %
1996
1997
1998
1999
2000
Loại 5% tấm
Loại 25% tấm
Loại 5% tấm
Loại 25% tấm
Loại 5% tấm
Loại 25% tấm
Loại 5% tấm
Loại 25% tấm
Loại 5% tấm
Loại 25% tấm
300
250
260
229
284
250
228
205
210
196
364
280
329
254
302
251
239
215
220
214
64
30
70
25
18
1
11
10
10
8
21.3
12.0
25.1
10.9
6.3
0.4
4.8
4.9
4.7
4.1
Nguồn: ủy ban vật giá chính phủ
Chất lượng gạo Việt Nam ngày càng tăng. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ hai trên thế giới, với số lượng lớn nhưng gạo Việt Nam vẫn chưa được ưa chuộng tới mức có thể tăng giá so với các nước khác, cụ thể là giá gạo ngày 28/10/03 của Việt Nam loại 5% tấm (193USD), loại 25% tấm (175USD), của Thái lan loại 5% tấm (198USD), loại 25% tấm (179USD)5 Nguồn: Báo kinh tế Việt Nam và thế giới. Số 1426, tháng 10/2003
.
1.3. Chất lượng:
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam có một số mặt hàng đặt chất lượng cao không thua kém gì hàng ngoại nhập mà lại có giá thấp so với những hàng hóa cùng loại do nước ngoài cung cấp như vải, giày dép…Điều này làm cho người tiêu dùng phấn khởi, yên tâm, tự hào. Đây là động lực quan trọng để thúc đẩy các nhà sản xuất không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm…tăng khả năng cạnh tranh, thúc đẩy kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ bền vững.
Tuy nhiên, còn không ít số sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp vừa và nhỏ giá thành cao mà chất lượng kém, không ổn định, nhiều khi mang tính chất như một thủ đoạn lừa dối khách hàng. Những lô hàng sản xuất lần đầu thì chất lượng không thua kém gì hàng ngoại nhập nhưng những lô hàng về sau chất lượng kém dần, hư hỏng nhanh, điều đó khiến cho không ít người tiêu dùng nghi ngờ chất lượng hàng hóa của các doanh nghiệp này. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều này trong một số mặt hàng trong tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày thường gặp như linh kiện ốc vít (thuộc loại linh kiện đơn giản dùng khoảng 3 đến 5 tháng thì hoen gỉ…) đến các sản phẩm công nghệ cao như nhiều máy móc, động cơ do một số doanh nghiệp vừa và nhỏ chế tạo đều không bền, hay hư hỏng, tốn kém nhiên kiệu; xe máy lắp ráp trong nước chất lượng chưa ổn định. Ngoài ra còn những sản phẩm hàng hóa mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thể sản xuất được mà có sản xuất được thì cũng chưa thể cạnh tranh trên thị trường như các thiết bị, linh kiện dùng trong xử lý kỹ thuật cao…
Hiện nay ta nhận thấy rằng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp này tăng nhưng vẫn không thể nói là khả năng cạnh tranh của hàng hóa của họ tăng. Điều này thể hiện rõ ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng gia công chế biến, tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp chưa nhiều. Do vậy phần giá trị gia tăng thấp và phải chịu nhiều thua thiệt về lợi nhuận. Năm 2001 tỷ lệ dầu thô xuất khẩu chiếm 25%, tỷ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến có giá trị, chất lượng cao rất thấp. Điều đó chứng tỏ chủ yếu vẫn chỉ là phát triển theo chiều rộng, tăng cường khả năng khai thác tài nguyên để xuất khẩu.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa áp dụng một hình thức quản lý chất lượng hợp lý, chúng ta thường nhìn nhận và khai báo sai sự thật, chưa thật sự chú trọng đi sâu vào hiệu quả, chất lượng công việc. Một nguyên nhân nữa là sự bớt xén trong các dự án đầu tư, các nhân viên trong doanh nghiệp cố tình khai báo tăng chi phí để thu lợi cho cá nhân.
2. Thực trạng về các yếu tố nguồn lực cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ :
2.1. Khoa học và công nghệ:
Khoa học và công nghệ luôn là vấn đề cốt lõi của một doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều kiện thiết bị công nghệ sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm, giúp cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong những năm vừa qua do sức ép của thị trường hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã có sự đổi mới công nghệ ở mức nhất định. Đó là việc dùng điện vào sản xuất, cơ khí hóa từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất.
Song tình trạng phổ biến là công nghệ còn thấp kém, lạc hậu 30-50 năm. Công nghệ thấp và lỗi thời chiếm 60-70%, công nghệ hiện đại chỉ chiếm 30-40%. Theo số liệu thống kê của riêng trong ngành công nghiệp có 26% thiết bị do Liên Xô cung cấp, 24% là do các nước Đông Âu cung cấp, gần 20% là thiết bị của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% thiết bị của các nước khác và còn lại là tự chế tạo trong nước. Ngoài ra còn có sự khác biệt về trình độ kỹ thuật giữa các khu vực kinh tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Khả năng đổi mới công nghệ lại rất hạn chế. Thời kỳ 1991-2000 các doanh nghiệp chỉ trang bị lại 14% thiết bị (bằng 10% giá trị thiết bị của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xây dựng trong cùng một thời kỳ). Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, hao mòn hữu hình từ 30-50% và đáng ngạc nhiên là 38% ở dạng thanh lý vẫn được sử dụng, các công nghệ lạc hậu, trung bình, tiên tiến đan xen nhau trong một dây chuyền sản xuất.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, chất lượng và hiệu quả của chuyển giao công nghệ còn hạn chế do thiếu lựa chọn kỹ thuật tối ưu và công nghệ nguồn, đặc biệt là giá trị phần mềm và giá trị chuyển giao bí quyết công nghệ còn thấp (tỷ lệ 17% tổng đầu tư, trong khi cho biết là 83%). So với Trung Quốc, hàng hóa Trung Quốc tràn vào Việt Nam rất nhiều với giá cả thấp, chất lượng hàng hóa ở mức có thể chấp nhận được. Đó là do công nghệ của họ cao hơn hẳn chúng ta, chủ yếu là nhập khẩu từ châu Âu, Mỹ, Nhật Bản nơi được coi là có công nghệ thiết bị nguồn, còn chúng ta chủ yếu nhập từ châu á.
Nhìn chung, theo kết quả điều tra của 24 công ty Nhật Bản tại 10 nước ASEAN cho thấy nếu đánh giá theo thang điểm 10 thì trình độ khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chỉ đặt 3,5 điểm đứng trên ba nước là Myanma (3,4 điểm), Lào (3,0 điểm), Campuchia (2,6 điểm). Điều đó thể hiện trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ở mức thấp trong tương quan so sánh với các nước khác.
2.2. Vốn:
2.2.1. Nguồn hình thành vốn:
Không nằm ngoài khó khăn chung của đất nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần phải giải quyết một vấn đề nan giải đó là thiếu vốn. Hiện nay có đến 55% doanh nghiệp thiếu vốn, việc huy động vốn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau vốn tự có, vốn vay bạn bè, người thân, vay ngân hàng, và các nguồn vốn khác.
Các doanh nghiệp có thể tự tài trợ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Trên thự tế, khả năng tự tài trợ là kém vì đa số nhân dân Việt Nam là nghèo, ít có khả năng tự tích luỹ để bắt đầu một doanh nghiệp nhỏ. Một minh chứng cho rằng vốn chung bình của doanh nghiệp sau 10 năm luật doanh nghiệp ra đời là 1.2 tỷ đồng năm 2001 và 1.5 tỷ đồng năm 2002. Khả năng tự tài trợ của ngân quỹ còn bắt nguồn từ lợi nhuận thu được, trên thực tế doanh nghiệp ít có khả năng khai thác nguồn này một cách triệt để do lợi nhuận không nhiều và trình độ văn hoá thấp, thiếu kỹ năng quản lý hành chính doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể vay nợ từ bên ngoài để tăng tỷ lệ sinh lời với các hình thức như vay nợ ngân hàng, mua trả góp hay tín dụng thuê mua của các công ty cho thuê tài chính…Nhưng mức rủi ro cao, tỷ lệ thuận với khối lượng vay nợ, trong nhiều trường hợp rủi ro không trả được nợ đã dẫn tới phá sản. Tuy nhiên rất ít doanh nghiệp doanh nghiệp được vay vốn từ ngân hàng. Theo thống kê năm 2001 tỷ lệ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay trên tổng tín dụng ngân hàng là 29%. Lý do cơ bản nhất là do các doanh nghiệp này không đủ tài sản để thế chấp.
Nhìn chung có khả năng tự tài trợ và khả năng vay vốn ngân hàng đều thấp nhưng cơ cấu tự tài trợ còn ở mức cao.
Biểu đồ: Cơ cấu nguồn vốn của DNVVN.
2.2.2. Tình trạng sử dụng vốn:
Trước đây, do rào cản tâm lý và do chưa có kinh nghiệm quản lý nên đầu tư vốn vào doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mức thấp. Năm 1992 vốn đăng ký kinh doanh bình quân là 0.8 tỷ đồng, trong những năm tiếp theo liên tục giảm, nhưng đến năm 1999 là 1.012 tỷ đồng, năm 2002 là 1,74 tỷ đồng và năm tháng đầu năm 2003 là 2.6 tỷ đồng, cụ thể như sau:
Bảng 9: Vốn đăng ký kinh doanh bình quân của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ năm 1992-2002.
Năm
Vốn đăng ký kinh doanh
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
819.3
510.3
353.9
365.4
529.4
520.8
645.3
1012.8
1061
1374.3
1742
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Tổng vốn sử dụng cho khu vực này năm 2000 là 173862 tỷ đồng, tăng 38.46% so với năm 1999. trong đó vốn huy động đầu tư vào công nghệ chiếm 28.77%, thương mại 35.84%, còn lại thuộc các ngành khác. Vốn đầu tư phát triển trong năm 2000 là 35894tỷ đồng tăng 13.8% so với năm 1999, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (năm 1999 là 24.05%, năm 2000 là 24.31%). Trên thực tế đến năm 2002 vốn vẫn là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn lưu động chỉ đáp ứng 60% nhu cầu. Mức độ trang bị vốn / một lao động của các doanh nghiệp này nhìn chung còn quá nhỏ, đối với các doanh nghiệp đầu tư khoảng 63.2 triệu đồng / một lao động.
2.3. Nguồn nhân lực :
Ai cũng cho rằng nguồn nhân lực là nhân tố mang lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ, song hiện nay nhân tố con người của nước ta vẫn chỉ dạng tiềm năng hoặc chỉ có lợi thế về số lượng do lao động phần lớn là lao động phổ thông. Số lượng lao động lớn nhưng chất lượng lao động thấp.
2.3.1. Số lượng lao động :
Từ năm 1996 đến nay, số lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ giảm trong năm 1997, còn lại đều tăng. So sánh với tổng lao động toàn xã hội các doanh nghiệp này chiếm tỷ lệ khoảng 12% qua các năm, riêng năm 2002 là 14%.
Năm 2002, số lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 4543944 người so với năm 1996 tăng được 778781 người tăng 20.15% từ năm 1996 đến năm 2002, tốc độ tăng lao động ở các doanh nghiệp này bình quân là 24.35%/năm.
Phân bố lao động giữa các ngành không đồng đều, lao động trong công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất 2.119.228 người, chiếm 45.63% lao động trong ngành thượng mại dịch vụ là 1.737.824 người chiếm tỷ trọng 37.42%, lao động trong các ngành khác là 786.792 người chiếm 16.94%.
2.3.2. Chất lượng lao động:
- Sự cạnh tranh khốc liệt của quá trình hội nhập đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi mới có thể thành đạt trong kinh doanh. Mỗi một chủ doanh nghiệp phải biết thu thập, đánh giá các loại thông tin kinh tế, kỹ thuật, biết đề ra những quyết định sáng suốt, kịp thời, đúng đắn. Đồng thời chủ doanh nghiệp phải biết quản lý, giám sát, điều khiển công việc của những người lao động làm việc cho mình một cách hợp lý…
Trên thực tế đội ngũ chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cho thấy họ có rất nhiều bất cập so với đòi hỏi của quá trình hội nhập. Một số các chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ học vấn trung học cơ sở (40- 45%), một số có trình độ trung học phổ thông, cao đẳng và đại học (35- 40%), còn một bộ phận đáng kể có trình độ tiểu học (10- 15%) thậm chí cá biệt có người chưa đọc thông viết thạo. Chỉ rất ít chủ doanh nghiệp (2- 3%) của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đào tạo kiến thức quản lý chính quy, một số (20- 30%) được tập huấn ngắn hạn (dưới 6 tháng), còn đại bộ phận chỉ quản lý doanh nghiệp của mình bằng kinh nghiệm. Đây là một điểm yếu rất lớn và là một khó khăn giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tri thức và trình độ tay nghề của người lao động đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Những người có tri thức, tay nghề cao, kỹ năng thành thạo, lao động lành nghề sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến, làm ra những sản phẩm đẹp, có chất lượng với năng suất và hiệu quả cao.
Đội ngũ lao động hiện có trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần đông có trình độ học vấn thấp: trung học cơ sở 40- 45%; tiểu học và chưa biết chữ 10- 25%; số có trình độ học vấn trung học phổ thông, cao đẳng và đại học 25- 35%. Tình trạng yếu kém còn cao hơn ở các vùng nông thôn, số lao động chưa qua đào tạo bình quân chiếm 60- 70%. Năm 2002, tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo chỉ chiếm 22,2% tổng số lao động xã hội, có đến 74% lao động thủ công, 25% lao động cơ khí, 1% tự do. Do trình độ như vậy nên số công nhân có khả năng điều hành, đứng máy trong các dây truyền tự động là cực kỳ khan hiếm, hiệu quả sử dụng thiết bị thấp (chỉ bằng 68- 75% công suất thiết kế).
So sánh với các nước khác trên thế giới ta thấy năng suất lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam kém xa so với người làm công việc hàng ngày ở các doanh nghiệp nước ngoài như Nhật Bản, Hồng Công, Singapore. Một người làm nghề ngoại thương ở doanh nghiệp nước ngoài có thể đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương và triển khai các công đoạn từ A đến Z như xác định giá cả, nhu cầu thị trường, mở hoặc kiểm tra L/C, hợp đồng bảo hiểm thuê tàu, sử dụng vi tính… trong khi đó để làm được những việc như trên, doanh nghiệp nước ta phải sử dụng 4 đến 5 người và phải qua nhiều khâu tác nghiệp ở các phòng, ban chuyên môn.
3. Năng lực quản trị chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
3.1. Chiến lược thị trường:
Thị trường là điều kiện đầu tiên để mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Trong đó thị trường đầu ra, thị trường tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định sự thành bại, phát triển thịnh vượng hay thua lỗ của các doanh nghiệp. Với đặc điểm và các ưu thế của mình, định hướng chiến lược ngắn hạn, trước mắt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là tập trung vào các thị trường ngách, nhỏ lẻ v.v. và đặt trọng tâm vào những sản phẩm hàng hóa có giá bán thấp. Bên cạnh đó, do ưu thế của quá trình hội nhập, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên mở rộng thị trường ra nước ngoài đối với những sản phẩm chất lượng cao nhất của mình và đảm bảo yêu cầu của thị trường nước ngoài.
Qua tổng hợp các phiếu điều tra, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu đã xây dựng được chiến lược thị trường và phân phối sản phẩm nhưng thực chất vẫn chỉ là các kế hoạch riêng rẽ từng năm, từng bộ phận chưa phải là tổng hoà các kế hoạch mang tính chiến lược tổng thể. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều không có thị trường tiêu thụ ổn định, đặc biệt là thị trường xuất khẩu hạn chế. Cho đến nay hàng xuất khẩu Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 140 nước và khu vực song vẫn tập trung vào 10 thị trường lớn nhất như Nhật Bản, Cộng hoà Liên bang Đức, Pháp, Thái Lan, Hồng Công, Nga, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan.
Chiến lược thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ bước đầu tập trung vào giữ vững thị trường hiện có, lập kế hoạch thâm nhập thị trường tiềm năng, thị trường mục tiêu, mở rộng thị trường xuất khẩu được chú ý song chưa ổn định, ngay cả với 10 thị trường lớn, xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm lĩnh thị phần rất nhỏ so với thị phần hàng cùng loại của khu vực.
Sau đây là vài ví dụ về chiến lược thị trường:
Thị trường dệt may:
Ngành dệt may đang chiếm lĩnh thị trường trên nhiều nước, và có xu hướng mở rộng thị trường do hàng Việt Nam ngày càng được ưa chuộng. Ngành dệt may không chỉ chiếm lĩnh phần lớn thị trường trong nước mà cả thị trường nước ngoài. Một số doanh nghiệp nhỏ mới đi vào hoạt động cũng có nhiều điều kiện học hỏi kinh nghiệm và có uy tín do tâm lý về hàng dệt may Việt Nam chất lượng cao. Chẳng hạn một doanh nghiệp nhỏ mới đi vào hoạt động được vài năm như Công ty may Tiên Tiến đạt kim ngạch xuất khẩu 10 triệu USD, có khả năng tăng trưởng ổn định hàng năm khoảng 20% trở lên.
Nhìn chung nhiều công ty dệt may vừa và nhỏ đã có chiến lược để giữ vững và phát triển các thị trường của mình nhưng với thị trường xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào chiến lược thị trường của các hãng thuê gia công.
Thị trường hàng da giày:
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào thị trường EU, chiếm 80% kim ngạch mặt hàng này. Có những hạn chế trong việc tiếp cận thị trường Mỹ và Nhật Bản là các thị trường tiềm năng và mục tiêu trong những năm tới do việc thực thi chiến lược thị trường của các doanh nghiệp này còn thụ động giống như tình trạng của hàng dệt may Việt Nam.
Thị trường gạo:
Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tham gia kinh doanh mặt hàng gạo với gần 20 nước bạn hàng nhưng chủ yếu vẫn là những bạn hàng sau:
Bảng 10: thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2001, 2002.
Thị trường
Tỷ trọng năm 2001
Tỷ trọng năm 2002
Inđônêxia
Philipin
Singapo
Thuỵ sỹ
Irac
Hà Lan
Mỹ
Malaysia
Hồng Công
Anh
1.8
8.1
8.9
22.5
7.2
9.4
8.6
5.6
5.6
2.7
25.3
13.2
11.3
10.5
8.2
4.2
4.1
3.7
3.1
1.6
Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê- Bộ Thương mại
Nhìn vào biểu trên ta thấy sự thiếu vắng của bạn hàng châu Phi, mặc dù đây là khu vực tiêu thụ gạo lớn, đặc biệt là gạo phẩm cấp thấp. Điểm yếu của các doanh nghiệp là khả năng cung cấp tín dụng cho các bạn hàng, trước mắt vẫn phải dựa vào các nước và các tổ chức cung cấp, viện trợ cho châu Phi.
- Hiện nay cơ hội thị trường đang được mở ra cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Sea Games 22 được tổ chức tại Việt Nam tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu tại chỗ và giới thiệu sản phẩm của mình đến thị trường quốc tế. Trong cả nước có gần 40 doanh nghiệp đã đăng ký bản quyền sử dụng biểu tượng chim Lạc và Trâu vàng của Sea Games 22. Trong đó có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, ví dụ như doanh nghiệp Toàn cầu đã đăng ký bản quyền sử dụng biểu tượng này từ đầu tháng 7- 2003, linh vật Trâu vàng bằng gỗ, thép của doanh nghiệp đã bắt đầu bán ra thị trường, chỉ sau hai tuần bán được hơn 1000 sản phẩm, doanh thu từ 20- 30 triệu đồng. Có thể nói đây là một trong số những doanh nghiệp đã biết nắm bắt thị trường một cách nhanh nhạy.
3.2. Mạng lưới phân phối:
So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ thống kênh phân phối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít được quan tâm nhất. Các kênh phân phối thường được tổ chức theo kiểu trao đổi hơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần) hoặc tổ chức theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý theo hướng có mục tiêu.
- ở trong nước, kênh phân phối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoàn chỉnh hơn nhưng còn nhiều tồn tại:
+ Phần lớn các hệ thống kênh phân phối được tổ chức và thiết kế theo kiểu ngẫu nhiên dựa trên các mối quan hệ có sẵn với các đối tác, không có mục tiêu phân phối rõ ràng hoặc các mục tiêu phân phối không bám sát với mục tiêu chiến lược chung và không đặt trong mối quan hệ tổng thể tác động qua lại với các công cụ sản phẩm, giá cả, xúc tiến hỗn hợp.
+ Quá trình thiết kế kênh không tính đến tác động tổng hợp và toàn diện của các yếu tố môi trường, đặt biệt là yếu tố thị trường khách hàng, và yếu tố khác thuộc môi trường vĩ mô. Các kênh phân phối được lập chủ yếu dựa vào điều kiện nội tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Việc tuyển chọn thành viên kênh không được tiến hành một cách bài bản và kỹ lưỡng. Nhiều thành viên kênh được kết nạp mà không có đủ năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực tài chính, khả năng bán hàng, khả năng bao phủ thị trường. Còn tình trạng chiếm dụng vốn của nhau, lợi dụng sơ hở của nhau để chiếm đoạt tiền, hàng.
+ Người quản lý kênh thường là nhà sản xuất không có năng lực bao quát tổng thể kênh, chỉ quản lý một cấp trực tiếp liền kề sau đó, các cấp khác bị buông trôi. Các công cụ quản lý kênh được sử dụng thiếu căn cứ, không được tính toán chặt chẽ và sử dụng rất ít công cụ như: chiết khấu, giảm giá, khuyến mãi hoặc biện pháp trừng phạt. Những công cụ và biện pháp này chỉ có tác động rất ngắn hạn, không tạo nên sự gắn kết bền vững của toàn bộ kênh và ít có tác dụng động viên, khuyến khích các thành viên.
+ Hệ quả tất yếu là một mối quan hệ giữa các thành viên kênh rất rời rạc, mỗi thành viên chỉ lo lợi ích của bản thân mình dẫn đến tình trạng là giá hàng hóa sau mỗi lần vận động qua một cấp của kênh lại bị đẩy lên cao và khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng thì giá vượt xa dự định ban đầu của nhà sản xuất.
- Về phân phối sản phẩm xuất khẩu:
Qua kết quả điều tra cho thấy hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu trực tiếp rất cao (trên 80% kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp). Còn lại 15- 25% kim ngạch xuất khẩu qua trung gian, do số doanh nghiệp vừa và nhỏ có đại lý ở nước ngoài rất ít 19,4%. Xuất khẩu qua trung gian có nhược điểm là giá hạ và không được hưởng lợi từ ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam nên hàng hóa qua trung gian càng mất lợi thế cạnh tranh so với mặt hàng cùng loại.
Mặt khác, kênh phân phối trực tiếp mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tiến hành lâu nay chủ yếu chỉ là trực tiếp đến nhà nhập khẩu ở thị trường cuối cùng, chưa xây dựng được mạng lưới phân phối đến tận tay người tiêu dùng nước ngoài. Do vậy, thị phần của hàng hóa các doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc rất lớn vào khả năng phân phối của thị trường đó. Điều này phản ánh năng lực phát triển và khống chế thị phần hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Bảng 11: tỷ lệ hàng xuất khẩu trực tiếp so với tổng kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1997-2001 (đơn vị %).
Mặt hàng
1997
1998
1999
2000
2001
Cà phê
Chè
Dầu thô
Hàng dệt may
Thủ công mỹ nghệ
Hạt tiêu
73.5
93
74
77
92
58
76
83
66
74
85
58
80
94
45.4
73
87
57
88
96
73
79
90
61
90
93
86
81
92
64
Nguồn: Bộ thương mại tháng 8/2002
Nhìn chung hệ thống kênh phân phối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng được chú trọng hơn. Qua một cuộc điều tra mới đây cho thấy có khoảng trên 50% các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tổ chức các kênh phân phối để xúc tiến xuất khẩu, trên 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh xuất nhập khẩu trả lời là có khả năng mở rộng xuất khẩu.
3.3. Nâng cao khả năng cạnh tranh bằng xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp:
Theo báo cáo của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (ngày 25/10/2001) và kết quả điều tra cho thấy một số doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chú ý đến xây dựng thương hiệu, bản quyền như Gạch Đồng Tâm, v.v. song nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang an tâm với cách làm gia công cho các hãng nước ngoài nhất là trong ngành may mặc và da giày làm cho doanh nghiệp không có thương hiệu, kiểu dáng riêng.
Đến nay vấn đề thương hiệu càng trở nên nóng bỏng và được rất nhiều doanh nhân, các cơ quan quản lý nhà nước, các hội doanh nghiệp và cả toàn xã hội quan tâm. Nhiều thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng bị các đối tác nước ngoài đăng ký trên thị trường quốc tế.
Nội dung của thương hiệu bao gồm: nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại. Điều đáng mừng là đến năm 2003, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu đạt 57%, chủ yếu thuộc khu vực miền trung đạt 62%. Số lượng thương hiệu hàng hóa được các doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký bảo hộ trong hai năm qua tăng khoảng 2 lần, đến năm 2001 có 3025 thương hiệu trong tổng số 8.518 thương hiệu đăng ký chiếm 48,7%, năm 2002 lên đến 6.304 thương hiệu trong tổng số 8.518 thương hiệu đăng ký bảo hộ chiếm 74%.
Điều đáng lo ngại ở đây là trong tổng số 80.000 thương hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đăng ký bảo hộ trong nước chỉ có 15% là của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo khảo sát tại 500 doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có 70% số doanh nghiệp đầu tư dưới 5% chi phí cho thương hiệu.
Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực ngày 01/01/2000 đã có hơn 40.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ thành lập, rất nhiều doanh nghiệp trong số này chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu ngay từ đầu do hạn chế về vốn, thiếu kinh nghiệm và thiếu kiến thức kinh doanh hiện đại, một số khác cho rằng cứ sản xuất sản phẩm có chất lượng cao là được người tiêu dùng biết đến nghĩa là có thương hiệu. Trên thực tế, ngay từ khi mới thành lập, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam không có đủ vốn, công nghệ và nhân lực… để tạo ra các sản phẩm chất lượng cao. Điều này làm giảm rất nhiều năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.4. Chiến lược quản trị marketing:
Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có một tầm nhìn dài hạn cho chiến lược này. Mục tiêu của các doanh nghiệp này mang tính nhất thời, nóng vội, chủ yếu tập trung vào các điểm sau:
- Đánh đồng hoạt động marketing với hoạt động bán hàng.
- Nhấn mạnh việc thu tóm càng nhiều khách hàng càng tốt hơn là chú trọng phục vụ khách hàng.
- Vì lợi nhuận mà không quan tâm đến lợi ích của khách hàng một cách đầy đủ.
- Định giá dựa trên việc tính toán chi phí phải thu hồi hơn là định giá hướng vào khách hàng.
- Chỉ cần bán sản phẩm hơn là cố gắng hiểu và đáp ứng nhu cầu mong muốn của khách hàng.
- Sử dụng nhiều công cụ chiêu thị một cách riêng rẽ, cô lập hơn là kết hợp hợp lý nhiều công cụ chiêu thị.
Như vậy không có gì ngạc nhiên khi các nhà điều hành doanh nghiệp vừa và nhỏ than phiền rằng hoạt động marketing của mình không có hiệu quả. Đó là chưa kể các hành động tiêu cực như lừa dối khách hàng gây mất lòng tin.
Hiện nay quan điểm marketing mới xuất hiện trong một vài doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là biết hướng vào khách hàng xác định nhu cầu, mong muốn của khách hàng sau đó mới thiết kế sản phẩm thoả mãn nhu cầu đó. Hoạt động marketing đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ, đồng thời 3 yếu tố: lợi nhuận của doanh nghiệp, sự thoả mãn của khách hàng và lợi ích của xã hội.
3.5. Chưa cập nhật thông tin về hội nhập trong giai đoạn hiện nay:
Nhìn tổng thể các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vẫn chưa nhận thức hết khó khăn, thách thức, tính cạnh tranh gay gắt do tiến trình hội nhập kinh tế khu vực tạo ra, chưa có những điều chỉnh cần thiết để phù hợp với lịch trình giảm thuế nhập khẩu từ ASEAN, đồng thời cũng chưa tận dụng, khai thác hiệu quả các thuận lợi do triển khai AFTA đem lại.
Kết quả điều tra gần đây cho thấy, gần một nửa số doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có bộ phận triển khai nghiên cứu để xúc tiến xuất khẩu, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay chưa có hệ thống thông tin về thị trường, về đối thủ cạnh tranh quốc tế nói chung và ở khu vực ASEAN nói riêng, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có một chương trình cụ thể về quảng cáo sản phẩm hoặc các hoạt động tìm hiểu cơ hội và đối tác đầu tư sang các nước ASEAN và hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng chưa sử dụng mẫu form D để hưởng ưu đãi theo CEPT, còn rất ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ quan tâm đến các hình thức liên kết khác như đầu tư nội bộ ASEAN (AIA) và hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO). Bởi vì theo thoả thuận 6 nước thành viên cũ trong ASEAN sẽ hạ thuế suất xuống 0- 5% trước Việt Nam 3 năm. Mặt khác, để thu hẹp khoảng cách giữa các thành viên mới và cũ, 6 nước thành viên cũ sẽ dành hệ thống ưu đãi hội nhập ASEAN (AISP) cho các nước mới gia nhập trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, hàng Việt Nam phải có giấy chứng nhận xuất xứ (C/O form D) và đảm bảo hàm lượng nội địa hoá từ 40% trở lên. Ngoài ra, chương trình hợp tác công nghiệp (AICO) cũng tạo ra sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong khu vực. Doanh nghiệp Việt Nam có thể nhập khẩu nguyên vật liệu từ các nước ASEN có giá rẻ hơn để làm hàng xuất khẩu đi các nước EU, Mỹ… mà vẫn được tính vào tỷ lệ nội địa hóa để hưởng ưu đãi thuế quan GSP. Nhưng thật đáng tiếc, cho đến nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam vẫn chưa tận dụng được các cơ hội đó.
3.6. Xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam tham gia ngày càng nhiều trong lĩnh vực xuất khẩu. Về mặt số lượng có thể nói doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Đặc biệt Luật thương mại ban hành năm 1997 và Nghị định 57/1998NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Luật thương mại đã thúc đẩy mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho mọi loại doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp vừa và nhỏ. Luật doanh nghiệp mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 01- 2000 khuyến khích nhiều doanh nghiệp mới ra đời tham gia xuất khẩu. Theo Bộ thương mại, đến cuối năm 2000, số đơn vị đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu là khoảng 13.000 doanh nghiệp, gấp hơn 3 lần số doanh nghiệp trực tiếp tham gia thương mại quốc tế trước khi có Nghị định 57 (khoảng 4.000 doanh nghiệp). Trong số các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay có khoảng 80- 85% là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đối với mặt hàng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, xuất khẩu chiếm xấp xỉ 29% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2000. Đối với nhóm hàng này, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất quan trọng với nghĩa xuất khẩu gián tiếp, chưa kể nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực này xuất khẩu trực tiếp. Đi vào chi tiết hơn, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ với nghĩa là xuất khẩu gián tiếp. Rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may và giày dép cũng thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với nhóm sản phẩm nông- lâm- ngư- nghiệp, nhiều doanh nghiệp lớn trực tiếp xuất khẩu như Tổng công ty cà- phê Việt Nam Vinacafe, Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam (SEA PRODEX), VinaFood, VinaTea… Rất nhiều đơn vị thành viên phụ thuộc của các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp nhỏ. Tính ở góc độ nguồn gốc sản phẩm xuất khẩu thì đây là sản phẩm của khu vực sản xuất nhỏ. Vì vậy xuất khẩu hàng nông- lâm- thủy sản năm 2000 chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam với nghĩa là xuất khẩu gián tiếp. Xuất khẩu trực tiếp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay chỉ chiếm khoảng 12- 15% tổng kim ngạch xuất khẩu chung. Tỷ lệ tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam so với các nước mà ITC đã tiến hành điều tra là thấp hơn đáng kể ở 4 nước do ITC điều tra, 75- 80% thu nhập xuất khẩu là phần đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó 30- 45% là xuất khẩu trực tiếp.
Thực tế năm 2000, xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 16,5 tỷ USD trong đó xuất khẩu hàng hóa là 14,3 tỷ USD vượt 11% so với kế hoạch đề ra (12,8 tỷ USD) và tăng 23,9% so với năm 1999. Ngoại trừ xuất khẩu dầu mỏ và hàng điện tử, tin học của khu vực doanh nghiệp lớn có mức tăng trưởng cao, các sản phẩm của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt được nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu ngoạn mục là rau quả tăng 90%, thuỷ sản tăng 51,1%, thủ công mỹ nghệ tăng 40%… Xét cả giai đoạn 1996- 2000, thì xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc khu vực sản xuất nhỏ đạt nhịp độ tăng trưởng rất cao (hàng thủ công mỹ nghệ tăng 29%, rau quả tăng 30,6%, giày dép tăng 30,6%…) gấp khoảng 1,4- 1,5 lần nhịp độ tăng trung bình hàng năm của xuất khẩu hàng hóa nói chung (21,1%)… Theo những số liệu trên đây sự năng động trong xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam là động lực quan trọng thúc đẩy xuất khẩu của đất nước phát triển vào nửa cuối những năm 1990.
4. Thực trạng thị phần quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam :
Nhìn chung thị phần hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trên thế giới còn đang ở mức quá nhỏ. Hàng hóa Việt Nam đang có xu hướng chiếm giữ thị phần quốc tế ngày càng rộng, do đó cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn, nhiều hãng nước ngoài đang quan tâm đến các doanh nghiệp Việt Nam và tìm cách chống đối. Nếu doanh nghiệp không biết giữ vững và phát triển thị phần thì có thể dẫn đến nguy cơ là mất hoặc không phát triển được trên thị trường quốc tế.
Bảng 12: Thị phần quốc tế của một số mặt hàng Việt Nam (năm 2000)
Mặt hàng
Thị phần %
Giá trị (triệu USD)
Cà phê
Chè
Cao xu thiên nhiên
Điều nhân
Hạt tiêu đen
Lạc nhân
Thuỷ sản
Hàng điện tử
13.76
4.40
5.8
17.1
20.3
4.75
2.7
0.08
501.5
69.6
166.0
167.3
145.7
41.0
1487.6
782.7
Nguồn: Viện nghiên cứu thương mại.
Nhìn vào bảng trên ta thấy một số mặt hàng nông sản, gia công của ta mới chiếm được thị phần nhỏ thị phần quốc tế. Mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao chiếm một thị phần không đáng kể. Như vậy, hàng hóa của ta phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố thiên nhiên, thời vụ, năng lực xuất khẩu các mặt hàng này còn quá yếu kém.
Chương III
Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
I. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp:
Trong quá trình toàn cầu hoá, ngoài lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý là những lợi thế do thiên nhiên ban tặng, chúng ta chỉ có một yếu tố được coi là lợi thế so sánh đó là lao động rẻ. Tuy nhiên, lao động rẻ của ta bị cạnh tranh gay gắt từ phía Trung Quốc mặt khác trong những năm tới, lao động có trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế tri thức cần đến. Do vậy, rẻ và đông trong lực lượng lao động không còn lợi thế của chúng ta nữa. Vấn đề doanh nghiệp đặt ra là ta phải tự tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình. Giải pháp cho vấn đề này là phải nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp đặc biệt là đối với DNVVN. Các giải pháp cần được đưa ra từ những khó khăn, yếu kém của DNVVN.
Thứ nhất, trước khi tìm ra những giải pháp cụ thể cần phải hiểu rằng một DNVVN không thể đứng vững được trong một nền kinh tế chậm phát triển. Các DNVVN cần cố gắng chạy nhanh hơn đồng đội, đồng thời cũng phải hỗ trợ nhau khi cần thiết. Làm được điều này chúng ta sẽ tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác: Cạnh tranh để có sản phẩm tốt nhất và hạ giá nhất, hợp tác để tạo nên sự phát triển chung của hệ thống Doanh nghiệp.
Thứ hai, đầu tư cho chiến lược lâu chiến lược phát triển của DNVVN phải chú ý đến chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng, các chính sách khuyến khích, ưu tiên đối với các DNVVN, đặc biệt là chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010 được nêu ra trong đại hội IX của Đảng. Nỗ lực tăng tốc độ xuất khẩu (phải đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân từ 15% trở lên)...
Cuối cùng, là đi vào giải quyết từng vướng mắc cụ thể của các DNVVN.
1. Giảm chi phí:
Hạ thấp chi phí là một chiến lược mà hiện nay được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm. Một nghiệp có chi phí thấp có thể bán với giá thấp nhưng vẫn thu doanh nghiệp được lợi nhuận. Trong trường hợp cạnh tranh trở nên gay gắt, các đối thủ bắt đầu cạnh tranh về giá thì doanh nghiệp nào đứng đầu về giá cả sẽ chiến thắng. Các khâu cơ bản để có thể giảm giá đó là: Tiếp thị, sản xuất, quản lý vật tư,…
1.1. Giảm chi phí trong khâu tiếp thị:
Chiến lược dẫn đầu với chi phí thấp thường áp dụng chiến lược tiếp thị không phân biệt. Doanh nghiệp có thể không cần biết đến các nhóm khách hàng khác nhau với những nhu cầu khác nhau mà chỉ cần áp dụng các phương pháp phục vụ khách hàng trung bình khá nhạy cảm với gía cả của sản phẩm. Các DNVVN không cần quan tâm đến sự khác nhau giữa các khúc thị trường, chỉ cần đưa ra một loại sản phẩm dùng chung cho mọi khách hàng với nhu cầu tương đối đòng nhất, có tác dụng giảm chi phí trên từng đơn vị sản phẩm .
1.2. Khâu sản xuất:
Đây là quá trình gắn liền với lĩnh vực hoạt động chính của DNVVN, chế tạo ra sản phẩm. Trong khâu này có hai con đường chính để giảm chi phí đó là học hỏi kinh nghiệm và sự phù hợp của cấu trúc sản phẩm với quá trình sản xuất.
Kinh nghiệm được tích luỹ thông qua học hỏi và thông mở rộng quy mô sản xuất. Quy mô càng lớn thì DNVVN có điều kiện sản xuất và lao động theo hướng phân công, chuyên biệt hoá do đó năng xuất cao và chi phí giảm.
Cấu trúc sản phẩm phù hợp với quá trình sản xuất là giúp cho DNVVN giảm chi phí thấp nhất.Trong số danh sách các sản phẩm thoả mãn nhu cầu khách hàng cần chú ý hơn những sản phẩm phù hợp với năng lực, tay nghề của người lao động và dây truyền sản xuất.
1.3. Quản lý vật tư:
Các phương tiện cơ bản của quản lý vật tư đó là thu mua, sản xuất, phân phối được nhìn nhận một cách tổng hợp. Sự phối và kiểm soát chặt chẽ luồng vật tư cho phép một DNVVN tiết kiệm chi phí, giảm hàng tồn kho, và những cơ hội để cải thiện hiệu năng. Trong đó, quản lý hệ thống hàng tồn kho đúng thời gian và số lượng là có tác dụng rất lớn.
1.4. Các giải pháp khác và việc cắt giảm chi phí không cần thiết:
- Đầu tư các thiết bị hiện đại để tăng năng xuất lao động và tiết kiệm định mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm, giải pháp này đang được các DNVVN áp dụng bằng các dự án đầu tư chiều sâu và mở rộng sản xuất.
- Bộ phận chức năng R&D nghiên cứu cải tiến công nghệ và quy trình sản xuất để tiết kiệm thời gian.
- Sự cố gắng cắt giảm chi phí được thực hiện như sau: Các nhà hoạch định chiến lược sẽ đánh giá xem liệu có bất kỳ sự lãng phí nào, tình trạng dư thừa nào hoặc không có hiệu quả trong quản lý thiết bị; liệu có các nguồn lực có thể loại trừ hoặc được sử dụng có hiệu quả hơn.
2. Chiến lược sản phẩm:
Chiến lược phát triển sản phẩm bao gồm việc phát triển sản phẩm mới để tiêu thụ trên thị trường hiện tại hoặc bán cho các khách hàng hiện tại. Chiến lược này có thể nhằm vào các sản phẩm riêng biệt hoặc toàn bộ các mặt hàng của doanh nghiệp.
Có bốn cách phát triển các sản phẩm riêng biệt như sau:
- Cải tiến tính năng của sản phẩm: Có thể tạo ra các sản phẩm mới bằng cách sửa đổi, bổ sung thêm các tính năng cho sản phẩm cũ. Phải đảm bảo cải tiến sản phẩm bằng cách mở rộng tính năng, công dụng và tiện lợi của sản phẩm. Cách này có ưu thế là thực hiện một cách nhanh chóng và gây được lòng nhiệt tình của người bán hàng, các đại lý và khách hàng.
- Cải tiến chất lượng: Mục đích của cách làm này là tăng độ tin cậy, tốc độ, độ bền hay các tính năng khác của sản phẩm. Cũng có thể phát triển các phiên bản khác nhau của sản phẩm với chất lượng khác nhau.
- Cải tiến hình dáng, mầu sắc, bao bì, kết cấu sản phẩm hợp lý hơn.
- Thêm mẫu mã: phát triển thêm các mẫu mã và kích thước sản phẩm khác nhau.
Kết quả của các phương án trên là tạo ra một sản phẩm mới. Bên cạnh đó các sản phẩm mới còn được tạo ra bằng cách xem xét lại toàn bộ cơ cấu mặt hàng:
Thứ nhất, khi cơ cấu ngành hàng của DNVVN ở đỉnh điểm của thị trường, cần xem xét việc tăng thêm các mặt hàng nhất định nhằm kéo giãn sản phẩm sang hai phía:
Khi kéo xuống phía dưới là nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thấp hơn để các đối thủ cạnh tranh không có cơ hội thâm nhập thị trường.
Kéo giãn lên phía trên là bổ xung các sản phẩm phục vụ nhu cầu cao hơn, đây chỉ là hình thức cải tiến về chất lượng và tính năng, nhưng nó gặp rất nhiều khó khăn vì phải cạnh tranh với các sản phẩm chất lượng cao khác và khách hàng chưa tin vào sản phẩm mới.
Thứ hai, khi quyết định lấp kín cơ cấu mặt hàng tức là tăng thêm một số mặt hàng trong cơ cấu mặt hàng hiện tại, phải đảm bảo cho khách hàng thực sự thấy được sự khác biệt của sản phẩm.
-Thứ ba, kéo dài cơ cấu mặt hàng phải gắn liền với đổi mới hoặc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ.
Đối với từng giai đoạn khác nhau lại cần có chiến lược sản phẩm khác nhau. Trong giai đoạn đưa sản phẩm vào thị trường thường định giá cao, tăng cường khuyến mãi. Trong giai đoạn tăng trưởng cần mở rộng thị trường và đảm bảo các nguồn lực để tăng trưởng cùng với thị trường. Trong giai đoạn suy thoái, lượng hàng hoá bán ra giảm, cần tìm nguyên nhân và phương phấp cải tiến sản phẩm hoặc có thể loại bỏ sản phẩm ra khỏi quy trình sản xuất.
3. Chiến lược Marketing:
Để hoạt động marketing trong giai đoạn hiện nay có hiệu quả người ta sử dụng đồng thời 5 phương pháp sau:
- Trước hết phải nhận dạng, đánh giá và phân tích các cơ hội Marketing thông qua việc nguyên cứu môi trường Marketing đặc biệt là nguyên cứu thị trường.
Có hai loại môi trường Marketing đó là môi trường bên ngài và bên trong. Môi trường bên ngoài là các nhân tố và tác nhân mang tính chất vi mô và vĩ mô có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN về mặt cơ hội và thách thức; môi trường bên trong nói nên điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Nghiên cứu thị trường tập trung vào việc khảo sát khách hàng, đối thủ cạnh tranh và tình hình cung cầu trên thị trường.
- Phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, định vị sản phẩm: ở nhóm giải pháp này, DNVVN xác định thị trường mục tiêu thông qua việc thực hiện 3 công việc lớn:
(1). Phân khúc thị trường.
(2). Lựa chọn thị trường mục tiêu (nhóm khách hàng mục riêu).
(3). Định vị sản phẩm cho phù hợp với thị trường mục tiêu đã lựa chọn. - Nhóm giải pháp tiếp theo là dựa vào hai nhóm giải pháp nêu trên, đặc biệt là phân tích nhu cầu thị trường mục tiêu, phân tích độ hấp dẫn của thị trường đã lựa chọn, đánh giá lợi thế cạnh tranh của DNVNN.
- DNVVN cần tổ chức các nguồn lực Marketing, cụ thể hoá các kế hoạch marketing thành những nhiệm vụ, hành dộng.
- Tiến hành kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động marketing, đặc biệt là khả năng sinh lời và hiệu suất của hoạt động của marketing.
Trước đây chủ chương của Đảng cho rằng có thể công nghiệp đất nước bằng những xây dựng các nhà máy lớn. Thật ra không phải như thế, chỉ có một môi trường cạnh tranh bình đẳng và sự am hiểu về thị trường mới có thể công nghiệp hoá được. Đối với các DNVVN không nằm ngoài quy luật chung ấy.
4. Thương hiệu:
Không phải doanh nghiệp nào cũng nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của thương hiệu nhất là các DNVVN. Trên thực tế thương hiệu đang là vấn đề phải tranh cãi đối với các doanh nghiệp lớn, tiếp theo sẽ ảnh hưởng đến các DNVVN. Theo em có một số giải pháp sau:
- Vấn đề lấy cắp thương hiệu đã diễn ra từ lâu nhưng trong nhận thức của các DNVVN thì vẫn còn mới mẻ, một số doanh nghiệp còn không quan tâm đến nó. Cần xem xét lại, nhận thức đúng đắn về thương hiệu, xem thương hiệu như là tài sản quý cần bảo vệ, quảng bá và phát triển nó, coi đây là việc sống còn, động lực mang tính chiến lược của các DNVVN.
- Không ngừng đầu tư nâng cấp đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm đáp ứng yêu cầu về chất lượng, giá cả trên phân khúc thị trường nhằm tạo ra hình ảnh đẹp về thương hiệu sản phẩm. Khi đã tạo được thương hiệu rồi cần đăng ký ngay thương hiệu ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế, cả thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp sắp hướng tới.
- Đào tạo đội ngũ chuyên gia về xây dựng thương hiệu, giỏi về kinh doanh và kiến thức, về sở hữu công nghiệp, có óc thẩm mỹ trong thiết kế nhãn hiệu.
- Tích cực quảng bá sản phẩm của mình đến người tiêu dùng bằng tham gia các hội chợ thương mại trong và ngoài nước, không ngừng mở rộng mạng lưới bán hàng, bảo vệ và nâng cao uy tín thương hiệu.
- Việc xây dựng thương hiệu suất phát từ nghiên cứu thị trường, chiến lược thương hiệu cần đặt trong chiến lược kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp.
Theo em đầu tư vào thương hiệu là đầu tư vào tầm nhìn lâu dài, giúp doanh nghiệp có thể đứng vững trong tương lai, trong hiện tại ít thể hiện tác dụng hơn, đây là lý do chính mà nhiều DNVVN không quan tâm đến thương hiệu.
5. Chất lượng hàng hoá:
Để chất lượng hàng hoá cao, ai cũng biết rằng phải chú trọng hoạt động nghiên cứu sản phẩm và nhiều hoạt động khác nữa…Nhưng trước khi nghiên cứu sản phẩm thì phải nhận thức về sản phẩm một cách đúng đắn. Giải pháp thiết thực nhất cho vấn đề hiện nay là chúng ta phải nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật để bình luận, đánh giá, cảm nhận thật sâu sắc những tồn tại, hạn chế mà chúng ta chưa thể vượt qua, đồng thời phát động cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thực sự, đề cao hơn nữa việc lấy hiệu quả, thực chất công việc làm thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực của con người như kinh nghiệm của một số nước như Hàn quốc, Nhật bản, Trung Quốc… Hạn chế việc đánh giá trình độ, năng lực của con người qua lời nói, bài phát biểu những hô hào về mặt hình thức là tốt đẹp nhưng không thật sự cầu thị; phải tăng cường khả năng quản lý, giám sát một cách chặt chẽ, khoa học, nhưng cũng không vì sự tăng cường này mà làm cho phát sinh nhiều tiêu cực; chú trọng nâng cao đời sống vật chất cho người đang thực thi công việc. Song song với việc này, phải xử lý thật nghiêm khắc người thực thi công việc nếu có những sai phạm, những tiêu cực, không để xảy ra hiện tượng “giơ cao đánh khẽ” thì công cụ cải cách này mới thật sự có hiệu quả.
6. Xây dựng chiến lược xuất khẩu:
Thứ nhất, các nhà lãnh đạo các DNVVN cần nâng cao hơn nữa nhận thức và công tác xây dựng chiến lược xuất khẩu.
Trong bối cảnh hiện nay, cạnh tranh nói chung và xuất khẩu nói riêng đã, đang và sẽ phải đối mặt với nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới và các doanh nghiệp nhỏ khác. Vì vậy, xây dựng được chiến lược xuất khẩu có ý nghĩa sống còn đối với các DNVVN hiện nay, việc nâng cao nhận thức của các nhà kinh doanh là một giải pháp có tính toàn diện.
Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo của các nhà quản lý trong các DNVVN xuất khẩu.
Để nâng cao năng lực và trình độ quản lý của người lãnh đạo có rất nhiều phương pháp, trong đó giải pháp mạnh là bản thân các nhà lãnh đạo phải biết được điểm yếu của mình, đấu tanh với bản thân để phát huy những tố chất mạnh và loại bỏ những mặt yếu kém của bản thân. Do vậy, phải đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo và tự đào tạo.
Thứ ba, xác định và xây dựng ưu thế canh tranh của riêng mình.
Các nhà lãnh đạo DNVVN xuất khẩu phải biết tạo dựng cho doanh nghiệp của mình những lợi thế so sánh của quốc gia cũng như của doanh ngiệp. Đồng thời, cần tìm ra những điểm yếu kém của các DNVVN để khắc phục một cách nhanh nhất, tránh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, phải xác định rõ hướng chiến lược kinh doanh xuất khẩu của DNVVN, cần xác định rõ mục tiêu định hướng chiến lược kinh doanh xuất khẩu đến giai đoạn 2006, tầm nhìn nhìn đến năm 2010.
Thứ năm, lựa chọn phương án chiến lược phù hợp.
Chiến lược được lựa chọn phải phù hợp với điều kiện của môi trường kinh tế chung, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, trình độ mọi mặt của DNVVN, chủ yếu là năng lực cạnh tranh của DNVVN được đánh giá ở mức độ nào…
7. Biện pháp hoàn thiện tổ chức và quản lý kênh hân phối:
Từ những phân tích ở Chương II, có thể kết luận rằng: kênh phân phối của các DNVVN còn yếu kém. Hoàn thiện hệ thống này để có được một công cụ cạnh tranh hữu hiệu là vấn đề đặt ra hết sức cấp bách. Vấn đề cần được giải quyết như sau:
Thứ nhất, về định hướng chiến lược phát triển hệ thống kênh phân phối phải được đặt ra hàng đầu hoặc ngang hàng và trong thế đồng bộ, liên hệ chặt chẽ với các công cụ khác của hệ thống marketing-mix của DNVVN (như sản phẩm, giá cả, xúc tiến hỗn hợp). Nhiệm vụ phát triển hệ thống kênh phân phối cần được đầu tư về vật chất, tiền bạc tương xứng với mục tiêu đó.
Thứ hai, về đổi mới tư duy trong tổ chức và quản lý kênh phân phối cần kiên quyết loại từ những cách thức tổ chức và quản lý kênh đã lạc hậu và lỗi thời, thay bằng kiểu tổ chức kênh “marketing dọc”. Đây là kiểu tổ chức kênh rất hiệu quả và được áp dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trên thế giới, hệ thống kênh phân phối dọc đã đảm nhiệm tới 64% khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Tư tưởng cơ bản của hệ thống kênh marketing dọc là:
- Trong kênh gồm có nhiều thành viên khác nhau. Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống nhất .
- Trong kênh phải có một tổ chức giữ vai trò người chỉ huy. Quản lý giữa các tổ chức hay thành viên kênh phải đảm bảo chặt chẽ tới mức tạo ra một sự luân chuyển thông suất của hàng hoá và các dòng chảy khác trong kênh từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng và ngược lại.
- Thống nhất và liên kết chặt chẽ giữa các thành viên kênh được đảm bảo bằng sự hợp tác toàn diện và dựa trên nền tảng thống nhất lợi ích toàn bộ hệ thống kênh và của từng thành viên kênh.
Thứ ba, để tạo lập được một kênh hệ thống phân phối dọc, cần quan tâm đến một số hoạt động cụ thể sau:
- Đầu tư xứng đáng cho việc thiết kế hệ thống kênh hoàn hảo, tạo ra một cơ cấu kênh phân phối tối ưu về chiều dài, chiều rộng, số lượng kênh được sử dụng và tỷ trọng hàng hoá được phân phối vào mỗi kênh. Muốn vậy phải tiến hành phân tích toàn diện các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, các yếu tố thuộc về trung gian phân phối, thị trường khách hàng và các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô của kinh doanh.
- Sau khi thiết kế được một kênh phân phối tối ưu, cần phải biến mô hình này thành hiện thực, nghĩa là phát triển hệ thống phân phối và thực hiện các biện pháp điều khiển, quản lý nó. Trong quá trình phát triển hệ thống kênh cần khai thác những khía cạnh văn hoá, tập quán, truyền thống của dân tộc.
- Cần xử lý kịp thời và có hiệu quả các mâu thuẫn, xung đột ngay từ khi mới phát sinh. Muốn vậy, phải thực hiện phân loại chúng. Với mỗi loại xung đột có biện pháp thích hợp xử lý: Thoả thuận về mục tiêu cơ bản; thành lập hội đồng phân phối; sử dụng biện pháp ngoại giao, trung gian hoà giải hay trọng tài phán xử.
- Cuối cùng, cần thường xuyên đánh giá hoạt động của các thành viên kênh để có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống kênh có căn cứ và kịp thời.
8. Xây dựng chiến lược doanh nghiệp để đạt được mục tiêu phát triển dài hạn hữu hiệu:
Một là, lựa chọn hướng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA131.Doc