Tài liệu Đề án Nghiên cứu nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay: Lời mở đầu
Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Vào những năm 50 cảnh sát Cam-pu-chia đã nói không úp mở rằng: làm ruộng ăn lúa, làm làng ăn hối lộ. Mới đây chủ tịch Đảng cầm quyền Um nô, Thủ tướng Malaixia – Mahathir Mohamad đã khóc trước đại hội đảng về nạn tham nhũng…Còn ở Việt Nam từ thời Hồng Đức và Gia Long đã có các bộ luật để chống tham nhũng. Thời Minh Mạng có” phép làm liêm”, thời Tự Đức có ” chính sách báo liêm” của Nguyễn Trường Tộ. Ngày nay tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là 1 trong 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Có thể nói tham nhũng là căn bệnh hiểm nghèo gắn liền với mọi Nhà nước, bởi lẽ chừng nào còn Nhà nước thì còn quyền lực, mà còn quyền lực thì dễ xuất hiện những người dùng sai quyền lực. Cuộc đấu tranh để loại bỏ những người sử dụng sai quyền lực ra khỏi bộ máy nhà nước các cấp là cuộc đấu tranh lâu dài, liên tục bền bỉ và kiên định của mọi nhà nước, chống mạnh thì thịnh, chống yếu thì suy, ngoài ra không có con đường nào k...
48 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Nghiên cứu nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Vào những năm 50 cảnh sát Cam-pu-chia đã nói không úp mở rằng: làm ruộng ăn lúa, làm làng ăn hối lộ. Mới đây chủ tịch Đảng cầm quyền Um nô, Thủ tướng Malaixia – Mahathir Mohamad đã khóc trước đại hội đảng về nạn tham nhũng…Còn ở Việt Nam từ thời Hồng Đức và Gia Long đã có các bộ luật để chống tham nhũng. Thời Minh Mạng có” phép làm liêm”, thời Tự Đức có ” chính sách báo liêm” của Nguyễn Trường Tộ. Ngày nay tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là 1 trong 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Có thể nói tham nhũng là căn bệnh hiểm nghèo gắn liền với mọi Nhà nước, bởi lẽ chừng nào còn Nhà nước thì còn quyền lực, mà còn quyền lực thì dễ xuất hiện những người dùng sai quyền lực. Cuộc đấu tranh để loại bỏ những người sử dụng sai quyền lực ra khỏi bộ máy nhà nước các cấp là cuộc đấu tranh lâu dài, liên tục bền bỉ và kiên định của mọi nhà nước, chống mạnh thì thịnh, chống yếu thì suy, ngoài ra không có con đường nào khác.
ở nước ta từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN là con đường hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn bản pháp quy vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu với thực tiễn, tạo nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha hoá, đánh mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của chúng ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh nghiệm để cải cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm, tình hình đó cùng với hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của PGS – TS Mai Văn Bưu, Trung tâm thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Chương I
Nguyên nhân Tham nhũng và
tác hại của nó
I. Khái niệm về tham nhũng
1. Quan niệm về tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới
+ Nước Đức: Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành (Từ điển bách khoa của Đức).
+ Nước áo: Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột.
+ Thụy Sỹ: Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước. Đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy Sỹ).
+ Nước Pháp: Tham nhũng bao gồm những hành vi lạm dụng quyền hạn để thu vén lợi ích vật chất.
2. Khái niệm về tham nhũng của Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 1998, tr 1523
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26-2-1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nước”. Giáo trình chính sách kinh tế-xã hội, Nxb Khoa Học và Kỹ thuật, Hà Nội. 2000, tr 457
Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân hay nói một cách khác tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể.
II. hành vi và một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng
1. Khái niệm về hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật qui định, đó là các hành vi có ý thức, có chủ định.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi của một cá nhân hoặc một nhóm người trong đó có kẻ cầm đầu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ thân quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng và có hai đặc trưng nổi bật: một là xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác với hoạt động cá nhân, loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với những hình thức chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm giả có tổ chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu là xâm chiếm vốn của Nhà nước, hai là được sự hoàn thiện với sự tham gia của quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch .
Về hình thức tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu tư lợi, dùng tiền tài làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực….
Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách: kết cấu bên trong, móc ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên khó bị phát hiện .
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói chung tập trung vào nơi có tiền bạc, nguồn lực, quyền hạn, hợp đồng, tài chính, chức vụ, cơ hội, …cho nên các lĩnh vực có tỷ lệ thành án cao trên thế giới ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, các đề án nước ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu …
3. Động cơ tham nhũng
Động cơ tham nhũng được hình thành từ các yếu tố cơ bản như lòng tham, ham muốn vật chất, lòng ham địa vị và quyền lực cao, muốn làm giàu một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn người về lợi ích hoặc còn do nhiều yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu nhập và địa vị công việc của mình. Từ đây có thể phác hoạ một cách khái quát về tham nhũng và các yếu tố cấu thành của hành vi tham nhũng theo công thức sau: Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2002 tr 59
C(Tham nhũng) = M (Quyền lực) + D (Tuỳ ý định đoạt) – A(Trách nhiệm)
Hành vi tham nhũng = lợi ích của người có quyền + sự sơ hở, yếu kém trong quản lý Nhà nước (Sự lỏng lẻo không nghiêm của pháp luật )
4. Mục đích tham nhũng
Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà người phạm tội đặt ra trong óc mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi phạm tội và khi có điều kiện khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện thực.
5. Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam
Các hình thức cơ bản của tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn là tham ô, hối lộ, dựa vào quyền lực để sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu lợi riêng, dùng tiền để làm chuyện phi pháp và các thủ đoạn mà kẻ phạm tội triệt để lợi dụng là những sơ hở của pháp luật, chính sách, trong các biện pháp tổ chức, quản lý và điều hành. Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng và phức tạp nhưng thường tập trung ở các dạng sau :
- Có địa phương, đơn vị ra những chỉ thị, nghị quyết không đúng với chính sách, luật pháp của Nhà nước để thu lợi bất chính, phổ biến là lấy đất công để chia nhau, lấy đất của nông dân để bóc lột nông dân như một kiểu phát canh thu tô.
- Đề ra hàng loạt các khoản bắt nông dân đóng góp, bưng bít thông tin, thiếu công khai minh bạch để xà xẻo, tư túi.
- Gây khó khăn, sách nhiễu để đòi hối lộ dưới nhiều hình thức kể cả mua bằng, bán điểm.
- Vừa là bên A, vừa có quyền chỉ định bên B để hưởng hoa hồng, tham nhũng lớn trong các chương trình, dự án kể cả các chương trình, dự án nghiên cứu khoa học.
- Khi xây dựng thì định mức kinh tế - kĩ thuật nâng cao lên, khi thực hiện thì lắt léo để giảm xuống, có lúc có công trình còn trên dưới 50% lấy chênh lệch, chia chác làm cho hàng loạt công trình mặc dù được hội đồng nghiệm thu đánh giá tốt nhưng mới sử dụng đã hư hỏng.
- Lợi dụng buôn bán vận chuyển, đi nước ngoài câu kết với bọn “buôn lậu thế kỷ”, có tính quốc tế (nhập tàu, xe cũ, máy móc lạc hậu…) bất chấp hậu quả cho dân và nền kinh tế miễn là có chênh lệch, có hoa hồng.
- Thông đồng với nhau để vay tiền ngân hàng, tiền nước ngoài (như ODA…) đến hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng mà không tính đến hiệu quả sử dụng.
- Sử dụng tiền quỹ công, tiền tín dụng ưu đãi người nghèo, gia đình chính sách để cho vay lấy lãi, buôn bán lập quỹ đen, mua tặng phẩm có giá trị lớn tặng nhau …
- Tạo thành tích giả để tham ô dưới hình thức tiền thưởng, quà cáp, biếu xén nhau ngày lễ, ngày tết, việc hiếu hỷ đến hàng chục, hàng trăm triệu đồng.
- Tranh mua hàng xuất khẩu chạy chọt quota để lấy ngoại tệ mua hàng tiêu dùng xa xỉ về bán lãi chia nhau gây lãng phí và rối loạn thị trường.
- Lập những “dự án lừa” trồng rừng trên giấy, thành lập các “công ty ma” để hoàn thuế giá trị gia tăng để lấy tiền Nhà nước.
- Thậm chí còn có tình trạng ăn cả tiền cứu trợ người đói nghèo, xã khó khăn, ăn chặn tiền ủng hộ đồng bào lũ lụt…
Ngoài các thủ đoạn trên, kẻ phạm tội tham nhũng còn lợi dụng triệt để sự buông lỏng về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát để phạm các tội tham ô, hối lộ, sử dụng vốn vào hoạt động không đúng mục đích…
Iii. Tác hại của tham nhũng.
1. Tham nhũng là kẻ thù của nhân dân.
Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó không mang gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần- kiệm - liêm - chính”.
Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo: “Nếu có cái gì đó có thể triệt tiêu được chủ nghĩa xã hội thì đó chính là tham nhũng, quan liêu”. Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại đại hội lần thứ 6. Đó là bài học lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là bài học mà ông cha ta đã truyền lại cho con cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Người dân vốn không hài lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân khinh là mất nước”.
2. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la của Nhà nước. Chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định nhưng một số công trình nghiên cứu đã đưa ra đó là:
+ Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
+Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và tham nhũng.
Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế: chỉ riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng 70% số nợ nước ngoài của nước này.Tại Việt Nam với mức thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 400 USD/năm nhưng những vụ tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm điểm hình như vụ án Minh Phụng - EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4 triệu USD của Nhà nước. Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại 115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí bảo lãnh và lãi phát sinh của các khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó còn là những vụ gây thiệt hại nhiều đến tiền của Nhà nước và nhân dân như vụ Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt Nam Định khoảng 900 tỷ đồng… Đặc biệt hiện nay tình trạng tham nhũng ở Việt Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ bản, hoàn thuế giá trị gia tăng,lạm dụng quyền lực để bản thân và gia đình tham nhũng …
3. Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nước
Tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù pháp hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp là cho Nhà nước trở thành đối lập và gánh nặng cho công dân.
Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá cấp trên làm cho bộ máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chưa tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia.Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự tin tuởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.
Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là giặc nội xâm nguy hiểm.Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều biện pháp khắc phục, song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.
Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người, có thể từ thời kỳ xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước. Do tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn nên việc phòng chống tham nhũng luôn được coi là nhiệm vụ bức xúc hàng đầu của các quốc gia. Tuy nhiên gần đây một quan điểm trái ngược đã xuất hiện cho rằng tham nhũng không thể không nhất quán với phát triển, và đôi khi nó thậm trí còn thúc đẩy phát triển. Những người nêu ra quan điểm hiện đại này đã phủ một đám mây mơ hồ lên vấn đề tham nhũng. Chẳng hạn họ cho rằng định nghĩa về tham nhũng rất khác nhau giữa các nền văn hoá, hàm ý rằng những gì bị coi là tham nhũng ở phương Tây sẽ được lý giải một cách khác trong khuôn khổ những tập quán của các nền kinh tế mới nổi. Những người theo chủ nghĩa xét lại cũng nều đặc trưng về những hiệu ứng của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, đây là những lý luận mơ hồ. Dựa trên thực tế là, cho đến gần đây một số “con hổ” châu á vẫn trải qua tăng trưởng kinh tế phi thường lẫn tham nhũng ở mức độ cao. Cuối cùng người ta cho rằng hiệu ứng của những cải cách thị trường đến tình trạng tham nhũng là không rõ ràng.
Chủ đề trọng tâm của luận điểm “dầu bôi trơn bánh xe” là hối lộ có thể là một cách làm có hiệu quả để vượt qua những qui định phiền hà và những hệ thống pháp luật vô tích sự. Cách lập luận này không thể khởi nguồn cho những mô hình mang tính học thuật phức tạp, mà còn hợp pháp hoá cách ứng xử của các công ty tư nhân sẵn sàng hối lộ cho được việc. Khi xem xét sâu hơn lập luận này có rất nhiều lỗ hổng. Nó lờ đi quyền tự do làm theo ý mình vốn rất lớn mà nhiều chính trị gia và quan chức, nhất là ở các xã hội tham nhũng, có được trong việc tạo dựng, gia tăng và giải thích các quy định phản tác dụng. Do đó thay vì bôi trơn những bánh xe kêu cót két của một nền hành chính vững chắc, tham nhũng lại trở thành thứ tiếp sức cho những quy định quá đáng và tuỳ tiện. Đây là một cơ chế mà nhờ đó tham nhũng tự nuôi sống chính bản thân nó.
Một biến thái kinh tế phức tạp của lập luận “dầu bôi trơn là tích cực” là quan điểm cho rằng hối lộ cho phép cung cầu hoạt động. Quan điểm này kiên định rằng trong cuộc đặt giá cạnh tranh để có được một hợp đồng mua hàng cuả chính phủ, người hối lộ nhiều nhất sẽ giành phần thắng và công ty có chi phí thấp nhất sẽ có khả năng chịu đựng số tiền hối lộ lớn nhất. Điều đó chỉ hay về lý thuyết nhưng lại không đúng.
Thứ nhất, bằng cách chỉ tập trung vào tệ hối lộ lập luận này không tính đến tham nhũng là ăn cắp các nguồn lực công cộng, làm suy yếu tính ổn định kinh tế vĩ mô. Không những thế những người nhận hối lộ có xu thế chuyển những đồng tiền tham nhũng được vào các tài khoản ở nước ngoài. Ví dụ theo cách này Nigiênia đã tổn thất hàng tỷ tiền ngân sách trong những thập kỷ vừa qua.
Thứ hai, việc giả định năng lực đấu thầu cao nhất bắt nguồn từ khía cạnh hiệu quả - chi phí là không đúng, thay vào đó nó thường gắn với chất lượng dưới mức tiêu chuẩn.
Thứ ba, các chính trị gia hiếm khi chịu làm đối tượng của một khoản chi trả bất hợp pháp trong cuộc đấu thầu cạnh tranh, trái lại họ đòi tiền hối lộ một cách kín đáo từ những đối tượng mà họ tin là sẽ được giữ bí mật.
Thứ tư, việc nhìn nhận hối lộ như một cơ chế làm cân bằng cung cầu không tính đến thực tế là nhiều hàng hoá công cộng không nên được phân phối cho những người đặt giá cao nhất,thay vào đó mục tiêu của các chương trình xoá đói giảm nghèo là phân bổ cac nguồn lực theo sự cần thiết của những người nhận.
Cuối cùng quan điểm cung và cầu về tham nhũng cho rằng những kẻ hối lộ nhận được những hàng hoá mà họ đã phải trả tiền cho chúng, điều này không phải lúc nào cũng đúng vì không thể cưỡng chế thi hành các giao dịch tham nhũng bằng luật pháp. Một trường phái “ biện hộ cho tham nhũng” lý luận rằng hối lộ có thể làm tăng hiệu quả bằng cách giảm đáng kể thời gian cần thiết cho các thủ tục xin phép và công việc giấy tờ. Vấn đề đối với lý lẽ “đồng tiền đi trước” này nằm ở giả định rằng cả hai phía đều thực sự tham gia vào vụ việc và không đòi hỏi thêm tiền hối lộ. ở ấn độ một công chức cấp cao được hối lộ không thể giải quyết các thủ tục xin phép nhanh hơn được một chút nào vì có nhiều người trong giới quan liêu cùng tham gia vào quá trình đó, nhưng ông ta sẵn sàng đưa ra giải pháp làm chậm trễ quá trình cấp giấy phép đối với các công ty đối thủ. Ngay cả trong những xã hội mà vô vàn các qui định phản tác dụng đã được tạo ra nhằm moi của hối lộ vẫn phải có một hạt nhân của các luật lệ và các qui định phục vụ những mục tiêu xã hội hữu ích. Những bộ luật đơn giản và minh bạch về xây dựng, những qui định hợp lý về môi trường, những qui định rõ ràng nhằm đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng và những qui định nghiêm ngặt về mua bán hạt nhân, ma tuý….là cần thiết trong bất cứ một xã hội nào. Trong bối cảnh này lý lẽ tham nhũng như chất dầu bôi trơn là đặc biệt nguy hiểm vì tiền hối lộ sẽ phục vụ cho việc giày xéo lên những qui định như vậy và làm tổn hại các mục tiêu xã hội .
Một yếu tố khác góp phần vào nạn hối lộ là quyền tự do định đoạt của các chính trị gia trong việc hạn chế sự tiếp cận các đối thủ cạnh tranh tiềm năng vào thị trường dành cho những kẻ hối lộ. Khối lượng “ dầu bôi trơn” đã gia cố những cấu trúc độc quyền khổng lồ. Thông lệ tham nhũng cố hữu của những hệ thống tài chính được giám sát một cách yếu kém và việc có tay trong đã góp phần những cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô ở Anbani, Bungari và mới đây là ở các nước Đông á.
Hối lộ, tìm kiếm tiền tô cũng đòi hỏi một chi phí kinh tế lớn. Tài năng được sử dụng không đúng chỗ vì những việc làm có tiềm năng thu được những khoản đút lót sinh lợi thu hút những người mà lẽ ra đã chấp nhận những phần thưởng tài chính khiêm tốn hơn do những nghề nghiệp thực sự có ích mang lại. Các quan chức tham nhũng đưa ra những quyết định tồi tệ về mặt công nghệ, việc ủng hộ những dự án không đạt tiêu chuẩn, phức tạp, đòi hỏi vốn lớn song dễ hớt được những món tiền lớn hơn. Do đó một hợp đồng lớn về quốc phòng hay cơ sở hạ tầng có thể được ủng hộ hơn việc xây dựng hàng trăm trường tiểu học và trạm y tế. Tai hại hơn các quan chức cho phát triển nhiều dự án “voi trắng” (cồng kềnh, chi phí cao) không có ích gì mà chỉ làm giầu cho một số quan chức và một số nhà cung cấp. Tình trạng không hoạt động của bốn nhà đối tác mới đây ở Lagos, Nigieria là một ví dụ. Không những thế các nhà thầu và các quan chức dính líu vào các hoạt động tham nhũng gây ra những chi phí khổng lồ về thời gian và năng suất bỏ ra. Việc thương lượng những vụ làm ăn và những khoản thanh toán bất hợp pháp, đảm bảo bí mật của chúng và đề phòng những rủi ro luôn hiện hữu là sẽ không nhận được những chữ ký và giấy phép đã được hứa hẹn đều là những công việc mất thời gian, cả sự cần thiết phải đàm phán lại hay hối lộ thêm cho một quan chức khác nữa như vẫn từng xảy ra, cũng tốn thời gian không kém. Trên thực tế bằng chứng từ nhiều quốc gia cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ hối lộ và lượng thời gian mà một doanh nghiệp phải dành cho các quan chức Nhà nước. Một cuộc điều tra năm 1993 đối với hơn 1.500 doanh nghiệp ở 49 quốc gia cho thấy: chẳng hạn như ở Ucraina các ông chủ công ty mất nhiều tiền hối lộ phải dành thời gian cho các quan chức và chính trị gia nhiều hơn gần một phần ba so với những người hối lộ ít. Những công ty hối lộ nhiều cũng phải mất 75 tuần công lao động mỗi năm trong thời gian quản lý cho việc thương lượng với các quan chức so với con số trung bình hàng năm là 22 tuần công lao động của các doanh nghiệp hối lộ ít. Thêm vào đó các số liệu thu được từ hơn 3.600 doanh nghiệp ở 69 nước chứng tỏ rằng ở những nước có tình trạng tham nhũng cao hơn các doanh nghiệp thường dành một phần lớn hơn trong thời gian quản lý cho các quan chức. Ngoài ra cuộc điều tra cũng cung cấp bằng chứng cho thấy ở những nơi mà tệ hối lộ phổ biến hơn thì chi phí vốn và chi phí đầu tư của các doanh nghiệp có xu hướng cao hơn …
Như vậy tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn và đặc biệt nguy hiểm đối với tất cả các quốc gia. Tham nhũng đã trở thành “quốc tế nạn” là một trong những vấn đề toàn cầu mà tất cả các quốc gia đều có trách nhiệm cùng tham gia giải quyết .
IV. Nguyên nhân của tệ tham nhũng.
Những năm qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân dân ta diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến nay có thể nói nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản. Tình hình vẫn diễn ra phức tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức tinh vi, có trường hợp câu kết, móc nối ngang dọc giữa các phần tử thoái hoá biến chất trong các cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội, rất khó phát hiện làm cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng hết sức khó khăn. Vậy do những nguyên nhân chủ yếu nào ?
1. Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng nguyên nhân đầu tiên có tính chất sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra.
Hồ Chủ Tịch đã nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tư lợi ích kỷ, hại nhân dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người mà ra.” Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 494
Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vận động vật chất khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều tính đến lợi ích hoặc mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng, không có tư tưởng tư lợi ích kỷ sẽ không có hành vi tham nhũng thiệt người lợi mình.
2. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách ở nước ta còn nhiều kẽ hở
2.1. Hệ thống pháp luật
2.1.1. Trên phương diện xây dựng pháp luật
Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, pháp luật được coi là phương tiện cứng rắn nhất và không thể thiếu được. Lịch sử đấu tranh chống tham nhũng trên phạm vi toàn thế giới cho thấy, nếu thiếu phương tiện pháp luật thì cuộc đấu tranh này chỉ là cuộc chiến nửa vời dọa tham nhũng chứ không diệt được tham nhũng. Vai trò của pháp luật trong đấu tranh chống tham nhũng được thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau, từ việc xác định thế nào là tham nhũng, các loại hành vi tham nhũng, các biện pháp phòng ngừa, các loại chế tài cho tới hình thức và biện pháp xử lý tham nhũng. ở một cách phân chia tương đối, pháp luật liên quan đến tham nhũng được sử dụng trên hai phương diện: Phòng ngừa tham nhũng và xử lý tham nhũng.
2.1.1.1. Pháp luật về phòng ngừa tham nhũng được thể hiện ở rất nhiều ngành luật, nhiều văn bản khác nhau: từ các văn bản về tổ chức bộ máy Nhà nước, văn bản về các lĩnh vực kinh tế xã hội đến pháp luật đấu tranh trực diện với tham nhũng. Nó có thể là ngành luật hiến pháp, luật đất đai, luật tài chính - ngân hàng, luật hành chính, luật dân sự, luật kinh tế…Một đòi hỏi đối với các văn bản pháp luật này là phải đồng bộ, thống nhất, phải tạo được khuân mẫu pháp lý có khả năng loại trừ sự nảy sinh của các hành vi tham nhũng. Tuy nhiên đánh giá một cách toàn diện hệ thống pháp luật này, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự bất cập và còn nhiều kẽ hở, là mảnh đất sinh sôi, phát triển của tham nhũng, đặc biệt là các quy định trong lĩnh vực quản lý tài chính, xét duyệt các dự án đầu tư, đấu thầu, duyệt chi, cấp phát ngân sách, cho vay, pháp luật về xây dựng cơ bản và quản lý tài chính trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng…Những biểu hiện cụ thể của sự bất cập đó là sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, còn nhiều kẽ hở, chưa thực sự phục vụ nhân dân, thiếu văn bản hướng dẫn kịp thời dẫn đến cách hiểu và giải thích khác nhau…Những văn bản quy định về các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân để tham nhũng.
2.1.1.2. Pháp luật về xử lý tham nhũng cũng còn những bất cập trước tình hình tham nhũng ngày càng diễn biến phức tạp hiện nay. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 7 tội danh tham nhũng song sau gần 3 năm thi hành, cho đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể những quy định này. Theo Pháp lệnh chống tham nhũng và tinh thần của Bộ luật hình sự năm 1999 thì hành vi tham nhũng có thể bị xử lý về hình sự hoặc hành chính, tuỳ tính chất, mức độ vi phạm. Song trên thực tế chúng ta chưa ban hành được một Nghị định về xử lý hành chính đối với các hành vi tham nhũng ( khi chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự ), do vậy trên thực tế đối với các hành vi vi phạm ở mức độ này đã có tình trạng xử lý tuỳ tiện, nhiều nơi không xử lý. Các chế tài đối với người có hành vi tham nhũng được quy định trong luật là rất cần thiết song chế tài áp dụng đối với người có trách nhiệm, nghĩa vụ trong đấu tranh phòng chống tham nhũng ( nếu không thực hiện đầy đủ, đúng đắn trách nhiệm, nghĩa vụ luật định ) thì lại chưa được đề cập ( trừ những người có hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp ) nên chưa có sự phối hợp đồng bộ trên thực tế.
2.1.1.3. Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng, Nhà nước ta mới chỉ chú trọng đến pháp luật về xử lý tham nhũng, chưa chú ý đúng mức đến pháp luật về phòng ngừa tham nhũng. Sắp tới chúng ta phải tập trung sức hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa tham nhũng, làm cho cơ hội phát sinh tham nhũng bị hạn chế đi dẫn đến bị loại trừ, làm cho tham nhũng giảm thiểu trong cuộc sống. Pháp lệnh chống tham nhũng ban hành năm 1998 mặc dù đã sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay đã tỏ ra lạc hậu, nhiều quy định không thực hiện được trên thực tế, cần nâng cấp văn bản này thành Luật chống tham nhũng với những quy định cứng rắn và cụ thể hơn, phù hợp với yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong tình hình mới.
2.1.2. Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật, hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật đặc biệt là pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng chưa đươc các cơ quan, các cấp, các ngành chú ý đúng mức.
Nhiều cán bộ, công chức không nắm được những quy định cơ bản trong pháp Lệnh chống tham nhũng và những quy định của Bộ luật hình sự về tội tham nhũng. ở nhiều cơ quan, lãnh đạo không muốn tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về chống tham nhũng trong đơn vị mình bởi vì nó động chạm đến chính bản thân người lãnh đạo đó. Từ thực trạng đó mà trên thực tế nhiều người có hành vi tham nhũng song không ý thức được đầy đủ hành vi của mình. Một số người khác cũng do không hiểu biết pháp luật mà chưa thấy được trách nhiệm của mình trong việc phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng.
2.1.3. Trong hoạt động áp dụng pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhiều vấn đề bức xúc đã nảy sinh trong lĩnh vực này và đây là một trong những nguyên nhân của tình trạng tham nhũng ngày càng phức tạp. Tình trạng bao che xử lý nội bộ còn phổ biến. Không ít vụ án tham nhũng đang bị điều tra bỗng nhiên bị đình chỉ. Nhiều vụ án đưa ra xét xử song hình phạt còn nhẹ, chưa đủ tính răn đe, phòng ngừa. Đặc biệt trong thời gian qua đã xuất hiện không ít trường hợp chính những cán bộ được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh xử lý tội phạm có hành vi tham nhũng lại là người có hành vi tham nhũng. ở một số địa phương đã nảy sinh tình trạng một số người có chức vụ, quyền hạn can thiệp vào hoạt động đấu tranh chống tham nhũng của cơ quan bảo vệ pháp luật. Rõ ràng, sự thiếu nghiêm minh công bằng trong việc xử lý người có hành vi tham nhũng đã trở thành một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng tham nhũng chưa có chiều hướng thuyên giảm
2.2. Cơ chế chính sách
Nhiều chế độ chính sách còn mang tính ban phát, nên chưa loại trừ được cơ chế xin-cho, tạo ra một tầng lớp độc quyền, đặc lợi và những tiêu cực khó kiểm soát. Một chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức còn mang tính bao cấp như đất đai, nhà ở, phương tiện…dẫn tới việc vận dụng tuỳ tiện. Tiền lương chưa đảm bảo cuộc sống nên việc tìm thêm nguồn thu nhập khác trở thành phổ biến. Chính hệ thống pháp luật không chuẩn xác, do xử phạt tội tham nhũng quá nhẹ
Công tác cải cách hành chính đạt hiệu quả chưa cao. Nạn sách nhiễu tham nhũng đang tạo nên rào cản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
3. Do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ quan Đảng và Nhà nước.
Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính chất tham nhũng phát triển phổ biến và gây hậu quả hết sức nghiêm trọng như hiện nay chủ yếu và trước hết do những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước và do sự thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ, Đảng viên.
ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên còn yếu. Biểu hiện cụ thể là chưa có cán bộ, đảng viên nào phạm pháp hoặc có hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được phát hiện do kết quả của phê bình và tự phê bình trong nội bộ. Một số vụ việc có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực, lãng phí bị quần chúng, công luận phát hiện, tố giác, song các tổ chức đảng liên quan, tổ chức đảng cấp trên, các cơ quan thanh tra, kiểm tra hoặc không biết hoặc biết nhưng không tích cực ngăn chặn để những hành vi đó phát triển thành những vụ án nghiêm trọng.
Các ý kiến đồng tình với việc xác định những nguyên nhân dẫn đến việc “chưa tạo ra được những chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng Đảng cũng như trong việc nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ tham nhũng, lãng phí” Kết luận 04-KL/TW của hội nghị lần thứ 4
Ban chấp hành Trung ương khoá IX, ngày 19-11-2001
mà hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã chỉ ra. Cụ thể là, ở không ít nơi, sự chỉ đạo của các cấp uỷ chưa kiên quyết, chưa tập trung đúng mức, một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa tự giác phê bình và tự phê bình, chưa làm gương cho cán bộ, đảng viên trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, việc xử lý một số vụ việc nổi cộm chưa nghiêm, vẫn còn có biểu hiện” trên nhẹ, dưới nặng “, nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực sự dựa vào dân, chưa coi trọng tiếp thu ý kiến phê bình của dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một số chủ trương, biện pháp, quy chế, chính sách nhằm ngăn ngừa, đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí quy định chưa hợp lý, chặt chẽ, có tính khả thi chưa cao, còn ít hiệu quả, thiếu sự phân công phối hợp chỉ đạo việc chống tham nhũng một cách có hiệu lực, hiệu quả.
Công tác kiểm tra Đảng, thanh tra, kiểm sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, còn nhiều yếu kém. ở nhiều nơi, công tác kiểm tra của Đảng chưa chú ý kiểm tra, khắc phục tệ quan liêu.
4. Những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông lỏng, yếu kém trong quản lý Nhà nước.
Đây là nguyên nhân quan trọng làm phát sinh các tội có tính chất tham nhũng. Đảng ta chỉ rõ: công tác cán bộ vừa bảo thủ, vừa trì trệ về nhiều mặt, vi phạm các nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ kinh tế từ trước đến nay chưa được coi trọng đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu về phát triển kinh tế thị trường. Việc bố trí cán bộ ở nhiều cấp, nhiều ngành vẫn còn tư tưởng bè cánh, phe phái. Công tác đề bạt cán bộ còn bị chi phối bởi cách nhìn chủ quan, phiến diện, chưa chính xác trong phương pháp đánh giá, lựa chọn cán bộ. Công tác xử lý cán bộ thường có khuynh hướng hữu khuynh. Tình trạng tuỳ tiện, muốn xử lý nội bộ, xử lý nhẹ còn khá phổ biến. Đặc biệt Đảng ta khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu nhưng chính mục tiêu này bị buông lỏng. Tham nhũng một phần được mang theo vào nhà trường, được “rèn” ngay khi thi tuyển vào và “luyện” trong quá trình ở nhà trường, những nơi có môi trường giáo dục thấp kém, những cán bộ đã lọt qua môi trường đào tạo như thế không thể là những hạt giống tốt, càng không thể là hạt nhân chống tham nhũng. Sự sai lầm trong bố trí, sử dụng cán bộ và buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, đánh giá cán bộ, thiếu kiểm soát cho nên trước sự cám dỗ của những lợi ích vật chất một bộ phận cán bộ, Đảng viên đã bị tha hoá.
5. Do bản chất của nền kinh tế thị trường
Ngày nay sự phát triển của kinh tế thị trường là không thể phủ nhận được, tuy nhiên do bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tệ tham nhũng. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên rất cao. Có không ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong sự canh tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn trong đó thủ đoạn hối lộ được sử dụng rất phổ biến.
6. Trình độ dân trí
Nhìn chung trình độ dân trí còn thấp nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của cán bộ, công chức. Mặc dù gần đây đã có quy chế dân chủ, song nhìn chung việc thực hiện còn nhiều hạn chế
7. Cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng động chạm đến những cán bộ có chức có quyền, có khi động chạm đến cả một tập thể ngành, cơ quan đơn vị, động chạm đến lợi ích thiết thực, đến thể diện, uy tín của cán bộ. Hơn nữa, tệ tham nhũng vẫn còn cơ sở kinh tế, xã hội để tồn tại. Vì thế cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng là một quá trình lâu dài, rất khó khăn phức tạp.
Chương II
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay
I. Sơ lược về thực trạng tham nhũng trên Thế giới hiện nay
Tham nhũng hiện nay đã trở thành một “quốc tế nạn”. Chính vì vậy mà trong thời điểm cả thế giới đang dồn sự quan tâm đặc biệt tới sự kiện nước Mỹ bị tấn công ngày 11 - 9 và hành động quân sự của Mỹ tại Apganixtan thì hội nghị quốc tế chống tham nhũng lần thứ 10 vẫn được tổ chức tại Praha Cộng hoà Séc từ ngày 7 đến ngày 11/10/2001 với hơn 1.200 đại biểu đến từ hơn 130 nước và các tổ chức quốc tế tham dự. Hội nghị cho thấy toàn thế giới đều nhận thức được tác hại to lớn của tham nhũng gây ra và các quốc gia đã có tiếng nói chung, hành động chung trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng trên qui mô toàn cầu.
Xu hướng tham nhũng hiện nay trên thế giới đó là từ tham nhũng có số lượng thấp đến tham nhũng có số lượng cao, mấy năm gần đây hoạt động tham nhũng với số lượng tiền cực lớn có xu hướng tăng lên. Từ tham nhũng ở cấp thấp lên tham nhũng ở cấp cao, từ tham nhũng có tính chất thấp đến tham nhũng có tính chất cao, hoạt động tham nhũng đã đi sâu vào lĩnh vực chính trị dựa trực tiếp vào quyền lực chính trị hoặc lấy quyền lực chính trị làm mục tiêu nó không còn đơn thuần là kinh tế nói chung. Từ tham nhũng đơn thuần đến tham nhũng đa dạng như nhân viên ngân hàng lợi dụng chức vụ, dùng tiền giả đổi lấy tiền thật trong kho bạc, ăn đút lót, viên chức cao cấp bán bí mật Nhà nước làm giầu ích kỷ, tham nhũng trong lĩnh vực chứng khoán, xây dựng, giáo dục, trong các doanh nghiệp Nhà nước, trong các chương trình cho vay và nhận viện trợ, tham nhũng trong chấp pháp hành chính, tham nhũng trong việc nhận người ...
ở Nga cuối năm 1998, một số quan chức Nga đã chuyển khoản tiền tham nhũng trên 10 tỷ USD sang các ngân hàng lớn của Mỹ.
ở Trung Quốc: Thời gian qua báo chí Trung Quốc cho công bố nhiều vụ án tham nhũng dính líu tới cán bộ lãnh đạo cấp cao, trong đó không ít người bị trừng trị nghiêm khắc. Để làm trong sạch đội ngũ của Đảng, Hội nghị toàn thể Trung ương 4 (khóa XVI) Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCS) sắp triệu tập ở Bắc Kinh vào mùa thu này sẽ nhấn mạnh ''hai điều cấp bách” (liêm khiết và gian khổ phấn đấu). Đây chẳng những là đường lối tư tưởng phải quán triệt trước sau như một của Đảng mà còn trở thành khâu then chốt gắn liền giữa lý luận và thực tiễn để làm trong sạch đội ngũ của Đảng, kiên quyết thanh trừ khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, từ đó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Đảng. Ngày 1 tháng 7 năm 2004, Bí thư Tỉnh ủy Quí Châu là Lưu Phương Nhân đã bị đưa ra xét xử và chịu mức án tù chung thân về tội tham nhũng. Đây là quan chức cấp cao đầu tiên bị đưa ra xét xử công khai kể từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa tới nay. Điều này cho thấy nguyên tắc mọi người bình đẳng trước luật pháp của Trung Quốc được thực hiện nghiêm minh. Mọi người được chứng kiến cảnh một viên quan từng ''hét ra lửa'' khi còn đương chức đã khóc nức nở trước toà. Ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương cho biết trong thời gian làm Bí thư Tỉnh ủy Quí Châu, Lưu Phương Nhân đã tham ô 6,61 triệu nhân dân tệ, 19.900 USD. Điều đáng lưu ý là trong vụ này, Ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương cũng đã phát hiện cã một đường dây tham nhũng lớn của Ban lãnh đạo tỉnh này, trong đó có Phó Tỉnh trưởng Lưu Trường Quý, chuyên trách công tác giao thông công chính của tỉnh. Trong lời tự thú, Lưu Phương Nhân nói: ''Là một Bí thư tỉnh uỷ, tôi cho rằng cái gì mình cũng có quyền, nhưng giờ đây mới thấy rõ mình là một tên quan tham nhũng mù về luật pháp vì có một số việc bản thân phạm tội mà không biết''.
Vừa qua báo chí đã phanh phui tình trạng tham nhũng của Cao Nghiêm, nguyên Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực, triệu tập hội nghị cán bộ lãnh đạo trong ngành có 3 ngày cũng chi tới hơn 3 triệu nhân dân tệ, bình quân mỗi người 24.000 nhân dân tệ một ngày. Riêng Cao Nghiêm ở phòng khách sạn với giá tiền 8000 nhân dân tệ một tối. Một hiện tượng ăn chơi trác táng mà không ai có thể tưởng tượng nổi. Năm 1995, cựu tổng thống Hàn Quốc bị bắt vì tội tham nhũng với số tiền 650 triệu USD, tổng thống Indonesian - ông Shuhatto, thủ tướng ấn Độ Narasinhharuo, nhà độc tài nước Zaire Mubuto….. đã phải từ chức, cách chức hoặc bị lật đổ vì tham nhũng.
Mới đây ngày 22/10/2002 công tố viên thành phố MiLan đã đề nghị mức án 13 năm tù với ông Cesare Previti nguyên cố vấn luật và trợ lý thủ tướng Italia Berlusconi vì tội tham nhũng, thủ tướng Đức ông Gerhard Schroede đã quyết định xa thải bộ trưởng quốc phòng ông Scharping vì tội nhận hối lộ của khu vực tư nhân, giám đốc ngân hàng trung ương Pháp Jean Claude cũng phải ra hầu toà vì tham nhũng. Ngày 17/10/2002 Washington xem xét khả năng bắt giữ quốc tế đối với tổng thống Ukraina ông Kuchma với lời buộc tội nhận hối lộ từ thời ông còn làm thủ tướng năm 1993 theo điều 11 bộ luật hình sự Ukraina .
ở Nigenia tệ tham nhũng cũng rất nghiêm trọng, có công ty dùng cả trăm triệu USD để chi phí giao dịch và mua chuộc quan chức. Tham nhũng còn nảy sinh cả ở các tổ chức ít có quan hệ đến kinh doanh như uỷ ban Ôlimpic quốc tế.
II. Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay là rất nghiêm trọng, hiện tượng tham nhũng không những đặc biệt lan tràn trong số các quan chức làm việc tại các cơ quan chuyên trách về kinh tế đối nội và đối ngoại mà nó xảy ra phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực như luật pháp, văn hoá, giáo dục, ... Tham nhũng đã và đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân, của xã hội vào Đảng và Nhà nước. Sự tha hoá của một số cán bộ Đảng viên cộng thêm thế lực thù địch lợi dụng diễn biến phức tạp cuả tình hình thế giới và trong nước ra sức tuyên truyền, kích động, thực hiện diễn biến hoà bình đang trở thành một nguy cơ to lớn uy hiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo báo cáo của chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khoá IX đã phát hiện và xử lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng thiệt hại tài sản trên 1,2 tỷ đồng và trên 34 triệu USD. Năm 1996 đã phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của chánh án toà án nhân dân tối cao trước quốc hội từ năm 1992 đến năm 1997 toà đã xét sử 3.021 vụ tham nhũng với 6.315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên đã bị tuyên phạt án tử hình. Cho đến nay đã liên tiếp xẩy ra một số vụ án lớn nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn đến tiền của, của Nhà nước và nhân dân, gây mất ổn định kinh tế xã hội.
1- Vẫn còn nhiều uẩn khúc trong vụ tham nhũng tại Petro Việt Nam www.Home.netnam.vn 17/6/2004 6:09:37 PM GMT+7
Đến thời điểm này có thể kết luận được đường dây tham nhũng lớn nhất tại Petro Việt Nam được tổ chức trên một chiếc kiềng ba chân tương đối vững chắc gồm ba nhân vật Nguyễn Quang Thường, Dương Quốc Hà và Trần Ngọc Giao. Các đại gia này mượn danh nghĩa rót tiền vào các hợp đồng dự án để rửa tiền một cách hợp pháp.
Sau khi phát hiện hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Quang Thường và Dương Quốc Hà tại công trình sửa bể chứa nước phục vụ khai thác trên tàu Đại Hùng, mới đây dư luận không khỏi thắc mắc về việc Vietsovpetro mua 80 tấn hoá chất chống cháy trong hợp đồng 93/94 VSP1 ký ngày 6/6/1994 với giá trị hợp đồng là 2,429 tỷ đồng và yêu cầu số hoá chất này phải là hàng của Pháp. Nhưng điều nghịch lý là khi nhận hàng Vietsovpetro biết chắc chắn bên cung cấp đã thay bằng 80 tấn hoá chất sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh có chất lượng thấp hơn nhiều mà vẫn vui vẻ chấp thuận và không hề thay đổi giá trị hợp đồng.
Hiện cơ quan điều tra mới chỉ phát hiện ra một vài thủ đoạn móc tiền của Nhà nước mà tổng số tiền đã lên đến hàng triệu USD, vậy hàng năm Vietsovpetro ký không biết bao nhiêu hợp đồng thương mại và mua sắm trang thiết bị, vật tư với tổng giá trị lên tới hàng trăm triệu USD thì không biết số tiền thất thoát sẽ là bao nhiêu. Hầu hết các quan chức như Dương Quốc Hà, Nguyễn Quang Thường đều có thâm niên công tác lâu năm trong ngành dầu khí như vậy, có biết bao nhiêu hợp đồng đã qua tay ký duyệt thì tổng số tiền thất thoát sẽ lớn đến mức nào. Còn nữa một công ty trách nhiệm hữu hạn tư cách pháp nhân rất mờ mịt vậy mà lại trúng thầu hầu hết các hợp đồng quan trọng của Vietsovpetro mà lại không phải là một công ty khác
- Gây thiệt hại vẫn được thăng chức
Bên cạnh vụ việc có liên quan đến Dương Quốc Hà và Nguyễn Quang Thường, dư luận trong ngành dầu khí còn đang băn khoăn về một vụ án xảy ra năm 1992 liên quan trực tiếp đến Vietsovpetro mà hình như bị các chức trách cố tình lãng quên. Được biết năm 1992 cơ quan An ninh điều tra và Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phát hiện một số sai phạm nghiêm trọng trong việc thực hiện hợp đồng mua xích neo tàu Chi Lăng tại Vietsovpetro và khởi tố bắt giam đối với ông Đặng Hữu Quý, nguyên là quyền tránh kỹ sư Viện nghiên cứu Khoa học – Thiết kế thuộc Vietsovpetro về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng “. Nội dung vụ án như sau: Vietsovpetro đơn phương ký hợp đồng HĐ 1-008 thử tải neo xích tàu Chi Lăng với một hãng của Singapore dẫn đến việc phải trả hai lần tiền cho hai hãng nước ngoài gây thiệt hại 330.000 USD. Đối với hợp đồng 1-029/ PSA – SSE/31-92 mua xích neo Mỏ Rồng một số nhân viên của Vietsovpetro định làm giả hợp đồng mua về loại xích neo cũ của nước ngoài mang về nước tính theo giá. Hợp đồng mờ ám này bị huỷ nhưng gây thiệt hại 298.453 USD. Trách nhiệm chính của vụ việc thuộc về ông Đặng Hữu Quý. Điều đáng nói là ông Quý không hề bị hưởng một hình phạt nào mà còn được đề bạt làm Giám đốc Công ty Tư vấn dầu khí và tham gia vào các lĩnh vực tư vấn thiết kế, thương thảo hợp đồng của Vietsovpetro
- Triệu tập các nguyên Tổng Giám đốc Petro Việt Nam và Vietsovpetro
Ngày 15 và 16/6 Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an có giấy triệu tập một số cán bộ nguyên là Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam và nguyên Tổng Giám đốc Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro cùng một số cán bộ đương chức tới cơ quan An ninh điều tra làm rõ sự liên quan của họ đối với các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong ngành dầu khí. Được biết một số quan chức trước khi bị bắt là bị can trong vụ án này đã tự nguyên nộp cho cơ quan điều tra 450.000 USD.
2- Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn
Đây là vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra đã khởi tố 156 bị can với 24 tội danh. Xét xử sơ thẩm, toà tuyên án: tử hình 6 bị cáo, chung thân 5 bị cáo, phạt tù có thời hạn 123 bị cáo, án treo 21 bị cáo.
Liên quan đến vụ này, đã xử lý kỷ luật 86 cán bộ( Công an: 65;kiểm sát: 15; quân đội: 4; báo chí: 2 ). Khai trừ khỏi Đảng: 42, cảnh cáo khiển trách 6 tập thể, giải tán 2 chi uỷ, đặc biệt có 4 cán bộ cao cấp trong đó có 2 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Trong vụ án này, Năm Cam và đồng bọn đã dùng mọi thủ đoạn móc nối, tạo sự thân thiện với cán bộ, đưa hối lộ, tha hoá cán bộ, dẫn đến số cán bộ này làm ngơ, bao che tội phạm và ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội, bảo kê cho hoạt động phạm tội của chúng .
Bên cạnh đó, một số cán bộ được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh trấn áp tội phạm nhưng không hoàn thành nhiệm vụ để cho bọn tội phạm hoạt động lộng hành, gây tác hại nghiêm trọng và ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, uy tín của lực lượng công an, làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân.
3- Vụ án buôn lậu xăng dầu của công ty trách nhiệm Thành Phát
-Vụ án đã khởi tố 38 bị can (tạm giam 26, tại ngoại 12 ), thu giữ và kê biên tài sản trị giá trên 100 tỷ đồng.
- Theo hiệp định đã ký giữa hai Chính phủ Việt Nam và Campuchia, hàng năm các Công ty xuất nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam đã thực hiện việc tạm nhập, tái xuất cho Campuchia từ 400-500 ngàn tấn xăng. Xăng dầu tạm nhập, tái xuất sang Campuchia được miễn tất cả các loại thuế và phí( bao gồm: thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, phí xăng dầu ), có thời điểm các loại thuế trên là 100%. Vì lợi nhuận thu được quá lớn nên một số công ty, đối tuợng dùng mọi thủ đoạn gian dối, lợi dụng các sơ hở trong công tác quản lý Nhà nước, tìm cách để xăng dầu tạm nhập trên tiêu thụ trong nước, gây thiệt hại nghiêm trọng, ảnh hưởng và làm thất thu thuế rất lớn ( hàng trăm tỷ đồng ) cho ngân sách Nhà nước.
- Quá trình điều tra đã làm rõ sự câu kết giữa các cán bộ với một số cán bộ Hải quan trong việc mở tờ khai hải quan, kiểm hoá, xác nhận thông quan, đặc biệt là vai trò của Phạm Quang Mậu – Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu Vĩnh Xương đã làm giả và xác nhận 46 bộ hồ sơ khống và 63 bộ hồ sơ tráo xăng thành dầu, gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 100 tỷ đồng. Mậu nhận hối lộ trên 6 tỷ đồng.
- Một số cá nhân trong Quân đội đã tham gia hoạt động buôn lậu như: Thượng tá Nguyễn Hữu Dũng – Giám đốc Công ty Tây Nam (thuộc Phòng Quân báo Quân khu 7 ) đã tiếp tay cho bọn buôn lậu, được nhận hối lộ 7,5 tỷ đồng và một xe Mercedes trị giá 72 ngàn USD.
- Thượng tá Nguyễn Văn Dũi - Đồn trưởng Đồn biên phòng cửa khẩu Vĩnh Xương đã ký 46 bộ hồ sơ xuất nhập cảnh khống để hợp thức hoá 46 chuyến tàu sang Campuchia, nhận hối lộ hơn 8 tỷ đồng.
4- Vụ buôn lậu trốn thuế của Công ty Đông Nam
- Vụ án đã khởi tố 14 bị can ( tạm giam 7, tại ngoại 4, truy nã 3 ). Đến nay đã điều tra và giám định tài chính, làm rõ hành vi buôn lậu, trốn thuế trên 300 tỷ đồng.
- Để thực hiện trót lọt hành vi buôn lậu, Nguyễn Gia Thiều – Giám đốc Công ty Đông Nam và đồng bọn đã lập hai hệ thống sổ sách để lừa cơ quan thuế, khai báo nộp thuế thấp hơn nhiều so với thực tế kinh doanh, đồng thời câu móc với các nhân viên hàng không ( 26 tiếp viên và 5 phi công ), các cán bộ hải quan sân bay Nội Bài – Hà Nội, sân bay Tân Sơn Nhất – thành phố Hồ Chí Minh và một nhân viên ngân hàng tiếp tay chuyển tiền traí phép cho Nguyễn Gia Thiều ra nước ngoài. Nhân viên hàng không xách tay điện thoại di động từ Hồng Kông, Singapore về Việt Nam và chuyển USD ra nước ngoài cho Công ty Đông Nam, được hưởng từ 3-8 USD/1 chiếc điện thoại di động. Nhân viên hải quan làm thủ tục nhưng không kiểm hoá các lô hàng điện thoại di động từ nước ngoài gửi về, xác nhận hàng hoá dưới dạng quà biếu (văn phòng phẩm, quần áo…). Địa chỉ nhận hàng trong nước là địa chỉ giả. Nhân viên hải quan được hưởng từ 5-7 USD/1 chiếc điện thoại di động. Bằng các thủ đoạn trên, Công ty Đông Nam đã nhập lậu khoảng 47 ngàn chiếc điện thoại di động, trị giá khoảng 241 tỷ đồng.
5- Đối với viêc lợi dụng hoàn thuế VAT để chiếm đoạt tiền của Nhà nước, nổi lên vụ Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Nam Hà Nội (SIMEX)-quận 3-thành phố Hồ Chí Minh do Đặng Đình Giáp làm Giám đốc.
- Trong lĩnh vực hoàn thuế VAT, bọn tội phạm đã lợi dụng đã lợi dụng các thủ tục thông thoáng trong thành lập doanh nghiệp nên đã thành lập các “công ty ma” để được sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng, mua hàng tạm nhập, tái xuất hoặc lập khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế. Năm 2001, phát hiện 53 vụ, thiệt hại 63 tỷ đồng, năm 2002 phát hiện 181 vụ, thiệt hại 256,2 tỷ đồng.
- Trong vụ án Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Nam Hà Nội đã khởi tố 5 bị can (tại ngoại 4, tại giam 1). Thủ đoạn của chúng là lợi dụng quy định của Nhà nước cho các cơ sở kinh doanh mua hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất bán ra, nếu không có hoá đơn theo quy định thì được lập bản kê hàng hoá mua vào (mẫu số 4) được khấu trừ thuế VAT đầu vào là 5% và khi có hàng xuất khẩu thì được hoàn thuế VAT. Dương Quang Trí và vợ là Phạm Thị Kiều Phương – Giám đốc doanh nghiệp tư nhân Kiều Phương – quận 8 – thành phố Hồ Chí Minh đã móc nối với Đặng Đình Giáp – Giám đốc, Đỗ Thị Tường Vi – Phó Giám đốc và Nguyễn Thị Hậu – kế toán Công ty Simex lập hồ sơ xuất khẩu khống 352 tấn mực khô trị giá trên 53 tỷ đồng sang Trung Quốc, sau đó móc nối với hải quan cửa khẩu Tân Thanh, Hữu Nghị – Lạng Sơn làm thủ tục xác nhận hàng qua biên giới để hoàn chỉnh bộ hồ sơ hoàn thuế khống, chiếm đoạt trên 5,2 tỷ đồng.
Ngoài các vụ án trên đây, còn các vụ buôn lậu hang Dơi ở Lạng Sơn, vụ án Công ty xuất nhập khẩu ở Yên Bái, vụ Lã Thị Kim Oanh ở Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn …cũng liên quan nhiều cán bộ, đảng viên.
III. Thực trạng chống tham nhũng ở Việt Nam.
Trên thực tế có hai loại người mà chức vụ, quyền hạn có thể thao túng, chiếm đoạt tài sản Nhà nước, công quỹ quốc gia.
Loại thứ nhất gồm những cán bộ mà do chức quyền có thể quyết định đến “sinh mệnh chính trị “ của cấp dưới và quần chúng, những kẻ có chữ ký quyết định đến tiền, hàng của một đơn vị ( như duyệt cấp quota xuất nhập khẩu, duyệt cấp kinh phí cho xây dựng cơ bản, cho các dự án phát triển kinh tế lớn, cấp giấy kinh doanh cho các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài, những giám đốc và tổng giám đốc các công ty, các ngân hàng…). Nếu những cán bộ này mang nặng chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, thoái hoá biến chất sẽ là đầu mối của những vụ tham nhũng lớn tầm cỡ quốc gia.
Loại thứ hai có thể dễ dẫn đến hành vi tham nhũng là những đối tượng trực tiếp được giao nắm, quản lý, phân phối, kiểm tra hàng hoá, tài sản của Nhà nước, của tập thể. Những kẻ “số đỏ” “chuột sa chĩnh gạo” như thủ kho vật tư hàng hoá, kế toán, thủ quỹ, nhân viên thuế, nhân viên ngân hàng, nhân viên bảo vệ, nhân viên các trạm giao thông… Loại thư hai này ít gây ra những vụ tham nhũng lớn nhưng số lượng các vụ tham nhũng thường nhiều hơn, xảy ra thường xuyên ở các địa phương, các cấp, các ngành do vậy, làm thất thoát tài sản Nhà nước khó mà tính được.
1. Nếu không có sự tiếp tay của một số cán bộ ở mức độ khác nhau thì bọn tội phạm không thể hoạt động phạm tội.
Trong vụ án Năm Cam nếu không có sự bao che, tiếp tay của một số cán bộ thoái hoá, biến chất thì băng nhóm tội phạm Năm Cam không thể hoạt động lộng hành, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, tồn tại trong thời gian dài như vậy.
Trong vụ án buôn lậu xăng dầu, Nguyễn Hữu Dũng là chủ mưu cầm đầu, tổ chức cho các thuỷ thủ tham gia cắt niêm chì của hải quan, bơm xăng dầu trên đường tái xuất sang Campuchia lên các kho để tiêu thụ tại Việt Nam.
Vụ án công ty Đông Nam nếu không có sự tiếp tay của nhân viên hàng không và cán bộ hải quan thì Nguyễn Gia Thiều và đồng bọn không thể thực hiện được hành vi buôn lậu với số lượng lớn như vậy.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một số cán bộ đã làm cho bọn tội phạm có chỗ dựa để câu kết, móc nối, mua chuộc, tha hoá cán bộ, tiếp tay cho chúng thực hiện hành vi phạm tội. Lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân bị giảm sút trước sự tha hoá biến chất của một bộ phận cán bộ tiếp tay cho bọn tội phạm hoạt động, nếu không kịp thời đấu tranh ngăn chặn thì sẽ tiếp tục làm giảm lòng tin của cán bộ và nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
2. Vai trò của lãnh đạo và tổ chức Đảng rất quan trọng, nếu làm tốt công tác kiểm tra, phát huy tốt công tác phê bình và tự phê bình của đảng viên trong chi bộ sẽ kịp thời phát hiện, ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Trong vụ buôn lậu xăng dầu, Phạm Quang Mậu – Chi cục trưởng hải quan cửa khẩu Vĩnh Xương có những biểu hiện bất minh về kinh tế, sinh hoạt không bình thường trong cuộc sống, cuối tuần đều về nghỉ tại thành phố Hồ Chí Minh, đi nghỉ mát khắp nơi, cấp trên động viên về làm Phó cục trưởng hải quan An Giang nhưng kiên quyết từ chối, song cũng không ai đặt vấn đề tại sao lại như vậy. Những việc làm của Mậu, Lợi, lãnh đạo, cấp uỷ, nhiều cán bộ đảng viên trong đơn vị đều biết nhưng không dám phê phán đấu tranh. Rõ ràng có vấn đề trong thực hiện chức trách của lãnh đạo, cấp uỷ, nguyên tắc phê bình và tự phê bình không được thực thi, sức chiến đấu của Đảng bộ, Chi bộ bị vô hiệu hoá.
Ngay trong vụ án Năm Cam, hoạt động của các tổ chức Đảng ở cơ sở cũng còn biểu hiện sinh hoạt hình thức, thiếu tính chiến đấu (ở công an phường). Chi bộ chưa phát huy đúng mức trách nhiệm quản lý giáo dục đảng viên, nhiều đảng viên vi phạm trong thời gian dài nhưng kết quả phân loại chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng hàng năm vẫn đạt đảng viên đủ tư cách, Chi bộ “trong sạch vững mạnh”. Khi cán bộ có đơn thư tố cáo thì kiểm tra xác minh không kỹ, không giám đấu tranh, có cán bộ có dấu hiệu vi phạm kỷ luật nhưng vẫn được đề bạt, bổ nhiệm. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên vẫn còn có những sơ hở yếu kém.
3. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập hạn chế.
Trong vụ công ty Đông Nam, cục thuế thành phố Hồ Chí Minh không quản lý được doanh thu thực tế, chỉ quản lý trên sổ sách, giấy tờ do công ty Đông Nam khai báo. Đây là sơ hở lớn trong quản lý đầu vào và đầu ra của hàng hoá đối với các doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu.
Trong vụ công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, cán bộ hải quan đã bị móc nối, mua chuộc nên đã xác nhận khống hàng hoá qua biên giới, tiếp tay cho bọn tội phạm rút 5,2 tỷ đồng tiền hoàn thuế VAT để chia nhau. Trách nhiệm quản lý của hải quan khá lỏng lẻo, nhất là quá trình công tác kiểm tra hàng hóa qua biên giới.
Từ thực tế đấu tranh chống tội phạm hình sự, kinh tế, các vụ án tham nhũng, tiêu cực, lãng phí ta dễ dàng nhận thấy.
Thứ nhất, cho đến thời điểm này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách trong lãnh đạo, điều hành phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh trật tự, nhưng việc tổ chức triển khai, thực hiện chưa nghiêm túc, chưa có hiệu quả, trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước có chủ trương khoan hồng cho cán bộ tham nhũng tự giác khai báo, song chưa có chính sách cụ thể nên rất ít người tự khai báo vì họ còn e ngại. Ban Bí thư, Ban chỉ đạo Trung ương 6 (lần 2) cần có chính sách đối với những cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước vi phạm pháp luật mà tự giác khai báo, khắc phục hậu quả được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, chưa thực hiện tốt hoặc thực hiện không hiệu quả Pháp lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở các cấp, các ngành.
Thứ tư, phát triển kinh tế, phát triển sản xuất chưa đi đôi với tổ chức bảo vệ sản xuất, bảo vệ tài sản, chống thất thoát. Chưa gắn chặt giữa “xây” và “chống”.
CHương III
các giải pháp phòng chống tham nhũng
ở nước ta
I. Vai trò của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng
Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế – xã hội có những bước phát triển khá, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh – quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức nghiêm trọng. Một trong những nguy cơ làm cản trở công cuộc đổi mới là tệ tham nhũng. Tham nhũng cùng với sự lãng phí đang diễn ra trầm trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân, gây ra thiệt hại lớn về tài sản Nhà nước, làm băng hoại đạo đức cán bộ, đảng viên, xâm hại trực tiếp đến công lý và công bằng xã hội.
Nhận thức rõ những nguy hại đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương biện pháp đấu tranh với tệ tham nhũng và đã đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, tham nhũng hiện nay vẫn đang diễn ra hết sức phổ biến, có nguy cơ lan tràn ở mọi ngành, mọi cấp, trong mọi lĩnh vực. Rõ ràng, cần phải có một nhận thức đầy đủ hơn về bản chất và nguyên nhân của tệ tham nhũng để từ đó có những giải pháp hữu hiệu hơn.
Cần phải có một loạt các biện pháp để đấu tranh với tệ tham nhũng, trong đó các biện pháp phòng ngừa có một ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì:
1. Các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên và có tác dụng rộng khắp đến nhiều đối tượng. Chính tính chất thường xuyên, liên tục đó sẽ có tác dụng ngăn chặn ngay từ trong mầm mống những hành vi tham nhũng.
2. Phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham nhũng xảy ra. Rõ ràng việc ngăn chặn ngay từ đầu hành vi tham nhũng cũng đồng nghĩa với việc đã chủ động ngăn chặn và giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra từ hành vi tham nhũng. Thiệt hại ở đây không chỉ về kinh tế, có thể đo được bằng con số cụ thể, mà bao gồm cả sự thiệt hại về con người và nhìn một cách rộng hơn là sự xâm hại đến trật tự kỷ cương phép nước, công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
3. Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng nhiều khi đồng nghĩa với những biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản thân bộ máy quản lý và phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung.
II. Các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc
1. Trung Quốc đã kiên trì triển khai chiến lượcchống tham nhũng một cách bài bản, hành động có chủ thuyết, mang đậm truyền thống và bản sắc chính trị Trung Hoa.
- Từ ngàn năm trước, đất nước này còn lưu truyền đến nay những chủ thuyết nổi tiếng khi thực hiện những mục tiêu cụ thể, với những danh nhân được nhân loại tôn vinh. Thí dụ, chủ thuyết của Quản Di Ngô giúp Tề Hoàn Công, Thương Ưởng giúp Tần Hiếu Công giành nghiệp bá, chủ thuyết của Lý Tư giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa…
- Thời kỳ cải cách, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra các chủ thuyết độc đáo, đầy sáng tạo, thực hiện sách lược”vu hồi” (quay lại sau), bỏ qua nhiều cản trở không cơ bản để đạt mục tiêu lớn, không mất thời gian dừng lại giải quyết. Với chống tham nhũng, theo thực tiễn cải cách, chủ thuyết được xây dựng từng bước uyển chuyển, được điều chỉnh, hoàn thiện không ngừng.
Lúc đầu, Đặng Tiểu Bình chủ trương “dùng luật trị nước” để kiềm chế tham nhũng. Nhưng thực tế là Trung Quốc mới từ quan liêu, hành chính chuyển sang kinh tế thị trường, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, dân lại chưa có thói quen tuân theo pháp luật, nên tệ tham nhũng, tiêu cực đã không bị kiềm chế mà vẫn phát triển ngày càng nghiêm trọng. Vì thế, tháng 1-1995, Giang Trạch Dân đã điều chỉnh chủ thuyết này và đưa ra lý luận: “Ba chú trọng”-tam giảng, (giảng học tập, giảng chính trị, giảng chính khí), nghĩa là chú trọng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác, chú trọng chính trị, nâng cao lập trường tư tưởng chính trị (chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình), và chú trọng về đạo đức, lối sống và đức liêm chính
- Tháng 2-2000, Giang Trạch Dân bổ sung, đưa ra tư tưởng “ba đại diện” làm cơ sở trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng của Trung Quốc
- Tháng 10-2000, Giang Trạch Dân lại chủ trương thực hành chủ thuyết “đức trị” song hành với “pháp trị”. Ông đã khai thác mối quan hệ biện chứng giữa đức trị và pháp trị trong đấu tranh chống tham nhũng như sau: “Pháp luật và đạo đức là hai bộ phận hợp thành trong thượng tầng kiến trúc, đều là biện pháp quan trọng bảo vệ trật tự xã hội và quy phạm tư tưởng, hành vi của con người”.
2. Coi trọng những phương châm hành động cụ thể.
- Triển khai chủ trương đức trị, Trung Quốc chỉ rõ, coi quan đức giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tổ chức xã hội. Lấy sức mạnh đạo đức, nhân cách liêm chính của cán bộ, đảng viên để thúc đẩy, giáo huấn đạo đức toàn xã hội.
- Để thực hiện đức trị, Trung Quỗc tập trung xây dựng chuẩn mực đạo đức mới, cụ thể để chỉ đạo lời nói và hành động, coi trọng kinh nghiệm của các nước (chẳng hạn, Mỹ xây dựng “Luật đạo đức chính quyền” (năm 1978), đã quy chuẩn đạo đức từ Tổng thống đến cấp thấp nhất hoặc”Luật Đạo đức” của I-ta-li-a, quy định những chuẩn mực chỉ đạo mọi hành động của các công vụ viên.
- Để thực hành pháp trị, Trung Quốc coi trọng kiện toàn hệ thỗng pháp quy nhằm hạn chế quyền lực cán bộ chấp pháp tương ứng.
3. Thanh cường thanh tra, kiểm tra, xử lý các vụ án lớn, xử lý kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính.
- Đánh giá kết quả việc tự phê bình và phê bình, Trung Quốc đã nhận định: Chỉ qua tự phê bình và phê bình thì không tìm ra được tham nhũng.
- Phương châm chung”Hai mươi bốn chữ” được quán triệt trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực: “ Thống nhất tư tưởng, kiên định lòng tin, bình tĩnh đối phó, giành lợi tránh hại, chuyển biến tác phong, thực sự làm việc”.
- Thực hiện giám sát dân chủ, lấy phiếu tín nhiệm cán bộ khi bổ nhiệm. Tăng cường kiểm tra từ trên xuống do Uỷ ban kiểm tra các cấp của Đảng và Nhà nước thực hiện.
4. Chống tham nhũng với ý chí kiên quyết, nhưng bình tĩnh, chủ động.
Mặc dù đã đạt được những bước tiến rõ rệt trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, nhưng Đảng và Nhà nước Trung Quốc vẫn coi đây là nhiệm vụ trọng tâm ở vị trí hàng đầu trong 6 vấn đề lớn của đất nước này. Trung Quốc tuyên bố: Tham nhũng là kẻ thù đối mặt trực tiếp của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, nó không thể hoà nhập vào tính chất và tôn chỉ của Đảng được. Chống tham nhũng, xây dựng tác phong liêm chính là bảo đảm quan trọng cho sự nghiệp vĩ đại xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
III. Chống tham nhũng, cách làm của cha ông ta ngày xưa.
1. Nhà nước luôn chú trọng ban hành, bổ sung và từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật chống tham nhũng.
Tuy chưa ban hành được bộ luật riêng về chống tham nhũng như chúng ta làm hiện nay, nhưng Nhà nước phong kiến các thời luôn có các chỉ dụ, sắc lệnh phòng chống “quốc nạn” này. Ví dụ như trong Quốc triều Hình luật (Luật hình thời Lê) được soạn thảo dưới thời Lê Thánh Tông (1460 –1497) có 24 điều phòng chống và xử phạt các hành vi có liên quan đến tham nhũng. Dân chủ & pháp luật 4/2004 tr18
2. Các triều vua luôn chú ý đến tính thực thi của các điều luật, chỉ dụ, mới có thể ngăn chặn có hiệu quả “quốc nạn”.
Trong tất cả các trường hợp, quan lại phạm tội tham nhũng bất kể thành phần xuất thân và công lao trước đó cùng học vị chức vụ hiện tại ra sao đều bị xử lý nghiêm khắc
3. Nhà nước phong kiến coi thanh liêm là tiêu chuẩn hàng đầu của quan lại.
Trong kỳ khảo công (khảo sát các việc hay dở của quan lại trong năm, căn cứ vào đó mà thăng giáng chức, hoặc điều chuyển đi việc khác, nơi khác cho phù hợp), sự thanh liêm luôn được coi là tiêu chuẩn đầu tiên. Người nào liêm khiết được biểu dương cất nhắc kịp thời. Ví dụ như thời Trần, Trần Thì Kiến khẳng khái không nhận hối lộ mà được cất nhắc lên làm Đại an phủ kinh sư(chức quan đứng đầu Kinh đô)
4. Nhà nước phong kiến coi việc “chống tham nhũng là của toàn dân”, đã có những biện pháp, hình thức để dân tố giác quan lại tham nhũng, như cho dân được viết thư phản ánh và bỏ vào hòm thư đặt tại sân đình, được yết bảng nêu việc làm tốt xấu của quan lại địa phương…
Đấy là cách nhìn và biện pháp chống tham nhũng của triều đình phong kiến xưa kia mà ngày nay, chúng ta có thể tham khảo và vận dụng./.
IV. Các giải pháp chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta.
1. Đối với các cơ quan Đảng.
1.1. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng phẩm chất người đảng viên.
Mọi sự thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước kia và công cuộc đổi mới đất nước ngày nay đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng thể hiện ở qua sức chiến đấu của mỗi cán bộ đảng viên. Vì vậy hơn ai hết đảng viên phải là người đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, đặc biệt là những đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh chống lại sự cám dỗ của vật chất có điều kiện phát huy ảnh hưởng và tác dụng mạnh mẽ trong môi trường kinh tế thị trường hiện nay. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, phẩm chất người đảng viên không thể chỉ dừng lại trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của các tổ chức Đảng và trong các ý thức rèn luyện của các đảng viên. Đảng phải hướng dẫn và theo dõi cán bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức phẩm chất của mình qua những công việc cụ thể trên từng cương vị công tác. Giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất đạo đức không thể chỉ mang tính hình thức, mà phải có những tiêu chí nhất định để mỗi đảng viên tự soi vào mà phấn đấu, rèn luyện và cũng để các tổ chức đảng có thể hiểu rõ các thành viên của mình và có biện pháp hướng dẫn giúp đỡ.
1.2. Tăng cường quản lý đội ngũ cán Đảng viên.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Điều cần lưu ý là phải tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý đội ngũ cán bộ công chức, bởi vì đảng viên là cán bộ công chức chiếm đa số, nhất là ở những vị trí lãnh đạo, quản lý. Quản lý đội ngũ cán bộ đảng viên ở đây được hiểu là quản lý một cách toàn diện bao gồm từ khâu tuyển chọn bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và sự đánh giá trong quá trình sử dụng. Những sai lầm trong công tác quản lý cán bộ đảng viên là mảnh đất nuôi dưỡng không ít những kẻ cơ hội để lọt vào trong bộ máy Đảng và Nhà nước, thậm chí leo tới những vị trí trọng yếu với mục đích tạo lợi thế để thực hiện tham vọng cá nhân của mình. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có một nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hại của sự buông lỏng quản lý cán bộ đảng viên và cần có giải pháp khắc phục kịp thời.
1.3. “Đưa tự phê bình và phê bình vào nề nếp sinh hoạt đảng thường xuyên” theo điều lệ Đảng và tinh thần Nghị quyết Trung ương 6(lần 2), khoá VIII.
Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc bén của Đảng. “Đảng không che dấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình…kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi kiêu ngạo, ba hoa” Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 trg 267-268
. Lâu nay phê bình và tự phê bình chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, thậm chí có tình trạng qua loa, đại khái. Tự bản thân cán bộ đảng viên chưa ý thức được trách nhiệm của mình, chưa thấy được tự phê bình là phương pháp rèn luận đạo đức cách mạng, chưa sử dụng nó như một vũ khí chống lại những thói hư tật xấu, những tư tưởng tiêu cực, tham nhũng của bản thân mình. Đồng thời nhiều cán bộ, đảng viên cũng chưa thấy trách nhiệm của mình là phải phê bình, góp ý chân tình, thẳng thắn cho tổ chức đảng và các đồng chí của mình để giữ vững bản chất tiên phong của giai cấp công nhân. Thậm chí có nơi có lúc, phê bình đã bị lợi dụng để đấu đá nội bộ, kèn cựa tranh giành chức vụ, quyền lợi. Đó là những biểu hiện hết sức tệ hại cần được khắc phục để phê bình và tự phê bình thực sự trở thành vũ khí rèn luyện nâng cao sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn và loại trừ những biểu hiện của tệ tham nhũng ngay từ trong tư tuởng của mỗi đảng viên .
1.4. Đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ở các ngành, cơ quan đơn vị mình phụ trách.
Đây đang là mối quan tâm của toàn xã hội và thực sự là thử thách lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Sẽ không thể chờ đợi lòng tin của người dân nếu những người vi phạm pháp luật, nhất là những đảng viên giữ cương vị lãnh đạo có hành vi tham nhũng, tiêu cực có thể nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật ngay cả khi đã bị phát hiện và lên án. Đồng thời sẽ không còn là một nền pháp chế, nếu những người có trách nhiệm trong bộ máy Đảng và Nhà nước lại vô can với những vụ việc tiêu cực tham nhũng xảy ra trong phạm vi trách nhiệm của mình. Chúng ta quán triệt tinh thần của Đảng là chống tham nhũng phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta làm ngơ hay nương tay với những kẻ coi thường uy tín của Đảng bất chấp pháp luật và coi thường lợi ích của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức nhất là những cán bộ giữ chức vụ cao đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng. Vì vậy, việc xử lý nghiêm minh kịp thời những hành vi tham nhũng hay vô trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trước hết thuộc trách nhiệm của các tổ chức đảng. Một thái độ nghiêm khắc đối với sự vi phạm của các đảng viên thể hiện trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và sẽ là một biện pháp có trách nhiệm răn đe phòng ngừa rất hữu hiệu với tệ tham nhũng.
2. Đối với các cơ quan Nhà nước.
2.1. Bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước nhất là cơ chế quản lý kinh tế – tài chính, quản lý tài sản công.
Đây thực sự là biện pháp có hiệu quả để phòng ngừatham nhũng. Như đã đề cập ở trên, tham nhũng tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những sơ hở trong cơ chế, chính sách chính là nơi thuận lợi nhất cho các hành vi tham nhũng mặc sức hoành hành. Vì vậy, cần phải bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, quy chế, quy định của Nhà nước, bảo đảm các quy định đầy đủ, cụ thể rõ ràng, dễ thực hiện, trước hết về cơ chế quản lý kinh tế, tài chính, đất đai, quản lý tài sản công, dịch vụ công. Đồng thời, đề cao chính sách chấp hành nghiêm chính sách pháp luật không để sơ hở tuỳ tiện trong thực tế để kẻ xấu lợi dụng tham nhũng, thụ hưởng những đặc quyền, đặc lợi bất chính.
2.2. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước bảo đảm tinh gọn, nhiệm vụ cụ thể rõ ràng, đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ những thủ tục gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và công dân, thủ tục công khai hoá thủ tục hành chính.
Đây là những biện pháp đã được nhận thức rõ nhưng chúng ta phải kiên trì tiến hành từng bước mới mong đạt được những kết quả như mong muốn. Bộ máy nhà nước đặc biệt là bộ máy quản lý hành chính phát triển theo xu hướng ngày càng đông về số lượng, ngày càng phức tạp về chức năng nhiệm vụ do những nguyên nhân khách quan. Đó là sự tăng nhanh về dân số và sự mở rộng nhanh chóng và không ngừng các lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội của con người do tiến bộ của khoa học kỹ thuật mang đến. Tuy nhiên có một thực tế là sự tăng trưởng bộ máy về số lượng chưa đưa lại sự tương xứng về hiệu lực quản lý. Đây đáng là vấn đề đáng phải suy nghĩ. Sự gia tăng về số lượng các cơ quan quản lý cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nó đôi khi không dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và không dựa trên các luận cứ khoa học xác đáng, mà lại dựa vào ý chí chủ quan duy ý chí, thậm chí xuất phát từ những tư tưởng lợi ích cục bộ của ngành hay địa phương. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, chức năng nhiệm vụ rõ ràng gắn liền với trách nhiệm công vụ của từng bộ phận của nền hành chính đến từng cán bộ, công chức.
Ngoài ra thủ tục hành chính phiền hà rắc rối, thiếu công khai, chưa đủ minh bạch đã tạo điều kiện cho sự vòi vĩnh, sách nhiễu phát triển đến mức độ công nhiên, không thể chấp nhận được. Chúng ta không phải không có những chủ trương và biện pháp nhằm cải cách thủ tục hành chính và coi đó như một khâu đột phá trong tiến trình cải cách hành chính nhưng kết quả thu được còn hết sức hạn chế. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, thường xuyên rà soát và loại bỏ ngay những thủ tục vô lý, cản trở việc thực hiện quyền của công dân trong mọi lĩnh vực ở mọi ngành, mọi cấp, đặc biệt ở những khâu, những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.
2.3. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, đồng thời xử lý nghiêm khắc những người có hành vi tham nhũng, nâng cao chất lượng, phẩm chất chính trị, tính kỷ luật và chuyên môn của cán bộ, công chức.
Đây cũng là vấn đề rất quan trọng, bởi vì xét cho cùng một chế độ, chính sách đều được thực hiện thông qua những con người cụ thể và bất kể ai lao động cũng trước hết vì cuộc sống của bản thân, kể cả cán bộ công chức. Công tâm là yêu cầu đầu tiên của nền công vụ đối với từng công chức. Nhưng người ta chỉ có thể thực sự công tâm khi không bị thúc ép bởi việc mưu sinh. Chúng ta khó có thể đòi hỏi người cán bộ công chức phải tận tâm hết mình khi chế độ lương chưa đủ sống, ít nhất ở mức trung bình xã hội. Vì vậy, cùng với việc thường xuyên giáo dục ý thức, tư tưởng và trách nhiệm công chức thì cũng phải đẩy nhanh quá trình cải cách tiền lương. Đề án chế độ cải cách chế độ tiền lương đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và thực là một trong những yếu tố quan trọng, một biện pháp cơ bản để phòng ngừa tham nhũng.
2.4. Thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nước về những điều cán bộ, công chức không được làm cũng là biện pháp phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả.
Điều đó phải được các cơ quan Nhà nước quán triệt đến từng cán bộ, công chức, đồng thời thủ trưởng các cơ quan nhà nước cũng phải thường xuyên theo dõi và nhắc nhở các cán bộ, công chức thuộc quyền thực hiện nghiêm chỉnh các quy định này. Ngoài ra cần thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản (nhà đất và các tài sản có giá trị, nguồn tiền cho vợ con đi học tự túc ở nước ngoài…) để từng bước quản lý thu nhập của cán bộ, công chức nhằm phát hiện kịp thời những nguồn thu nhập không chính đáng. Tuy nhiên, công việc này cần tiến hành thận trọng để tránh kẻ xấu lợi dụng gây tình hình phức tạp trong nội bộ các cơ quan Nhà nước.
2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát kịp thời phát hiện và ngăn chặn hành vi tham nhũng, tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, nhất là những quản lý nhiều tài sản, con người hoặc có quan hệ quản lý trực tiếp đối với các doanh nghiệp và công dân nhằm ngăn chặn hành vi sách nhiễu, vòi vĩnh khi thi hành công vụ, nhiệm vụ, kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung những sơ hở, khiếm khuyết của cơ chế chính sách để dẫn đến tham nhũng.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp chống tham nhũng một cách chủ động và có hiệu quả nhất. Lúc sinh thời, Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là thiếu sự kiểm tra và kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm soát khéo về sau khuyết điểm sẽ bớt đi”. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1995, t6, tr 489
Cơ chế thanh tra, kiểm tra hiện nay còn có nhiều khiếm khuyết. Các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra thì nhiều, thậm chí có sự chồng chéo, lẫn lộn trong quá trình hoạt động, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế. Đây cũng là những vấn đề cơ bản đang được nghiên cứu để tìm ra giải pháp thích hợp trong quá trình xây dựng Luật Thanh tra để trình Quốc hội xem xét thảo luận. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của công tác này cần có sự phân định và phối hợp chặt chẽ giữa các phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát như một chỉnh thể có tính hệ thống thì mới có thể phát huy được tác dụng và hướng tới mục đích chung là đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy quyền dân chủ của công dân.
2.6. Thấm nhuần quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, đổi mới và thức hiện tốt đường lối đào tạo và sử dụng cán bộ của Đảng cũng là thiết thực góp phần phòng chống tệ nạn tham nhũng.
Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muốn việc thanh công hay thất bại đều do cán bộ thấp kém” Hồ Chí Minh, Toàn tập, T4, Nxb Chính trị Quốc gia, tr 487
. Cán bộ tham nhũng là cán bộ vi phạm chuẩn mực đạo đức cách mạng, là cán bộ kém. Do vậy, làm công tác cán bộ phải hiểu rõ cán bộ, từ đó mà bố trí sử dụng cho phù hợp vào từng cương vị chức trách. Nếu không căn cứ vào tài - đức, vào sở trường của từng cán bộ mà chỉ vì tình cảm cá nhân, nếu không vì công việc, vì tập thể mà chỉ vì quen thân, “cánh hẩu” với nhau mà bố trí cất nhắc thì chẳng những không phát huy được công tác của người cán bộ mà nhiều khi lại tạo thành những vây cánh, ê kíp tiêu cực không làm lợi cho xã hội tập thể, tìm mọi cách bòn rút của công, lợi dụng chia chác các lợi ích bất minh từ nguồn tài sản xã hội chủ nghĩa. Do vậy việc bố trí cất nhắc người quản lý lãnh đạo quyết không được tuỳ tiện, bởi nó chẳng những liên quan đến số phận của chính người đó mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế hiện nay đã xuất hiện nhiều tiêu cực trong công tác cán bộ như chạy chỗ, chạy chức, chạy quyền, chạy tiền… đã làm tha hoá một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý và tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển.
Công tác cán bộ cần phải công tâm, chính tâm chọn mặt gửi vàng: nhận diện những kẻ giả danh tập thể để bảo vệ lợi ích cá nhân mình, những kẻ nhân danh xã hội để vì lợi ích của đồng bọn, của nhóm người tham nhũng lộng hành. Cần phải sáng suốt cất nhắc những người xứng đáng vào các cương vị quản lý phù hợp với năng lực sở trường chuyên môn của họ, những người không có biểu hiện tham nhũng mà còn dũng cảm tích cực đấu tranh chống tham nhũng.
3. Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân.
3.1. Phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình và các cơ quan nước và cán bộ, công chức nhà nước, tích cực phát hiện và tố cáo những hành vi và biểu hiện tham nhũng. Cần tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đó là những yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống đồng bộ để ngăn ngừa tham nhũng. Đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài và phức tạp cho nên càng cần có sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân. Nó thể hiện ở việc nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và các cán bộ công chức nhà nước một cách trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đoàn thể của mình qua hoạt động của các Ban Thanh tra nhân dân được tổ chức ở cơ sở. Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, và mọi biểu hiện quan liêu hách dịch, cửa quyền” Điều 8 Hiến Pháp 1992(đã sửa đổi và bổ sung năm 2001)
. Giám sát của nhân dân là giám sát thường xuyên và đông đảo nhất vì vậy cần tạo ra cơ chế để nhân dân thực hiện tốt nhất quyền giám sát của mình và để các cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận tốt nhất, nhanh nhất và xử lý có hiệu quả nhất ý kiến phản ánh của người dân đối với hoạt động công vụ cũng như những biểu hiện vi phạm của các cán bộ, công chức nhà nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân chính là để thực hiện quyền giám sát của nhân dân góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng.
3.2. Cơ quan thông tin đại chúng tích cực tham gia phát hiện các hành vi tham nhũng đồng thời cũng đấu tranh với những biểu hiện lợi dụng chống tham nhũng để đấu đá, gây xấu nội bộ và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trính trị, xã hội.
Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng không thể không nhắc đến vai trò to lớn của các cơ quan thông tin đại chúng. Báo chí là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước là tiếng nói của nhân dân. Báo chí đưa đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến từng người dân, công tác thông tin tuyên truyền nhất là về pháp luật cần phải được chú trọng hơn nữa. Nội dung và phương thức tuyên truyền phải đa dạng, phù hợp với quảng đại quần chúng. Mỗi chủ trương chính sách pháp luật phải đến được người dân một cách nhanh nhất và có hiệu quả nhất để họ biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình cũng như trách nhiệm đấu tranh với các biểu hiện đấu tranh trong quá trình thực hiện.
Những thông tin trung thực về thực tiễn hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tiếng nói từ địa phương, cơ sở là những thông tin hết sức bổ ích cho các nhà hoạch định cơ chế, chính sách trong quá trình nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Với lương tâm nghề nghiệp và khả năng chuyên môn nghiệp vụ của mình, các nhà báo có thể giúp cho các cơ quan chức năng kịp thời phát hiện ra các hiện tượng tham nhũng. Trên thực tế, báo chí thường xuyên đưa ra những lời cảnh báo hay phản ánh những hiện tượng vi phạm pháp luật, những biểu hiện của tệ tham nhũng và không ít trường hợp những lời cảnh báo đó đã trở thành sự thật. Vì vậy cần phải phát huy hơn nữa vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực và tham nhũng.
Ngoài ra, báo chí cũng cần làm tốt chức năng hướng dẫn dư luận trong việc phê phán, lên án những hành vi tham nhũng hoặc những biểu hiện thoái hoá, biến chất trong lối sống của cán bộ, đảng viên. Báo chí và các nhà báo phải thực sự trở thành những chiến sỹ trên mặt trận văn hoá tư tưởng, phê phán một cách tích cực các thói hư tật xấu, biểu dương các cá nhân và tập thể đã dũng cảm đấu tranh chống các hành vi tham nhũng, đồng thời cũng tích cực bảo vệ những người chống tiêu cực tham nhũng. Qua đó, báo chí trở thành một trong những cơ chế phòng ngừa tham nhũng hiệu quả nhất./.
Kết luận
Bằng các giải pháp đấu tranh cơ bản được thực hiện để chống tham nhũng nêu trên. Chính phủ đang thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 4 theo tinh thần Nghị quyết đại hội IX của Đảng là “…Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”.
Tham nhũng đã được Đảng chỉ mặt, đặt tên là “Một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong cơ quan của Đảng và Nhà nước” và chống tham nhũng thực sự là một cuộc chiến, do vậy, trong tổ chức thực hiện, thiết nghĩ Bộ chính trị, Nhà nước cần thay đổi cơ chế “vừa đá bóng, vừa thổi còi”; đồng thời có chính sách cụ thể để khuyến khích, bảo vệ quần chúng nhân dân mạnh dạn tố cáo, vạch mặt tham nhũng thì cuộc chiến chống tham nhũng chắc chắn thắng lợi, lấy được lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Với đề tài: “Nguyên nhân và các giải pháp chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” đã giúp em nâng cao được nhận thức về vấn đề này đồng thời góp tiếng nói chung trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Tuy nhiên đây là một đề tài lớn, khả năng nhận thức của em còn nhiều hạn chế, chính vì vậy không thể không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo PGS – TS Mai Văn Bưu đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Hà Nội : 10/2004.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Duy Linh.
Tài liệu tham khảo
Khoa Khoa học Quản Lý, Giáo trình chính sách kinh tế – xã hội, Đoàn Thị Thu Hà-Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Nxb KHKT, Hà Nội-2000
Rick Stapenhurst và J. Kpumdeh. Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia. NXB Chính trị Quốc gia, 5/2002.
Tạp chí Cộng sản số 31(tháng 11 năm 2003). Hội thảo khoa học và thực tiễn: Xây dựng chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng: Kinh nghiệm và giải pháp
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2002. Tệ nạn tham nhũng: Căn nguyên sâu xa và biện pháp phòng chống. Nguyễn Đình Gấm
Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 4/2004. Chống tham nhũng, cách nhìn và cách làm của cha ông ta ngày xưa. Bùi Xuân Đính
Tạp chí cộng sản số 12/2004. Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc. Nguyễn Văn Thụy
Tạp chí nghiên cứu trao đổi số 11/2003. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tham nhũng trong lực lượng công an nhân dân. Nguyễn Huy Tần
Tạp chí thanh tra số 3/2002. Vai trò của thanh tra, kiểm tra, giám sát với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng. PTS Vũ Thư (Viện Nhà nước và pháp luật).
Tạp chí Dân chủ và pháp luật 4/2002. Chống tham nhũng, giải pháp trước mắt và lâu dài. Nguyễn Khắc Bộ (Phó Chủ Tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc).
Tạp chí Nghiên cứu-Trao đổi số 11/2003. Một số ý kiến về tệ nạn tham nhũng và việc chống tham nhũng. Lê Doãn Hợp (Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An)
Tạp chí Cộng sản. Chủ Nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh số12/2003. Phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính” của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trần Ngọc Kiên
Tạp chí Cộng sản số 12( tháng 4 năm 2002 ). Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng góp phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. Nguyễn Thị Doan. (PGS-TS. Uỷ viên trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Trung ương)
Tạp chí Cộng sản số 11( tháng 4 năm 2002 ). Báo chí trong cuộc đấu tranh chống quan liêu,tham nhũng ở nước ta hiện nay. PGS –TS Trần Quang Nhiếp
Tạp chí Cộng sản số 17( tháng 6 năm 2002 ). Báo chí trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Vũ Hiền
Tạp chí Cộng sản số 20( tháng 7 năm 2002 ). Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Doan
Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội 1998
Hồ Chí Minh toàn tập, t4, t5, t6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
Hồ Chủ Tịch. Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. NXB Sự thật, 1980.
Hiến pháp 1992
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I – Nguyên nhân tham nhũng và tác hại của nó 3
Khái niệm về tham nhũng 3
Hành vi và một số phương thức thực hiện hành vi
tham nhũng 4
Tác hại của tham nhũng 7
Nguyên nhân của tệ tham nhũng 13
Chương II – Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 20
Sơ lược về thực trạng tham nhũng trên thế giới hiện nay 20
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 22
Thực trạng chống tham nhũng ở Việt Nam 27
Chương III – Các giải pháp chống tham nhũng ở nước ta 31
Vai trò của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng 31
Các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc 32
Chống tham nhũng, cách làm của cha ông ta ngày xưa 34
Các giải pháp chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta 35
Kết luận 44
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA109.doc