Đề án Môn học Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam

Tài liệu Đề án Môn học Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam: TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- ĐỀ ÁN MÔN HỌC Đề tài: Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1.Lí do lựa chọn đề tài Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới , các mối quan hệ kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước , do đó vấn đề thanh toán ,định giá , so sánh ,phân tích đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều . Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc trao đổi tiền của nước khác . Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật của nước đó và đặc điểm riêng của nó ,vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải so sánh giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau . Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái ...

doc63 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Môn học Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. -----š›&š›----- ĐỀ ÁN MÔN HỌC Đề tài: Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1.Lí do lựa chọn đề tài Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới , các mối quan hệ kinh tế trên mọi lĩnh vực của một nước ngày càng được mở rộng ra các nước , do đó vấn đề thanh toán ,định giá , so sánh ,phân tích đánh giá về mặt giá trị và hiệu quả trở nên phức tạp hơn nhiều . Đơn vị thanh toán không chỉ là tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng các loại ngoại tệ khác nhau liên quan đến việc trao đổi tiền của nước khác . Tiền của mỗi nước được quy định theo pháp luật của nước đó và đặc điểm riêng của nó ,vì vậy phát sinh nhu cầu tất yếu là phải so sánh giá trị ,sức mua của đồng tiền trong nước với ngoại tệ và giữa các ngoại tệ với nhau . Hoạt động chuyển đổi đồng tiền này thành đồng tiền khác trong quá trình quan hệ giữa các nước nhóm nước với nhau đã làm nảy sinh phạm trù tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Đã bao thời nay, loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một nhận thức đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công cụ tích cực trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước. Xuất phát từ những lý do đó, em chọn đề tài của mình là " Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam". 2.Mục đích nghiên cứu: Việc phân tích cơ sở lí luận của tỷ giá ,cơ chế xác định, những yếu tố ảnh hưởng và vai trò của tỷ giá đối với nền kinh tế . Từ đó làm sáng tỏ lên tầm quan trọng của chính sách tỷ giá trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thực hiện các giải pháp chính sách nhằm giúp cho môi trường tài chính và cán cân thanh toán được hoạt động hiệu quả góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân. 3.Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái như khái niệm,tác động của nó đến thị trường tài chính ,cán cân thanh toán , hoạt động ngoại hối, các chính sách điều hành tỷ giá hiện nay … để đúc kết lại và đưa ra các giải pháp cho nền kinh tế. 4.Nội dung nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu ngoài lời mở đầu bao gồm 3 chương: -Chương 1:Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái -Chương 2:Thực trạng về chính sách quản lí tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian qua. -Chương 3:Đánh giá và dự đoán tình hình tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong năm 2009. Và cuối cùng là phần kết luận của em toàn bộ đề án. Do những hạn chế về trình độ, kinh nghiệm cũng như thời gian và việc sưu tầm tài liệu nên khoá luận không tránh được nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đánh giá góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Đặng Ngọc Anh - người trực tiếp hướng dẫn và các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ trong việc tìm tài liệu để em hoàn thành đề án này. CHƯƠNG I Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái 1.1.Định nghĩa và cơ chế xác định tỷ giá 1.1.1.a.Định nghĩa: Trong phạm vi thị trường của một nước ,các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một tỷ giá nhất định .Do đó có thể hiểu tỷ giá là giá cả của một đơn vị tiền tệ một được biểu hiện bằng số lượng đơn vị tiền tệ của nước khác hay là bằng số lượng ngoại tệ nhận được khi đổi một đơn vị nội tệ hoặc bằng số lượng nội tệ nhận được khi đổi một đơn vị ngoại tệ .Các nước có giá trị đồng nội tệ thấp hơn giá trị ngoại tệ thường sử dụng cách thứ hai .Chẳng hạn ở Việt Nam người ta thường nói đến số lượng đồng Việt nam nhận được khi đổi một đồng USD, DEM hay một FFR …Trong thực tế ,cách sử dụng tỷ giá như vậy thuận lợi hơn .Tuy nhiên trong nghiên cứu lý thuyết thì cách định nghĩa thứ nhất thuận lợi hơn Tỷ giá dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về mặt giá cả của các đồng tiền các nước khác nhau . Có hai loại giá : giá trong nước (giá quốc gia ) phản ánh những điều kiện cụ thể của sản xuất trong một nước riêng biệt ,và giá ngoại thương ( giá quốc tế ) phản ánh những điều kiện sản xuất trên phạm vi thế giới . Do phạm vi ,điều kiện sản xuất cụ thể trong mỗi nước và trên phạm vi thế giới khác nhau nên hàng hoá có hai loại giá : giá quốc gia và giá quốc tế . Giá trị quốc gia được biểu hiện dưới hình thức giá cả trong nước bằng đơn vị tiền tệ của nước đó . Giá trị quốc tế biểu hiện qua giá cả quốc tế bằng các ngoại tệ trên thị trường thế giới .Tiền tệ là vật ngang giá chung của toàn bộ khối lượng hàng hoá và dịch vụ trong nước . Vì vậy trong sức mua của đồng tiền được phản ánh đầy đủ các quan hệ tái sản xuất trong nước đó ,hay nói cách khác ,sức mua của một đồng tiền do mức giá cả của toàn bộ các loại hàng hoá dịch vụ trong nước đó quyết định.Tỷ giá thể hiện sự tương quan giữa mặt bằng giá trong nước và giá thế giới . Do sự khác nhau giữa hai loại giá cả trong nước và giá cả thế giới mà tiền tệ vừa làm thước đo giá trị quốc gia vừa làm thước đo giá trị quốc tế. Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại khi tính đến vấn đề hiệu quả kinh tế ,thì phải thường xuyên so sánh đối chiếu hai hình thức giá cả với nhau : giá quốc gia và giá quốc tế. Muốn thế phải chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác , phải so sánh giá trị đồng tiền trong nước với ngoại tệ thông qua công cụ tỷ giá .Tỷ giá dùng để tính toán và thanh toán xuất , nhập khẩu ( không dùng để ổn định giá hàng hoá sản xuất trong nước ) . Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết để mua một lượng hàng xuất khẩu tương đương với một đơn vị ngoại tệ .Tỷ giá hàng nhập khẩu là số lượng tiền trong nước thu được khi bán một lượng vàng nhập khẩu có giá trị một đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá là tỷ lệ so sánh giữa các đồng tiền với nhau . Do đó muốn so sánh giá trị giữa các đồng tiền với nhau ,cần phải có vật ngang giá chung làm bản vị để so sánh .Tiền tệ là vật ngang giá chung để biểu hiện giá trị của các hàng hoá ,nhưng giờ đây đến lượt cần so sánh giá cả giữa các đồng tiền với nhau lại phải tìm một vật ngang giá chung làm bản vị để so sánh. 1.1.1.b.Cơ chế xác định tỷ giá :tuỳ thuộc vào chính sách tỷ giá mỗi quốc gia ● Cơ chế thị trường : tỷ giá cũng là một loại giá cả, nó được xác định dựa trên các lực lượng cung cầu nội ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là nơi mua bán trao đổi đồng nội và ngoại tệ. - Xuất hiện việc cung tiền của nước A trên thị trường ngoại hối so với đồng tiền nước B khi người dân nước A mua hàng nhập khẩu từ B hoặc khi người dân nước A đầu tư sang nước B . Đường cung về tiền có độ dốc dương trong không gian hai chiều tỷ giá và lượng cung tiền e* Q* Q (VND) Q (VND) e - Xuất hiện về cầu tiền nước A trên B mua hàng xuất khẩu từ nước A hoặc khi người nước người dân nước B đầu tư sang nước A. Đường cầu về có độ dốc âm trong không gian hai chiều tỷ giá và lượng tiền . Sự cân bằng cung cầu tiền đạt được khi hai đường này giao nhau và tỷ giá cân bằng được xác định. ● Cơ chế hành chính : ở những nước theo đuổi chính sách kiềm chế tài chính và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn thường đưa ra một mức tỷ giá neo cố định .Tỷ giá này có thể được thay đổi điều chỉnh song không phải do các lực lượng thị trường quyết định. Nó được ấn định lại khi các nhà quản lý cần thấy phải thay đổi nó để phục vụ cho một mục đích nào đó. 1.1.2. Các loại tỷ giá thông dụng trên thị trường Để nhận biết được tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nền kinh tế nói chung ,hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng ,người ta thường phân loại tỷ giá theo các tiêu thức sau đây : * Dựa trên tiêu thức là đối tượng quản lý : -Tỷ giá chính thức : đây là loại tỷ giá được biết đến nhiều nhất và là tỷ giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng do ngân hàng công bố chính thức trên thị trường để làm cơ sở tham chiếu cho các hoạt động giao dịch , kinh doanh ,thống kê… -Tỷ giá thị trường : tỷ giá được hình thành thông qua các giao dịch cụ thể của các thành viên thị trường . -Tỷ giá danh nghĩa : là tỷ lệ giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau ,đồng này đổi được bao nhiêu đồng kia . -Tỷ giá thực: là tỷ giá phản ánh tương quan giá cả hàng hoá của hai nước được tính theo một trong hai loại tiền của hai nước đó hoặc là giá trị tính bằng cùng một đồng tiền của hàng xuất khẩu so với giá hàng nhập khẩu..v.v.. Tỷ giá hối đoái thực tế (er) được xác định er = en * Pn/Pf Pn: chỉ số giá trong nước Pf: chỉ số giá nước ngoài -Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch lạm phát giữa các nước và phản ánh đúng sức mua và sức cạnh tranh của một nước. * Dựa trên kỹ thuật giao dịch : cơ bản có hai loại tỷ giá : -Tỷ giá mua/bán trao ngay, kéo theo việc thay đổi ngay các khoản tiền -Tỷ giá mua/bán kỳ hạn ,kéo theo việc trao đổi các khoản tiền vào một ngày tương lai xác định. Bên cạnh đó ,trong quá trình theo dõi hoạt động kinh doanh của ngân hàng ,người ta còn đưa ra các khái niệm tỷ giá : -Tỷ giá điện hối : tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện ,thường được niêm yết tại ngân hàng . Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác. -Tỷ giá thư hối : là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư . -Tỷ giá của séc và hối phiếu trả tiền ngay : được mua và bán theo một tỷ giá mà cơ sở xác định nó bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi của giá trị toàn bộ của séc và hối phiếu phát sinh theo số ngày cần thiết của bưu điện để chuyển séc từ nước này sang nước khác và theo số ngày kể từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu được trả tiền . -Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn bằng tỷ giá điện hối trừ đi số tiền lãi phát sinh tính từ lúc ngân hàng bán hối phiếu đến lúc hối phiếu đó được trả tiền .Thời hạn này thường là bằng thời hạn trả tiền ghi trên hối phiếu cộng với thời gian chuyển tờ hối phiếu đó từ ngân hàng bán hối phiếu đến ngân hàng đồng nghiệp của nó ở nước của con nợ hối phiếu .Thông thường lãi suất được tính theo mức lãi suất của nước mà đồng tiền được ghi trên hối phiếu. 1.1.3. Vai trò của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế mở . Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia ( nếu có sự liên kết và có đồng tiền chung ) thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm hàng đầu chính là tỷ giá giữa đồng tiền của chính quốc gia đó ,hay nhóm các quốc gia đó (đồng nội tệ) với các đồng tiền của các quốc gia khác ( các đồng ngoại tệ) Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế.Sự vận động của nó có tác động sâu sắc mạnh mẽ tới mục tiêu,chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai điểm cơ bản sau : Thứ nhất, TGHĐ và ngoại thương:Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với mỗi quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó.Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá(Tăng trị giá so với đồng tiền khác)thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn.Ngược lại khi đồng tiền một nước sụt giá,hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên đắt hơn(các yếu tố khác không đổi).Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân. Thứ hai,TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát.Tỷ giá hối đoái không chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thương ,mà thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động đến các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong nước ,lạm phát khả năng sản xuất , công ăn việc làm hay thất nghiệp… Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản (vốn) từ quốc gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục đích kiếm lời nhuận và tránh rủi ro. Do đó, nếu tỷ giá giảm trong trường hợp người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia tăng và tư bản xuất khẩu sẽ giảm . Với mức tỷ giá hối đoái 1USD =10500VND của năm 1994 thấp hơn mức 1USD = 13500VND của năm 1998 ,tức tiền Việt Nam sụt giá và nếu giả định mặt bằng giá thế giới không đổi ,thì không chỉ có xe con khi nhập khẩu tính thành tiền Việt Nam tăng giá mà còn làm tất cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi vào tình trạng tương tự và trong đó có cả nguyên vật liệu ,máy móc cho sản xuất . Nếu các yếu tố khác trong nền kinh tế là không đổi,thì điều này tất yếu sẽ làm mặt bằng giá cả trong nước tăng lên . Nếu tỷ giá hối đoái tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm ( đồng nội tệ Việt Nam liên tục mất giá ) có nghĩa lạm phát đã tăng . Nhưng bên cạnh đó , đối với lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước ,thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này , giúp phát triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm công ăn việc làm , giảm thất nghiệp ,sản lượng quốc gia có thể tăng lên . Ngược lại , nếu các yếu tố khác không đổi thì lạm phát sẽ giảm ,khả năng cạnh tranh của các lĩnh vực trong nước cũng có xu hướng giảm ,sản lượng quốc gia có thể giảm ,thất nghiệp của nền kinh tế có thể tăng lên … nếu tỷ gá hối đoái giảm xuống ( USD giảm giá hay VND tăng giá ) 1.2.Nhân tố tác động đến tỷ giá và tầm quan trọng của tỷ giá 1.2.1.Nhân tố tác động tới tỷ giá. a)Về dài hạn có 4 nhân tố tác động tới tỷ giá :Năng suất lao động,mức giá cả tương đối ở thị trường trong nước,thuế quan và hạn mức nhập khẩu,ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. - Năng suất lao động(NSLĐ)trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ.NSLĐtrong nước tăng lên tương đối so với nước ngoài, đồng nghĩa với việc các nhà kinh doanh có thể hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ của mình tương đối so với hàng ngoại nhập,dẫn đến sự gia tăng mức cầu của hàng nội địa so với hàng ngoại nhập,làm cho hàng nội địa vẫn bán tốt khi giá đồng nội tệ tăng lên(TGHĐ)giảm xuống và ngược lại. Thực tế trên thị trường thế giớiTGHĐ của đồng tiền phụ thuộc rất khăng khít vào NSLĐ tương đối của nước đó.Một nền kinh tế phát triển có NSLĐ cao trong thời kì nào đó thường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng giá của đồng tiền nước đó. - Thuế quan và hạn mức nhập khẩu là những công cụ kinh tế mà chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập khẩu.Chính công cụ này nhiều hay ít đã tác động và làm tăng giả cảcủa hàng ngoại nhập,làm giảm tương đối nhu cầu với hàng nhập khẩu, góp phần bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước.Những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng và làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ có xu hướng giảm về lâu dài. - Ưa thích hàng nội so với hàng ngoại. Nếu sự ham thích của người nước ngoài về mặt hàng trong nước tăng lên thì cầu về hàng nội sẽ tăng lên làm đồng nội tệ tăng giá,bởi hàng nội địa vẫn bán được nhiều ngay cả với giá cao hơn của đồng nội tệ.Cầu đối với hàng xuất của một nước tăng lên làm cho đồng tiền nước đó giảm giá. -Năng suất lao động : Năng suất lao động cao làm giá hàng của một nước rẻ tương đối so với các nước khác . Cầu hàng xuất nước đó cao lên kéo theo sự tăng giá của đồng tiền nước đó. Về lâu dài , do năng suất lao động của một nước cao hơn tương đối so với nước khác , nên đồng tiền của nước đó tăng giá. -Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến tỷ giá : Phần lớn các nước đang phát triển đều phải đối mặt với tình trạng “Đôla hoá” trong nền kinh tế.Đó là sự mất niềm tin vào đồng bản tệ , người dân và các tổ chức kinh tế găm giữ đôla và chỉ tín nhiệm đồng tiền này trong thanh toán trao đổi . Do vậy cầu USD rất lớn và giá các đồng bản tệ xuống thấp các nước luôn trong tình trạng căng thẳng về dự trữ ngoại hối đảm bảo khả năng thanh toán nợ đến hạn . -Tỷ lệ lạm phát: Nếu tỷ lệ lạm phát nước A cao hơn tỷ lệ lạm phát nước B,nước A cần nhiều tiền hơn để đổi lấy một lượng tiền nhất định của nước B. -Giá đồng tiền nước A giảm xuống . -Cán cân thương mại: Nó liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu .Xuất khẩu lớn tỷ giá lên giá b)Các nhân tố thuộc về ngắn hạn -Lãi suất : Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều chỉ tiêu khác nhau trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Trong một nước nếu lãi suất nội tệ tăng trong khi lãi suất thế giới ổn định sẽ làm cho các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều vì mức lãi suất quá hấp dẫn . Do vậy cầu tiền nước này tăng lên và tỷ giá tăng theo . -Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày. -Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung- cầu về ngoại tệ trên thị trường ,do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái . Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và bội chi cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá tăng. 1.2.2. Tầm quan trọng của tỷ giá. Bất kì một quốc gia nào cũng luôn luôn tìm cách để đạt được hai mục tiêu lớn của nền kinh tế : Đó là mục tiêu cân bằng ngoại (cân bằng ngoại thương) và mục tiêu cân bằng nội(cân bằng sản lượng,công ăn việc làm và lạm phát) Ta biết rằng, tỷ giá tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài . Khi đồng tiền của một nước tăng giá (Tăng giá trị so với đồng tiền khác ) thì hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên đắt hơn và hàng hoá nước ngoài trở lên rẻ hơn(giá nội địa tại hai nước giữ nguyên ) . Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá , hàng hoá nước đó tại nước ngoài trở lên rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở lên đắt hơn. Từ đó tỷ giá ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu của các quốc gia và trở thành yếu tố chính ảnh hưởng tới việc thực hiện 2 mục tiêu lớn của nền kinh tế . Điều này có thể nhận thấy một cách rõ ràng khi xem xét nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay,đồng VND đang được coi là tăng giá tương đối so với các đồng tiền trong khu vực ( do đồng tiền của các nước này giảm giá so với đồng USD ) nên giá cả của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế đang cao hơn so với hàng hoá cùng chủng loại của các nước trong khu vực dẫn đến bị cạnh tranh một cách gay gắt và thực tế là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong năm 2000 và mấy tháng đầu năm 2001 là không tăng mà có tăng thì cũng chỉ tăng một lượng nhỏ. 1.3.Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế. 1.3.1.a.Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách: Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu chi ngân sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian tương đối dài. ở thời điểm công bố mức tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức giá trên thị trường và tình hình sức mua của đồng tiền tính chung thời kỳ 1985 - 1988, 1rúp mua trên dưới 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên dưới 3.000VND, trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu giữ mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung 1Rúp hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND. Kim ngạch xuất khẩu của năm 1987là 650 triệu R-USD trong đó khu vực đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương càng giao nhiều hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ trong việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150 VNĐ/Rúp và 225VND/USD nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa phương được phân phối các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và bù lỗ hàng xuất khẩu đó là: - Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì mức lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể. +Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng không chuyển tiền tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị trường. Do đó cơ chế tỷ giá của thời kỳ này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh thêm những tiêu cực trong đời sống xã hội. Đồng thời nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ giữa các đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ do nhà nước qui định không tính đến biến động giá trên thị trường đang bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ hàng xuất khẩu trong ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản lý ngân sách và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại tệ bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được. +Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân sách Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát của ngân sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ. +Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh hàng nhập khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt. +Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức được Nhà nước cấp cũng được tăng lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình hình đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân. +Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ giá thị trường. Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép (khoảng 5%) so với tỷ giá chính thức. +Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với thị trường khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn. * Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là - Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã khiến cho lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng với mức độ tăng của cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi ngân sách Nhà nước là quỹ ngoại tệ chưa được tăng cường. - Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không ổn định thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị trường, điều hành Ngân sách Nhà nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải quyết. 1.3.1.b.Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ. Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92 triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương 159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về trước còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui ra USD, làm thiệt thòi cho người đi vay. Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989 - 1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130 Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đến yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay vốn theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá. - Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh nghiệp kể trên là vay đồng Yên của các công ty Nhật trong khi đó đồng Yên tăng giá). - Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị giảm giá). Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tương lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia. Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về trách nhiệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân công quyền trước các khoản vay và khoản trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui định Nhà nước vay Nhà nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà nước không gánh hộ nợ doanh nghiệp. Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ, đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không? Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay, không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến việc trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm việc nghĩa. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợi ích của bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ không chỉ quy định trách nhiệm mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiêu đó. Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải được quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ của nước ngoài cho chính phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách không phải trả lại nhưng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết các vấn đề của đất nước. Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân sách để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở thời điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ. Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện trợ, tài trợ của chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ mới nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp tư nhân các của nước cũng phải đưa vào. Bởi vì, vốn đưa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc đó liên quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác động đến sự cân bằng của cán cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nước ngoài lớn nếu so với GDP, trong tương lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc hình thành chiến lược vay và trả nợ có ý nghĩa chiến lược to lớn. 1.3.1.c.Thực trạng tác động của tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính phủ. Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường khi đồng nội tệ mất giá khối lượng nội tệ cung ứng ngoài thị trường lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường hợp này làm tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nước phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kinh doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đến sản xuất-kinh doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tục thanh toán lãi suất về huy động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số nước châu á (như Malaixia, Thái lan, Indonexia) cho thấy việc xử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ được biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh. Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh xu hướng nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần có sách lược chọn đồng tiền với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt hiệu quả. Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam cho thấy, tình hình tài chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là ngân sách nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá, phương án điều chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt vấn đề lựa chọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu như không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành của quốc gia. 1.3.1.d.Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại. Các nước đang phát triển thường thiết kế chính sách tỷ giá hối đoái nhằm duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng thương mại hoá dược so với các hàng hoá không thương mại hoá dược; sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các hàng hoá không thương mại hoá dược, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá thương mại hoá dược, và do đó giảm bội dư cầu đối với hàng hoá thương mại hoá dược (tức là cải thiện được vị thế của cán cân vãng lai). Ngoài tác động của chính sách chuyển đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hưởng của khối lượng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội địa tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp thụ. Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đối với việc duy trì sức cạnh tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vượt ra khởi điểm cân bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng này được xác định nội sinh, chính sách tỷ giá hối đoái cần lưu ý đến các tác động của các cơn sốc khác nhau lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác nhau trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác động của các cơn sốc bên trong và bên ngoài lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập trung vào chính sách cụ thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình điều chỉnh. Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng: Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân bằng". Tiếp cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo sức mua so sánh. Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực cân bằng tỷ lệ với các mức giá tương đối giữa một nước với đối tác ngoại thương của mình, tức là đối với sức mua so sánh giữa các đồng tiền các quốc gia. Như vậy tỷ giá sức mua so sánh được coi là chỉ số thích hợp cho cân bằng tỷ giá giữa các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua bao gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá tương đối theo các đại lượng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch nào của tỷ giá thực so với giá trị gốc của nó sẽ được coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân bằng. Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực như là giá so sánh tương đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không mậu dịch hoá dược, nó đưa ra thước đo các động lực quyết định sự phân phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này của nền kinh tế: nếu giá nội địa của hàng hoá thương mại hoa so với hàng hoá không thương mại hoá được thì nguồn lực sẽ được phân phối lại sang khu vực hàng hoá thương mại hoá và cán cân ngoại thương sẽ được cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài vào. Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tàng lên quan đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan được có thể là biểu hiện của sự thay đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong nước và nước ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cẩu chênh lệch mức tăng năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thương, cải cách thuế quan, thay đổi trong điều hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế) lên cân bằng của tỷ giá thực. Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động quan trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao động tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thương mại hoá so với khu vực hàng hoá không thương mại hoá, thì giá so sánh giữa hàng hoá không thương mại hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất của tiền lương trong cả hai khu vực. Với giá hàng hoá thương mại hoá thị trường quốc tế quy định thì tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nước có tốc độ tăng năng suất thấp các nước đang phát triển thường chịu các cơn sốc về điều kiện ngoại thương. Giả sử điều kiện ngoại thương xấu đi vì sự giảm giá tương đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên dư thừa cung đối với hàng hoá không thương mại hoá và dư thừa cầu đối với hàng hoá thương mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân vãng lai được điều chỉnh lại qua việc giảm giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa từ hàng hoá không thương mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu. Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm thuế nhập khẩu thường là tương đương với tăng tỷ giá thực cân bằng. về phương diện định tính thì tác động của tự do hoá nhập khẩu cũng giống như việc cải thiện điều kiện ngoại thương (do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập khẩu thấp hơn sẽ giảm giá tương đối của hàng nhập khẩu, tạo nên sự dư thừa cầu đối với hàng hoá này, và dư thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu. để đưa về cân bằng thì giá tương đối của hàng hoá không thương mại hoá sẽ giảm. Như vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái thực sẽ tăng lên. Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách, ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu chính phủ cho hướng thành phần chi tiêu sang hàng hoá thương mại hoá sẽ giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng như vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ tác động tới tỷ giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển của hành vi đầu tư-tiết kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân bằng ngân sách tổng thể, nhưng với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy định, mà còn do cơ cấu chi và thu của chính phủ quy định. Một sự tăng lên lãi suất quốc tế sẽ tác động đến điểm cân bằng của tỷ giá hối đoái thực thông qua hai kênh: thứ nhất, dưới chế độ tỷ giá cố định thì lãi suất trong nước tăng lên để giữ được mức so sánh với lãi suất quốc tế, do đó làm giảm chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm. Một sự cải thiện cán cân vãng lai như vậy sẽ gây nên việc giảm tỷ giá thực cân bằng. Thứ hai, phụ thuộc vào việc nước đó là chủ nợ hay con nợ ròng, một sự cải thiện hoặc xấu đi phản ánh sự thay đổi tương ứng của sự thay đổi vị thế chuyển giao các nhân tố thu nhập, tác động này sẽ thúc đẩy thêm việc giảm tỷ giá thực cân bằng là không rõ ràng, nếu một nước là con nợ lớn. Tác động của lãi suất quốc tế cao hơn cũng phụ thuộc vào phản ứng ngân sách của chính phủ. Nếu chính phủ làm trung hoà tác động của ngân sách lên sự thay đổi lãi suất bằng cách giảm chi tiêu hàng hoá thương mại hoá, thì tỷ giá thực cân bằng sẽ có xu hướng giảm trong dài hạn. mặt khác, tỷ giá thực cân bằng sẽ tăng nếu việc trả lãi suất được tài trợ bằng cách tăng thuế, hoặc nếu kèm theo việc giảm chi tiêu chính phủ đối với hàng hoá không thương mại hoá. 1.3.1.e.Tỷ giá hối đoái thực, sức cạnh tranh quốc tế và lạm phát,cán cân thanh toán của quốc gia Trong khi tỷ giá thực có thể chênh lệch ra khỏi điểm cân bằng vì một số các cơn sốc gây nên thì nguyên nhân chủ yếu của việc xấu đi sức cạnh tranh đối với bên ngoài ở hầu hết các nước đang phát triển là tỷ lệ lạm phát nội địa cao kèm theo việc duy trì chế độ tỷ giá tỷ giá danh nghĩa cố định. Các tiếp cận để ngăn ngừa sự xấu đi của sức cạnh tranh quốc tế là thực hiện quy tắc tỷ giá thực. Như vậy quy tắc tỷ giá có thể ngăn ngừa được sự xuất hiện mất cân đối lớn và lâu dài của các giá cả tương đối và do đó tránh được mất cân bằng ngoại, bằng cách cho tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh thường xuyên và theo liều lượng tương đối nhỏ. Người ta lập luận rằng: tỷ giá hối đoái thực tế có thể giữ được ở mức đúng đắn, không gây ra cái giá điều chỉnh phải trả cho nền kinh tế, và do đó che lấp được vấn đề phá giá có thể nổi lên trên chiến trường chính trị. Hơn thế nữa, người ta còn khẳng định quy tắc tỷ giá thực cung cấp một mức cho dự đoán. bởi vì nó cung cấp cho những người tham gia thị trường thông tin bổ ích về chiều hướng có thể xảy ra các giá tương đối và do đó tránh được các quyết định sản xuất dựa trên các dự đoán mong đợi sai lệch. Tuy vậy, việc chấp nhận quy tắc tỷ giá thực cũng gây ra một số vấn đề như: xác định điểm cân bằng của tỷ giá thực là không dễ dàng về lý thuyết, chứ chưa nói về mặt thực tiễn và một số khó khăn nghiêm trọng có thể phải tính đến nếu đích tỷ giá đặt sai. Vì vậy, trong khi phát biểu quy tắc tỷ giá thực thì phải cho phép có một độ sai số so với điểm cân bằng của tỷ giá thực do các cơn sốc bên ngoài hoặc trong nước gây ra. Nếu cơn sốc là tạm thời, thì có thể kiên trì quy tắc tỷ giá thực. Nếu cớm sốc là lâu dài thì sự sai biệt lớn của tỷ giá thực so với điểm cân bằng có thể làm giảm sức cạnh tranh quốc tế. Các nghiên cứu gần đây cho thấy: các quy tắc tỷ giá thực có thể tạo nên sự không an tâm, đối với hệ quả cân bằng vĩ mô, dù nó có tác động tốt về mặt cân bằng ngoại. Việc thực hiện đích tỷ giá thực, tức là buộc phải theo đuổi đích phần thực mà lại sử dụng các công cụ đại lượng danh nghĩa với giá cả nội địa. Vì vậy các cơn sốc đối với lạm phát trong nước có thể mang tính chất lâu dài, và trong một số trường hợp có thể dẫn đến lạm phát, về phía cạnh khác, trong nền kinh tế nhỏ, cung tiền tệ có thể bị gia tăng do nguồn bên ngoài tăng lên, thì một sự bùng nổ giá cũng có thể xảy ra ngay cả khi chính sách tín dụng không bành trướng. Chính sách hỗ trợ đối với các biến động của giá thông qua điều chỉnh tiền tệ và tỷ giá sẽ tác động đến quá trình hình thành tiền lương trong nền kinh tế. Theo chính sách đó thì người lao động sẽ không quan tâm nhiều đến tác động lên công ăn việc làm của việc định ra tiền lương danh nghĩa cao hơn, vì các công ty có đủ khả năngchuyển chi phí tiền lương cao hơn sang giá cao hơn, vì vậy sự tăng lương sẽ phản ánh đầy đủ trong tiền lương và tăng giá cả tiếp tục theo đó. Tác động lên tổng sản phẩm của các chính sách hỗ trợ tài chính và tỷ giá hối đoái sẽ phụ thu vào nguồn gây nên biến động. Nếu cơn sốt cung thống trị, thì biến động của tổng sản phẩm sẽ tăng lên do chỉ số hoá đầy đủ tỷ giá hối đoái. Ngược lại, nếu cơn sốt cầu thống trị thì các chính sách hỗ trợ sẽ làm ổn định tổng sản phẩm. Các nghiên cứu về hệ quả của quy tắc tỷ giá thực và ổn định giá chỉ mới bắt đầu gần đây và có ít. Ađam và Gros(1966) nghiên cứu vấn đề bằng cách sử dụng một số mô hình phân tíc đơn giản với các giả thiết khác nhau liên quan đến cơ cấu hàng hoá, tính cứng nhắc của giá lương, độ tự do lưu chuyển vốn. Họ kết luận rằng: chính sách tiền tệ có thể mất khả năng kiểm soát lạm phát nếu đặt tỷ giá danh nghĩa theo quy tắc tỷ giá thực và nếu sau đó lại tìm cách kiểm soát lạm phát, thì sẽ mất khả năng kiểm soát diễn biển kinh tế vĩ mô khác, họ cũng lập luận rằng: nếu tỷ giá hối đoái thực nâng quá mức so với điểm cân bằng thì lạm phát chắc chắn sẽ cao hơn. Hoạt động của quy tắc tỷ giá thực và chính sách ngân sách liên quan chặt chẽ với nhau Lizondc(1989) đưa ra lược đồ mối quan hệ giữa in tiền do thiếu hụt ngân sách và tốc độ phá giá tỷ giá. Trong đó, giá trị cân bằng lâu bền của tỷ giá thực là hàm không chỉ biến thực nêu trên mà còn của tỷ lệ lạm phát trong nước. Đại lượng sau quyết định tổng thu được của chính phủ thông qua thuế lạm phát, đến lượt nó lại tác động lên giá trị tài sản của tư nhân và chi tiêu trong dài hạn, và do đó lên điểm cân bằng của tỷ giá thực. Mỗi một đích tỷ giá thực gây ra một tỷ lệ lạm phát nội địa về dài hạn, khi các điều kiện khác không thay đổi. Bên cạnh đó cần lưu ý không phải tất cả các đích tỷ giá thực là khả thi và không phải tất cả các quy tắc tỷ giá đều đưa nền kinh tế đến đích, ngay như nếu đích đó là khả thi. Kinh nghiệm các nước lạm phát cao đã làm tăng sự phản đối việc chấp nhận các quy tắc tỷ giá thực. Nhiều nước trên đã trải qua tình trạng tỷ lệ lạm phát cao trong thập kỷ trước mà đặc trưng "mặt bằng cao". Lạm phát nhảy từng bước đến các thời kỳ lạm phát cao hơn nhưng lại tương đối ổn định. Trong một số trường hợp thì bước nhảy như vậy liên quan đến phá giá từng đợt, tiếp theo là "cố định" dựa vào các quy tắc tỷ giá so sánh sức mua. Trong các nỗ lực lớn hơn, gần đây họ cố định tỷ giá danh nghĩa để cung cấp một mốc meo danh nghĩa. Điều này cũng không kết luận rằng: gắn cố định dựa trên cơ sở tỷ giá so sánh sức mua là gây nên lạm phát cao, nhưng thực tiễn cho thấy nguy cơ ngày càng cao. Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một số lợi thế của quy tắc tỷ giá thực, ví dụ: tỷ giá thực sẽ không cho phép chênh lệch xa điểm cân bằng, vì vậy không phải lo lắng trước sự mất ổn định của giá nội địa. Tóm lại, một khi đích mục tiêu đặt ra đối với tỷ giá thực vẫn còn đúng, thì tiềm năng gây lạm phát do sử dụng đích mục tiêu tỷ giá thực gây ra có thể được kìm hãm bằng cách sử dụng các chính sách ngân sách và tiền tệ thắt chặt, tiếp cận này sẽ ngăn ngừa sự xuất hiện biến động gây mất ổn định của giá cả, ngay cả khi nếu tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh để duy trì sức cạnh tranh quốc tế. Khi không biết chắc chắn giá trị cân bằng của tỷ giá thực thì không nên quá chú trọng vào việc đặt ra đích mục tiêu tỷ giá thực, ngay cả khi nếu các chính sách ngân sách và tiền tệ được sử dụng một cách thận trọng. Gánh nặng của điều chỉnh ít nhất là một phần do các chính sách tài chính chịu, hơn là hoàn toàn dồn cho điều chỉnh tỷ giá. Theo nghĩa đó thì cần phải chú ý rằng các chính sách như vậy bản thân chúng có thể chịu tác động bởi chế độ tỷ giá hối đoái mà chính phủ đưa ra. Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái niệm khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = E*Po/P Trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo giá thị trường nước ngoài. P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội tệ. E:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội địa. Với P và Po không đổi khi E tăng , EPo sẽ tăng. Giá của sản phẩm nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm trong nước và ngược lại, giá của sản phẩm trong nước trở nên rẻ, tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong nước do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng ( X tăng ), nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều này làm cho xuất khẩu ròng (NX= X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nên NX tăng lên làm cho AD dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng Q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm. AD' P ASLR ASSR AD Q* Q Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối đoái thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản lượng, việc làm giá cả. Hãy mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán, ở đây có mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất tăng lên, đồng tiền nội địa trở nên có giá trị hơn, tỷ giá hối đoái của đồng nội địa tăng lên, trong điều kiện tư bản vận động một cách tự do thì tư bản nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân thương mại là công bằng thì cán cân thanh toán là thặng dư. Như vậy tỷ giá hối đoái là một biến cố rất quan trong, tác động đến sự cân bằng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do đó tác động đến sản lượng, việc làm cũng như sự cân bằng của nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, một số nước trên thế giới vẫn còn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, còn phần lớn các nước theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái chỉ biến động trong một phạm vi nhất định, để ổn định và phát triển nền kinh tế. 1.4.Các chính sách điều hành tỷ giá hối đoái trên thế giới. 1.4.1.Khái niệm: Chính sách TGHĐ là một hệ thống các công cụ dùng để tác động tới cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản , chính sách tỷ giá hối đoái tập trung chú trọng vào hai vấn đề lớn là : vấn đề lựa chọn chế độ ( hệ thống ) tỷ giá hối đoái ( cơ chế vận động của tỷ giá hối đoái ) và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái . 1.4.2.Các chế độ tỷ giá hối đoái 1.4.2.1.Chế độ tỷ giá hối đoái cố định 1.4.2.1.a.Chế độ đồng giá vàng (1880 - 1932): Sau một quá trình phát triển lâu dài, tiền thống nhất từ các dạng sơ khai thành hai loại: vàng và bạc sau đó cố định ở vàng. Chế độ bản vị vàng là chế độ ở đó, vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung, chỉ có tiền đúc bằng vàng hoặc dấu hiệu của nó mới có thể đổi lấy nó. Theo đó, đồng tiền của các nước được đổi trực tiếp ra vàng, tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của các đồng tiền, sự so sánh đó được gọi là ngang giá vàng (gold parity). Ví dụ: 1 GBP = 5 USD có nghĩa là: 1GBP có chứa "một hàm lượng vàng" tương đương với 5 lần hàm lượng vàng của 1 USD. Nói cách khác, ngang giá vàng của GBP so với USD là: GBP/USD = 5. Trong chế độ bản vị vàng, khi việc đúc tiền vàng , đổi tiền ra vàng và xuất nhập khẩu vàng được thực hiện tự do thì tỷ giá hối đoái tách khỏi ngang giá vàng là rất ít vì nó bị giới hạn bởi các điểm vàng. Thực hiện xuất nhập khẩu vàng sẽ quay quanh "điểm vàng". Giới hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng giữa các nước hữu quan. Điểm cao nhất của tỷ giá hối đoái gọi là "điểm xuất vàng" vì vượt quá giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy ra khỏi nước". Điểm thấp nhất của tỷ giá hối đoái là "điểm nhập vàng" vì xuống dưới giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy vào trong nước". Nhờ có đặc điểm trên, chế độ bản vị vàng có tính ổn định cao, tiền tệ không bị mất giá, tỷ giá ít biến động, cán cân thương mại tự động cân bằng. Chế độ này có khả năng tự điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nước, do đó nó có tác động tích cực đối với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu phát triển. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của thương mại quốc tế. Tuy nhiên chế độ bản vị vàng tồn tại không lâu, đến 1914 nó sụp đổ do hàng loạt các nguyên nhân sau: - Do xu thế phát triển kinh tế thế giới không đồng đều khiến cho một số nước công nghiệp phát triển ngày càng giàu lên, dự trữ vàng lớn do xuất khẩu được nhiều hàng hoá. Còn ở các nước kém phát triển kho vàng ngày càng cạn kiệt do phải nhập khẩu hàng hoá. Do đó, thế giới được chia thành hai khối: các nước kinh tế phát triển và các nước kinh tế kém phát triển. - Lạm hành việc phát hành tiền vàng, các Chính phủ đã chi tiêu quá lớn dẫn đến việc dự trữ vàng trong kho nhà nước không đủ để đảm bảo cho việc đổi tiền phù hiệu ra tiền vàng, làm cho công chúng có tâm lý sử dụng tiền phù hiệu và cất tiền vàng đi. Ai có vàng không đúc tiền vàng nữa mà dùng để đổi lấy tiền phù hiệu. Dẫn đến tiền phù hiệu được lưu thông rộng rãi trên cơ sở ngang giá vàng. Các nước kinh tế phát triển có đồng tiền được coi là tiền chủ chốt. Các nước kinh tế kém phát triển có đồng tiền được coi là tiền phụ thuộc. Tiền phụ thuộc đến với tiền chủ chốt sẽ đến được với vàng. Vì chỉ tiêu tiền phù hiệu nên các nước lớn đã phát hành một lượng tiền phù hiệu lớn để thao túng kinh tế, chính trị, vơ vét của cải, tài nguyên, xâm chiếm thuộc địa ở các nước kém phát triển. Khi lượng tiền phù hiệu ở trong lưu thông quá lớn thì nó trở lại để đổi lấy tiền vàng sẽ không có lượng vàng đủ lớn để đúc tiền vàng nữa. Mặt khác, trước đại chiến thế giới I, chính phủ các nước chạy đua vũ trang đã tìm mọi cách vơ vét vàng, vì thế lượng vàng trong lưu thông giảm mạnh, các dấu hiệu tiền tệ, tiền giấy tăng lên, đến khi chiến tranh thế giới năm 1914 bùng nổ, chế độ bản vị vàng tan vỡ. Các nước bắt đầu áp dụng các hình thức biến tướng của ngang giá vàng là chế độ bản vị vàng thoi và chế độ bản vị vàng hối đoái. Các chế độ này không có tính chất ổn định như chế độ bản vị tiền vàng trước năm 1914. Đến năm 1923, Anh kêu gọi các nước thực hiện lại chế độ bản vị vàng nhưng không nước nào tham gia. Năm 1925, Anh đơn phương thực hiện lại chế độ bản vị vàng, các nước cùng nhau phá giá đồng tiền của mình mua GBP, đổi lấy vàng gây nên nạn chảy máu vàng ở Anh. Năm 1931, Anh buộc phải xoá bỏ chế độ đồng giá vàng - bảng Anh. Đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ bản vị vàng dưới mọi hình thức và điều đó cũng có nghĩa là đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ tỷ giá hối đoái ổn định và sức mua của đồng tiền được giữ vững. 1.4.2.1.b.Chế độ tỷ giá cố định theo thoả ước Bretton Woods (1946 - 1971) Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự thế giới mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội nghị tại Bretton Woods (Mỹ) tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh toán chung. Hội nghị được đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ. Tại đây 56 nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này, các nước cam kết duy trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi biến động không quá ( 1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay đổi tỷ giá mà không được sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các nước phải can thiệp vào thị trường tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng USD. Điều này cũng có nghĩa là các nước phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho đồng USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở mức 35USD/ounce vàng ( biến động giá cả không quá 24 cent/ounce). USD là đồng tiền chủ chốt số 1 với tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng. Ví dụ: Trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng: 1USD = 5,55 FRF thì NHTW Pháp phải duy trì tỷ giá ở mức 1USD = 5,4945 FRF (5,55*99%) đến 1USD = 5,6055 FRF (5,5*101%). Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8 USD vàng bảo đảm. Lượng vàng đảm bảo đồ sộ như vậy nên cả thế giới tư bản chỉ lo có vàng để đổi lấy USD mà mua hàng Mỹ chứ không quan tâm đến việc USD có đổi lấy vàng được không. Chính vì vậy, các nước có xu hướng chuyển đổi từ dự trữ vàng sang dự trữ USD để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ quốc tế của các nước vì Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không hạn chế USD ra vàng. Các nước ngày càng mở rộng thương mại với Mỹ, gia tăng dự trữ USD của họ, khiến cho sức hút USD ra ngoài ngày càng tăng. Tổng khối lượng USD trên toàn thế giới vào cuối năm 1944là 28,5 tỷ USD, thì đến cuối năm 1968 đã lên đến gần 100 tỷ USD. Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp các nước mà không có gì bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc lộ những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được: - Dự trữ không tương xứng: Do quy mô thương mại quốc tế ngày càng tăng gắn liền với những dòng vận động tiền tệ lớn, đòi hỏi các NHTW phải mua và bán khối lượng lớn đồng USD để duy trì tỷ giá hối đoái đã thoả thuận. Về dài hạn, một số ngân hàng nhận thấy dự trữ USD và vàng của mình không đủ đáp ứng nhu cầu trên. - Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả tương đối giữa các đồng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá đã định theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi. - Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác nhau về xuất nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và hàng loạt các nhân tố tác động khác đã làm cho có sự thay đổi tương đối về giá trị tương đối giữa các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nước đã xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho tỷ giá cố định. Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Do đó, các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm cho cán cân thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng 3/1973) 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá (-10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ. 1.4.2.1.c.Nhận định chung về chế độ tỷ giá cố định: Đây là chế độ tỷ giá hối đoái mà ở đó Nhà nước, cụ thể là NHTW tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng dư cầu hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số dư đó. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định: + Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh. + Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô. + Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá. - Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định: + Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ thi trường hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá. + Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng. + Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không mong muốn. 1.4.2.2.Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay): Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào tháng 7/1976, tại hội nghị Jamaica, các thành viên của IMF đã thống nhất đưa ra những quy định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là "tỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả nổi" được các thành viên IMF chấp nhận. Theo chế độ mới, tỷ giá được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường mà cụ thể là quy luật cung - cầu ngoại tệ. NHTW các nước không có bất kỳ một tuyên bố hay cam kết nào về chỉ đạo, điều hành tỷ giá. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi: + Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nước nào đó có cán cân vãng lai thâm hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cho đến khi cán cân thanh toán trở nên cân bằng. + Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ. + Góp phần ổn định kinh tế, tránh được những cú sốc bất lợi từ bên ngoài, vì khi giá cả nước ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều chỉnh theo cơ chế PPP để ngăn ngừa các tác động ngoại lai. - Nhược điểm: + Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ làm méo mó, sai lệch thị trường, có khả năng gây nên lạm phát cao và tăng nợ nước ngoài. + Hạn chế các hoạt động đầu tư và tín dụng do tâm lý lo sợ sự biến động theo hướng bất lợi của tỷ giá. Khi mới ra đời, chế độ tỷ giá thả nổi tự do được cho là phương thức hữu hiệu vạn năng cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế chứng minh rằng, càng thả nổi tỷ giá thì sự phát triển kinh tế càng kém ổn định. Bởi lẽ, biến động của tỷ giá rất phức tạp, chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội... đặc biệt là nạn đầu cơ. Trên thực tế thì lại không có thị trường thuần tuý nên không thể có một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái có những diễn biến thuận lợi hơn nên chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý ngày càng được nhiều quốc gia lựa chọn đặc biệt là các nước đang phát triển. 1.4.2.3.Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi): Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. ở đó, tỷ giá được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép. Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ: - Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó. - Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá chính thức có vai trò dẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ. - Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp. Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" hay "cố định bò trườn" có nhiều tính ưu việt hơn và được nhiều nước sử dụng, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" hay "bò trườn" ở mức độ bao nhiêu nên gần với thả nổi hay gần với cố định hơn? biên độ dao động là bao nhiêu? Rất khó để đưa ra một câu trả lời chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nhìn chung, đối với các nước kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một hệ thống công cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các chính sách còn thiếu đồng bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngoại tệ còn hạn hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý tỏ ra là một chính sách hợp lý nhất. 1.4.3.Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh 2 vấn đề chính : Mối quan hệ giữa các nền kinh tế quốc gia với cả hệ thống toàn cầu và mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế trong nước. Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá là lựa chọn hệ thống mở của hay đóng cửa.Các phương án lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc tỷ giá cố định hoặc tỷ giá linh hoạt.Một quốc gia lựa chọn tỷ giá cố định tức là chấp nhận sự ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc gia.Các chính sách kinh tế của quốc gia phải phù hợp với duy trì tỷ giá hối đoái cố định,vì vậy việc hoạch định chính sách đối nội trở thành ngoại sinh và tuân thủ theo thoả ước tỷ giá.Từ đó có thể thấy rằng sự lựa chọn này ngang với việc áp đặt các ràng buộc quốc tế vào các chính sách kinh tế quốc gia.Nói rộng hơn, lựa chọn cơ chế tỷ giá cố định tương đương với lựa chọn một hệ thống mở cửa,trong đó luôn có sự tương tác giữa các nhân tố quốc gia và cả hệ thống thế giới.Ngược lại,phương án tỷ giá linh hoạt, về nguyên tắc không chấp nhận một sự ràng buộc nào vào các chính sách kinh tế đối nội.Các chính sách có tác động gì đi nữa thì sự dao động tỷ giá sẽ giữ chúng chỉ gây ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia.Và tương ứng với điều đó,kết quả của các chính sách kinh tế nước ngoài dù thế nào đi chăng nữa thì điều chỉnh tỷ giá sẽ giữ chúng ngoài phạm vi quốc gia.Thực tế, lựa chọn này giữ cho chính sách quốc gia không bị ràng buộc quốc tế.Nói rộng hơn,lựa chọn cơ chế hối đoái linh hoạt sẽ tách rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trường quốc tế. Thứ hai, chúng ta cần quan tâm đến mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế đối nội.Mức độ này khác nhau rõ ràng giữa việc lựa chọn nột trong hai loại chế độ tỷ giá.Vì tỷ giá cố định thể hiện sự cam kết áp đặt các ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc gia, có nghĩa rằng không thể theo đuổi các chính sách kinh tế đối nội một cách độc lập.Ngược lại,tỷ giá linh hoạt là một công cụ có thể sử dụng để giữ cho các hoạt động kinh tế của hệ thống quốc tế không ảnh hưởng tới các chính sách quốc gia.Vì vậy có thể theo đuổi các chính sách quốc gia mà không cần quan tâm đến thế giới bên ngoài và như vậy đặc thù của chúng là hệ thống đóng. 1.5.Các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. 1.5.1.Nguồn gốc phát sinh các rủi ro tỷ giá. 1.5.1.a.Đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Có thể nói rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu là loại rủi ro tỷ giá thường xuyên gặp phải và đáng lo ngại nhất đối với các công ty có hoạt động xuất nhập khẩu mạnh. ●Rủi ro tỷ giá đối với hợp đồng xuất khẩu. Giả sử ngày 04/08 công ty Sagonimex đang thương lượng ký kết hợp đồng xuất khẩu trị giá 200.000USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu tháng sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá USD/VND = 15.888 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết, vì chưa đến hạn. Sự không chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp đồng xuất khẩu của Sagonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá. ●Rủi ro tỷ giá đối với hợp đồng nhập khẩu. Giả sử ngày 04/08 công ty Cholonimex đang thương lượng ký kết hợp đồng nhập khẩu trị giá 200.000USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu tháng sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá USD/VND = 15.888 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết. Sự không chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp đồng nhập khẩu của Cholonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá. 1.5.2.b.Đối với hoạt động đầu tư Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với công ty đa quốc gia (multinational corporations) hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa dạng hoá trên bình diện quốc tế. Bên cạnh ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp như vừa đề cập, rủi ro tỷ giá cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư gián tiếp, tức là đầu tư trên thị trường tài chính. Chẳng hạn một nhà đầu tư Hongkong vừa rút vốn đầu tư 500.000 USD khỏi thị trường Mỹ do lãi suất USD giảm và tình hình kinh tế Mỹ không mấy khả quan. Giả sử bây giờ, do hưởng ứng lời kêu gọi và khuyến khích đầu tư của Chính phủ Việt Nam, nhà đầu tư muốn đầu tư mua cổ phiếu SAM. Giá thị trường của SAM hiện tại là 30.000VND/cổ phiếu và tỷ giá USD/VND = 15.400. Như vậy, với 500 nghìn USD nhà đầu tư có thể mua được (500.000 x 15.400)/30.000 = 256.666 cổ phiếu. Giả sử một năm sau, nhà đầu tư vì lý do nào đó muốn bán cổ phiếu SAM để rút vốn về đầu tư nơi khác. Lúc này giá cổ phiếu SAM tăng đến 31.000 VND/cổ phiếu trong khi giá USD cũng tăng so với VND lên đến 16.000 VND/USD. Số USD nhà đầu tư rút về bây giờ sẽ là (256.666 x 31.000)/16.000 = 496.000USD thấp hơn vốn đầu tư ban đầu 4000USD mặc dù giá cổ phiếu SAM tăng 1000VND! Trong trường hợp này nhà đầu tư tổn thất 4000USD (giả sử bỏ qua cổ tức nhà đầu tư nhận được sau một năm). Sự tổn thất này do biến động tỷ giá gây ra vì giá cổ phiếu SAM tăng 1000 đồng không đủ bù đắp sự mất giá của VND. 1.5.1.c.Đối với hoạt động tín dụng. Đứng trên giác độ doanh nghiệp, việc vay vốn bằng ngoại tệ cũng bị ảnh hưởng bởi rủi ro tỷ giá. Ví dụ công ty Giadimex đang thương lượng xin vay vốn tài trợ xuất khẩu của HSBC số tiền 3 triệu USD để thu mua và chế biến hàng xuất khẩu. Do lãi suất USD trên thị trường giảm nên HSBC đồng ý cho Giadimex vay với lãi suất 3%/năm trong thời hạn 6 tháng. Ở thời điểm vay vốn, tỷ giá USD/VND = 15.381. Sáu tháng sau khi nợ đáo hạn, tỷ giá USD/VND là bao nhiêu công ty chưa biết, do đó, công ty đối mặt với rủi ro tỷ giá nếu ký kết hợp đồng vay vốn này. 1.5.1.d.Đối với hoạt động khác Ngoài ba hoạt động tiêu biểu bao gồm hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư và hoạt động tín dụng, các hoạt động khác có liên quan đến giao dịch ngoại tệ như du lịch, du học, kiều hối, … cũng chịu ảnh hưởng của rủi ro tỷ giá. 1.5.2.Tác động của rủi ro tỷ giá. 1.5.2.a.Tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Sức cạnh tranh của doanh nghiệp tập trung ở khả năng quyết định giá cả của doanh nghiệp so với đối thủ trên thị trường. Hoạt động trong điều kiện có rủi ro tỷ giá tác động khiến doanh nghiệp luôn phải đối phó với tổn thất ngoại hối, bằng cách nâng giá bán để trang trải tổn thất nếu xảy ra. Điều này làm cho giá cả của doanh nghiệp trở nên kém hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm sút. Nhìn chung, rủi ro tỷ giá phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp có thể gây ra ba loại tổn thất ngoại hối : (1) Tổn thất giao dịch, (2) tổn thất kinh tế, (3) tổn thất chuyển đổi kế toán3. 1.5.2.1.a.Tổn thất giao dịch (transaction exposure) Tổn thất giao dịch phát sinh khi có các khoản phải thu hoặc phải trả bằng ngoại tệ. Tổn thất các khoản phải thu ngoại tệ là tổn thất phát sinh khi giá trị qui ra nội tệ thu về sụt giảm do ngoại tệ xuống giá so với nội tệ. Tổn thất các khoản phải trả ngoại tệ là tổn thất phát sinh khi giá trị qui ra nội tệ chi ra tăng lên do ngoại tệ lên giá so với nội tệ. 1.5.2.1.b.Tổn thất kinh tế (economic exposure) Tổn thất kinh tế là tổn thất phát sinh do sự thay đổi của tỷ giá làm ảnh hưởng đến ngân lưu qui ra nội tệ hoặc ngoại tệ của doanh nghiệp. Tổn thất kinh tế xảy ra tương tự như tổn thất giao dịch, chỉ khác biệt ở chỗ nó là những khoản tổn thất không xuất phát từ các khoản phải thu hoặc phải trả có hợp đồng rõ ràng mà từ ngân lưu hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, sự lên giá của nội tệ làm sụt giảm doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp, do hàng xuất khẩu bây giờ trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài. Tổn thất kinh tế có thể xác định theo công thức sau: ”V = CFt.”St, trong đó: • ”∆V là tổn thất ngoại hối kinh tế • CFt là ngân lưu của doanh nghiệp ở thời điểm t • ”∆St là mức độ thay đổi tỷ giá, ”St = St – S0, trong đó St, S0 lần lượt là tỷ giá ở thời điểm t và thời điểm gốc. Tổn thất kinh tế rõ ràng là khó xác định và ước lượng hơn tổn thất giao dịch, do nó phụ thuộc vào cả hai biến cùng thay đổi là CFt và ”St . 1.5.2.1.b.Tổn thất chuyển đổi (translation exposure) Tổn thất chuyển đổi là tổn thất phát sinh do thay đổi tỷ giá khi sáp nhập và chuyển đổi tài sản, nợ, lợi nhuận ròng và các khoản mục khác của các báo cáo tài chính từ đơn vị tính toán ngoại tệ sang đơn vị nội tệ. 1.5.2.1.c.Tác động đến khả năng chịu đựng tài chính của doanh nghiệp 1.5.2.1.d.Tác động bất ổn đến hoạt động doanh nghiệp Rủi ro tỷ giá tác động đến việc hoạch định tài chính doanh nghiệp thường thấy trong khi phân tích và xem xét dự án đầu tư mà ngân lưu kỳ vọng chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của tỷ giá ngoại hối trong tương lai.Chẳng hạn , một trong những chỉ tiêu đánh giá xe có nên đầu tư hay không vào dự án này là hiện giá ròng NPV. . Tỷ giá thay đổi làm thay đổi dòng tiền ròng từ đó làm ảnh hưởng đến NPV và ảnh hưởng đến việc hoạch định đầu tư vốn của doanh nghiệp. 1.5.2.b.Tác động đến sự tự chủ tài chính của doanh nghiệp Sự chịu đựng tài chính của doanh nghiệp được xác định và đo lường bởi sự tự chủ về tài chính. Trong tài chính công ty, chúng ta đã biết sự tự chủ tài chính được xác định bởi tỷ số vốn chủ sở hữu trên nợ hoặc trên tổng tài sản. Khi có rủi ro tỷ giá, doanh nghiệp đối mặt với tổn thất làm cho giá trị phần vốn chủ sở hữu trở nên bất ổn và có nguy cơ sụt giảm khiến cho tỷ số chủ động về tài chính giảm theo. 1.5.2.3.Các cách để phòng chống rủi ro tỷ giá Để phục vụ cho mục tiêu phòng ngừa rủi ro tỷ giá, doanh nghiệp có thể sử dụng các loại giao dịch hay các loại hợp đồng sau: Hợp đồng kỳ hạn (forward contract), Hợp đồng hoán đổi (swap contract), Hợp đồng giao sau (future contract), Hợp đồng quyền chọn (options contract), Kết hợp các giao dịch trên thị trường tiền tệ (money market hedge) A.Giao dịch giao ngay Hối đoái giao ngay (spot transactions) là nghiệp vụ mua hoặc bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là trong hai ngày làm việc kể từ khi thoả thuận hợp đồng mua bán. Giao dịch hối đoái giao ngay được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ giao ngay phục vụ cho thanh toán của khách hàng. Chẳng hạn, một công ty xuất khẩu vừa thu ngoại tệ từ một hợp đồng xuất khẩu nhưng cần VND để chi trả tiền lương và trang trải chi phí thu mua nguyên liệu trong nước sẽ có nhu cầu bán ngoại tệ lấy VND. Ngân hàng thương mại đứng ra mua số ngoại tệ này của nhà xuất khẩu, sau đó bán lại cho nhà nhập khẩu là người có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán hợp đồng nhập khẩu đến hạn. B.Giao dịch kỳ hạn B.1.Giới thiệu chung Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn (forward) là giao dịch mua hoặc bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện sau một thời hạn nhất định kể từ khi thoả thuận hợp đồng. Ở Việt Nam, hợp đồng kỳ hạn mặc dù đã được chính thức đưa ra thực hiện từ năm 1998, nhưng đến nay nhu cầu giao dịch loại hợp đồng này vẫn chưa nhiều. Lý do, một mặt, là khách hàng vẫn chưa am hiểu lắm về loại giao dịch này. Mặt khác, do cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong suốt thời gian qua khá ổn định theo hướng VND giảm giá từ từ so với ngoại tệ để khuyến khích xuất khẩu nhưng vẫn đảm bảo ổn định đối với hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên, trong tương lai khi Việt Nam gia nhập WTO và dần dần hội nhập tài chính với quốc tế thì Ngân hàng Nhà nước sẽ bớt dần can thiệp vào thị trường ngoại hối, khi ấy rủi ro tỷ giá đáng lo ngại và nhu cầu giao dịch hối đoái kỳ hạn sẽ B.2 Tỷ giá kỳ hạn Tỷ giá có kỳ hạn (forward rate) là tỷ giá áp dụng trong tương lai nhưng được xác định ở hiện tại. Gọi F là tỷ giá có kỳ hạn; S là tỷ giá giao ngay; rd là lãi suất của đồng tiền định giá; ry là lãi suất của đồng tiền yết giá, ta có tỷ giá có kỳ hạn được xác định bởi công thức sau: F = S(1 + rd)/(1+ ry) (1). Nói chung tỷ giá có kỳ hạn phụ thuộc vào tỷ giá giao ngay và lãi suất đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất đồng tiền định giá có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn lãi suất đồng tiền yết giá. Dựa vào công thức (1), chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: • Nếu lãi suất đồng tiền định giá lớn hơn lãi suất đồng tiền yết giá: rd > ry => 1+rd > 1+ry => (1+rd)/ (1+ry) >1 => F > S. • Nếu lãi suất đồng tiền định giá nhỏ hơn lãi suất đồng tiền yết giá: rd 1+rd (1+rd)/ (1+ry) F < S. • Kết hợp hai trường hợp trên chúng ta thấy rằng tỷ giá có kỳ hạn có thể tóm tắt như sau: Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + Điểm kỳ hạn Ở đây, có hai trường hợp xác định tỷ giá có kỳ hạn: tỷ giá mua có kỳ hạn và tỷ giá bán có kỳ hạn. Để tiện việc tính toán, chúng ta đặt: • Fm, Sm lần lượt là tỷ giá mua có kỳ hạn và tỷ giá mua giao ngay • Fb, Sb lần lượt là tỷ giá bán có kỳ hạn và tỷ giá bán giao ngay • Ltg(VND), Lcv(VND) lần lượt là lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay đồng Việt Nam • Ltg(NT), Lcv(NT) lần lượt là lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ. • N là số ngày của hợp đồng có kỳ hạn 1. Tỷ giá mua có kỳ hạn 2. Tỷ giá bán có kỳ hạn (3) (4) 360*100Lcv(NT)]N-)Sm[Ltg(VNDSm Fm+=360* 100Ltg(NT)]N-)Sb[Lcv(VNDSbFb+= Trong công thức (3) và (4) trên đây, người ta giả định năm tài chính có 360 ngày và lãi suất được tính theo %/năm. B.3 Sử dụng giao dịch kỳ hạn Hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn thường được ngân hàng áp dụng để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ kỳ hạn của khách hàng nhằm mục tiêu phòng ngừa rủi ro tỷ giá. B.4Hạn chế của giao dịch kỳ hạn Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn thoả mãn được nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng mà việc chuyển giao được thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên, do giao dịch kỳ hạn là giao dịch bắt buộc nên khi đến ngày đáo hạn dù bất lợi hai bên vẫn phải thực hiện hợp đồng. Một điểm hạn chế nữa là hợp đồng kỳ hạn chỉ đáp ứng được nhu cầu khi nào khách hàng chỉ cần mua hoặc bán ngoại tệ trong tương lai còn ở hiện tại không có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ. C.Giao dịch hoán đổi (swaps) C.1 Sử dụng giao dịch hoán đổi Giao dịch hoán đổi là giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch: giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với đồng tiền khác, trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký hợp đồng.Trong hợp đồng giao dịch hoán đổi, hai bên ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau một số nội dung chính như sau: Thời hạn giao dịch – Thời hạn giao dịch hoán đổi có thể từ 3 ngày đến 6 tháng. Nếu ngày đáo hạn rơi vào ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ thì hai bên sẽ thoả thuận chọn một ngày đáo hạn thích hợp và thời hạn hợp đồng sẽ tính trên số ngày thực tế. Ngày thanh toán – Trong giao dịch hoán đổi, ngày thanh toán bao gồm hai loại ngày khác nhau: ngày hiệu lực và ngày đáo hạn. Ngày hiệu lực là ngày thực hiện thanh toán giao dịch giao ngay trong khi ngày đáo hạn là ngày thực hiện thanh toán giao dịch có kỳ hạn. Xác định tỷ giá hoán đổi – Một hợp đồng hoán đổi liên quan đến hai loại tỷ giá: tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời điểm giao dịch do hai bên thoả thuận. Tỷ giá có kỳ hạn được tính trên cơ sở tỷ giá giao ngay, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ, và số ngày thực tế của hợp đồng. C.2 Lợi ích và hạn chế của giao dịch hoán đổi Với khách hàng lợi ích thể hiện ở chỗ khách hàng thoả mãn được nhu cầu ngoại tệ hoặc nội tệ của mình ở thời điểm hiện tại, đồng thời cũng thoả mãn nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ vào này đáo hạn. Tuy nhiên, cũng như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi vẫn còn hạn chế ở hai điểm: • Nó là hợp đồng bắt buộc yêu cầu các bên phải thực hiện khi đáo hạn bất chấp tỷ giá trên thị trường giao ngay lúc đó như thế nào. • Nó chỉ quan tâm đến tỷ giá ở hai thời điểm: thời điểm hiệu lực và thời điểm đáo hạn, mà không quan tâm đến sự biến động tỷ giá trong suốt quảng thời gian giữa hai thời điểm đó. D.Giao dịch giao sau D.1 Giới thiệu chung Hợp đồng giao sau là một thoả thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch (IMM). D.2 So sánh hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau Điểm khác biệt Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng giao sau Loại hợp đồng Một thoả thuận giữa NH và khách hàng. Điều khoản của HĐ rất linh động Được tiêu chuẩn hoá theo những chi tiết của Sở giao dịch Thời hạn Các bên tham gia HĐ có thể lựa chọn bất kỳ thời hạn nào, nhưng thường là hệ số của 30 ngày Chỉ có một vài thời hạn nhất định Trị giá HĐ Nói chung rất lớn, trung bình trên 1 triệu USD một HĐ Nhỏ đủ để thu hút nhiều người tham gia Thoả thuận an toàn Khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu ở NH để bảo đảm cho HĐ Tất cả các nhà giao dịch phải duy trì tiền ký quỹ theo tỷ lệ phần trăm trị giá HĐ Thanh toán tiền tệ Không có thanh toán tiền tệ trước ngày HĐ đến hạn Thanh toán hàng ngày bằng cách trích tài khoản của bên thua và ghi có vào tài khoản bên được D.3 Thành phần tham gia giao dịch Nhà kinh doanh ở sàn giao dịch (floor traders): thường là các nhà đầu cơ (speculators) hoặc đại diện cho các ngân hàng, công ty mà sử dụng thị trường giao sau để bổ sung cho các giao dịch có kỳ hạn. Nhà môi giới ở sàn giao dịch (floor brokers): nói chung là đại diện của các công ty đầu tư, những công ty chuyên môi giới đầu tư ăn hoa hồng. D.4 Cơ chế giao dịch Tất cả các hợp đồng giao sau đều thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch có tổ chức. Sở giao dịch là người đề ra qui chế và kiểm soát hoạt động của các hội viên. Hội viên của Sở giao dịch là các cá nhân, có thể là đại diện của các công ty, ngân hàng thương mại hay cá nhân có tài khoản riêng. D.5 Đặc điểm của giao dịch giao sau Mặc dù các hợp đồng có kỳ hạn thường rất linh hoạt về phương diện thời hạn và số tiền giao dịch nhưng chúng hạn chế về mặt thanh khoản (liquidity) bởi vì các bên tham gia hợp đồng không thể bán hợp đồng khi thấy có lời cũng không thể xoá bỏ hợp đồng khi thấy bất lợi. Trong khi đó, hợp đồng giao sau có tính thanh khoản cao hơn bởi vì phòng giao hoán sẵn sàng đứng ra “đảo hợp đồng” bất cứ khi nào có một bên yêu cầu. Khi đảo hợp đồng thì hợp đồng cũ bị xoá bỏ và hai bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch giá trị tại thời điểm đảo hợp đồng. D.6 Minh hoạ giao dịch giao sau Để dễ hiểu hơn về cách thức thực hiện một hợp đồng giao sau, dưới đây xin lấy một ví dụ minh hoạ. Nhà đầu cơ thị trường giao sau dự báo vài ngày tới CHF sẽ lên giá so với USD. Nhằm kiếm tiền từ cơ hội này, vào sáng ngày thứ ba, một nhà đầu tư trên thị trường giao sau Chicago mua một hợp đồng giao sau trị giá 125.000 CHF với tỷ giá 0,75 USD cho 1 CHF. Sau khi mua hợp đồng giao sau, nhà đầu cơ sốt ruột theo dõi diễn biến tình hình thị trường. Thời gian Hoạt động Thanh toán Sáng ngày thứ ba • Nhà đầu tư mua hợp đồng giao sau, đến hạn vào chiều ngày thứ năm với tỷ giá 0,75 $/CHF • Nhà đầu tư ký quỹ 2.565$ Chưa xảy ra Cuối ngày thứ ba Giá CHF tăng đến 0,755$, vị trí của nhà đầu tư được ghi nhận trên thị trường Nhà đầu tư nhận: 125.000 x (0,755 – 0,75) = 625$ Cuối ngày thứ tư Giá CHF giảm còn 0,752$, vị trí mới của nhà đầu tư được ghi nhận Nhà đầu tư phải trả: 125.000 x (0,755 – 0,752) = 375$ Cuối ngày thứ năm Giá CHF giảm còn 0,74$ • Hợp đồng đến hạn thanh toán • Nhà đầu tư nhận ngoại tệ chuyển giao Nhà đầu tư phải trả: (1) 125.000(0,752 – 0,74) = 1500$ (2) 125.000 x 0,74 = 92.500$ D.7 Sử dụng giao dịch giao sau để đầu cơ Từ ví dụ minh hoạ hợp đồng giao sau trên đây chúng ta dễ nhận thấy rằng giao dịch giao sau giống như hoạt động “cá cược”, trong đó Sở giao dịch đóng vai trò người tổ chức, người mua hợp đồng giao sau một loại ngoại tệ nào đó chính là người đánh cược rằng ngoại tệ đó sẽ lên giá. Ngược lại, người bán hợp đồng giao sau một loại ngoại tệ nào đó chính là người đánh cược rằng ngoại tệ đó sẽ xuống giá trong tương lai. D.8 Khả năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng giao dịch giao sau Hợp đồng giao sau có thể sử dụng như là một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Nguyên lý chung là khi có một khoản phải trả bằng ngoại tệ và lo sợ rằng ngoại tệ đó sẽ lên giá khi khoản phải trả đến hạn thì nên mua một hợp đồng giao sau ngoại tệ đó. Bằng cách này có thể tạo ra hai trạng thái ngoại tệ trái ngược nhau: trạng thái âm khi nợ một khoản phải trả và trạng thái dương khi mua hợp đồng giao sau với cùng loại ngoại tệ đó. Hai trạng thái ngoại tệ trái chiều nhau ấy sẽ tự hoá giải rủi ro. Trường hợp có một khoản phải thu, thay vì khoản phải trả, thì làm ngược lại. D.9 Khả năng thực hiện giao dịch giao sau ở Việt Nam Ở Việt Nam hiện tại chưa thực hiện loại giao dịch này nhưng tương lai liệu loại giao dịch này có khả năng được thực hiện hay không? Điều này còn tùy thuộc dịch nhiều thứ nhưng trong đó có ba điều kiện cơ bản để loại giao dịch này có thể được đưa ra thị trường hay không: • Thứ nhất là khả năng nhận thức về loại giao dịch này. • Thứ hai là mức độ hiệu quả của thị trường. • Thứ ba là cơ sở hạ tầng phục vụ giao dịch. D.10 Ưu nhược điểm của giao dịch giao sau Ưu điểm của hợp đồng giao sau trước tiên là sẵn sàng cung cấp những hợp đồng có trị giá nhỏ. Kế đến, nó cho phép các bên tham gia có thể sang nhượng lại hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn. Ngược lại, hợp đồng giao sau có nhược điểm trước hết là chỉ cung cấp giới hạn cho một vài ngoại tệ mạnh và một vài ngày chuyển giao ngoại tệ trong năm mà thôi. Kế đến, hợp đồng giao sau là hợp đồng bắt buộc phải thực hiện khi đến hạn chứ không cho người ta quyền được chọn như trong hợp đồng quyền chọn. E. Giao dịch quyền chọn E.1Giới thiệu chung Quyền chọn (options) là một công cụ tài chính mà cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua (call) hay bán (put) một công cụ tài chính khác ở một mức giá và thời hạn được xác định trước. Để có thể hiểu rõ thêm khái niệm quyền chọn, một số thuật ngữ liên quan cần được giải thích chi tiết hơn như sau: • Người mua quyền (holder) – Người bỏ ra chi phí để được nắm giữ quyền chọn và có quyền yêu cầu người bán có nghĩa vụ thực hiện quyền chọn theo ý mình. • Người bán quyền (writer) – Người nhận chi phí mua quyền của người mua quyền, do đó, có nghĩa vụ phải thực hiện quyền chọn theo yêu cầu của người mua quyền. • Tài sản cơ sở (underlying assets) – Tài sản mà dựa vào đó quyền chọn được giao dịch. Giá cả trên thị trường của tài sản cơ sở là căn cứ để xác định giá trị của quyền chọn. Tài sản cơ sở có thể là hàng hoá như cà phê, dầu hoả, vàng,.. hay chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu hoặc ngoại tệ như EUR, CHF, CAD,... • Tỷ giá thực hiện (exercise or strike rate) – Tỷ giá sẽ được áp dụng nếu người mua quyền yêu cầu thực hiện quyền chọn. • Trị giá hợp đồng quyền chọn (volume) – Trị giá được chuẩn hoá theo từng loại ngoại tệ và thị trường giao dịch. • Thời hạn của quyền chọn (maturity) – Thời hạn hiệu lực của quyền chọn. Quá thời hạn này quyền không còn giá trị. • Phí mua quyền (premium) – Chi phí mà người mua quyền phải trả cho người bán quyền để được nắm giữ hay sở hữu quyền chọn. Chi phí này thường được tính bằng một số nội tệ trên mỗi ngoại tệ giao dịch. • Loại quyền chọn – Loại quyền mà người mua nắm giữ. Loại quyền chọn nào cho phép người mua có quyền được mua một loại tài sản cơ sở ở mức giá xác định trước trong thời hạn nhất định gọi là quyền chọn mua (call). Ngược lại, loại quyền chọn nào cho phép người mua có quyền được bán gọi là quyền chọn bán (put). • Kiểu quyền chọn – Kiểu giao dịch do hai bên thoả thuận cho phép người mua quyền được lựa chọn thời điểm thực hiện quyền. Kiểu quyền chọn cho phép người mua quyền được thực hiện bất cứ thời điểm nào trong thời hạn hiệu lực của quyền chọn gọi là quyền chọn kiểu Mỹ. Kiểu quyền chọn chỉ cho phép người mua thực hiện khi quyền chọn đến hạn gọi là quyền chọn kiểu châu Âu. E.2 Định giá quyền chọn Đối với quyền chọn theo kiểu Mỹ: Gọi giá trị của quyền chọn mua là Ca, giá trị của quyền chọn bán là Pa, tỷ giá thực hiện là E và tỷ giá giao ngay là S. Ta có giá trị quyền chọn kiểu Mỹ được xác định bởi công thức : Ca(S, E) e" max(0, S – E) và Pa(S, E) e" max(0, E – S) Đối với Quyền chọn theo kiểu châu Âu: Gọi giá trị của quyền chọn mua là Ce, giá trị của quyền chọn bán là Pe, tỷ giá thực hiện là E, tỷ giá giao ngay là S, lãi suất phi rủi ro của đồng tiền A là a, lãi suất phi rủi ro của đồng tiền B là b, và thời hạn hợp đồng là T. Ta có giá trị quyền chọn kiểu châu Âu được xác định theo công thức: Ce(S, T, E) e" max{0, S(1 + b)-T – E(1 + a)-T} và Pe(S, T, E) ≥ max{0, E(1 + a)-T – S(1 + b)-T} E.3 Định giá quyền chọn theo mô hình Black-Scholes Đối với quyền chọn mua theo kiểu châu Âu, mô hình Black-Scholes có thể diễn tả bởi công thức sau: Ce = Se-bTN(d1) – Ee-aTN(d2), trong đó: Ce là giá cả của quyền chọn mua theo kiểu châu Âu S là tỷ giá giao ngay giữa đồng tiền A và đồng tiền B E là tỷ giá thực hiện T là thời hạn hợp đồng, tính bằng năm a là lãi kép liên tục không có rủi ro của đồng tiền A b là lãi kép liên tục không có rủi ro của đồng tiền B e = 2,71828 là hằng số Nê-pe ÃD là độ lệch chuẩn hàng năm của phần trăm thay đổi tỷ giá giao ngay N(d1) và N(d2) là giá trị của hàm phân phối xác xuất chuẩn và d1, d2 được xác định như sau: d1 = {ln(S/E)+[a-b+Ã2/2]}/ÃD(T)1/2 và d2 = d1 – ÃD(T)1/2 E.4 Mối quan hệ giữa giá trị quyền chọn mua và quyền chọn bán Mối quan hệ giữa quyền chọn mua và quyền chọn bán được diễn tả qua sự cân bằng chọn mua-chọn bán (put-call parity). Trong trường hợp quyền chọn theo kiểu châu Âu mối quan hệ này thể hiện qua công thức sau: Ce(S, T, E) = Pe(S, T, E) + S(1 + b)-T – E(1 + a)-T trong đó Ce và Pe lần lượt là giá cả của quyền chọn mua và quyền chọn bán theo kiểu châu Âu. E.5 Sử dụng giao dịch quyền chọn Giao dịch quyền chọn có thể sử dụng cho cả hai mục tiêu : đầu cơ và phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Mục tiêu sử dụng quyền chọn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá sẽ được tập trung xem xét chi tiết ở chương sau. Ở Việt Nam giao dịch quyền chọn được Eximbank đưa ra giao dịch thí điểm năm 2002. Với sự thành công của Eximbank, các ngân hàng khác như Citi Bank, ACB, Techombank cũng bắt đầu triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn. CHƯƠNG 2 Thực trạng về chính sách quản lí tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian qua 1. Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đoạn trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập trung kinh tế. Năm 1950 được coi như là một cái mốc khi mà Trung Quốc , Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam , đặt nền móng đầu tiên cho việc hình thành các quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước.Trong hai năm liên tiếp,1952-1953,Việt Nam lần lượt kí hiệp định thương mại và nghị định thư mậu dịch tiểu nghạch với Trung Quốc.Từ ngày 25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức được quy định giữa đồng Việt Nam(VND) và nhân dân tệ Trung Quốc(CNY) là 1 CNY=1470 VND. Tỷ giá giá này được xác định dựa trên việc so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn của hai nước. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân dân tệ của Trung Quốc (CNY) là 1 CNY = 2SUR. Từ đó,tỷ giá tính chéo tạm thời giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND.Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồng Việt Nam mới bằng 1000 đồng Việt Nam cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá tương ứng với sự thay đổi mệnh giá của đồng tiền (1SUR = 0,735VND). Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô được điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND,do hàm lượng vàng trong đồng Rup được điều chỉnh tăng 4,44 lần. Năm 1977, các nước xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rup chuyển nhượng ( là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong khối với tỷ giá được quy định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được ghi trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm số dư phải bằng zero ) có hàm lượng vàng quy định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhượng. Bên cạnh tỷ giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1SUR=5,64VND , được hình thành từ năm 1958 và được xác định trên cơ sở so sánh giá cả hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân tệ với giá hàng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955, 1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị kinh tế Nhà nước có thu chi ngoại tệ với ngân hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại thương. Tỷ giá kết toán nội bộ này được xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới được điều chỉnh lại là 1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là 1SUR=150VND , cuối năm 1988 mới được điều chỉnh lại là 1SUR=700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1985 ) thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải được tính đến ( nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987). Và TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đã được xác định một cách chủ quan theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup ( năm 1985: 1SUR=18VND và mối tương quan Dola-Rup xem như tương đương 1:1.Do đó, TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào năm 1985 là 1USD=18VND ) . Cũng bắt đầu từ năm này, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường Dola Mỹ bắt đầu bột phát một cách mạnh mẽ với sự trợ lực của ba dòng chảy là: dòng kiều hối của kiều bào đổ về thay thế dân cho những kiện hàng quà biếu mà một phần đáng kể là dưới hình thức bất hợp pháp. Những lượng lớn Dola Mỹ được cất trữ từ khi miền Nam được giải phóng bởi các tiểu tư sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu được tung ra ít nhiều.Thứ ba, cùng với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ thì dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới cũng gia tăng theo. Mức TGHD trên thị trường chợ đen được hình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị trựờng đã có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, sự bất hợp lý trong việc xác lập TGHD ở giai đoạn này thực chất không quan trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì tỷ giá là một loại giá cả, mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong nền kinh tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việc có ảnh hưởng xấu đến ngân sách Nhà nước. Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố định trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trên thị trường.VD:giai đoạn từ năm 1985 đến 1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND, 1 Dola có giá vào khoảng 3000 VND . Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán quan hệ xuất nhập khẩu ở mức khoảng 1SUR=150VND và 1USD=225VND. Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ một số tiền là 1350 đồng và 1 Dola phải bù lỗ 2775 đồng. Như vậy, nếu kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu SUR-USD , trong đó khu vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150 triệu thì số tiền phải bù lỗ lên đến 900 tỷ VND . Tình hình này dẫn đến một thực trạng là những địa phương, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu nhiều thì ngân sách Nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này tác động ngược trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nước thường đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc nhập khẩu cho các ngànhh đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ ( theo tỷ giá chính thức). Như vậy, các ngànhh, các đơn vị được phân phối hàng nhập khẩu thì được chênh lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng và điều hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thương như vậy đã được xem là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thâm hụt trầm trọng trong ngân sách Nhà nước ở giai đoạn này. Tóm lại, TGHD được xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng 3/1989 là một hệ thống khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà nước quyết định, không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước mà hậu quả là làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị sai lệch, công tác điều hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài nước. Đây cũng là vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. 2.2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2.1. Giai đoạn từ 1989-1992. Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển TGHĐ ở nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn , khiến chúnh ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng dola Mỹ.Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo quan hệ thị trường.Để đi tới một chính sách TGHĐ tự chủ như ngày nay,cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung , quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn. Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá.Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn ( Từ cuối năm 1990 trở đi ) . Đỉnh cao của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991 . Ngày 4/12/1991 giá dola Mỹ trên thị trường tư nhân tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD . Giá dola trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60 đến 80% so với mức giá đầu năm. Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà Nước đã có nhiều thay đổi , như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này , hoặc nếu có thay đổi thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật tư và xuất khẩu , nhập khẩu , nên tỷ giá công bố vẫn cách xa mức giá hình thành trên thị trường. Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không những nói nên khoảng cách giữa tỷ giá của nhà nước với tỷ giá hình thành trên thị trường tự do mà còn phản ánh xu hướng tăng nhanh của giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nước lẫn thị trường . Năm 1990,giá trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so với đầu năm . Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn .Tình trạng leo thang của giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola , nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá . Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước . Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả . Giai đoạn này Ngân hàng không kiểm soát được lưu thông tiền tệ . Trong các năm 1991-1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thương với LiênXô và Đông Âu , nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng ( năm 1991 là 357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu USD ). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu một lãi suất cao do thiếu dola , dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt dola theo chu kỳ vào giai đoạn này. Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá ( như buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân hàng , bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá theo nhóm hàng..) làm cho giá dola bắt đầu giảm ( cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992. 2.2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996. Vào thời điểm cuối năm 1992 , do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ trong các doanh nghiệp được tung ra , hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu . Động thời có một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa TGHĐ ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nước để buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu hành trong nước. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất hợp pháp, tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh. - Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động theo đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương mại đã phá rào. Cuối cùng sự vận động của tỷ giá trong giai đoạn này đã gợi nên một số điểm cần lưu ý trong việc điều hành chính sách như sau: * Trước tiên, những vận động của TGHĐ trong giai đoạn này cho thấy TGHĐ của Việt Nam phá nhạy cảm trước những thay đổi của tình hình kinh tế từ bên ngoài và yếu tố tâm lý, cán cân thương mại luôn là những yếu tố có trọng số lớn đối với sự vận động của TGHĐ. * Việc sử dụng các công cụ hành chính trong can thiệp vào tỷ giá là cần thiết vào những lực cung cầu, ngoại tệ có những mất cân bằng nhưng phải đủ mạnh để yếu tố tâm lý không có khả năng phát huy tác động xấu. Các nghiệp vụ trên thị trường còn quá sơ sài, khi thị trường mua 2.2. Giai đoạn từ 92 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á (tháng 7 năm 1997). Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau: - Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được công bố bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ giao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định. - Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố. Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng cường công tác thông tin, cho công khai hoámột cách nhanh chóng và chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề án môn học-Tỷ giá hối đoái và tác động đến cán cân thanh toán và môi trường tài chính của Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan