Đề án cải cách tư pháp

Tài liệu Đề án cải cách tư pháp: Phần 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lý do lựa chọn đề án Cải cách tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Bộ chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết Trung ương số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/08/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Định hướng chỉ đạo trọng tâm là cải cách một bước cơ bản, toàn diện hoạt động điều tra, kiểm sát và xét xử. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua Viện Kiểm Sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có nhiều đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành, tạo sự chuyển biến rõ nét trong công tác chuyên môn nghiệp vụ. Vai trò công tố được đề cao, trách nhiệm công tố được tăng cường. Hoạt động thực hành quyề...

doc43 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án cải cách tư pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lý do lựa chọn đề án Cải cách tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Bộ chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết Trung ương số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/08/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Định hướng chỉ đạo trọng tâm là cải cách một bước cơ bản, toàn diện hoạt động điều tra, kiểm sát và xét xử. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua Viện Kiểm Sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có nhiều đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành, tạo sự chuyển biến rõ nét trong công tác chuyên môn nghiệp vụ. Vai trò công tố được đề cao, trách nhiệm công tố được tăng cường. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự đã nâng cao chất lượng và hiệu quả, góp phần cùng các cơ quan tố tụng trong hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bỉm Sơn đã khởi tố điều tra bình quân 100 vụ án/150 bị can mỗi năm. Cùng với đó, phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tất cả các vụ án đã khởi tố, xử lý đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nhìn chung 5 năm gần đây[2011-2016], ba cơ quan tố tụng thị xã Bỉm Sơn đã giải quyết, xử lý gần 500 vụ án/ 700 bị cáo đều đảm bảo đúng qui định của luật tố tụng, đúng nội dung bản chất của vụ án.Trong đó có vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thị xã, góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được,Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót trong hoạt động chuyên môn như: vẫn còn tình trạng chưa kiểm sát chặt chẽ, kịp thời việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, phê chuẩn bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, sau đó phải chuyển xử lý hành chính hoặc trả tự do, do hành vi chưa cấu thành tội phạm, việc truy tố còn thiếu sót dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, nhiều vụ án kéo dài thời hạn giải quyết, còn để xảy ra một số trường hợp sai chưa kịp phát hiện những vi phạm trong hoạt động tư pháp để kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục.Tình trạng hạn chế trên đây vẫn còn xảy ra ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn . Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, với vị trí, vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự mà pháp luật đã giao cho ngành kiểm sát nói chung, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn nói riêng, đang phải gánh vác một nhiệm vụ nặng nề là cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý, giải quyết các vụ án hình sự. Hạn chế tối đa những sai sót, vi phạm trong quá trình tác nghiệp tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. 1.2. Mục tiêu của đề án Mục tiêu chính của đề tài là “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh hóa giai đoạn 2017-2020”. Để thực hiện thành công và có hiệu quả chất lượng đề tài này, đặt ra mục tiêu cụ thể như sau: - Phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các vi phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, không để xảy ra quá hạn giam giữ, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không phạm tội, truy tố đúng người đúng tội, đúng Pháp luật. - Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm đến các quyền của công dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục tình trạng để án tồn đọng, kéo dài thời hạn giải quyết. - Thông qua thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tham mưu, đề xuất với cấp ủy sở tại, chính quyền địa phương có giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là trách nhiệm chính trị lớn của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn trước Đảng, chính quyền và nhân dân trong thị xã, phấn đấu từ năm 2017– 2020 hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn đạt chất lượng về trình độ, kỹ năng thao tác chuyên môn nghiệp vụ đạt 95% trở lên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp thực hiện quản lý Nhà nước bằng Pháp luật. 1.3 Nhiệm vụ của đề án 1.3.1 Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị Bộ chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết Trung ương số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/08/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 1.3.2 Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát là Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. 1.3.3 Thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm đến pháp luật hình sự, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thông qua thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tham mưu, đề xuất với cấp ủy sở tại, chính quyền địa phương có giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là trách nhiệm chính trị lớn của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn trước Đảng, chính quyền và nhân dân trong thị xã, phấn đấu từ năm 2017 – 2020. 1.3.4 Thực hiện nghị quyết của chi bộ, chỉ tiêu nghiệp vụ của đơn vị đề ra. Thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ đề ra trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phấn đấu thực hiện bằng và vượt chỉ tiêu nghiệp vụ của đơn vị đề ra trong từng thời kỳ. 1.4. Giới hạn của đề án 1.4.1 Phạm vi đối tượng Là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,xét xử các vụ án hình sự, được tổ chức triển khai thực hiện cho chính đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vị thế của ngành kiểm sát trong hoạt động tố tụng, đề án này được triển khai trên toàn đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tất cả từ cán bộ nghiệp vụ, kiểm tra viên, kiểm sát viên, người giữ trọng trách như viện trưởng, phó viện trưởng đều phải tiếp tục học tập rèn luyện về trình độ kỹ năng công tác kiểm sát nói chung, vì trong các khâu kiểm sát thì thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự là khâu mũi nhọn của hoạt động kiểm sát. 1.4.2 Không gian Đề án Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự được triển khai thực hiện trong phạm vi địa bàn thị xã Bỉm Sơn do đội ngũ Cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, lãnh đạo của đơn vị trực tiếp thực hiện. 1.4.3 Thời gian thực hiện đề án Quá trình triển khai thực hiện đề án, lãnh đạo đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn phải có tổ chức họp rút kinh nghiệm kết quả thực hiện hằng năm nhằm tìm ra những ưu điểm đã đạt được trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để phát huy, đồng thời cũng rút ra được những thiếu sót, tồn tại, vướng mắc, từ đó rút ra ở nguyên nhân chủ quan và khách quan, đề có biện pháp thảo luận, bàn bạc, khắc phục để các năm sau của quá trình thực hành đề án có chất lượng hiệu quả tốt hơn năm trước. Từ cơ sở thực tiễn đó, đơn vị tổ chức tổng kết thực tiễn thực hiện đề án triển khai từ đầu năm 2017 và kết thúc vào năm 2020. Phần 2. NỘI DUNG 2.1 Căn cứ xây dựng đề án 2.1.1 Căn cứ khoa học, lý luận 2.1.1.1 Căn cứ khoa học Các khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử hình sự * Khái niệm thực hành quyền công tố Thực hành quyền công tố giai đoạn điều tra, xét xử là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện trong giai đoạn điều tra, xét xử phát sinh từ khi thụ lý giải quyết tố giác tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khởi tố, điều tra và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra và xét xử vụ án hình sự. * Khái niệm kiểm sát điều tra hình sự Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ của những vi phạm pháp luật, trong quá trình diều tra phải được phát hiện, khắc phục. * Khái niệm kiểm sát xét xử vụ án hình sự Kiểm sát xét xử vụ án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm kiểm sát tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn xét xử vụ án, nhằm đảm bảo cho quá trình xét xử vụ án được khách quan toàn diện Từ các khái niệm nêu trên, các giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử được phân định như sau: - Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Giai đoạn này theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự thì hoạt động hành quyền công tố và kiểm sát điều tra được phát sinh từ cơ quan cảnh sát điều tra quyết định thụ lý tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, các hoạt động bắt, tạm giữ hình sự cho đến quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam bị can, cho đến khi cơ quan kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra kèm theo vụ án chuyển đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can bằng một tội danh cụ thể. - Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, phát sinh từ khi Viện kiểm sát đã có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng chuyển theo hồ sơ sang Tòa án để xét xử theo thẩm quyền, Tòa án thụ lý đến khi tiến hành xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật. Thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát là hai chức năng hoàn toàn độc lập của Viện kiểm sát, được phân định rõ ràng tại các điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Trong hai chức năng hoàn toàn độc lập này đều do Viện kiểm sát tiến hành và luôn gắn bó với nhau. Khi một vụ án hình sự xảy ra, từ giai đoạn tiếp nhận tin tố giác tội phạm, khởi tố điều tra, xét xử thì Viện kiểm sát đồng bộ phải thực hiện cả hai chức năng này. Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra tòa tranh tụng tại phiên tòa và kết thúc bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Thực hành quyền công tố ở Việt Nam chúng ta căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật và thực tiễn từ trước tới nay được giao cho duy nhất Viện kiểm sát. Vậy chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt nam là Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy chức năng này cũng phát sinh bắt đầu từ khi phát sinh tố tụng cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử, án có hiệu pháp luật. Trách nhiệm của Viện kiểm sát có nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan điều tra từ khi thụ lí tin báo tố giác tội phạm, khởi tố điều tra vụ án, kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án từ khi Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can bằng cáo trạng chuyển sang tòa án để xét xử cho đến khi án có hiệu lực, kiểm sát hoạt động của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu phát hiện vi phạm sẽ sử dụng thẩm quyền do pháp luật quy định để điều chỉnh. 2.1.1.2 Căn cứ lý luận Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xét xử các vụ án hình sự được xác định như sau: - Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát, điều tra, xét xử các vụ án hình sự còn được đánh giá bằng việc thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Các chỉ tiêu kế hoạch đó đều được thảo luận bàn bạc để đi đến xây dựng kế hoạch công tác từng năm của đơn vị trên cơ sở bám sát chỉ tiêu kế hoạch của ngành như: phấn đấu 100% án kiểm sát điều tra kết thúc trong thời hạn luật định, truy tố 100% án kết thúc điều tra đề nghị truy tố, không có án cải sửa, không có án bị hủy, không có án khởi tố sau đó phải đình chỉ do bị can không phạm tội, giảm đến mức tối thiểu án quá hạn, án trả hồ sơ điều tra bổ sung, không có oan, sai trong hoạt động công tố, kiểm sát điều tra xử vụ án hình sự, trong năm không có kiểm sát viên để thiếu sót trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ Các tiêu chí phê chuẩn bắt giam đều đúng luật định Kịp thời phát hiện sai sót của cơ quan tố tụng và có kiến nghị, kháng nghị hiệu quả, đây là tiêu chí hết sức quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động thực hàh quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử trong năm. - Khai thác tối ưu nhất mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan cảnh sát điều tra, tòa án thị xã để nhằm thực hiện có hiệu qua chức năng công tố và chức năng kiểm sát trong cả hai giai đoạn điều tra và xét xử. Với cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã, trên cơ sở hoạt động độc lập theo pháp luật của từng ngành, còn phải mở ra quan hệ phối hợp, bàn bạc, giải quyết, xử lý những vụ việc phức tạp trên cơ sở tạo điều kiện cùng hoàn thành nhiệm vụ. Với cơ quan tòa án là cơ quan xét xử, viện kiểm sát hoạt động công tố và kiểm sát xét xử độc lập theo pháp luật nhưng không ngừng quan hệ phối hợp để bàn biện pháp giải quyết những vụ việc khó, phức tạp. Việc khai thác tối ưu quan hệ phối hợp 3 ngành tố tụng trong huyện tốt thì chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự cũng được nâng cao. - Kiểm sát viên được phân công làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử phải có trách nhiệm bám sát diễn biến hoạt động điều tra, xét xử để kịp thời phát hiện thiếu sót để yêu cầu thực hiện đúng luật nhất là giai đoạn điều tra, kiểm sát viên phải theo sát điều tra viên để kịp thời chỉ đạo điều tra tránh sai sót cũng như thiếu tinh thần trách nhiệm trong điều tra. 2. 1.2 Căn cứ chính trị, pháp lý: 2.1.2.1 Căn cứ chính trị: a. Hệ thống các quan điểm của Đảng về vai trò của ngành kiểm sát trong thực hành quyền cồng tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Tiếp đó ngày 25/4/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 49 về Chiến lược caỉ cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ chính trị theo tinh thần nghị quyết 49 vẫn giữ nguyên vị trí vai trò của ngành kiểm sát như hiện nay. Với 03 nghị quyết trên, Bộ Chính trị đã xác định các định hướng quan trọng, toàn diện cho Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 và việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong đó, Nghị quyết số 49 xác định: Trước mắt VKSND giữ nguyên chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND được tổ chức phù hợp với tổ chức của tòa án và tăng cường trách nhiệm công tố trong trong hoạt động điều tra. Trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, VKSND đã là cơ quan đi đầu, thực hiện có hiệu quả việc đổi mới sâu rộng cả về mặt tổ chức hoạt động, đội ngũ cán bộ, KSV đến phương pháp, phương châm thực hiện, đóng góp một phần quan trọng vào thành quả chung của sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của các khâu công tác và tổ chức hoạt động của ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua,Viện trưởng VKSNDTC đã ban hành nhiều Chỉ thị quán triệt VKSND các cấp tổ chức triển khai thực hiện nghiêm chủ trương cải cách tư pháp như: Các Chỉ thị về thực hiện nhiệm vụ công tác hằng năm của ngành Kiểm sát, Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19/6/2008 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-VPT1 ngày 17/5/2012 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân. Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 05/11/2012 về tăng cường công tác thống kê và ứng dụng công nghệ thông tin, Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 14/8/2013 về tăng cường công tác thanh tra, Chỉ thị số 06/CT- VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, Chỉ thị số 05/CT- VKSTC- TTr ngày 31/3/2014 về tăng cường kỉ cương, kỉ luật công vụ và trật tự nội vụ, Chỉ thị số 08/CT-VKSTC ngày 16/10/2014 về đổi mới nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng...Ngoài ra, để thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành, Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao đã ban hành hệ thống các quy chế về hoạt động nghiệp vụ, thanh kiểm tra, thi đua khen thưởng, xây dựng ngành... Đặc biệt thời gian vừa qua, diễn ra một sự kiện chính trị quan trọng của ngành đó là Luật tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân sửa đổi đã được Quốc hội khóa XIII, kì họp thứ 8 thông qua ngày 21/11/2014. Với 6 chương 101 điều. Luật tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân năm 2014 tiếp tục khẳng định rõ hơn vị trí của Viện Kiểm Sát Nhân Dân là thiết chế hiến định trong bộ máy Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là một dự án luật công phu, khoa học, phù hợp thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức, kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng mọi hoạt động của ngành kiểm sát. b. Nội dung, biện pháp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự Nội dung biện pháp thực hành quyền công tố và điều tra, xét xử án hình sự tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân cấp huyện, thị cũng được cụ thể hóa tại Bộ luật tố tụng hình sự, luật tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân, các quy chế của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, các thông tư liên ngành. 2.1.2.2. Căn cứ pháp lý: a. Nhiệm vụ quyền hạn của Viện Kiểm Sát Nhân Dân cấp huyện, thị Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ Pháp luật trong tố tụng hình sự. - Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. - Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân thủ theo Pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố điều tra truy tố, xét xử thi hành án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội (Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự). * Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: - Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng Pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. - Không để người nào bị khởi tố, bị bắt tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trước Pháp luật. - Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trước pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. + Quyết định phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. + Hủy bỏ các quyết định tố tụng trước pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. + Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện. + Yêu cầu cơ quan điều tra, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội. + Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, tiến hành một số hoạt động điều tra làm rõ căn cứ, quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội. + Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của Pháp luật. + Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong quá trình điều tra, truy tố. + Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa. + Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự (Điều 3 – Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân – 2014) b. Trình tự thủ tục thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự * Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra Giai đoạn này được phát sinh từ khi cơ quan cảnh sát điều tra công an thị quyết định thụ lý tố giác và tin báo về tội phạm, trình tự của các giai đoạn này như sau: + Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo quy định tại điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan điều tra có nhiệm vụ tổ chức tiếp nhận giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền. Khi Viện kiểm sát nhân dân tiếp nhận được tin báo tố giác tội phạm phải kịp thời chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để xác minh, giải quyết. Trong trường hợp cơ quan điều tra tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm không ra quyết định giải quyết hoặc ra quyết định giải quyết nhưng không thông báo cho Viện kiểm sát thì lãnh đạo Viện kiểm sát phải cử ngay kiểm sát viên đã được phân công tiếp nhận và giải quyết tin báo tố giác tội phạm kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ của tin báo đó. Viện kiểm sát phải chủ động, không được thụ động ngồi chờ, quan hệ phối hợp để phân loại quyết tố giác tin báo, tố giác tội phạm phải được thực hiện thường xuyên giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Đối với những việc phức tạp cần có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo mỗi ngành tố tụng trong thị xã. + Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp trong việc khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, viện kiểm sát có quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ của cơ quan điều tra và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra, nếu quyết định không khởi tố án hình sự, không có căn cứ và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự giao cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Do đó khi được phân công kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc gửi kịp thời quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, tránh tình trạng là vụ án đã được khởi tố nhưng cơ quan điều tra không gửi kịp cho Viện kiểm sát, cơ quan điều tra chỉ gửi khi cần có sự phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc khi cần thiết phải có sự phê chuẩn lệnh tạm giam bị can + Thực hành quyền công tố và kiểm sát khởi tố bị can: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát ở đây chủ yếu là xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra (Điều 126 Khoản 4 Bộ luật tố tụng hình sự). Với việc quy định thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra là một bảo đảm quan trọng các quyền dân chủ của công dân trong tố tụng hình sự. Quyết định khởi tố bị can có ý nghĩa hoàn toàn khác với quyết định khởi tố vụ án vì quyết định khởi tố vụ án là hoạt động khởi động để cơ quan điều tra tìm kiếm dấu vết, tu thập chứng cứ chưa can thiệp sâu vào quyền cơ bản của công dân. Trong khi đó quyết định khởi tố bị can có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn đối với người bị khởi tố bị can có ảnh hưởng sâu sắc tới sinh mạng chính trị, tới hình ảnh của bị can trong đời sống xã hội, tới tâm lý, tình cảm của người bị khởi tố. Chính vì vậy mà Pháp luật đã giao quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho Viện kiểm sát và đó cũng là giao quyền quyết định cuối cùng cho viện kiểm sát đối với có khởi tố hay không khởi tố một công dân, mặc dù quyết định đó do cơ quan điều tra ban hành. Việc giao thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho Viện kiểm sát nhằm đảm bảo việc khởi tố một công dân phải có căn cứ và đúng Pháp luật. Do đó khi nhận được quyết định khởi tố bị can và tài liệu có liên quan của cơ quan điều tra chuyển sang kiểm sát viên, chuyên viên được phân công phải nghiên cứu tài liệu, kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định, quyết định khởi tố bị can. Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can phải được phản ánh đầy đủ trong tài liệu gửi kèm, kiểm sát viên được phân công không được chỉ kiểm tra tính có căn cứ nêu trong quyết định khởi tố bị can. Tính có căn cứ nêu trong quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra chỉ có giá trị so sánh, khi tính có căn cứ được phản ánh trong các tài liệu gửi kèm. Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can được thể hiện qua những chững cứ có trong tài liệu gửi kèm, khẳng định chính bị can là người đã thực hiện, người đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án và người thực hiện hành vi phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội đó (Điều 12 Bộ luật hình sự) Tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can thể hiện ở thủ tục ra quyết định và hình thức quyết định khởi tố bị can. Một quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm ra quyết đinh, họ tên, chức vụ người ra quyết định, dấu của cơ quan ra quyết định, họ tên, ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp, hoặc hoàn cảnh gia đình của bị can, bị can bị khởi tố vì tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự, thời gian và địa điểm phạm tội và những tình tiết khác Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra cần phải nhận thấy, nếu quyết định khởi tố bị can thỏa mãn hai điều kiện kiện trên thì kiểm sát viên làm báo cáo nói rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can và đề xuất lãnh đạo yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra thị xã ra quyết định đúng theo quy định của Pháp luật. Sau khi cơ quan điều tra đã đáp ứng đúng yêu cầu của Viện kiểm sát thì kiểm sát viên làm đề xuất đề nghị lãnh đạo viện phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Trong vòng 24h, kể từ khi ra quyết định hoặc yêu cầu Viện kiểm sát phải gửi cho cơ quan điều tra để thực hiện, đồng thời kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện các quyết định và yêu cầu. Nếu cơ quan điều tra không thực hiện thì kiểm sát viên phải báo cáo kịp thời với lãnh đạo Viện kiểm sát để có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của Pháp luật. Ngoài các hoạt động nêu trên, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các biện pháp điều tra do cơ quan điều tra áp dụng đối với người bị khởi tố trước khi có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trước khi có sự phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra chỉ có quyền áp dụng một biện pháp duy nhất đó là tiến hành hỏi cung bị can ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can, các biện pháp điều tra khác mà Pháp luật quy định, chỉ áp dụng đối với bị can như áp giải bị can (Điều 130 Bộ luật tố tụng hình sự) ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam(các Điều 80, 88, 91, 92, 93, 146,Bộ luật tố tụng hình sự) thì cơ quan điều tra không được áp dụng, các biện pháp này chỉ được áp dụng khi quyết định khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát phê chuẩn. * Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự: Phạm vi thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ( xét xử sơ thẩm) được bắt đầu từ khi bản cáo trạng và quyết định truy tố của Viện kiểm sát cùng hồ sơ vụ án đã được chuyển đến Tòa án cho đến khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Giai đoạn này thì vị trí chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đã được quy định tại Mục 4 Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Điều 206, 207, 217 Bộ luật tố tụng hình sự thì tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thì kiểm sát viên phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định cụ thể. Pháp luật còn quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong thực hiện công tác kiểm sát xét vụ án hình sự. Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát tuân thủ theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, như kiểm sát thời hạn đưa vụ án ra xét xử, thời hạn mở phiên tòa (Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự), kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự), kiểm sát việc tiến hành thủ tục tố tụng của hội đồng xét xử, của những người triệu tập đến phiên tòanếu phát hiện thấy Tòa án hoặc hội đồng xét xử có vi phạm pháp luật thì kiểm sát viên phải có ý kiến kịp thời, kiến nghị Tòa án, hội đồng xét xử khắc phục những thiếu sót vi phạm. Thực hành quyền công tố tại phiên tòa và kiểm sát tuân theo pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự là hai nhiệm vụ khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau để cùng thực hiện tốt chức năng kiểm sát. Trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Có những thao tác nghiệp vụ bằng quyết định là: Phân công, thay đổi kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm. Phân công kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm, việc phân công kiểm sát viên giải quyết từng vụ án cụ thể. Trong trường hợp kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng thì quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự, kiểm sát viên có thể bị thay đổi nếu thuộc các trường hợp quy định tại Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, khi phân công kiểm sát viên, lãnh đạo Viện kiểm sát thị xã phải chú ý điều này: không để xảy ra trường hợp Tòa án hoặc những người tham gia tố tụng tại phiên tòa đề nghị thay đổi kiểm sát viên. Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với vụ án, nếu gặp những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng quy định ở Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự thì phải chủ động báo cáo với viện trưởng hoặc phó viện trưởng phụ trách để cử kiểm sát viên khác thay thế. Việc thay đổi kiểm sát viên (Điều 43 Bộ luật tố tụng hình sự) thì viện trưởng là người quyết định việc có thể thay đổi hoặc không thay đổi (phó viện trưởng phụ trách nêu ra quyết định phải được viện trưởng phân công). Nếu Viện kiểm sát ra quyết định không thay đổi kiểm sát viên thì phải có văn bản nói rõ về việc không thay đổi. Về việc có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tại phiên tòa kiểm sát viên, viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Vì vậy ngay sau khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, Viện kiểm sát phải chủ động sắp xếp phân công kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Chỉ có nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm vững nội dung vụ án thì kiểm sát viên mới có thể hoàn thành việc buộc tội bị cáo trước tòa. Nếu không nắm vững hồ sơ thì chất lượng tham gia xét xử của kiểm sát viên sẽ không đạt yêu cầu và không sử dụng nhuần nhuyễn các chứng cứ buộc tội khi luận tội. Do đó, lời buộc tội của kiểm sát viên sẽ kém thuyết phục. Không nghiên cứu kỹ hồ sơ là việc làm thiếu trách nhiệm và thường dẫn đến tình trạng lúng túng, bị động (thực tiễn này đã rút kinh nghiệm nhiều phiên tòa, trong nhiều năm, phiên tòa nào kiểm sát viên nghiên cứu kỹ hồ sơ thì chất lượng công tố đạt kết quả tốt và ngược lại). Việc báo cáo của kiểm sát viên, trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải cáo báo với lãnh đạo viện về việc giải quyết vụ án, nội dung này được quy định tại Điều 6 quy chế kiếm sát xét xử. + Năm là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa. Chuẩn bị đề cương xét hỏi và chuẩn lời luận tội: Trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải làm cho được dự thảo, đề cương tham gia xét hỏi. Mục đích của việc xét hỏi là để nhằm làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo (trên cơ sở yếu tố cấu thành tội phạm và dấu hiệu đặc trưng của tội phạm cụ thể). Để chủ động, kiểm sát viên cần dự kiến những tình huống diễn biến có thể xảy ra tại phiên tòa như (thái độ, tâm lý của bị cáo, khă năng phản cung, thay đổi lời khai của bị cáo so với lời khai ở giai đoạn điều tra) Cũng cần dự báo trước những vấn đề mà luật sư sẽ hỏi, sẽ nêu ra tại phiên tòa để chủ động, tự tin khi tranh luận. Kiểm sát hoạt đông của Tòa án trước khi mở phiên tòa. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, ngoài việc thực hành quyền công tố kiểm sát viên còn nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Hoạt động kiểm sát xét xử không phải là để cản trở việc xét xử mà là tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử giải quyết vụ án một cách đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia phiên tòa. Do đó, để đạt được mục đích trên, khi tiến hành kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc tiến hành các thủ tục tố tụng của Tòa án, của Hội đồng xét xử ở từng giai đoạn cụ thể, kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Ngoài ra kiểm sát viên còn phải kiểm sát chặt chẽ các nội dung như: Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của Tòa án (Điều 177 Bộ luật tố tụng hình sự, việc chấp hành Pháp luật của Tòa án về thời hạn chuẩn bị xét xử (Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự), nội dung quyết định mở phiên tòa (Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự), việc giao quyết định của Tòa án, việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Việc kiểm sát tuân theo Pháp luật tại phiên tòa của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa ngoài nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng và quan điểm truy tố của Viện kiểm sát (thực hiện quyền công tố trước tòa), kiểm sát viên còn có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử và của những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án đũng nghĩa, đúng tội đúng pháp luật và công minh, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng được bảo đảm, tôn trọng quy trình xét xử. Tại phiên tòa, kiểm sát viên cần kiểm sát các hoạt động sau đây của hội đồng xét xử: - Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa. Khi bắt đầu phiên tòa chủ tọa phiên tòa phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thư ký phiên tòa báo cáo danh sách có mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa. Sau phần kiểm tra căn cước của những người tham gia tố tụng, Chủ tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của những người này (Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự) - Sau khi nghe Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, sau khi nghe Thư ký phiên tòa đọc danh sách có mặt của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên phải kiểm tra ngay thành phần Hội đồng xét xử xem có đúng với thành phần được nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà Tòa án đã gửi cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng có liên quan không, kiểm tra danh sách những người được triệu tập đển phiên tòa và danh sách có mặt của họ tại phiên tòa xem có phù hợp nhau không hoặc thiếu vắng một ai không. Trước khi Hội đồng xét xử chuyển sang phần xét hỏi, kiểm sát viên cần chú ý yêu cầu Hội đồng xét xử quan tâm những trường hợp sau: Trường hợp Pháp luật quy định bị cáo bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa: Trong trường hợp bị cáo vắng mặt thì Tòa án có thể tiến hành xét xử trong các trường hợp sau: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa được Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ (Điều 187, Khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự) Trường hợp Pháp luật quy đinh bắt buộc phải có người bào chữa mà người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa (Điều 157, khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự) Trường hợp người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người giám định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người phiên dịch vắng mặt. Nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án hình sự thì Hội đồng xét xử cũng phải hoãn phiên tòa (Điều 191, khoản 1, Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự) Xong các thủ tục ban đầu, chuyển sang phần xét hỏi: Trước khi tiến hành xét hỏi: Đại diện Viện kiểm sát là kiểm sát viên giữ quyền công tố đọc cáo trạng (Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự) Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi bị cáo. Ngoài việc Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên cũng tham gia xét xử tại phiên tòa, nhằm củng cố làm rõ thêm hành vi phạm tội, đánh giá chứng cứ, để bảo vệ cáo trạng. Cần nhận thức: Việc xét hỏi của Viện kiểm sát tại tòa là sự kiểm tra lại kết quả điều tra. Việc xét hỏi của kiểm sát viên không phải hướng tới cái gì đó mà khẳng định kết quả điều tra, kiểm sát viên không cần xét hỏi toàn bộ nội dung vụ án, chỉ xét hỏi để nhằm làm rõ thêm, khi mà nội dung cần xét hỏi, Hội đồng xét xử chưa xét hỏi. Xong phần xét hỏi chuyển sang phần tranh luận: Kiểm sát viên phải trình bày quan điểm luận tội bị cáo tại tòa. Luận tội của kiểm sát viên là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng. Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự quy định, sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo. Luận tội của kiếm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến tranh luận của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và nghĩa vụ của đương sự và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Tranh luận tại tòa: Để thực hiện tranh luận tại tòa hình sự đạt chất lượng, đáp ứng những yêu cầu của công tác cải cách tư pháp, đòi hỏi kiểm sát viên phải nắm vững và đánh giá chứng cứ vụ án một cách khách quan tổng hợp (cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội) phải kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, xét hỏi. Trường hợp khi tranh luận, những người tham gia tố tụng có ý kiến khác nhau với luận tội, kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến không được lảng tránh hoặc đối đáp bằng việc giữ nguyên quan điểm truy tố trong cáo trạngkhông căn cứ vào kết quả xét xử tại tòa, kiểm sát viên không được thụ động, ngồi chờ, đẩy trách nhiệm đối đáp cho Hội đồng xét xử, vì thực tiễn đã có nhiều trường hợp người tham gia tố tụng nêu ý kiến ngược lại lời luận tội của kiểm sát viên nhưng kiểm sát viên né tránh không tranh luận lại, và khi được Hội đồng xét xử yêu cầu đối đáp thì có kiểm sát viên trả lời “tùy tòa quyết định”. Tuy nhiên không phải những người tham gia tố tụng nêu câu hỏi nào, thắc mắc nào, kiểm sát viên cũng phải trả lời. Tranh luận những quan điểm, ý kiến khác với lời luận tội và có liên quan tới việc giải quyết vụ án. Kiểm sát viên không tranh luận những vấn đề không liên quan đến việc giải quyết vụ án. Khi có những câu hỏi không liên quan tới việc giải quyết vụ án thì kiểm sát viên lưu ý Hội đồng xét xử bác bỏ câu hỏi đó mà không cần nêu phải tranh luận lại hoặc có quan điểm ra yêu cầu kiểm sát viên tranh luận nhưng những nội dung thắc mắc có quan điểm đó đã được giải đáp rõ trong quá trình xét xử tại tòa. Trong trường hợp này, kiểm sát viên không cần đối đáp mà chỉ cần lưu ý Hội đồng xét xử là quan điểm đó đã được làm rõ ở giai đoạn nào của quá trình xét xử. Khi tranh luận với những quan điểm của những người tham gia tố tụng đối lập với quan điểm luận tội, đòi hỏi kiểm sát viên lý giải lập luận để đối đáp lại một cách dứt khoát, không vòng vo, né tránh. Các ý kiến tranh luận của kiểm sát viên phải dựa trên những căn cứ pháp luật và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét công khai tại phiên tòa, kiểm sát viên không được tranh luận theo ý kiến chủ quan của mình. Kiểm sát viên phải kiên quyết bảo vệ những quan điểm, lập luận đúng, bác bỏ những ý kiến, quan điểm sai trái nhằm bảo vệ sự thật, khách quan của vụ án. Trong quá trình tranh luận, kiểm sát viên phải có phương án đối đáp, tranh luận bình tĩnh, tôn trọng quyền bào chữa bị cáo và ý kiến của những người tham gia tố tụng, bảo đảm dân chủ, tránh định kiến, bảo thủ. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm hình sự, kiểm sát viên phải làm những việc sau đây: - Kiểm tra biên bản phiên tòa (Điều 200 Bộ luật tố tụng hình sự) - Kiểm tra việc giao bản án, quyết định của Tòa án (Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự) - Kiểm tra bản án, quyết định của Tòa án (Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự) - Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án (Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự) - Kiểm tra việc giữ hồ sơ kháng cáo, kháng nghị (Điều 237 Bộ luật tố tụng hình sự) - Việc báo cáo kết quả xét xử, gửi bản án, quyết định sơ thẩm cho Viện kiểm sát (Điều 27 QC KSXX) - Rút kinh nghiệm về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm sau phiên tòa. - Tuyên truyền kết quả phiên tòa, kiến nghị, phòng ngừa tội phạm. - Theo dõi kết quả xét xử phúc thẩm. 2.1.3 Căn cứ thực tiễn: Trong lộ trình cải cách tư pháp giai đoạn 2017-2020, để làm sao nền tư pháp Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo những mặt tích cực cũng không ít mặt trái, mặt tiêu cực xâm phạm vào xã hội Việt Nam mà thực trạng vi phạm, tội phạm gia tăng phức tạp. Đòi hỏi xã hội phải ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội để tập trung vào phát triển kinh tế - xây dựng đất nước. Mà cơ quan bảo vệ pháp luật trong đó có Viện kiểm sát phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự vai trò trách nhiệm của Viện kiểm sát đã được quy định là rất nặng nề, từ khi xảy ra tố giác tin báo tội phạm cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thì nhiệm vụ của Viện kiểm sát phải liên tục bám sát cơ quan điều tra từ khởi tố vụ án, bị can, bắt, tạm giữ, tạm giam, hoạt động điều tra vụ án. Trong giai đoạn này Viện kiểm sát phải phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra như lệnh bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, khởi tố bị can, lệnh tạm giam, các quyết định không khởi tố vụ án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án của cơ quan điều traTrong quá trình này nếu để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm thì Viện kiểm sát đã phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra thì phải chịu trách nhiệm về những sai sót nếu có. Khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố, Viện kiểm sát phải truy tố bị can ra trước tòa. Tại phiên tòa sơ thẩm Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước trong việc bảo vệ cáo trạng truy tố bị cáo đảm bảo tòa xử bị cáo đó có tội theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa Viện kiểm sát có trách nhiệm tranh luận, tranh tụng với luật sư bảo vệ cho bị cáo để bảo vệ nội dung cáo trạng truy tố bị cáo trước phiên tòa đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong thực tiễn hoạt động công tố kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có lúc, có việc còn để xảy ra những thiếu sót trong hoạt động công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự làm ảnh hưởng đến vị thế của đơn vị và ngành Kiểm sát. Đây là cơ sở thực tiễn để tôi chọn đề án “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2017-2020” với mục đích nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm sát trong giai đoạn mới. 2.2. Nội dung cơ bản của đề án: 2.2.1 Thực trạng của vấn đề cần giải quyết mà đề án hướng đến 2.2.1.1 Bối cảnh thực hiện đề án: Thị xã Bỉm Sơn là một thị xã trong 27 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Thanh Hóa. Có diện tích là 6.701 ha, với số dân là 54.971 người, phía Bắc giáp tỉnh Ninh Bình, phía Nam giáp huyện Hà Trung, phía Đông giáp huyện Nga Sơn, phía Tây giáp huyện Thạch Thành ( Tỉnh Thanh Hoá). Đường giao thông thuận lợi gồm quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua. Thị xã Thị xã Bỉm Sơn có nhiều tiềm năng to lớn, đặc biệt là tiềm năng khoáng sản phục vụ công nghiệp xây dựng. Diện tích mỏ đá ở Bỉm Sơn có tới 1.186,8 ha chiếm khoảng 18% tổng diện tích tự nhiên. Trữ lượng đá vôi ở Bỉm Sơn dự báo có tới vài tỷ mét khối; lượng đá vôi đã thăm dò là hơn 600 triệu m3. Chất lượng đá vôi ở Bỉm Sơn có hàm lượng ô xít canxi và ô xít mangiê rất thích hợp cho sản xuất xi măng và là nguyên liệu tốt để sản xuất các hoá chất như đất đèn, bột nhẹ, làm chất lọc đường và làm đá ốp lát. Bỉm Sơn còn có đá phiến sét có chất lượng phù hợp để sản xuất xi măng thay thế cho loại đất sét dẻo. Đá phiến sét là nguyên liệu chính xếp sau đá vôi để sản xuất xi măng Poóclăng. Hiện nay trữ lượng đá phiến sét đã thăm dò là hơn 640 triệu tấn; dự báo trữ lượng có thể lên đến hàng tỷ tấn. Ngoài hai nguyên liệu trên Bỉm Sơn còn có đất sét dẻo để làm gạch ngói, trữ lượng đủ cho các nhà máy gạch ngói có công suất 100 triệu viên/năm. Nguồn nước ngầm trong lòng đất Bỉm Sơn đã được Đoàn địa chất 47 thăm dò xác định thuộc dạng nước ngầm các tơ, trữ lượng khá phong phú để phục vụ cho sản xuất công nghiệp.                                                                         Do phần lớn diện tích đất đồi nên Bỉm Sơn có ưu thế mạnh về phát triển lâm nghiệp, trồng rừng, cũng là lợi thế cho phát tiển đô thị và phát triển công nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp ở Bỉm Sơn là: 2.419,85 ha. Toàn thị xã có 638,69 ha đất  trồng rừng phòng hộ và rừng kinh tế. Chính vì vậy cũng nảy sinh nhiều phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nhất là lĩnh vực trật tự an toàn xã hội, các năm gần đây mỗi năm trên địa bàn xảy ra hàng trăm vụ án hình sự đủ các loại hình phạm tội, nổi cộm những năm gần đây gia tăng các loại tội về ma túy, trộm cắp, cướp, cướp giật, cố ý gây thương tích... và một số loại tội phạm mới xuất hiện như mua bán phụ nữ, trẻ em, hiếp dâm trẻ em, vận chuyển trái phép chất nổ, tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng... Chính vì vậy, nội dung xây dựng đề án này có tác dụng thiết thực nhằm rèn rũa trình độ khả năng, kỹ năng thuần thục trong việc thao tác nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên trong đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự từ giai đoạn mới xảy ra tố giác, tin báo tội phạm đến khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm hạn chế thấp nhất các vụ án oan, sai, bỏ lọt tội phạm, án đình chỉ do không cấu thành tội phạm, án hủy, án toà án tuyên không phạm tội, thực hiện tốt đề án này đội ngũ cán bộ kiểm tra viên, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn góp phần tích cực trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm nâng cao vị thế và uy tín của Viện kiểm sát nhân dân trên mặt trận bảo vệ pháp luật. 2.2.1.2 Thực trạng vấn đề cần giải quyết A: Sơ lược về đơn vị thực hiện đề án Là đơn vị Viện kiểm sát cấp huyện, thị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có tổng biên chế chính thức là 11 người và 1 người hợp đồng 68. Cơ cấu 1 viện trưởng, 2 phó viện trưởng, 6 kiểm sát viên chuyên trách các khâu nghiệp vụ, 1 kiểm tra viên nghiệp vụ và 1 kế toán chuyên trách, 100% công chức đã tốt nghiệp đại học, có 2 đồng chí cao cấp lý luận chính trị và một đồng chí đang theo lớp cao cấp lý luận chính trị. Về cơ sở vật chất, đơn vị được xây dựng 1 trụ sở làm việc 2 tầng và hệ thống nhà công vụ, đủ phòng làm việc cho cán bộ. Máy vi tính 12 bộ, xe mô tô 2 chiếc, tủ làm việc 10 cái, tủ lưu trữ tài liệu 2 cái, 11 bộ bàn ghế làm việc ngoài ra các trang thiết bị khác tạm đủ để đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Về thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn từ năm 2011-2016 như sau: - Tình hình chung: Như đã khái quát sơ lược đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên, kiểm tra viên trong đơn vị, trong khoảng thời gian từ 2011-2016 đơn vị đã cho đi đào tạo nâng cao trình độ, hiện nay 11/11 biên chế tốt nghiệp đại học, 10 đại học luật, 1 đại học tài chính. Vì vậy chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự được nâng lên, án trả hồ sơ ít dưới 2%, không có án sửa, hủy không để xảy ra oan, sai, không có án đình chỉ do hành vi bị can không cấu thành tội phạm, không có án tòa tuyên khác với tội danh Viện kiểm sát truy tố hoặc tuyên không phạm tội, quá trình hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn đã tạo được vị thế, uy tín của Viện kiểm sát với các cơ quan tố tụng, cơ quan liên quan và quần chúng nhân dân trên địa bàn thị xã. B: Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm Sát Nhân thị xã Bỉm Sơn từ năm 2011 đến 2016 a. Tình hình chung * Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra Trong giai đoạn 5 năm gần đây, Việm kiểm sát điều tra nhân dân thị xã Bỉm Sơn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao đó là hoàn thành nhiệm vụ công tác kiểm sát nói chung và cụ thể là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Tất cả các vụ án do cơ quan điều tra khởi tố đề nghị phê chuẩn, Viện kiểm sát kiểm sát phê chuẩn 100%. Viện kiểm sát bám sát hoạt động của cơ quan điều tra. Khi kết quả điều tra đề nghị truy tố đều đảm bảo đúng pháp luật. Trong 5 năm không có án oan, sai, không bỏ lọt tội phạm, không có án khởi tố sau đó phải đình chỉ do bị can không phạm tội. * Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự Tất cả các vụ án do Viện kiểm sát truy tố chuyển tòa xét xử theo thẩm quyền Tòa án nhân dân thị xã đều thụ lý xét xử 100%. Viện kiểm sát hoàn thành tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, không có vụ án mà tòa tuyên không phạm tội, không có án bị hủy. Quan điểm xử lý giữa Viện và Tòa phối hợp không có mâu thuẫn, chênh lệch về quan điểm. Nhìn chung Viện kiểm sát hoàn thành tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. b. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. * Hạn chế Tuy đã đạt được những mặt ưu điểm trong 5 năm vừa qua như đã đánh giá. Bên cạnh đó hoạt động công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự, Viện Kiểm Sát Nhân Dân thị xã Bỉm Sơn còn bộc lộ những hạn chế như sau: - Hạn chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. + Về vấn đề kiểm sát thụ lý tố giác tin báo về tội phạm Trong những năm qua, Viện Kiểm Sát Nhân Dân thị xã Bỉm Sơn vẫn chưa khắc phục được tình trạng, kiểm sát chưa chặt chẽ việc thụ lý phân loại xử lý tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. + Về thực hành quyền công tố và kiểm sát bắt tạm giữ Do việc chưa đọc kỹ hồ sơ, chưa nghiên cứu kỹ quy định của tố tụng hình sự. Thời gian Viện Kiểm Sát Nhân Dân thị xã Bỉm Sơn có lúc có việc chưa kiểm sát tốt hoạt động bắt giam giữ đối tượng vi phạm dẫn đến bắt giữ hình sự sau đó không khởi tố được phải thả tự do, nên khi Viện Kiểm Sát đã phê chuẩn gia hạn tạm giữ, trách nhiệm thuộc về Viện Kiểm Sát. + Về thực hành quyền công tố kiểm sát khởi tố, kiểm sát điều tra vụ án. Trong những năm qua, Viện Kiểm Sát Nhân Dân thị xã Bỉm Sơn vẫn còn để hạn chế như kiểm sát viên chưa nghiên cứu, trích cứu kỹ hồ sơ tài liệu hồ sơ vụ án đã đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, sau đó phải chạy theo cơ quan điều tra yêu cầu bổ sung, kiểm sát viên chưa bám sát điều tra viên, chưa rõ được yêu cầu điều tra nếu có một số vụ án. Việc thu thập tài liệu chứng cứ chưa đầy đủ dẫn đến khi kết thúc điều tra đề nghị truy tố phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, quá trình thực hành quyền công tố, các thiếu sót của kiểm sát viên, lỗi chính tả ngày, tháng, năm sinh của bị can trong hồ sơ có nhiều ngày sinh năm sinh khác nhau. + Vẫn còn có vụ án lãnh đạo không nghiên cứu chặt chẽ đề xuất của Kiểm sát viên khi phê chuẩn lệnh tạm giam không đúng quy định của luật tố tụng về mặt thời gian sau đó phải sữa. - Hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát, xét xử vụ án hình sự. Trong những năm vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn trong quá trình hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực xét xử án hình sự vẫn còn bộc lộ những hạn chế như: Kiểm sát viên được phân công chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, vẫn còn vụ án khi quyết định truy tố Tòa án phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần, vẫn còn tình trạng vụ án có luật sư bào chữa Kiểm sát viên chưa chuẩn bị kỹ đề cương xét xử, phương án tranh luận nên còn lúng túng trong khi tranh tụng, làm giảm vị thế của Viện kiểm sát, vẫn còn việc xây dựng cáo trạng, bản luận tội chưa đạt chất lượng; chưa kiểm sát chặt chẽ bản án dẫn đến không phát hiện vi phạm của hội đồng xét xử để kháng nghị. Khi chuyển bản án đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh mới phát hiện và kháng nghị. * Nguyên nhân của những hạn chế trên: Qua thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên, tôi thấy nguyên nhân của những hạn chế thiếu sót cụ thể như sau: - Hệ thống pháp luật vẫn còn nhiều tồn tại chưa đáp ứng được yêu cầu đời sống xã hội, chậm sửa đổi, bổ sung, không đồng bộ và chồng chéo. Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng còn thiếu, yếu và còn nhiều kẽ hở nên ảnh hưởng đến chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên. Ngoài ra còn nhiều vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện các Nghị quyết, thông tư hướng dẫn về các loại tội phạm và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của ngành... - Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự đã được viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VTC ngày 02/01/2008 nhưng vẫn nặng nề nhắc lại các quy định của Luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chưa thể hiện được quy trình tác nghiệp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Hệ thống pháp luật có liên quan đến việc xử lí các loại tội phạm còn chưa đầy đủ và chưa cụ thể. - Pháp luật tố tụng hiện hành chưa quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát ở giai đoạn thụ lý, xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. - Về trình độ lí luận chính trị và năng lực chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong những năm gần đây tuy đã được nâng cao nhưng năng lực, trình độ thực tế còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Một số Kiểm sát viên được phân công nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra chưa thực sự quán triệt đầy đủ, sâu sắc Nghị quyết 08,49/BCT của Bộ Chính trị, cũng như chỉ thị công tác hằng năm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò, chức danh của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự mà Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định. Ở một vài vụ án, một số Kiểm sát viên còn thiếu tinh thần trách nhiệm, không giám sát chặt chẽ hoạt động của Cơ quan điều tra dẫn đến việc áp dụng pháp luật không chính xác. - Đội ngũ Kiểm sát viên còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ. Kiểm sát viên chưa nhận thức một cách đầy đủ các yêu cầu cải cách tư pháp. - Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và việc phân công, bố trí cán bộ vẫn còn bộc lộ những hạn chế thiếu sót mà nguyên nhân là do lãnh đạo quá nhiều việc, nhất là công việc quản lý hành chính, hội họp chiếm nhiều thời gian cho nên thời gian dành cho việc nghiên cứu, công tác nghiệp vụ không được nhiều. Sự phân định giữa chức năng quản lí hành chính và chức năng pháp lí, chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ chưa có những ranh giới rõ ràng. - Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong hoạt động điều tra, xét xử tội phạm hình sự đôi khi còn chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ. Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân là những cơ sở pháp lý quan trọng đối với hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, nhiều chế định thể hiện quyền hạn và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự còn chung chung, quyền hạn của Kiểm sát viên như thế nào và đến đâu chưa được cụ thể dẫn đến khó vận dụng thực hiện trên thực tế. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc của Kiểm sát viên ngành Kiểm sát còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Chế độ, chính sách tiền lương cùng đãi ngộ đối với Kiểm sát viên còn quá thấp, chưa tương xứng với trách nhiệm và công sức bỏ ra. Một số Kiểm sát viên bị mặt trái của kinh tế thị trường tác động nên không toàn tâm toàn ý vào công việc mà chỉ lo cải thiện đời sống, do đó tạo nên sức ỷ lại ảnh hưởng đến chất lượng công việc. 2.2.2 Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện Để đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn thực hiện có hiệu quả đề án “ Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2017-2020” đơn vị cần làm được những nội dung sau: 2.2.2.1 Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ: * Kiện toàn tổ chức và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên, cán bộ trong đơn vị. - Xét về tổ chức đơn vị: Trên cơ sở số lượng cán bộ công chức được biên chế trong đơn vị, Viện trưởng phải có biện pháp phân công, phân nhiệm cụ thể cho từng Phó viện trưởng phụ trách các khâu công tác, trong đó chú trọng khâu công tác mũi nhọn là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xét xử các vụ án hình sự. Chọn Kiểm sát viên cứng về chuyên môn là nam giới có sức khỏe có thể tham gia hoạt động chuyên môn nghiệp vụ trong mọi điều kiện, hoàn cảnh mới đáp ứng được công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. - Thường xuyên có biện pháp nhằm nâng cao trình độ, kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự cho đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên, cán bộ trong đơn vị như: cử cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên tham gia học tập cũng như tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ do ngành kiểm sát, trường đại học kiểm sát đào tạo, nhằm tiếp thu kiến thức mới, cập nhật những kinh nghiệm của toàn ngành trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. - Tổ chức tự học tập, nghiên cứu các văn bản pháp luật, các hướng dẫn pháp luật, các tạp chí, tập san, các văn bản rút kinh nghiệm, các chỉ thị cấp trên chỉ đạo chuyên môn ngay tại đơn vị để tự nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. - Thường xuyên tổ chức tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án lưu động, vụ án điểm phức tạp về tình tiết nội dung cũng như quy trình tố tụng để nhằm cho kiểm sát viên cọ sát và nâng cao kỹ năng chuyên môn và có họp đánh giá rút kinh nghiệm để có biện pháp khắc phục thiếu xót, vi phạm. * Tăng cường vai trò của lãnh đạo trong chuyên môn, nghiệp vụ. Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự đem lại chất lượng yêu cầu của đề án. Lãnh đạo đơn vị giảm bớt hội nghị, họp hành và công tác quản lý hành chính, tập chung nghiên cứu chuyên môn nghiệp vụ. * Tăng cường công tác phối hợp giữa viện kiểm sát và cơ quan cảnh sát điều tra, tòa án nhân dân thị xã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự như: Xây dựng sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp 3 nghành ( công an, viện kiểm sát, tòa án ) hằng năm cho phù hợp, yêu cầu nhiệm vụ cầu cả ba ngành. Không ngừng phát huy các điều khoản trong quy chế phối hợp, nhằm bàn bạc, giải quyết xử lý các vụ án khó, phức tạp. Trên cơ sở quy chế phối hợp, lãnh đạo 3 ngành do viện kiểm sát chủ trì có thể tổ chức triệu tập họp rút kinh nghiệm hằng quý, hằng năm. Các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải tham mưu trực tiếp cho lãnh đạo trực tiếp thực hiện quy chế phối hợp. Trong đó, vai trò kiểm sát viên giám sát hoạt động điều tra và xét xử làm tốt công tác phối hợp với cơ quan điều tra, cơ quan xét xử, cùng là nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xét xử các vụ án hình sự. * Bổ sung các cơ sở vật chất trong thiết bị phục vụ cho hoạt động chuyên môn của đơn vị, đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên, cán bộ để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị như phòng làm việc, tủ đựng tài liệu, bàn ghế, mạng vi tính, phương tiện đi lại( ô tô, xe máy,), thiết bị văn phòng, các công cụ phục vụ chuyên môn như máy ảnh, camera, cặp sách, áo đi mưa, Đơn vị phải có kế hoạch làm tờ trình với các cấp có thẩm quyền để quan tâm trang bị hợp lý phục vụ cho công tác chuyên môn. Hiện nay, thị xã Bỉm Sơn chưa được trang bị xe ô tô cũng là một trong những yếu tố làm hạn chế chất lượng hoạt động chuyên môn, các trang thiết bị khác phục vụ cho chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự tại viện kiểm sát thị xã Bỉm Sơn, muốn thực hiện có hiệu quả thì việc bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cũng là yếu tố quan trọng không thể không có. * Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, đơn vị trong lãnh đạo, chuyên môn nói chung và trực tiếp là nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và điều tra về xét xử, chi bộ Đảng Viện Kiểm Sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn phải có chiến lược lãnh chỉ đạo chuyên môn như sau: + Về hình thức lãnh đạo: Chi bộ Đảng phải xây dựng nghị quyết riêng về chuyên đề, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố về kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự tại Viện Kiểm Sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2017-2020, Nghị quyết của chi bộ phải bao trùm những nội dung về chuyên môn nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo đơn vị, dựa vào đó vạch ra phương án lãnh đạo, quản lý sát đúng với nội dung nghị quyết để chỉ đạo có hiệu quả việc tổ chức thực hiện đề án. Về công tác thường xuyên của Chi bộ: Từng tháng , từng quý, từng năm Chi bộ đều phải có Nghị quyết ngắn hạn để thực hiện. Nghị quyết bao trùm nhằm thực hiện từng giai đoạn lãnh đạo đơn vị triển khai thực hiện đề án có hiệu quả. Quá trình thực hiện Nghị quyết, Chi bộ Đảng đơn vị phải thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện chuyên đề của đơn vị hằng tháng, hằng quý, năm có kết luận về kết quả kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chuyên đề để từ đó rút ra những ưu, khuyết điểm nhằm khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong việc thực hiện Nghị quyết. + Về phương pháp lãnh đạo: Chi bộ cần quan tâm giáo dục công tác chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của Đảng viên là kiểm sát viên, kiểm tra viên, cán bộ trong đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện đề án để từ đó nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những khó khăn trong đời thường của Đảng viên, quần chúng để có biện pháp chỉ thị cho tổ chức công đoàn đơn vị quan tâm, động viên kịp thời, nhằm ổn định tinh thần để họ yên tâm công tác. Chi bộ cần có biện pháp đánh giá đúng mức năng lực chuyên môn, nhiệt tình công tác của từng Đảng viên, kiểm sát viên về hiệu quả công tác của từng người từ đó có hướng chỉ đạo, sử dụng nhân lực sát đúng, đem lại hiệu quả công tác cao. Nội dung tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, đơn vị là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện thành công đề án. 2.2.2.2 Tuyên truyền Pháp luật Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. Ngoài nội dung cần nâng cao trình độ chuyên môn, các bước, các kỹ năng trên. Để hoat động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự, đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn cũng cần chú trọng đến công tác tuyên truyền Pháp luật. - Thường xuyên tổ chức các hội nghị giao ban tuần và cuộc họp đơn vị hằng tháng nhằm tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ kiểm sát viên trong toàn đơn vị ý thức sâu sắc được việc tự học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân họ, có tác dụng trước hết là nắm bắt tiến độ công tác để chỉ đạo chuyên môn thông qua đó cho chính họ với tư cách là cán bộ, kiểm sát viên đang công tác trong ngành kiểm sát phải hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao và mỗi kiểm sát viên, cán bộ được giao nhiệm vụ cụ thể, trong tiến trình thực hiện đề án, họ hoàn thành tốt nhiệm vụ cá nhân cũng là góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, chính là hoạt động thực hiện đề án. - Tổ chức cho đợn vị, từ lãnh đạo đến kiểm sát viên, cán bộ tham gia đầy đủ có trách nhiệm các cuộc thi tìm hiểu pháp luật hằng năm, nhằm làm cho cán bộ, kiểm sát viên trong đơn vị tìm hiểu cập nhật thêm kiến thức pháp luật và kiến thức hiểu biết xã hội để hoàn thiện thêm trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Việc ngành Kiểm sát nhân dân đang tổ chức cuộc thi: Chúng tôi là Kiểm sát viên, đây cũng là kênh thông tin bổ ích mà đơn vị tổ chức cho cán bộ, kiểm sát viên tham gia cuộc thi để nâng cao trình độ, thông qua đó đơn vị tổ chức cho toàn đơn vị theo dõi cũng là cách tuyên truyền pháp luật có tác dụng lớn. - Phân công cho tất cả kiểm sát viên trong năm ít nhất một kiểm sát viên phải có từ 4 đến 5 vụ án đưa ra xét xử rút kinh nghiệm, tại các phiên tòa lưu động thông qua các phiên tòa lưu động, sau đó tập thể đơn vị tổ chức họp nhận xét đánh giá, tìm ra những ưu điểm, những tồn tại của từng phiên tòa. - Đơn vị xây dựng tủ sách pháp luật, sưu tầm đầy đủ, đa dạng các văn bản pháp luật, báo chí, tạp chí về pháp luật để cán bộ kiểm sát viên trong đơn vị có điều kiện tiếp xúc, nghiên cứu, tra cứu, phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ đạt chất lượng hiệu quả cao hơn. - Tổ chức cho đoàn thanh niên trong đơn vị thông qua các cuộc họp chi đoàn lồng ghép được các tài liệu về pháp luật, hướng đến pháp luật nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công chức trong đơn vị. 2.2.3. Các giải pháp, biện pháp để giải quyết về đề mà đề án đặt ra Việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự tại đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn giai đoạn (2017-2020) như đã nêu ở phần “ Nội dung cụ thể cần thực hiện đề án”, đơn vị cần tiếp tục có các giải pháp cụ thể là: 2.2.3.1 Tiếp tục kiện toàn và ổn định tổ chức đơn vị và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Kiểm sát viên Đơn vị tổ chức sắp xếp, phân công lại, cử kiểm sát viên có trình độ năng lực đảm nhiệm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. Có biện pháp nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ kiểm sát viên là: - Hằng năm đăng ký với tổ chức ngành cấp trên lập danh sách các cán bộ, kiểm sát viên đi dự các lớp tập huấn để cập nhật bổ sung kiến thức chuyên môn, học tập kinh nghiệm, thực hành quyền công tố kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự của nhiều địa phương trên toàn quốc, cụ thể cần đăng ký các chuyên đề tập huấn sát thực cho hoạt động công tố như: + Chuyên đề thực hành quyền công tố, kiểm sát tiếp nhận tố giác tin báo tội phạm. + Chuyên để thực hành quyền công tố kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. + Chuyên để thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. + Chuyên để thực hành quyền công tố và kiểm sát giam giữ cải tạo. + Chuyên để thực hành quyền công tố kiểm sát đình chỉ, tạm đình chỉ án hình sự. + Chuyên để thực hành quyền công tố khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự. + Các chuyên đề về tội phạm cụ thể thường xảy ra phổ biến trên địa bàn thị xã như: Chuyên đề thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử các tội: Trộm căp tài sản, lừa đảo, lạm dụng, cướp, cướp giật, cố ý gây thương tích, các tội thuộc chương tội phạm về ma túy, các tội thuộc chương kinh tế, chức vụ nhất là các loại tội phạm mới được quy định trong Bộ luật hình sự mới như tội về môi trường - Cử cán bộ, kiểm sát viên tham gia học tập dài hạn để nâng cao trình độ như đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, đại học luật, các chứng chỉ đào tạo khác do ngành mở. - Kiểm sát viên phải bám sát quá trình điều tra, nắm chắc quá trình điều tra, tăng cường hơn nữa trách nhiệm cá nhân, phát huy tính chủ động của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án, đăc biệt là việc ban hành quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, giai đoạn điều tra đề ra yêu cầu trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết ( hạn chế mức thấp nhất phải trả hồ sơ điều tra bổ sung). Việc đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra là một quyền năng quan trọng và cơ bản của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 2.2.3.2 Tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng đơn vị. Chi bộ Đảng là tổ chức có vai trò lãnh đạo cao nhất. Cần tăng cường kiểm sát hoạt động chuyên môn nghiệp vụ là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất để xây dựng nghị quyết bao trùm cả quá trình thực hiện đề án để lãnh đạo đơn vị bám sát nghị quyết của chi bộ có biện pháp thực thi có hiệu quả nhiệm vụ thực hiện đề án. 2.2.3.3 Tăng cường hơn nữa vai trò của lãnh đạo đơn vị. Lãnh đạo đơn vị phải tập trung chính vào lãnh đạo điều hành chuyên môn nghiệp vụ, giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết như tổ chức họp hành triền miên, nặng về quản lý hành chính. Lãnh đạo đơn vị tập trung vào nghiên cứu chuyên môn nghiệp vụ, sẽ có chỉ đạo quyết định đúng đắn góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiêp vụ và hoàn thành có chất lượng cao việc thực hiện đề án. 2.2.3.4 Tăng cường công tác phối hợp ba ngành tố tụng cấp thị xã Viện kiểm sát, cơ quan cảnh sát điều tra và tòa án nhân dân thị xã luôn tạo mối quan hệ phối hợp, để mở ra điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xét xử các vụ án hình sự như xây dựng sửa đổi bổ sung quy chế phối hợp 3 ngành ( công an, viện kiểm sát, tòa án) hàng năm cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. 2.2.3.5. Tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị và những điều kiện tốt nhất Để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đội ngũ kiểm sát viên trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ cùng quá trình thực hiện đề án. Việc thực hiện đề án nếu được bổ sung cơ sở vật chất phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho đội ngũ kiểm sát viên thì chất lượng thực hiện đề án sẽ đạt hiệu quả tốt. 2.3. Tổ chức thực hiện đề án: 2.3.1 Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án 2.3.1.1 Thuận lợi Trong lộ trình thực hiện đề án từ nay (2017-2020) Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có những thuận lợi sau: - Tất cả kiểm sát viên, kiểm tra viên, cán bộ trong đơn vị đều đã được đào tạo kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát có trình độ đại học luật 3/4 số tổng biên chế trong đơn vị đang ở độ tuổi 25-35 tuổi do đó có đủ ý chí, năng lực và nhiệt tình để thực hiện đề án có hiệu quả. - Các cơ quan tố tụng như cơ quan điều tra, Tòa án nhân dân thị xã tích cực ủng hộ việc thực hiện đề án của Viện kiểm sát. - Cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan trong huyện tạo mọi điều kiện ủng hộ Viện kiểm sát triển khai và thực hiện đề án. 2.3.1.2 Khó khăn Trong quá trình triển khai thực hiện đề án, ngoài những mặt thuận lợi đã nêu, không thể tránh khỏi những khó khăn có thể thấy trước được: - Trong đơn vị có số kiểm sát viên, kiểm tra viên là nữ chiếm 2/3 biên chế, trong đó có 3 lãnh đạo là nam, đặc thù công tác công tố và kiểm sát điều tra, xét xử là phải đáp ứng mọi yêu cầu công việc thời gian, thời tiết (như đi khám nghiệm hiện trường, tử thi) phụ nữ hạn chế không tham gia được, chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ phải nghỉ sản, con nhỏ ốm đau nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện đề án. - Mặc dù 100% có bằng đại học luật nhưng năng lực thao tác nghiệp vụ, sở trường công tác không đồng đều nên gây khó khăn cho việc thực hiện đề án. - Các cơ quan tố tụng có lúc, có việc trong việc phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm chưa nhịp nhàng cũng gây khó khăn cho việc thực hiện đề án. - Cơ sở vật chất, kinh phí ngành phân bổ cho hoạt động chuyên môn còn eo hẹp, phương tiện đi lại chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. 2.3.1.3 Phương hướng khắc phục khó khăn - Quán triệt liên tục, thường xuyên trong đơn vị lấy tiêu chí chuyên môn làm động lực chính cho việc hoàn thành chức trách nhiệm vụ của từng cán bộ, kiểm sát viên trong năm công tác để họ gắn với công tác chuyên môn nghiệp vụ. - Bố trí hợp lý về kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự là nam giới có đủ sức khỏe, ít biến động để gánh vác nhiệm vụ này. - Thường xuyên phối hợp với 3 ngành tố tụng để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện đề án. - Sử dụng kinh phí, cơ sở vật chất hợp lý có hiệu quả nhằm thực hiện có hiệu quả đề án. 2.3.2 Các nguồn lực để thực hiện đề án 2.3.2.1 Về con người : Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có tổng biên chế chính thức là 11 người và 1 người hợp đồng 68. Cơ cấu 1 viện trưởng, 2 phó viện trưởng, 6 kiểm sát viên chuyên trách các khâu nghiệp vụ, 1 kiểm tra viên nghiệp vụ và 1 kế toán chuyên trách, 100% công chức đã tốt nghiệp đại học, có 2 đồng chí cao cấp lý luận chính trị và một đồng chí đang theo lớp cao cấp lý luận chính trị. 2.3.2.2 Về cơ sở vật chất : Đơn vị được xây dựng 1 trụ sở làm việc 2 tầng và hệ thống nhà công vụ, đủ phòng làm việc cho cán bộ. Máy vi tính 12 bộ, xe mô tô 2 chiếc, tủ làm việc 10 cái, tủ lưu trữ tài liệu 2 cái, 11 bộ bàn ghế làm việc ngoài ra các trang thiết bị khác tạm đủ để đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. 2.3.2.3 Khoản kinh phí thực hiện đề án: - Dự kiến nguồn kinh phí, đơn vị làm tờ trình xin từ các nguồn sau: + Xin kinh phí từ phòng tài chính thị xã Bỉm Sơn . + Thông qua mối quan hệ làm Công văn xin từ ngân sách 08 phường, xã trong thị xã. + Xin từ các doanh nghiệp đóng trên địa bàn thị xã. + Xin kinh phí tài vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Dự kiến mức kinh phí phải chi cho thực hiện đề án là 300.000.000đ ( Ba trăm triệu đồng) 2.3.3 Kế hoạch, tiến độ thực hiện đề án Trên cơ sở trao đổi bàn bạc trong đơn vị cùng đi đến thống nhất về tiến độ thực hiện đề án (từ 2017-2020) dựa vào đó Viện trưởng chỉ đạo tiến độ thực hiện như sau: + Năm 2017: Là bước chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ cho lộ trình thực hiện đề án như: - Làm tờ trình xin kinh phí hoạt động. - Mua sắm trang bị vật chất cho việc thực hiện đề án. - Triển khai nội dung đề án đến toàn đơn vị, bắt đầu thực hiện đề án. + Năm 2018: Tổ chức rút kinh nghiệm những ưu điểm, thiếu sót trong việc thực hiện đề án của năm 2017 và tiếp tục thực hiện đề án. + Năm 2019: Sơ kết thực hiện đề án những chất lượng hiệu quả của việc thực hiện đề án rút ra những hạn chế cấn khắc phục và tiếp tục thực hiện đề án. + Năm 2020: Tiếp tục thực hiện đề án: Tháng cuối của quý 4 năm 2020 tổng kết 4 năm thực hiện đề án, báo cáo kết quả những mặt đạt được để nhân lên, đồng thời có hướng khắc phục những hạn chế. Đề án được đơn vị tiếp tục thực hiện cho các năm tiếp theo. 2.3.4 Phân công trách nhiệm thực hiện đề án: * Đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn (Chủ trì thực hiện đề án): - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã phụ trách chung, là người lãnh đạo cao nhất chỉ đạo điều hành việc thực hiện đề án. - Hai phó viện trưởng được phân công phụ trách hai mảng án hình sự: + Một phó viện trưởng phụ trách hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các tội phạm thuộc chương An ninh, ma túy, kinh tế, chức vụ, án xâm phạm quyền sở hữu. + Một phó viện trưởng phụ trách hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự, các tội phạm thuộc chương xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự con người, xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân và các chương khác trong Bộ luật hình sự. - Phân công án đều cho các kiểm sát viên để đảm nhiệm hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự dưới quyền chỉ đạo điều hành của hai Phó viện trưởng. Hai Phó viện trưởng có trách nhiệm trực tiếp tham mưu báo cáo thỉnh thị Viện trưởng, Viện trưởng là người quyết định cao nhất. - Phân công kiểm tra viên nghiệp vụ giúp việc cho các kiểm sát viên trong quá trình thao tác chuyên môn nghiệp vụ. Kế toán đơn vị có trách nhiệm đảm bảo chế độ vật chất theo chế độ hiện hành và những chi phí phục vụ hoạt động đề án. * Các đơn vị phối hợp Cơ quan cảnh sát điều tra và Tòa án nhân dân là hai đơn vị có chức năng liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát. Do đó nhiệm vụ của cơ quan cảnh sát điều tra cần tuân thủ đúng pháp luật, tạo mọi điều kiện để kiểm sát điều tra hoàn thành tốt nhiệm vụ công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Tòa án nhân có chức năng xét xử các vụ án hình sự liên quan đến chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét sự các vụ án hình sự của Viên kiểm sát. Do đó, nhiệm vụ của tòa án nhân dân tuân thủ đúng pháp luật, tạo mọi điều kiện để Viện kiểm sát hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ. 2.4. Dự kiến hiệu quả của đề án 2. 4.1 Sản phẩm của đề án Đề án nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2017-2020 thành công thì những đối tượng hưởng lợi từ đề án là: - Đội ngũ kiểm sát viên, kiểm tra viên cán bộ nghiệp vụ trong đơn vị nâng cao một bước trình độ nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định tránh được oan, sai, bỏ lọt tội phạm - Đối với điều tra viên trong cơ quan điều tra Công an thị xã Bỉm Sơn cũng phải nghiêm túc hơn, tích cực hơn trong điều tra tội phạm và cần thiết phải gắn hoạt động công tố với hoạt động điều tra để đảm bảo xử lý từ tố giác tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố điều tra tội phạm đảm bảo chất lượng cao hơn về hoạt động điều tra tội phạm. - Đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn cũng nâng cao hơn về trình độ xét xử phiên tòa tránh được oan, sai trong hoạt động xét xử. - Cấp ủy, chính quyền địa phương có môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh để lãnh đạo nhân dân thị xã nhà phát triển kinh tế xã hội, đưa đời sống nhân dân lên một bước mới. 2.4.2 Tác động và ý nghĩa của đề án Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/01/2015 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà định hướng chỉ đạo trọng tâm là: Cải cách một bước căn bản toàn diện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm mà Viện kiểm sát nhân dân là mắt xích không thể thiếu trong lộ trình cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát Đề án “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2017-2020” có ý nghĩa thiết thực trong chiến lược cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự, tác dụng của nó là nhằm chấn chỉnh kịp thời các vi phạm điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Không để xảy ra quá hạn tạm giữ, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không phạm tội, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ngăn chặn kịp thời những trường hợp phạm quyền, xâm phạm các quyền công dân, không bỏ lọt tội phạm, không oan người vô tộiĐồng thời thông qua hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tham mưu đề xuất với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ môi trường tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn, cũng là để góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2020. Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận Đề án “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2017-2020” triển khai được xem như là một cẩm nang về hoạt động chuyên môn nghiệp vụ chính thống cho toàn thể Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn xuyên suốt liên tục từ nay đến năm 2020. Nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự đang được xem như là một khâu công tác chủ lực, trọng tâm trong toàn bộ hoạt động của ngành Kiểm sát trong đó có Viện kiểm sát nhân dân thị xã. Chính vì thế, đề án “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2017-2020” cũng là nhiệm vụ chính xuyên suốt của tất cả các Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố trên toàn quốc. Thực hiện thành công đề án này có tác dụng trước hết là chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạmlàm cho nền Pháp luật được nghiêm minh hơn, khách quan và chính xác hơn, nâng cao vị thế của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống cơ quan tố tụng, góp phần vào tiến trình cải cách tư pháp, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước từ nay đến năm 2020./. 3.2. Kiến nghị với các tổ chức và cá nhân để thực hiện đề án Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp (2017-2020) của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn đem lại hiệu quả, xin kiến nghị những nội dung sau: - Ngành kiểm sát nhân dân (Viện kiểm sát nhân dân tối cao) quan tâm hơn đến Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, thị về biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất, chế độ tiền lương mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. - Ngành cấp trên thường xuyên mở lớp đào tạo, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn để cập nhật kiến thức cho cán bộ kiểm sát viên. - Cung cấp kịp thời đầy đủ các văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn, áp dụng pháp luật đến Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị. - Cấp ủy, chính quyền địa phương thị xã quan tâm đầy đủ hơn đến Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị về việc tạo điều kiện cơ sở vật chất trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Bộ luật tố tụng hình sự 2.Bộ luật hình sự 3.Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra(Tác giả: Nguyễn Hải Phong – Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) 4.Một số tài liệu tập huấn của ngành kiểm sát 5.Luật tổ chức Viện kiểm sát 6.Từ thực tiễn hoạt động kiểm sát (Hồ sơ lưu trữ của đơn vị). 7.Sổ tay kiểm sát viên tập 1 (Viện khoa học kiểm sát)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_an_cai_cach_tu_phap_4793_2135076.doc