Tài liệu Đề án Các nguồn vốn và khả năng khai thác các nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam: Lời mở đầu
Từ sau đại hội VI năm 1986 nền kinh tế nước ta đã thực hiện một công cuộc chuyển đổi lớn. Đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay nước ta đã đạt được nhiều thành tựu những đáng kể như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm gần 7% (từ năm 1990) đời sống nhân dân ngày càng cải thiện và là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới… Đảng và Chính phủ ta đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế những năm tới là 7% - 9% và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Với mức GDP bình quân đầu người lên khoảng 2000 - 3000 USD/người/năm.
Thực hiện được mục tiêu này hay không là do nguồn vốn quyết định. Nguồn vốn trong nước là rất quan trọng song nguồn vốn nước ngoài cũng rất cần thiết và không thể thiếu. Với tư tưởng chủ đạo tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thường xuyên.
Tuy nhiên trong những n...
24 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề án Các nguồn vốn và khả năng khai thác các nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Từ sau đại hội VI năm 1986 nền kinh tế nước ta đã thực hiện một công cuộc chuyển đổi lớn. Đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay nước ta đã đạt được nhiều thành tựu những đáng kể như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm gần 7% (từ năm 1990) đời sống nhân dân ngày càng cải thiện và là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới… Đảng và Chính phủ ta đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế những năm tới là 7% - 9% và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Với mức GDP bình quân đầu người lên khoảng 2000 - 3000 USD/người/năm.
Thực hiện được mục tiêu này hay không là do nguồn vốn quyết định. Nguồn vốn trong nước là rất quan trọng song nguồn vốn nước ngoài cũng rất cần thiết và không thể thiếu. Với tư tưởng chủ đạo tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thường xuyên.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế nước ta có phần giảm đi và bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong chính sách thu hồi vốn. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của vốn đầu tư nên em chọn đề tài: "Các nguồn vốn và khả năng khai thác các nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam".
I. Khái niệm về đầu tư và nguồn vốn
1.1. Khái niệm và đặc trưng của đầu tư
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân hay xã hội.
Đối với một doanh nghiệp hoạt động đầu tư là công việc khởi đầu quan trọng nhất và cũng là khó khăn nhất của quá trình sản xuất kinh doanh. Những quyết định của ngày hôm nay về lĩnh vực, quy mô, hình thức, thời hạn đầu tư sẽ chi phối quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó chất lượng của các quyết định đầu tư sẽ quyết định sự thịnh vượng hay đi xuống của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế nói chung toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật kỹ thuật của nền kinh tế, tạo ra sản phẩm, dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thời kỳ tiếp theo. Xét lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ cải tiến đời sống trong tương lai.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đầu tư
Đầu tư có 2 đặc trưng cơ bản:
- Tính sinh lời: Là đặc trưng hàng đầu của đầu tư, nếu việc sử dụng nguồn vốn không nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu thì không thể coi là đầu tư.
Như vậy đầu tư khác với:
+ Việc mua sắm, cất trữ, để dành
+ Việc mua sắm nhằm mục đích tiêu dùng vì trong việc này tiền của không sinh lời.
+ Việc chi tiêu vì lý do nhân đạo, tình cảm.
- Tính kéo dài: Thời gian của đầu tư thường là 2 năm đến 70 năm. Đặc trưng này cho phép phân biệt hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh. Kinh doanh thường được coi là một giai đoạn của đầu tư. Như vậy đầu tư và kinh doanh thống nhất ở tính sinh lời nhưng khác nhau ở thời gian thực hiện.
1.2. Khái niệm và vai trò của vốn
1.2.1. Khái niệm về vốn và nguồn vón
Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông với mục đích kiếm lời. Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và để trả công cho người lao động nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn.
Nguồn vốn chính là nơi mà từ đó có thể khai thác được một số lượng vốn nào đó để phục vụ cho nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội.
1.2.2. Vai trò của vốn trong nền kinh tế
Vốn là một trong năm yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình sản xuất đó là: Nhân lực, vật lực, tài lực (vốn), thông tin và sự quản lý. Nếu thiếu vốn thì quá trình sản xuất sẽ không thể được tiến hành.
Vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các nước đặc biệt là đói với nước đang phát triển như Việt Nam. Việt Nam là một nước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá muộn so với thế giới, mặt khác lại có xuất phát điểm thấp, đó là những khó khăn cản trở sự phát triển kinh tế. Để khắc phục những khó khăn này thì vốn đóng vai trò rất quan trọng. Nước ta cần phải có một lượng vốn lớn để xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đổi mới thiết bị công nghệ… cho quá trình phát triển nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra là không phải tìm mọi cách để huy động cho được các nguồn vốn mà phải coi trọng việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ấy cho đầu tư phát triển sao cho có hiệu quả để nguồn vốn ấy sinh sôi nảy nở và đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội đề ra.
II. Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư
2.1. Nguồn vốn trong nước
2.1.1. Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước
2.1.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước
Về hình thức: Ngân sách Nhà nước là một bảng tổng hợp các khoản thu và các khoản chi của Nhà nước trong một năm tài chính theo dự toán ngân sách đã duyệt.
Về bản chất kinh tế thì ngân sách Nhà nước thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tầng lớp dân cư, các tổ chức trung gian tài chính, thị trường tài chính.
Vốn huy động từ ngân sách Nhà nước là bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật. Đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách Nhà nước có vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội. Nó được thể hiện trong ba nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sẽ sử dụng thuế và chi đầu tư để hướng dẫn kích thích và tạo sức ép đối với các chủ thể của các hoạt động kinh tế. Vận dụng thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng hướng dẫn, kích thích các thành phần kinh tế mở rộng hoạt động kinh doanh, tạo ra môi trường kinh tế mở rộng hoạt động kinh doanh, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thu hút vốn đầu tư và định hướng đầu tư của khu vực doanh nghiệp.
- Thứ hai: Điều tiết thị trường giá cả, chống lạm phát. Nhà nước sẽ can thiệp vào thị trường thông qua các khoản chi của ngân sách Nhà nước dưới hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ Nhà nước về hàng hoá và tài chính.
- Thứ ba: Điều tiết thu nhập để thực hiện công bằng xã hội bằng cách áp dụng mức thuế thu nhập.
Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ xung từ bên ngoài (chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít là vay nợ nước ngoài).
Do thuế là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước (chiếm hơn 90%) cho nên việc huy động vốn ngân sách Nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thuế. Cải cách thuế có tác động trực tiếp tới ngân sách Nhà nước. Việc miễn giải thuế cần đi đôi với việc mở rộng phạm vi và đối tượng nộp thuế nhằm bảo đảm quy mô của ngân sách Nhà nước.
2.1.1.2. Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp Nhà nước
Đây là nguồn vật lực to lớn nhất của Nhà nước, nguồn vốn này do các doanh nghiệp Nhà nước quản lý. Ngoài ra nguồn tài sản công ở dạng tiềm năng là tài sản Nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng đoàn thể quản lý. Những tài nguyên quốc gia nơi có giá trị to lớn. Để huy động được nguồn vốn này thì đòi hỏi phải có sự quản lý hiệu quả ở các doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện nay nguồn tích luỹ từ các doanh nghiệp còn rất hạn chế bởi lẽ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp công nghệ chưa được đổi mới, chất lượng của sản phẩm chưa cao nên kha rnăng tiết kiệm cho đầu tư chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chưa được quản lý nghiêm ngặt và đầy đủ. Vì thế để huy động được nguồn vốn lớn trong doanh nghiệp Nhà nước thì đòi hỏi Nhà nước phải tiến hành sửa đổi và ban hành các chính sách để khuyến khích doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, để có thể đầu tư phát triển sản xuất.
2.1.1.3. Nguồn vốn huy động từ đầu tư
Đây là nguồn vốn tiết kiệm trong các hộ gia đình dưới dạng tiền hoặc các tài sản có giá: vàng, bạc, đá quý, đồ cổ… Theo điều tra và ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống kê nguồn vốn trong dân hiện có khoẳng 10 tỷ USD trong đó chỉ có từ 30-40% vốn hiện có trong dân là được huy động cho đầu tư phát triển. Vốn trong dân hiện vẫn là nguồn vốn có tiềm năng và khả năng khai thác cao.
Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, mở mang ngành nghề ở nông thôn, phát triển tiểu, thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, vận tải… Khi thu nhập quốc dân trên đầu người tăng lên thì lượng vốn trong dân cũng tăng theo. Trong tương lai đây là một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế. Vì vậy chúng ta cần phải thực hiện các chính sách sau:
- Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn để cho mọi người dân ở bất cứ nơi nào cũng có điều kiện sản xuất, kinh doanh.
- Tăng lãi suất tiết kiệm, đảm bảo lãi suất sau khi trừ đi lạm phát của nền kinh tế dương.
- Tạo môi trường đầu tư thông thoáng và thực hiện theo quy định của pháp luật để người dân dễ dàng bỏ vốn đầu tư.
- Chính phủ ban hành chính sách khuyến khích tư nhân trong nước tự đầu tư, khai thác thế mạnh của vùng, địa phương.
2.1.2. Đặc điểm các nguồn vốn trong nước
- Vốn trong nước là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh đầu tư của mọi nguồn lực theo định hướng chung của kế hoạch. Đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế đảm bảo theo đúng định hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Nguồn vốn trong nước hiện nay còn rất hạn chế một phần do nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu nguồn vốn tích luỹ cho đầu tư phát triển kinh tế còn thấp, nhưng nguyên nhân quan trọng là chưa có các chính sách thích hợp để khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình.
- Việc đầu tư phát triển kinh tế từ nguồn vốn trong nước có hiệu quả không cao do quản lý và sử dụng theo cơ chế quan liêu, bao cấp.
- Vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, các công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, hải đảo…
- Vốn đầu tư của khu vực tư nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, mở mang các ngành nghề ở nông thôn, phát triển tiểu thủ công nghiệp, vận tải dịch vụ và thương nghiệp.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động nguồn vốn trong nước
- Nguồn ngân sách bao gồm: Nguồn thu trong nước và nguồn thu bổ sung từ bên ngoài, chủ yếu thông qua nguồn vốn ODA và một số ít vay nợ từ tư nhân nước ngoài. Do thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân Nhà nước cho nên việc huy động vốn ngân sách Nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thuế. Cải cách thuế có tác động trực tiếp tới ngân sách Nhà nước. Việc miễn giảm thuế cần đi đôi với việc mở rộng phạm vi và đối tượng nộp thuế nhừam đảm bảo quy mô của ngana sách Nhà nước. Các biện pháp quan trọng để tăng thu là thu đúng và thu đủ thuế và các khoản vay trong nước.
- Cải tiến các hệ thống thuế, làm cho diện thu thuế tăng lên, nhưng thuế suất đơn giản hoá. Kết quả là: Giảm được tỷ lệ trốn lậu thuế, tăng nguồn thu cho ngân sách, đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển, đồng thời tránh được các khoản lạm thu gây khó khăn, phiền hà đến sinh hoạt và các hoạt động khác của đời sống dân cư.
- Quản lý tốt vấn đề nợ, đảm bảo tốt đối tượng trả nợ và tính kỹ các điều kiện trả trước khi ký hợp đồng khung vay vốn và hiệp định vay cho từng công trình, chương trình dự án đầu tư.
Hiện nay nguồn tích luỹ từ các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Bởi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp, công nghệ chưa được đổi mới, chất lượng sản phẩm chưa cao nên khả năng tiết kiệm cho đầu tư chưa nhiều. Mặt khác vốn khấu hao chưa được quản lý nghiêm ngặt và khấu hao đủ. Vì vậy để huy động được nguồn vốn lớn trong doanh nghiệp Nhà nước thì đòi hỏi Nhà nước phải tiến hành sửa đổi và ban hành các chính sách để khuyến khích làm ăn có hiệu quả bằng cách:
+ Mở rộng quyền tự chủ của các doanh nghiệp, xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ để tránh tình trạng thêm tầng lớp trung gian gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Sớm sắp xếp lại doanh nghiệp, chỉ giữ lại một số doanh nghiệp thật cần thiết cho phép chuyển đổi hình thức sở hữu. Đồng thời trong cơ chế chính sách cần đảm bảo sự bình đẳng tối đa, cùng loại hình hoạt động, nếu như không có các quy chế đặc biệt thì đều có cơ chế về thuế, tín dụng, lãnh thổ… như nhau…
- Để tăng cường sử dụng nguồn vốn của nhân dân hay vốn ngoài vùng ngân sách thì cần phải có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm giàu chính đáng, tạo lòng tin cho nhân dân yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Tiềm lực trong dân còn rất lớn muốn khai thác nguồn vốn này Nhà nước phải ổn định chính sách tiền tệ, củng cố các Nhà nước thương mại và tín dụng theo hướng đảm bảo mục tiêu an toàn vốn cho gửi tiết kiệm. Mở thêm các điểm gửi thuận lợi cho người gửi và rút tiền linh hoạt khi xử lý các mức thời hạn.
2.1.4. Vai trò của vốn trong nước với sự phát triển kinh tế
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá có tính kế hoạch nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, khai thác và sử dụng có tiềm năng vốn của đất nước đã đặt nền kinh tế nước ta đến một loạt các mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu ấy. Việc đánh giá đúng nguồn vốn và việc sử dụng nó trong thời gian vừa qua nó cho chúng ta những cơ sở để tạo ra chiến lược tạo vốn nhằm khai thác mọi tiềm năng về vốn và định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
Đối với việc huy động vốn trong nước thì đây chính là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng, quyết định. Trong khi đất nước còn nghèo khả năng tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những phần chi tiêu không mang lại hiệu quả thì nó không những là quốc sách mà chúng ta còn có các giải pháp để hoàn thiện dần; Nhà nước, các doanh nghiệp, hộ gia đình, các tổ chức tài chính… Phải gắn tiết kiệm với tích luỹ trong sự tác động của các nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong nước.
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn trong các khu vực: Như ngân sách Nhà nước, tín dụng Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước và các tổ chức tín dụng tư nhân.
Vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư vào khu vực doanh nghiệp Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội, các công trình công cộng, hỗ trợ các vùng chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, hải đảo…
Vốn đầu tư của tư nhân có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn, mở mang các ngành nghề ở nông thôn phát triển, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, dịch vụ và thương nghiệp.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài
2.2.1. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
2.2.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
* Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
- Về thực chất, FDI là sự đầu tư của công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư, mở rộng từ nguồn lợi nhuận thu được từ chủ đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà các chủ đầu tư được tự mình ra quyết định đầu tư, đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn.
* Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước.
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài quản lý và điều hành.
- Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và chia theo tỷ lệ góp vốn pháp định.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động, hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sát nhập các doanh nghiệp khác.
Nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có thể được bổ sung sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao không có ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
* Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu sau: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: la doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo quy định pháp luật của nước sở tại.
- Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên và vốn pháp định.
- Ngoài ra chủ đầu đầu nước ngoài có thể hợp tác kinh doanh với bên Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như: hợp đồng chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới.
Để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, Chính phủ nước hiện tại còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế. Hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T), xây dựng - chuyển giao (B.T), xây dựng - chuyển giao - vận hành (B.T.O).
2.2.1.2. Đầu tư gián tiếp
* Khái niệm đầu tư gián tiếp: Đầu tư gián tiếp là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người chủ sở hữu vốn. Không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Hay nói cách khác thực chất đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư trong đó chủ đầu tư không trực tiếp chịu trách nhiệm với kết quả đầu tư. Họ chỉ hưởng lãi theo tỷ lệ của số vốn đầu tư.
* Đặc điểm của đầu tư gián tiếp nước ngoài:
- Nếu là vốn đầu tư của các tổ chức quốc tế thì nó thường đi kèm với điều kiện ưu đãi nên chỉ tập trung vào những dự án có mức vốn đầu tư tương đối lớn, thời gian dài và gắn chặt với thái độ chính trị của các Chính phủ và các tổ kinh tế quốc tế khác nhau.
- Phạm vi đầu tư có giới hạn vì các chủ đầu tư nước ngoài chỉ quyết định mua cổ phần của những doanh nghiệp làm ăn có lãi hoặc có triển vọng phát triển trong tương lai.
- Số lượng cổ phần của các công ty nước ngoài được mua bị khống chế ở một mức độ nhất định tuỳ theo từng nước để không có cổ phần nào chi phối doanh nghiệp. Thông thường số cổ phần này dưới 10% đến 25% vốn pháp định.
- Chủ đầu tư nước ngoài không tham gia điều hành hoạt động doanh nghiệp, do đó bên tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong kinh doanh.
- Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận qua lãi suất cổ phiếu không cố định, tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh.
- Tuỳ doanh nghiệp đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý nhưng thay vào đó doanh nghiệp có khả năng phân tán rủi ro kinh doanh cho những người mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp.
* Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Hình thức của đầu tư gián tiếp phụ thuộc vào chính nguồn vốn của chủ đầu tư. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng, có thể là của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ… Các nguồn vốn này có thể dưới hình thức viện trợ hoàn lại và không hoàn lại. Cho vay ưu đãi và không ưu đãi. Các doanh nghiệp và tư nhân cũng có thể đầu tư gián tiếp dưới hình thức mua cổ phiếu và chứng khoán ở mức không quá lớn, chưa đạt đến tỷ lệ cổ phần khống chế để phải tự đứng ra điều hành một dự án đầu tư.
Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức ODA của Chính phủ một số nước công nghiệp phát triển.
- Khái niệm: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại (hay cho vay dài hạn với lãi suất thấp) của Chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên Hiệp Quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng Thế giới WB, Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF…) dành cho chính phủ và nhân dân nước viện trợ.
- Các hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển ODA.
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Bao gồm các khoản hỗ trợ tài chính trực tiếp bằng tiền mặt hỗ trợ bằng hiện vật, hoặc hỗ trợ cho nhập khẩu.
+ Tín dụng thương mại: là những khoản tín dụng dành cho Chính phủ các nước sở tại với các điều kiện "mềm" về lãi suất, thời hạn trả dài nhưng có những ràng buộc nhất định.
+ Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức đầu tư chủ yếu của vốn ODA. Nó có thể bao gồm những hỗ trợ cơ bản cho các dự án cải thiện, nâng cấp hoặc xây dựng mới cơ sở hạ tầng (như xây dựng đường cầu cống, đê điều…) và những hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho dự án như chuyển giao tri thức, tăng cường cơ sở, lập kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật của dự án, trợ giúp hoạch định chính sách.
+ Hỗ trợ phi dự án: chủ yếu là viện trợ chương trình đạt được sau khi ký các hiệp định với đối tác tài trợ dành cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định không cần xác định chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
- Hỗ trợ phát triển chính thức ODA có các đặc điểm sau:
+ Là nguồn với tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
+ Nguồn vốn ODA gồm: Viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. Tuy vậy nếu quản lý, sử dụng vốn ODA kém hiệu quả vẫn có nguy cơ để lại gánh nặng nợ nần trong tương lai.
+ Các nước nhận ODA phải hội đủ một số điều kiện nhất định mới được nhận tài trợ. Điều kiện này tuỳ thuộc quy định của từng nhà tài trợ.
+ Nguồn vốn ODA chủ yếu dành cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, giáo dục, y tế…
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn với các nước trên thế giới, vì vậy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể như sau:
- Hệ thống luật: là một trong những nhân tố sẽ kèm hãm hay thúc đẩy gia tăng các hoạt động đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ trong hệ thống luật đầu tư, nước sở tại sẽ nêu rõ quan điểm của mình trên lĩnh vực đầu tư về hình thức đầu tư, đảm bảo lợiích cho các bên liên quan như thế nào… Đồng thời các nhà đầu tư còn xem xét những luật liên quan như: Luật thuế, luật cho thuê đất đai… Những nội dung của hệ thống luật càng đồng bộ,chặt chẽ, cởi mở phù hợp với thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài càng cao.
- Bình ổn về chính trị: Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro, vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư. Những bất ổn về kinh tế chính trị chẳng những làm cho dòng vốn đầu tư nước ngoài bị thu hẹp mà còn làm cho quá trình huy động nguồn vốn trong nước bị giảm mạnh. Bởi vậy bình ổn chính trị không chỉ trong thời gian ngắn mà cần giữ vững lâu dài, có như thế các nhà đầu tư nước ngoài mới yên tâm đầu tư.
- Sự phát triển cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án cam kết. Một tổng thể hạ tầng đồng bộ gồm: cầu, cảng, đường xá, hệ thống điện nước dồi dào, phương tiện nghe, nhìn, truyền thông hiện đại… Khi đó các chủ đầu tư nước ngoài sẽ yên tâm hơn để đầu tư vào nước sở tại. Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cập nhật và đáng tin cậy để cho các nhà đầu tư tiếp xúc, lựa chọn bên đối tác.
- Chính sách tiền tệ: Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định hoạt động xuất, nhập khẩu và thu lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài nhất là trong chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái. Việc nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào một nước thường tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưu tiên đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó hơn nữa khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng nhanh. Tuy nhiên lãi suất cao cũng làm cho chi phí trong đầu tư cao. Ngoài ra một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ nước đó bảo đảm hơn, mức độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm.
- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia: Lực cản làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian, chi phí và làm mất cơ hội đầu tư. Đồng thời nhân tố này còn gắn liền với trình độ, khả năng, tính trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc thẩm định dự án, kiểm tra và mức xử lý việc phát sinh trong hoạt động đầu tư. Do vậy bộ máy hành chính phải thật gọn nhẹ. Với các thủ tục hành chính có tính chất đơn giản, công khai và nhất quán. Điều đó sẽ làm tăng tính hoạt động của đầu tư một cách thông suốt và chính xác.
- Đặc điểm thị trường nước nhận vốn.
Đây là yếu quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các tầng lớp dân cư trong nước… Đặc biệt là hoạt động của thị trường nhân lực. Mặt khác với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài nhất là những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả năng quản lý… cũng có ý nghĩa nhất định.
- Bảo về quyền sở hữu: Quyền này bao gồm quyền của người phát minh, sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết công nghiệp… Đây là yếu tố đặc biệt có ý nghĩa đối với những người muốn đầu tư vào ngành có hàm lượng khoa học cao và phát triển năng động.
- Chính sách thuế và những ưu đãi: thường được áp dụng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Giảm thuế công nghệ, nguyên vật liệu, thuế suất. Miễn giảm thuế đối với những vùng có điều kiện khó khăn, ngành khuyến khích đầu tư, sẽ khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào đầu tư ở thị trường bản địa.
- Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư lẫn bản xứ. Nếu không kiểm soát được lạm phát thì nhà đầu tư sẽ khó dự đoán được các kết quả hoạt động kinh doanh. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ mà không ổn định sẽ làm cho các nhà đầu tư không lường trước được các rủi ro.
2.2.3. Mối liên hệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp của nước ngoài ở Việt Nam
Để thực hiện được chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế thì không thể thiếu nguồn vốn lớn bên ngoài.
Nguồn vốn bên ngoài bao gồm chủ yếu 2 nguồn FDI và ODA sẽ có tác dụng tạo ra những sản phẩm mới và công nghệ cao đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và thế giới.
Nguồn vốn bên ngoài trong bàn cơ cấu vốn thời kỳ 2000-2005 đạt khoảng 25-30 tỷ USD đáp ứng 5% nhu cầu vốn thời kỳ này. Bao gồm:
- ODA khoảng 10-12 tỷ USD
- FDI khoảng 12-15 tỷ USD
- Phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế khoảng 3-5 USD.
- Ngoài ra tín dụng thương mại là một nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại xuất, nhập khẩu.
Các nguồn vốn này có quan hệ rất chặt chẽ với nhau và không thể tách rời. Nếu chúng ta không vay được nguồn vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng - xã hội thì khó có thể thu hút và hấp thụ một cách hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngược lại, nếu chỉ tập trung tìm kiếm các nguồn ODA mà không thu hút các nguồn vốn FDI thì sẽ không đủ thu nhậpđể chính phủ trả nợ ODA. Vậy ta thấy giữa 2 nguồn vốn ODA và FDI có mối quan hệ mật thiết với nhau và không thể ránh rời nhau.
2.2.4. Khả năng khai thác các nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển ở Việt Nam
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn nước ngoài có khả năng khai thác cao nhất. Nhịp độ thu hút FDI có xu hướng tăng lên kể cả về số dự án và số vốn đăng ký từ năm 1988 đến nay. Việt Nam là một nước có nền chính trị ổn định, trình độ dân trí cao, dân số đông lao động khá rẻ… đó là những lợi thế góp phần tăng khả năng thu hút FDI cho nền kinh tế.
Nguồn vốn ODA đối với nước ta hiện nay vẫn có một sức hấp dẫn thậm chí còn hơn cả nguồn vốn FDI. Tuy nhiên tài trợ phát triển chính thức là thị trường vốn đặc biệt căng thẳng về nguồn cung và mang tính cạnh tranh cao. Để có thể tiếp tục nhận được khối lượng ODA mong muốn, đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách kịp thời phù hợp để giải quyết các vấn đề như: nâng cao tốc độ giải ngân, chuẩn bị tốt vốn đối ứng, tăng cường năng lực của nhóm dự án ODA… Đó cũng chính là những yếu tố nhằm nâng cao lòng tin của các nước, tổ chức cung cấp ODA cho nước tiếp nhận ODA.
Nguồn vay tư nhân ở nước ta hiện nay chưa được khai thác một cách có hiệuquả. Trong thời gian tới, với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế cũng như tình hình chính trị xã hội, việc huy động nguồn vốn này sẽ được nâng cao hơn nữa một cách đúng mức.
III. Vai trò của nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam
3.1. Tính tất yếu của việc thu hút vốn đầu tư trong nước
Một điều ai cũng có thể đồng ý với nhau là: một nền kinh tế kém phát triển rất khó có thể "cất cánh" được nếu không có sự tham gia của các nguồn vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên, chúng ta không nên trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong việc huy động vốn để đầu tư phát triển, chúng ta cần phải khẳng định vai trò của nguồn vốn trong nước đóng vai trò quan trọng hay quyết định. Mặc dù nguồn vốn này còn thấp, khó huy động trong việc hiện tại. Theo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước cùng với kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy: Nguồn vốn trong nước vẫn là nguồn vốn có tính chất quyết định, người dân trong nước vẫn chưa dám bỏ vốn ra đầu tư thì người nước ngoài cũng chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam.
3.2. Tính tất yếu của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu với hơn 70% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: Năng suất lao động thấp, trình độ kỹ thuật lạc hậu. Thu nhập bình quân trên đầu người thấp do đó khả năng tiêu dùng cũng như tích luỹ rất khiêm tốn. Trong khi đó nền kinh tế lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm mục tiêu hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Do đó trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn giữa đầu tư và tiết kiệm. Để phát triển kinh tế, chúng ta cần một lượng vốn rất lớn. Trong điều kiện khả năng đáp ứng của nền kinh tế là có hạn thì chúng ta không còn con đường nào khác là thu hút lượng đầu tư từ nước ngoài.
Thực ra việc huy động vốn nước ngoài để phát triển và tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới đã tạo ra. Thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm phát triển để vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khỏ như nước Anh, Pháp trước đây hay gần đây hơn là Australia, các nước đi sau có thể dựa vào các nước đi trước để phát triển kinh tế.
Đầu tư nước ngoài không chỉ rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế mà còn quan trọng hơn với việc bảo đảm an ninh Quốc gia trên cả hai phương diện: Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo an ninh Quốc gia và sự hợp tác giao lưu sẽ tạo nên sự hiểu biết tin cậy lẫn nhau, tạo ra mối quan hệ hữu nghị bền vững lâu dài là tiền đề chính trị cho đảm bảo an ninh Quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài, tại Đại hội VI (12/1986) Đảng và Nhà nước ta đã chủ động mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm tận dụng "những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh tế để bổ sung và phát triển có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước". Đảng ta khẳng định: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước". Như vậy quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
3.3. Mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài
Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta cần một lượng vốn lớn để hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài… Vì thế huy động và sử dụng vốn nước ngoài là tất yếu vì nếu chỉ xử lý vấn đề vốn bằng con đường tích luỹ nội bộ nhanh như hiện nay thì hậu quả khó tránh khỏi sẽ là sự tụt hậu phát triển. Trong những giai đoạn cụ thể nhất định là ở bước đầu của quá trình công nghiệp hoá, vốn nước ngoài có thể đóng vai trò xung lục, tạo sức đột phá cho bước nhảy vọt sản lượng ngắn hạn cũng như cơ sở vững chắc cho việc đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền kinh nhgiệm phát triển gần đây của một số nước như Hàn Quốc, Malaisita… đã chứng minh điều đó.
Tuy nhiên không bao giờ được quên rằng trong chiến lược phát triển chung của một nước, nguồn vốn nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là một bộ phận của tổng thể các nguồn lực của nó. Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài có thể phát huy tác dụng cần có một tỷ lệ lớn trong nước thích hợp như là vật đối ứng, tỷ lệ này khác nhau tùy theo ngành và mức độ kỹ thuật mà vốn nước ngoài rót vào. Kinh nghiệm hàng loạt nước đang phát triển chỉ ra rằng: không phải một quốc gia cứ vay mượn nhiều vốn nước ngoài thi đều đạt được mức tăng trưởng cao. Chân lý thực tiễn ở đây dường như là ngược lại. Đa số nước vay mượn nhiều nhất đều không đạt đợc mức độ tăng trưởng tương ứng, thậm chí còn bị suy thoái và quá tải về nợ bởi một lý do những nước này không đảm bảo một tương quan hợp lý giữa vốn vay nước ngoài và vốn đối ứng trong nước. Kết quả tất yếu hoặc là hiệu quả vốn đầu tư sản xuất rất thấp hoặc là phải chuyển một phần lớn vốn vay được sang đầu tư tiêu dùng. Nhiều nhà khoa học phương Tây khi phân tích tác dụng của vốn nước ngoài đến quá trình phát triển của thế giới thứ ba đã kết luận: "Vốn nước ngoài có khả năng thúc đẩy sự phát triển song không phải là yếu tố quyết định sự phát triển". Vốn nước ngoài có tầm quan trọng đến mức quyết trong tương quan cơ cấu cụ thể. Song vai trò này chỉ mang tính quá độ, tạm thời. Trong dài hạn vai trò đó thuộc về nguồn lực trong nước.
Qua phân tích trên ta thấy nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có quan hệ biện chứng với nhau, nó như hai mặt của một vấn đề và không thể tách rời chúng ra khỏi nhau. Một sự cứng nhắc nào đó trong việc xử lý tương quan này xuất phát từ lập trường mang tính phân biệt về vai trò của các nguồn lực phát triển có thể sẽ chỉ dẫn đến thiệt hại cho sự phát triển của chính đất nước mình.
3.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về thu hút đầu tư phát triển kinh tế
Xuất phát từ chính sách đổi mới nền kinh tế, mở cửa và hội nhập với nước ngoài, Ngày 19/12/1987 lần đầu tiên Quốc hội nước ta thông qua Luật Đầu tư nước ngoài cho phép các tổ chức cá nhan là người nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam. Đảng ta từng bước giảm mạnh và tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp giấy phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư từ mọi thành phần kinh tế đặc biệt đối với các công ty nước ngoài nắm giữ công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới. Tăng cường hỗ trợ và quản lý sau khi cấp giấy phép đầu tư; tạo điều kiện cho các dự án đã được cấp phép triển khai thực hiện có hiệu quả. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, kinh doanh. Tiếp tục tranh thủ nguồn tài trợ của Chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ.
Kết luận
Như vậy sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế thường xuyên ở mức cao, đời sống nhân dân được cải thiện… Để đạt được các thành tựu đó Đảng và Nhà nước đã rất nhiều lần ban hành và sửa đổi các chính sách kinh tế một cách nói chung và các chính sách về huy động vốn trong và ngoài nước nói riêng để từ đó Chính phủ có các điều chỉnh kịp thời nhằm thu hút và sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn.
Trong những năm qua nguồn vốn huy động được để phát triển kinh tế ngày càng tăng điều đó thể hiện sự đúng đắn trong các công tác huy động vốn của Nhà nước.
Tuy nhiên trong quá trình huy động vốn cũng vấp phải nhiều khó khăn cần phải được khắc phục. Nhưng không phải vì điều đó mà việc huy dộng nguồn vốn bị ngưng trệ. Vậy để duy trì sự ổn định cũng như sự tăng lên một cách vững chắc thì Đảng và Nhà nước ta phải luôn đề ra các chính sách và giải pháp thích hợp với tình hình của từng thời kỳ. Có như vậy việc huy dộng và sử dụng vốn mới có hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính của Mishkin.
Các giải pháp huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn (tập I + II)
Kinh tế phát triển
Thị trường vốn ở Việt Nam
Sử dụng công cụ tài chính để huy động vốn cho đầu tư phát triển
Nhà nước thương mại
Các tạp chí: + Tạp chí Tài chính
+ Kinh tế và dự báo
+ Thông tin tài chính
+ Nghiên cứu kinh tế
+ Phát triển kinh tế .
Mục lục
Lời nói đầu 1
I. Khái niệm về đầu tư và nguồn vốn 2
1.1. Khái niệm và đặc trưng của đầu tư 2
1.1.1. Khái niệm đầu tư 2
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đầu tư 2
1.2. Khái niệm và vai trò của vốn 3
1.2.1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn 3
1.2.2. Vai trò của vốn trong nền kinh tế 3
II. Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư 4
2.1. Nguồn vốn trong nước 4
2.1.1. Các bộ phận cấu thành nguồn vốn trong nước 4
2.1.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước 4
2.1.1.2. Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp Nhà nước 5
2.1.1.3. Nguồn vốn huy động từ dân cư 5
2.1.2. Đặc điểm các nguồn vốn trong nước 6
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động nguồn vốn trong nước 7
2.1.4. Vai trò của vốn trong nước với sự phát triển kinh tế 8
2.2. Nguồn vốn nước ngoài 9
2.2.1. Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài 9
2.2.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 9
2.2.1.2. Đầu tư gián tiếp 11
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 13
2.2.3. Mối liên hệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp của nước ngoài ở Việt Nam 16
2.2.4. Khả năng khai thác các nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 16
III. Vai trò của nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam 17
3.1. Tính tất yếu của việc thu hút vốn đầu tư trong nước 17
3.2. Tính tất yếu của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 17
3.3. Mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài 18
3.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về thu hút đầu tư phát triển kinh tế 20
Kết luận 21
Tài liệu tham khảo. 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA249.doc