“Dạy học tích hợp theo chủ đề” trong dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông ở một số trường mần non vùng cao - Giàng Thị Gấm

Tài liệu “Dạy học tích hợp theo chủ đề” trong dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông ở một số trường mần non vùng cao - Giàng Thị Gấm: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 77Ngày nhận bài: 20/7/2017; Ngày phản biện: 15/8/2017; Ngày duyệt đăng: 5/9/2017(1) Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai; e-mail: gamcdsplc@gmail.com. “DẠY HỌC TÍCH HỢP THEO CHỦ ĐỀ” TRONG DẠY TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5-6 TUỔI DÂN TỘC MÔNG Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦN NON VÙNG CAO Giàng Thị Gấm(1) Dạy học tích hợp theo chủ đề trong dạy tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông vùng cao được cho là cách thức dạy học hiệu quả và linh hoạt nhất, giúp cho trẻ được học tiếng Việt, được giao tiếp tiếng Việt một cách tích cực với cô giáo với bạn ngay trong hoạt động học và các hoạt động khác trong ngày ở trường mầm non. Vì vậy giáo viên mầm non cần nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và áp dụng tích cực hình thức này trong quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông tại các trường mầm non vùng cao. Từ khóa: Dạy học tích hợp; trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông; trường mầm non vùng cao Trong giáo dục mầm non (GDMN), dạy học tích h...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 699 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu “Dạy học tích hợp theo chủ đề” trong dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông ở một số trường mần non vùng cao - Giàng Thị Gấm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 77Ngày nhận bài: 20/7/2017; Ngày phản biện: 15/8/2017; Ngày duyệt đăng: 5/9/2017(1) Trường Cao đẳng Sư phạm Lào Cai; e-mail: gamcdsplc@gmail.com. “DẠY HỌC TÍCH HỢP THEO CHỦ ĐỀ” TRONG DẠY TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5-6 TUỔI DÂN TỘC MÔNG Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦN NON VÙNG CAO Giàng Thị Gấm(1) Dạy học tích hợp theo chủ đề trong dạy tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông vùng cao được cho là cách thức dạy học hiệu quả và linh hoạt nhất, giúp cho trẻ được học tiếng Việt, được giao tiếp tiếng Việt một cách tích cực với cô giáo với bạn ngay trong hoạt động học và các hoạt động khác trong ngày ở trường mầm non. Vì vậy giáo viên mầm non cần nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và áp dụng tích cực hình thức này trong quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông tại các trường mầm non vùng cao. Từ khóa: Dạy học tích hợp; trẻ 5-6 tuổi dân tộc Mông; trường mầm non vùng cao Trong giáo dục mầm non (GDMN), dạy học tích hợp theo chủ đề được coi là cách thức dạy học hiệu quả và linh hoạt nhất. Tích hợp trong GDMN thể hiện đa chiều: Tích hợp theo chủ đề, tích hợp nội dung dạy học, hình thức dạy học... giáo viên (GV) luôn là người chủ động, định hướng các hoạt động cho trẻ và trẻ là chủ thể tích cực trong hoạt động ấy. Đặc biệt trong hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông thì việc dạy học theo hướng giáo dục tích hợp theo chủ đề có ý nghĩa quan trọng đối với trẻ, giúp trẻ có nhiều cơ hội được phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, như mở rộng vốn từ, luyện phát âm, thực hành giao tiếp GV luôn là nhân tố đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc quyết định chất lượng của của hoạt động đó. Nếu GV biết tích hợp các hoạt động phù hợp trong dạy tiếng Việt thì hiệu quả của hoạt động này sẽ cao. Việc vận dụng quan điểm giáo dục tích hợp vào dạy tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông là rất cần thiết. 1.Thực trạng dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng cao thuộc huyện Bắc Hà, huyện SaPa, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai Hiện nay tại một số trường mầm non vùng cao thuộc huyện Bắc Hà, SaPa, Mường Khương của tỉnh Lào Cai, việc dạy tiếng Việt cho trẻ trong trường mầm non cũng rất được quan tâm vì cán bộ quản lý và GV nhận thức được tầm quan trọng của tiếng Việt trong trong quá trình giáo dục trẻ. Tuy nhiên hiệu quả của việc dạy tiếng Việt chưa thực sự như mong muốn. Chúng tôi đã có cuộc khảo sát về vấn đề này, cho thấy: Trẻ còn rất nhút nhát trong khi nói tiếng Việt, nói ngọng còn nhiều, phần lớn vốn từ tiếng Việt của trẻ còn rất nghèo nàn và chủ yếu sử dụng những từ rất đơn giản như mô tả về hành động hay công việc gì, còn việc sử dụng tiếng Việt để miêu tả, giải thích về vấn đề gì là rất hạn chế, chưa thực sự tích cực sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với người khác. Đối với GV, khi được hỏi về vấn đề “Anh chị có quan tâm đến việc dạy tiếng Việt cho trẻ không” thì 100% GV trả lời là “rất quan tâm”.“Anh chị thường sử dụng những biện pháp nào để dạy tiếng Việt cho trẻ?”, phần lớn GV trả lời: “chỉ dạy trẻ nói theo”. “Anh chị thường dạy tiếng Việt cho trẻ vào thời điểm nào” thì được trả lời: “Chủ yếu dạy tiếng Việt trong một số giờ học”, “dạy tiếng Việt giờ tăng cường tiếng Việt vào đầu buổi học”. “Những giờ học nào mà anh chị hay dạy tiếng Việt cho trẻ nhất?”. Đến 90% GV trả lời đó là giờ Văn học. Đặc biệt khi được hỏi về việc “Tích hợp trong dạy tiếng Việt cho trẻ” thì hầu hết GV trả lời, chỉ chủ yếu dạy từ theo kế hoạch và dạy trong giờ tăng cường tiếng Việt là chính. Như vậy, chúng thấy GV đã rất quan tâm đến việc dạy tiếng Việt cho trẻ nhưng việc tích hợp trong các hoạt động để dạy tiếng Việt cho trẻ còn quá hạn chế. Từ thực trạng và các quan điểm về giáo dục tích hợp theo chủ đề trên thì việc vận dụng Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 78 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 quan điểm tích hợp trong dạy tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông ở một số trường trường mầm non được xác định cụ thể và rõ ràng trong các hoạt động nhất là hoạt động cho trẻ làm quen với tiếng Việt. 2.Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông 2.1. Dạy tiếng Việt cho trẻ trong giờ học Ở trường mầm non vùng cao, việc dạy tiếng Việt cho trẻ trong giờ học là hoạt động không thể thiếu qua đó cung cấp vốn từ tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng nói tiếng Việt cho trẻ. Có hai hình thức, đó là: hoạt động làm quen với tiếng Việt và dạy tiếng Việt cho trẻ ở trong các tiết học khác. Việc vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy tiếng Việt cho trẻ ở trường mầm non được thể hiện từ khâu lập kế hoạch, đến việc chuẩn bị, nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức hoạt động. 2.1.1.Hoạt động cho trẻ làm quen với tiếng Việt Hoạt động làm quen tiếng Việt là một trong những hình thức cơ bản để tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non dân tộc thiểu số. So với các hình thức khác hoạt động làm quen tiếng Việt có ưu thế hơn trong việc cung cấp vốn từ, rèn luyện phát âm, dạy trẻ nói tiếng Việt một cách có hệ thống. Các kĩ năng nhận thức và kĩ năng xã hội của trẻ được rèn luyện tích cực hơn, tập trung hơn. Đây là hoạt động có thời gian khoảng 15 - 20 phút đầu mỗi giờ học. Khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tiếng Việt cần có các yêu cầu sau: Thực hiện được mục tiêu tăng cường tiếng Việt cụ thể cho trẻ từng độ tuổi; Phù hợp với đặc điểm học tiếng Việt của trẻ mầm non dân tộc thiểu số; Phối hợp các phương pháp dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số một cách linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với khả năng của trẻ; Tạo cơ hội cho trẻ được tích cực hoạt động: nghe hiểu, phát âm, trả lời câu hỏi của cô, của bạn... * Mục tiêu của hoạt động làm quen tiếng Việt là: - Nghe hiểu được từ về tên gọi, đặc điểm của các đồ vật, con vật và sự vật hiện tượng gần gũi quen thuộc; - Sử dụng được các từ và câu đơn giản trong sinh hoạt hằng ngày phù hợp với ngữ cảnh; - Biết trả lời và hỏi các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Làm bằng gì? Để làm gì?; - Biết điều chỉnh giọng nói cho phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp và thể hiện hành vi văn minh trong giao tiếp (chú ý lắng nghe người khác nói, nhìn vào mắt người nói, giơ tay khi muốn nói và biết chờ đến lượt); - Thể hiện sự quan tâm, hứng thú đến chữ viết trong môi trường xung quanh; - Biết cầm sách đúng chiều, giở sách từ trang đầu đến trang cuối “đọc” sách từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Nói được tên các chữa cái, chữ số và phát âm đúng các âm tương ứng 29 chữ cái tiếng Việt; sao chép được kí hiệu, chữ cái, từ, tên của mình. * Lập kế hoạch hoạt động làm quen với tiếng Việt Lập kế hoạch là khâu quan trọng trong quá trình cho trẻ làm quen với tiếng Việt, tính tích hợp thể hiện trong việc GV phải lựa chọn các nội dung làm quen tiếng Việt phù hợp với chủ đề và các từ tiếng Việt được làm quen đó nằm trong chủ đề đó. * Tổ chức hoạt động làm quen với tiếng Việt + Chuẩn bị kế hoạch (giáo án) - Tên đề tài: Phải thể hiện nội dung hoạt động GV lựa chọn để dạy trẻ. Tên đề tài cần ngắn gọn, rõ ý, phù hợp với chủ đề, độ tuổi. Ví dụ: với chủ đề “một số động vật nuôi trong gia đình” đối tượng trẻ 5 - 6 tuổi, GV có thể chọn đề tài cho hoạt động làm quen với tiếng Việt (chọn các từ và mẫu câu cho trẻ làm quen trong hoạt động): con chó, con mèo là động vật nuôi trong gia đình. Khi lựa chọn từ, mẫu câu cần chú ý tới năng lực của trẻ để củng cố, phát triển nâng cao dần trong hoạt động tiếp theo. - Mục đích, yêu cầu: Xác định nhiệm vụ và yêu cầu mà hoạt động cần giải quyết. Phần này gồm các nội dung: kiến thức, kĩ năng, thái độ, kết quả. - Chuẩn bị: ghi rõ các loại đồ dùng trực quan (tranh ảnh, vật thật, các phương tiện và dụng cụ khác...) phục vụ cho việc tổ chức hoạt động. Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 79Số 19 - Tháng 9 năm 2017 - Hướng dẫn thực hiện: Là phần mô tả các hoạt động chính của cô giáo và trẻ. Thứ tự của các hoạt động về cơ bản dựa trên cấu trúc chung của tiết học (cấu trúc 3 phần: giới thiệu bài; phát triển bài; kết thúc). Phần hướng dẫn thực hiện cần phải chi tiết, cụ thể, ngắn gọn, thể hiện được ý tưởng của người hướng dẫn. + Chuẩn bị kiến thức cho cô giáo và trẻ Trước khi tổ chức hoạt động, ngoài việc lập kế hoạch GV cần chuẩn bị chu đáo vốn kiến thức tiếng Việt sẽ dạy trẻ. Cô phải hiểu chính xác nghĩa của từ, tìm ra phương pháp, biện pháp giúp trẻ hiểu và sử dụng từ trong lời nói hiệu quả. Với một số nội dung cần đến vốn kinh nghiệm, kĩ năng của trẻ GV cũng cần chuẩn bị cho trẻ trước. Ví dụ: cách chơi một số trò chơi. Hướng dẫn tổ chức: Ổn định tổ chức, gây hứng thú; giới thiệu 3 từ mới; luyện đọc từ mới; chơi trò chơi; kết thúc Về cơ bản phần hướng dẫn tổ chức hoạt động làm quen với tiếng Việt thực hiện như kế hoạch đã chuẩn bị kết hợp với việc giải quyết, tận dụng các tình huống xảy ra trong quá trình tổ chức hoạt động làm quen với tiếng Việt. *Xây dựng môi trường tiếng Việt theo chủ đề Xây dựng môi trường tiếng Việt có ý nghĩa rất lớn trong quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ. Bởi môi trường tạo động lực và thúc đẩy trẻ tích cực học tiếng Việt, cho nên GV cần chú ý đến việc xây dựng môi trường tiếng Việt phong phú cho trẻ. Đây là yếu tố: - Tạo cơ hội để trẻ được tham gia vào một môi trường mới – môi trường học tập. Môi trường mới khác với môi trường gia đình (vốn quen với trẻ) ở chỗ: Có những con người mới (GV, các bạn mới), có cảnh vật mới, đồ vật mới (lớp học, đồ dùng học tập, đồ chơi), có hoạt động mới (hoạt động học tập, hoạt động vui chơi với nhiều hình thức mới, hoạt động tự phục vụ bản thân như tự làm vệ sinh cá nhân, giữ trật tự trong lớp học ...). - Tạo cơ hội để trẻ làm quen với hoạt động học tập: làm quen với các hoạt động theo hướng dẫn của GV, làm quen với các hoạt động học cụ thể như quan sát bằng nhiều giác quan, nghe và nói bằng tiếng Việt, một vài thao tác ban đầu của việc đọc, viết, đếm. - Tạo cơ hội để trẻ làm quen với môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt – ngôn ngữ thứ hai sau này các em sẽ học tập bằng ngôn ngữ này ở trường tiểu học. - Tạo cho mỗi trẻ có cơ hội thể hiện hiểu biết và khả năng của cá nhân để từ đó các em được hỗ trợ, phát triển các năng lực cá nhân. Môi trường học tiếng Việt theo chủ đề gồm: Môi trường vật chất và môi trường tâm lí - xã hội. Môi trường vật chất: - Địa điểm học: Lớp học thoáng, sạch, có chỗ ngồi phù hợp với việc học của trẻ, có chỗ dành cho GV. Bàn ghế chắc chắn, vừa với tầm vóc trẻ. - Lớp học có các điều kiện đảm bảo vệ sinh cho trẻ: Nước sạch, xà phòng và chậu để rửa chân tay, nước sạch và ca để uống, lược, giá để giày dép, mũ. - Có nhà vệ sinh sạch, xa nơi học một khoảng cách an toàn. - Không gian lớp học được bố trí phù hợp với hoạt động học tập: + Có bàn ghế được xếp hợp lí nhằm tạo ra khoảng trống ở trung tâm phòng để sao cho tất cả trẻ quan sát được hoạt động của GV, tất cả trẻ có chỗ thực hiện các hoạt động chung của cả lớp như bàn ghế của GV được xếp ở phía trên, bàn ghế trẻ được xếp ở phía dưới. Cách sắp xếp bàn ghế trẻ cần thay đổi để tiện trẻ học từng loại hoạt động: Khi xem sách tranh, tô, vẽ cần xếp cho trẻ ngồi theo bàn ghế tập trung thành từng nhóm; khi nghe kể chuyện, kể chuyện theo sách khổ to cần xếp ghế cho trẻ ngồi quanh GV hoặc ngồi trên chiếu quanh GV; khi cho trẻ chơi, hát, múa cần xếp bàn ghế sát vào hai phía tường tạo khoảng trống để trẻ hoạt động... + Có góc học ngôn ngữ, trong góc có: Sách cho trẻ xem (chủ yếu là sách có tranh ảnh treo trên dây, vừa tầm tay trẻ), có các đồ dùng học tiếng Việt do GV và trẻ tự làm (tranh ảnh học từ và câu, các giấy hoặc bìa khổ to trang trí những hình ảnh của các sự vật, sự việc để trẻ học từ, câu, hội thoại, học kể chuyện, học đếm), có các thẻ tranh để học từ, có các con rối tự làm để học nói. + Có góc trưng bày sản phẩm học tập của trẻ, trong góc có: Các sản phẩm của trẻ sau khi Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 80 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 học đọc, học viết (vở tập tô, vẽ; các sách khổ to do GV và trẻ tự vẽ hoặc tự xé dán ...). + Có góc văn hóa địa phương, trong đó có: Một số mẫu trang phục của người dân tộc trong vùng, đồ dùng, vật dụng nhỏ của người trong vùng, một số hoa quả thật có ở địa phương, hình ảnh bản làng, nơi sinh hoạt của cộng đồng ở bản làng (ví dụ: ảnh ruộng bậc thang, ảnh nhà rông, ảnh hội ném còn,...). + Có góc dành cho trẻ chơi, trong đó có: Các đồ chơi cho trẻ nữ và trẻ nam, có một số dụng cụ để tổ chức một số trò chơi (tấm bìa hình các con vật để chơi đóng vai, có một số dây, sào nhỏ để trẻ chơi nhảy dây, nhảy sạp, ...), có chiếu để trẻ có thể trải ra ngồi chơi tự do, có chỗ để các đồ chơi lớn như ngựa gỗ, cầu trượt, ghế đu. + Có chỗ để đồ dùng dạy học của GV và trẻ: Giá để đồ dùng của GV, giá để sách vở, các loại bút của trẻ, những chiếc rổ nhựa để đồ dùng học tập do GV và trẻ tự làm. Môi trường tâm lí – xã hội, gồm: - Thái độ tôn trọng trẻ và thân thiện với trẻ của GV: GV chào đón trẻ khi trẻ đến lớp, GV chăm sóc trẻ tận tình, GV động viên, khích lệ trẻ trong mọi hoạt động, GV là cầu nối để các trẻ xích lại gần nhau, cùng hợp tác với nhau trong học tập. - Tạo cho trẻ cảm giác an toàn, thân thiện khi học ở lớp: GV làm danh sách trẻ bằng hình ảnh và bằng chữ, trưng bày nhiều sản phẩm học tập của tất cả trẻ trong lớp (bài học của trẻ, các đồ dùng dạy học do trẻ cùng GV tự làm hoặc sưu tầm). - Tạo cho trẻ cảm giác là ngôn ngữ và văn hóa dân tộc của trẻ được tôn trọng: Dùng tiếng mẹ đẻ để giải thích nhiệm vụ khi trẻ không hiểu tiếng Việt; khuyến khích trẻ giao tiếp với nhau và với GV bằng cả tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin hơn, làm phong phú tiếng mẹ đẻ cho các em từ đó vốn tiếng Việt của trẻ cũng phong phú hơn; tạo cơ hội cho trẻ được hát, múa, chơi các trò chơi quen thuộc của người dân tộc. - Tạo cho trẻ cảm giác vui, thoải mái, tự tin khi học ở lớp : GV tổ chức cho trẻ học bằng nhiều hoạt động hấp dẫn với lứa tuổi của trẻ (chơi, hát, múa, kể chuyện, xem triển lãm, thực hành làm một số việc trẻ thích), luôn khen và thưởng cho trẻ khi trẻ hoàn thành nhiệm vụ, huy động tất cả trẻ tham gia vào mỗi hoạt động để tạo cho các em dịp thể hiện mình, khuyến khích trẻ hỗ trợ trẻ trong mọi hoạt động. * Đánh giá môi trường học tiếng Việt theo chủ đề Để có thể đánh giá môi trường học tiếng Việt thân thiện và có hiệu quả cần phải căn cứ vào các tiêu chuẩn đánh giá sau: - Môi trường vật chất sạch, an toàn, tránh được những tai nạn hoặc những ô nhiễm có hại cho sức khỏe của trẻ. - Bàn ghế, các góc học trong lớp được bố trí hợp lí, phù hợp với mục tiêu dạy học phát triển tiếng Việt, có thể sử dụng linh hoạt. Đồ dùng dạy học dễ làm, có thể làm bằng vật liệu dễ tìm ở địa phương. - Các đồ dùng trong lớp, đồ dùng học tập thể hiện được sự đóng góp công sức của GV, cha mẹ trẻ, nhân dân trong cộng đồng và trẻ. - Môi trường lớp học thể hiện được đặc điểm văn hóa của dân tộc. - Quan hệ giữa GV và trẻ thân thiện, trẻ được tôn trọng và tự tin. GV biết dùng tiếng mẹ đẻ để giúp trẻ hiểu tiếng Việt khi cần, để tăng cường độ mạnh dạn, tự tin, làm giàu vốn ngôn ngữ cho trẻ. Quan hệ giữa trẻ và trẻ vui vẻ, mọi trẻ trong lớp tự tin tham gia vào các hoạt động của lớp - GV thường xuyên khích lệ động viên, khen thưởng trẻ thì trẻ học tập hứng thú và tích cực hơn. Quan hệ giữa trẻ và trẻ vui vẻ, mọi trẻ đều tham gia vào các hoạt động của lớp. Như vậy chúng ta thấy, trong dạy tiếng Việt ở hoạt động làm quen với tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc ở một số trường mầm non vùng cao đã vận dụng quan điểm giáo dục tích hợp trong dạy học tiếng Việt cho trẻ rất rõ: Từ nội dung dạy học, phương pháp và việc xây dựng môi trường dạy học. Để thực hiện tốt hoạt động này nhất thiết phải sử dụng tích hợp theo chủ đề, nội dung và cách thức thực hiện. 2.1.2.Dạy tiếng Việt thông qua hoạt động học có chủ đích Như chúng ta đã biết, đối với trẻ mầm non thì hoạt động học của trẻ diễn ra hàng ngày ở trường mầm non, mỗi ngày một hoạt động khác Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 81Số 19 - Tháng 9 năm 2017 nhau. Hoạt động học cũng rất phong phú, đa dạng, trong đó có một số hoạt động cốt lõi để dạy tiếng Việt cho trẻ như: Khám phá khoa học về môi trường xung quanh, làm quen với tác phẩm văn học, làm quen với toán... Trong giờ học trẻ được tương tác với cô giáo, với bạn, qua đó trẻ lĩnh hội biểu tượng về thế giới xung quanh. Có thể nói đây là cơ hội thuận lợi nhất để dạy trẻ giao tiếp tiếng Việt, trên cơ sở đó dạy tiếng Việt cho trẻ. Do vậy GV nên tận dụng các giờ học trên lớp để tổ chức cho trẻ học tập và giao tiếp tiếng Việt. GV cần quan tâm nhiều đến những đối tượng trẻ là người dân tộc đặc biệt là dân tộc Mông: yêu cầu trẻ lắng nghe rồi gọi trẻ trả lời câu hỏi, nếu trẻ chưa trả lời được thì GV cần cho trẻ nhắc lại ngay sau khi cô nói, nói những suy nghĩ của mình về nội dung bài học bằng tiếng Việt; thường xuyên tổ chức hoạt động nhóm và sắp xếp cho trẻ dân tộc Mông ngồi xen kẽ với trẻ em người kinh để trẻ được học nói tiếng Việt từ bạn. GV cần động viên khuyến khích, khen ngợi trẻ kịp thời nếu trẻ biết sử dụng tiếng Việt để trả lời, trao đổi về nội dung bài học hoặc chia sẻ thông tin với bạn bè, tạo cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn vào bản thân mình. Khi trẻ nói sai, nói ngọng GV phải sửa sai ngay với thái độ ân cần, gần gũi, yêu cầu trẻ nhắc lại câu nói sai của mình để trẻ ghi nhớ. Tránh làm cho trẻ xấu hổ trước mặt bạn bè khi trẻ nói ngọng hoặc nói sai. 2.2.Dạy tiếng Việt cho trẻ ngoài giờ học 2.2.1.Dạy tiếng Việt trong hoạt động chơi Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non thì chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ tuổi mẫu giáo, trẻ thực sự hứng thú và tích cực khi tham gia vào hoạt động chơi, trẻ có thể diễn tả sự hứng thú, tích cực chơi bằng hành động hoặc bằng ngôn ngữ để cho người khác thấy được điều đó và hiểu được điều đó. Chơi là hoạt động tự do, tự nguyện không mang tính bắt buộc cho nên trong quá trình chơi trẻ có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ (tiếng Mông) để giao tiếp với nhau. Tuy nhiên đây là lớp học có nhiều dân tộc khác nhau cùng học cho nên phải sử dụng một ngôn ngữ chung là tiếng Việt để cùng chơi, cùng chia sẻ. Vì vậy yêu cầu GV khuyến khích trẻ sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với bạn chơi, với cô giáo. Hơn nữa còn vừa tạo cho trẻ thói quen trong việc sử dụng tiếng Việt hàng ngày ở lớp học vừa tạo cơ hội cho trẻ được tham gia hòa đồng với các bạn để xuất hiện nhu cầu giao tiếp và trẻ có cơ hội thực hành, luyện tập tiếng Việt được học từ cô giáo và các bạn. Định hướng cho trẻ giao tiếp tiếng Việt trong khi chơi cũng chính là việc GV tạo ra cho trẻ môi trường giao tiếp tiếng Việt trong nhóm chơi, trong tập thể. GV cần phải quan tâm đến những đối tượng là học sinh dân tộc Mông để khuyến khích động viên các em sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với các bạn, nhất là ở góc phân vai. GV cần phải quan tâm đến cảm xúc và sở trường chơi của trẻ để tạo ra sự tích cực chủ động khi giao tiếp tiếng Việt với cô giáo, với bạn. Cần sửa sai ngay cho trẻ trong góc chơi nếu trẻ nói ngọng, nói sai, hoặc sử dụng câu, từ tiếng Việt không phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp. 2.2.2. Dạy tiếng Việt trong hoạt động tham quan, dạo chơi, lao động Đây là hoạt động giúp trẻ được trải nghiệm thực tiễn, được tiếp xúc trực tiếp với môi trường xung quanh trên cơ sở đó trẻ có được kinh nghiệm. Tổ chức các hoạt động cho trẻ giao lưu, tiếp xúc và trò chuyện, giao tiếp tiếng Việt với cộng đồng như: đi chợ, đến trường tiểu học, đến Ủy ban xã, trạm y tế, giúp trẻ mở rộng mối quan hệ giao tiếp, mở rộng môi trường giao tiếp giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn trong quá trình giao tiếp tiếng Việt. Ngoài ra mở rộng vốn từ tiếng Việt cho trẻ trên cơ sở đó giúp trẻ biết diễn đạt rõ ràng ý hiểu của mình cho người khác biết. Nói đến hoạt động lao động của trẻ ở trường mầm non chúng ta nghĩ ngay đến: lao động tự phục vụ, lao động trong sinh hoạt chung, lao động chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên. Trong quá trình trẻ tham gia lao động, các con cần phải sử dụng dụng cụ lao động phù hợp với loại hình lao động mà GV lựa chọn cho trẻ. Bởi vậy cho trẻ tham gia vào quá trình lao động cùng với cô, với bạn và trò chuyện với trẻ về công cụ lao động hay cách thức lao động bằng tiếng Việt, ví dụ: quét sân thì phải cần chổi, quét lần lượt để trẻ có thêm vốn từ tiếng Việt về các hoạt động lao động hàng ngày, trẻ biết dùng từ, câu phù hợp với hoạt động, với ngữ cảnh giao tiếp trong lao động 2.2.3. Dạy tiếng Việt trong hoạt động đón trẻ, trả trẻ, ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân Trong chế độ sinh hoạt ở trường mầm non của trẻ thì hoạt động đón trẻ, trả trẻ, vệ sinh cá Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 82 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 nhân là hoạt động lặp đi lặp lại các ngày trong tuần. Vì vậy nó là điều kiện thuận lợi để dạy trẻ giao tiếp tiếng Việt. Thông qua hoạt động này chúng ta có thể dạy trẻ giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông một số mẫu câu như: Chào hỏi lễ phép với thầy cô giáo, với cha mẹ ông bà, trò chuyện về đồ dùng để ăn, ngủ hay các loại thức ăn... Dạy trẻ câu nói đủ câu (chủ ngữ, vị ngữ... ) GV cần tận dụng mọi cơ hội trong hoạt động này để dạy trẻ giao tiếp tiếng Việt. 2.2.4. Phối hợp với gia đình trong việc dạy trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông nói tiếng Việt Gia đình là môi trường gần gũi, thân thương đối với trẻ, là nơi đứa trẻ sinh ra và lớn lên vì vậy nó có tác động, có ảnh hưởng rất lớn trong việc dạy tiếng Việt cho trẻ. Người Mông có những hạn chế nhất định về mặt nhận thức, rồi điều kiện kinh tế khó khăn họ phải lo kiếm sống, truyền thống văn hóa dân tộc nên đôi lúc họ chưa thực sự quan tâm nhiều đến vấn đề này. Bởi vậy GV phải cho bố mẹ trẻ thấy được tầm quan trọng của việc giao tiếp tiếng Việt đối với trẻ khi trẻ học ở trường học bằng nhiều các khác nhau như: Trao đổi chia sẻ với phụ huynh (nếu phụ huynh đến đón con), hoặc trao đổi, phân tích thông qua các cuộc họp, hoặc có thể đến tận nhà để giải thích và hướng dẫn phụ huynh cách giao tiếp tiếng Việt với trẻ. Như vậy để phụ huynh thấy được ngoài việc giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, phụ huynh nên tạo cơ hội cho con được giao tiếp tiếng Việt với các thành viên trong gia đình giúp con nói tiếng Việt trong các hoạt động ở gia đình. Dạy trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông học tiếng Việt là việc làm hết sức cần thiết ở trường mầm non. Vì nó là điều kiện tiên quyết để trẻ tiếp cận và lĩnh hội kiến thức cũng như kĩ năng ở trường học. Nó còn là cơ sở, nền tảng cho việc học tập tốt ở các bậc học tiếp theo của trẻ. Bởi vậy muốn dạy tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc Mông đạt hiệu quả cao, GV cần vận dụng quan điểm tích hợp trong các hoạt động cụ thể ở trường mầm non, đặc biệt là hoạt động làm quen với tiếng Việt. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Thị Hoà, (2009), Giáo trình giáo dục học mầm non, NXB. Đại học Sư phạm; [2] Nguyễn Thị Hoà, (2010), Giáo trình giáo dục tích hợp ở bậc học mầm non, NXB. Đại học Sư phạm; [3] A. V. Petropxki, (1982), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm (Đỗ Vân dịch). NXB. Giáo dục; [4] Hoàng Thị Phương, (2009), Giáo trình lí luận và phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh, NXB. Đại học Sư phạm; [5] Đinh Hồng Thái, (2005), Giáo trình phương pháp phát triển lời nói trẻ em, NXB. Đại học Sư phạm; [6] Nguyễn Ánh Tuyết, (2005), Giáo dục mầm non - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB. Đại học Sư phạm; [7] Nguyễn Ánh Tuyết, (Chủ biên, 2012), Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, NXB. Đại học Sư phạm; [8] Đinh Văn Vang, (2008), Giáo trình Giáo dục học mầm non, NXB. Giáo dục. TEACHER-BASED INTEGRATED TEACHING IN VIETNAMESE FOR CHILDREN 5-6 YEARS IN KINDERGARTEN Abstract: Integrated teaching in Vietnamese language for 5-6 year old Mong ethnic children in the uplands is considered as the most effective and flexible way of teaching, helping children learn Vietnamese and communicate in Vietnamese positively with the teacher in the learning activities and others daily in kindergartens. Therefore, preschool teachers should be aware of the importance of addressing this problem and actively apply this form in the process of teaching Vietnamese for 5-6-year-old Mong children in kindergartens. Key words: Integrated teaching; 5-6-year-old Mong children; Elementary schools in highlands.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf198_847_1_pb_4342_2151992.pdf
Tài liệu liên quan