Dạy học theo định hướng phát triển năng lực công nghệ thông tin cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An

Tài liệu Dạy học theo định hướng phát triển năng lực công nghệ thông tin cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202 302 Email: lecammy@gmail.com DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN Lê Thị Cẩm Mỹ - Hồ Thị Loan Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An Ngày nhận bài: 02/5/2019; ngày chỉnh sửa: 25/5/2019; ngày duyệt đăng: 28/5/2019. Abstract: From the current status of using information technology, the article addresses the problem of forming and developing information technology competency for students at Nghe An College of Education today. Keywords: Teaching, competency, information technology, Webquest, project. 1. Mở đầu Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế chú trọng đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của n...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 526 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy học theo định hướng phát triển năng lực công nghệ thông tin cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202 302 Email: lecammy@gmail.com DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO HỌC SINH, SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN Lê Thị Cẩm Mỹ - Hồ Thị Loan Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An Ngày nhận bài: 02/5/2019; ngày chỉnh sửa: 25/5/2019; ngày duyệt đăng: 28/5/2019. Abstract: From the current status of using information technology, the article addresses the problem of forming and developing information technology competency for students at Nghe An College of Education today. Keywords: Teaching, competency, information technology, Webquest, project. 1. Mở đầu Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế chú trọng đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông trong dạy và học [1; phần III, mục 2]. Nghị quyết đã khẳng định tầm quan trọng của CNTT trong dạy và học. Để khai thác CNTT vào quá trình dạy và học đòi hỏi người dạy và người học đều phải được trang bị những kĩ năng về CNTT. Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) trong bất kì giai đoạn nào cũng đều cần sử dụng tới công nghệ, và hiện nay là sự hỗ trợ của CNTT. Tuy nhiên, việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH cũng đang có nhiều rào cản. Thứ nhất là một quan niệm ấu trĩ cho rằng, CNTT vừa là phương tiện, vừa là phương pháp, nghĩa là “cứ có sử dụng CNTT là đã đổi mới PPDH”, dẫn đến lạm dụng CNTT nhiều khi phản tác dụng. Mặt khác, kĩ năng CNTT của nhiều giảng viên (GV) còn yếu cũng làm giảm tác dụng của việc ứng dụng CNTT trong đổi mới PPDH. Bài viết này đề cập việc dạy học chú trọng phát triển năng lực CNTT cho người học thông qua đổi mới PPDH có tích hợp CNTT tại Trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) Nghệ An. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thực trạng sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An Theo báo cáo tổng kết các năm học gần đây (2016- 2017; 2017-2018) của Trường CĐSP Nghệ An, tình hình sử dụng CNTT trong hoạt động dạy học ở Trường, cụ thể như sau: Nhiều phòng học đã được trang bị hệ thống máy chiếu đa năng phục vụ cho việc dạy và học của GV và sinh viên (SV). CNTT tạo ra môi trường dạy học đa phương tiện kết hợp những hình ảnh, video, âm thanh, văn bản, biểu đồ, được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan. Nhiều GV đã có được những tiết dạy tốt tạo được sự tương tác, phát huy được tính chủ động và sáng tạo của người học nhờ sử dụng CNTT trong thiết kế bài giảng và hỗ trợ các hoạt động dạy học. Tuy nhiên, vẫn còn có GV khi lên lớp đã có bài giảng soạn sẵn lưu trong máy tính và thường rơi vào tình trạng chiếu chép, chưa kích thích được tính tích cực của người học. GV và học sinh (HS), SV có thể dễ dàng tìm kiếm những thông tin liên quan đến bài học qua mạng Internet không dây của trường nhưng thực tế cho thấy, rất ít SV sử dụng mạng này để phục vụ cho mục đích học tập. Hầu như các em tranh thủ đưa máy đến trường để phục vụ cho mục đích giải trí, có SV còn vô tư chia sẻ: Mạng ở trường rất mạnh nên download phim rất nhanh và em thường xuyên đưa máy đến trường để tải phim bộ về xem. Tuy CNTT mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ GV hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ chương trình. Bên cạnh đó, kiến thức, kĩ năng về CNTT ở một số GV vẫn còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202 303 chí còn né tránh. Mặt khác, PPDH cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi được trong một sớm, một chiều. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho người học, cũng như dạy cho HS, SV “cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình” vẫn còn mới mẻ đối với một số GV và đòi hỏi GV phải kết hợp hài hòa các PPDH để hạn chế những nhược điểm của PPDH truyền thống. Điều này làm cho CNTT, dù đã được đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó, vẫn chưa được sử dụng đúng như là công cụ hỗ trợ. Trong thực tế đã có những giờ dạy học, GV còn lạm dụng CNTT, sử dụng không đúng lúc, đúng chỗ, không phối hợp với các phương tiện khác, làm cho giờ dạy học thụ động, ít kiến tạo được tri thức, HS, SV học “như xem phim”, trong khi CNTT chỉ là phương tiện dạy học. Hoặc sử dụng chỉ để “thay bảng đen” chứ không phát huy được khả năng tuyệt vời của phương tiện dạy học này. Tất cả các khuynh hướng trên đều không phát huy được vai trò, vị trí, ưu điểm của CNTT trong dạy học hiện nay. Tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì GV đã giảng, chỉ biết những kiến thức mà GV đã cung cấp. Đa phần SV chưa có thói quen chủ động tra cứu thông tin trên mạng Internet. Một lí do nữa là lịch học của SV quá dày, nhiều lớp phải học liên tục hai buổi vào tất cả các ngày trong tuần. Thêm vào đó, SV sư phạm với tâm lí là ra trường chưa chắc có việc làm đã ảnh hưởng lớn đến động cơ học tập của các em. Qua phân tích ở trên, chúng ta đã phần nào có được một cái nhìn tổng quát về thực trạng của việc ứng dụng CNTT vào dạy học cho HS, SV hiện nay. Từ đó, tìm ra những giải pháp để ứng dụng CNTT phù hợp trong quá trình dạy học ở nhà trường nhằm đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của người học; để cán bộ giảng dạy không còn lúng túng trong quá trình soạn giáo án và giảng dạy, tự tin hơn trong việc hướng dẫn SV học tập đem lại hiệu quả cao nhất cho giờ giảng. 2.2. Xác định năng lực công nghệ thông tin của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An Để nâng cao được năng lực CNTT của SV, chúng ta cần xác định năng lực CNTT của SV bao gồm những năng lực cụ thể nào. Có thể kể đến một số năng lực cụ thể như sau: - Năng lực sử dụng các phương tiện kĩ thuật: Sử dụng phương tiện kĩ thuật thông thường như máy tính, máy chiếu, đầu đĩa trong học tập và nghiên cứu. - Nhận biết được các thành phần của một hệ thống máy tính, biết và sử dụng thành thạo các phần mềm hố trợ học tập cơ bản như Word, Excel, PowerPoint - Biết tổ chức và lưu trữ dữ liệu trong các thiết bị khác nhau. Biết khai thác thành thạo mạng Internet, chia sẻ dữ liệu trong mạng Lan. Biết xác định được mối liên hệ giữa thông tin tìm được và dùng các thông tin đó để giải quyết các nhiệm vụ học tập. - Năng lực ứng dụng CNTT trong học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm: Có kiến thức về sử dụng CNTT để chia sẻ, trao đổi thông tin, hợp tác với GV và bạn học một cách an toàn và hiệu quả; Sử dụng internet và các công cụ tìm kiếm nâng cao để cập nhật thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp của bản thân; Sử dụng các công cụ CNTT và truyền thông để tham khảo, chia sẻ tài nguyên, làm việc cộng tác với đồng môn. Đối với SV, năng lực CNTT được xem là một năng lực bắt buộc phải có, xem đây là năng lực chung, bởi lẽ Tin học đã thành một phần tất yếu của cuộc sống hiện đại, đã làm thay đổi cách sống, cách nghĩ và cách làm. Chúng ta đang sống trong một môi trường số hóa, máy tính hóa. Để sống trong môi trường thế giới công nghệ số và hiểu biết về nó, hiểu để làm chủ và thích nghi, buộc mỗi người đều cần đến Tin học. SV cũng không nằm ngoài guồng quay của thời đại, là những người thuộc tầng lớp tri thức, họ buộc phải làm chủ công nghệ để đáp ứng được sự thay đổi, phát triển của xã hội, công việc, đời sống. Đối với SV sư phạm, CNTT chính là môi trường dạy học, công cụ sư phạm, thiết bị dạy học, là chìa khóa vàng để giúp SV trở thành những người thầy giáo giỏi trong tương lai. UNESCO đã từng khẳng định: Năng lực CNTT là một trong những năng lực thiết yếu của công dân cùng với các năng lực truyền thống khác như năng lực đọc, viết. 2.3. Hình thành, phát triển năng lực công nghệ thông tin cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An CNTT đã làm xuất hiện môi trường dạy học mới mà ở đó cả người dạy và người học đều sử dụng CNTT trong hoạt động dạy học của mình. GV sử dụng CNTT để dạy, HS, SV sử dụng CNTT để học tập, nghiên cứu. CNTT hỗ trợ dạy học truyền thống và làm xuất hiện những phương thức, phương tiện và hình thành tổ chức dạy học mới. Như chúng ta đã biết, năng lực được hình thành và phát triển thông qua hoạt động vận dụng các kiến thức, kĩ năng học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Do vậy, để hình thành và phát triển năng lực cho HS, SV, cần sử dụng các hình thức tổ chức dạy học, PPDH theo định hướng người học vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Đối với năng lực CNTT cũng vậy. Một câu hỏi đặt ra là, trong trường học, HS, SV có những cơ hội nào để nâng cao kĩ năng CNTT. Thực tế dạy học hiện nay cho thấy, nếu không tính đến VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202 304 các tiết học môn Tin học thì trong quá trình dạy học, GV là người sử dụng CNTT nhiều phục vụ cho công việc giảng dạy, HS, SV không có cơ hội sử dụng, khai thác mà chỉ là khán giả của việc trình chiếu sản phẩm của người thầy. Chúng ta hình thành và rèn luyện, nâng cao năng lực CNTT cho HS, SV thông qua việc dạy học môn Tin học và các môn học khác. Hiện nay, HS, SV được học Tin học đối với hệ trung cấp là 45 tiết, SV các hệ không chuyên Tin học với thời lượng 45 tiết và đều học ở năm thứ 2 của khóa học. Các học phần Tin học này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản về tin học và khai thác các phần mềm cơ bản của bộ Office là Word, Excel, PowerPoint và khai thác sử dụng mạng internet, thư điện tử. Ngoài ra, để rèn luyện, nâng cao năng lực CNTT cho HS, SV còn phải thông qua các bộ môn khác, mà ở môn học đó, HS, SV sử dụng CNTT để giải quyết các nhiệm vụ được giao trong quá trình học tập và nghiên cứu. Theo đó, không chỉ khi học môn Tin học mà HS, SV có thể tự mình luyện tập để hình thành năng lực CNTT thông qua việc sử dụng CNTT để học tập các môn học khác. Đổi mới PPDH phải đặt người học vào tình huống là người làm chủ hoạt động học và phải sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ cho quá trình học tập của mình, trong đó có CNTT. Còn GV phải là người biết định hướng, thiết kế các hoạt động phù hợp: vừa sức nhưng lại đầy thách thức để dẫn dắt SV tự mình trải nghiệm, tự mình khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. - Dạy học môn Tin học chú trọng tới việc rèn luyện kĩ năng sử dụng CNTT để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể: Khi dạy các học phần Tin học, một điểm cần chú ý tới và phải luôn được đặt làm tiêu chí thiết kế bài giảng môn Tin học là thiết kế các hoạt động để HS, SV tự học, xem môn Tin học là môn rèn luyện nghề Tin. Đây chính là việc nâng cao năng lực cho SV bằng việc dạy học có hiệu quả môn Tin học tại Trường CĐSP Nghệ An. - Dạy học theo dự án (DHDA) Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án. DHDA được nhiều tác giả coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án, có nhiều PPDH cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên, khi không phân biệt giữa hình thức và PPDH, người ta cũng gọi là phương pháp dự án, khi đó cần hiểu đó là PPDH theo nghĩa rộng, một PPDH phức hợp. DHDA là một hình thức dạy học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của DHDA. Trong các tài liệu về DHDA có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các nhà sư phạm Mĩ đầu thế kỉ XX khi xác lập cơ sở lí thuyết cho PPDH này đã nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của DHDA: định hướng HS, định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của DHDA như sau: + Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của người học. + Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực. + Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. + Tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp. + Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học. + Tính tự lực cao của người học: Trong DHDA, người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Người dạy chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm, khả năng của người học và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. + Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa người học và người dạy cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học tập mang tính xã hội. + Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm của dự án VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202 305 không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu. Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người ta có thể chia cấu trúc của DHDA làm nhiều giai đoạn nhỏ hơn. Sau đây, chúng tôi trình bày cách phân chia theo 5 giai đoạn: + Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: Người dạy và người học cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. Người dạy có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học viên lựa chọn và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía người học. Giai đoạn này được K.Frey mô tả thành 2 giai đoạn nhỏ là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng kiến. + Xây dựng kế hoạch thực hiện: Trong giai đoạn này, HS với sự hướng dẫn của người dạy xây dựng đề cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc trong nhóm. + Thực hiện dự án: các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này, người học thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức lí thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực tiễn. Trong quá trình đó, sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra. + Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, luận văn Trong nhiều dự án, các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng hạn, biểu diễn một vở kịch, tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm SV, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội. + Đánh giá dự án: Người dạy và người học đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể được đánh giá từ bên ngoài. Hai giai đoạn cuối này cũng có thể được mô tả chung thành giai đoạn kết thúc dự án. Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và 5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn (giai đoạn kết thúc dự án). Như thế, khi sử dụng DHDA, HS, SV luôn phải sử dụng CNTT làm công cụ, là phương tiện của quá trình học, HS, SV phải tìm kiếm thông tin phục vụ cho việc giải quyết công việc được giao và trình bày kết quả của mình qua các sản phẩm khác nhau như bài trình chiếu, video, bài báo cáo, hình ảnh - Dạy học sử dụng WebQuest WebQuest là một hình thức học tập, trong đó hầu như toàn bộ các thông tin, kiến thức đều đến từ các trang web trên internet. Hiện nay, giáo viên các nước sử dụng các bài tập dạng WebQuest để khuyến khích HS sử dụng internet nhằm rèn luyện các kĩ năng tư duy mức cao mà xã hội thế kỉ XXI yêu cầu Trong tiếng Việt, chưa có cách dịch hoặc cách dùng thuật ngữ thống nhất cho khái niệm này. Trong tiếng Anh, “Web” ở đây nghĩa là mạng, “Quest” là tìm kiếm, khám phá. Dựa trên thuật ngữ và bản chất của khái niệm có thể gọi WebQuest là phương pháp “Khám phá trên mạng”. WebQuest là một dạng đặc biệt của dạy học sử dụng truy cập mạng internet. Để thực hiện được những yêu cầu của giáo viên trong WebQuest, HS phải vận dụng kĩ năng tư duy ở mức độ cao như tổng hợp, phân tích, giải quyết tình huống, sáng tạo và đưa ra quyết định chứ không chỉ đơn thuần là làm những bài tập đã có sẵn đáp án hay chỉ đọc bài rồi trả lời đúng sai. Một WebQuest phải sử dụng được các nguồn tư liệu phong phú trên internet. Nguồn trong một WebQuest phải dựa trên các thông tin liên quan đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống và được cập nhật thường xuyên. Trong điều kiện không có Internet trong trường, giáo viên có thể tải các trang web này về sẵn trong máy tính, hoặc sử dụng các nguồn tư liệu khác (Word, Excel, sách, báo chí,...). Điều quan trọng là các tư liệu này phải là các tư liệu “sống” chứ không phải chỉ là các bài giảng của giáo viên hay những bài đã được kiểm định kĩ càng trong sách giáo khoa. Như thế, khi sử dụng WebQuest, người học phải sử dụng kĩ năng khai thác thông tin trên mạng internet, kĩ năng tổ chức lưu trữ thông tin và thao tác với các tập tin như Word, Excel, Pdf, PowerPoint để tìm kiếm thông tin, trình bày kết quả học tập của mình, qua đó kĩ năng CNTT được nâng cao. (Xem tiếp trang 202) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 199-202 202 Các nhóm đã hoàn chỉnh báo cáo trả lời tốt các câu hỏi thực hành, trong quá trình thuyết trình cũng đã trả lời tốt các câu hỏi do các nhóm khác đặt ra, các nhóm nộp bản viết tay và bản in về cho giáo viên. Bên cạnh đó nhóm 2 và nhóm 3 đã nêu thêm được một số bài toán thực tiễn liên quan đến cấp số cộng và cấp số nhân. Giáo viên đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các nhóm khác dựa trên tiêu chí đã nêu và thu thập ý kiến phản hồi của học sinh về hiệu quả công việc. Bước 6: Đánh giá dự án, điều chỉnh, rút kinh nghiệm - Giáo viên đánh giá hiệu quả làm việc của từng nhóm theo các tiêu chí đánh giá. - Sau khi đánh giá ưu nhược điểm của từng dự án, giáo viên đề xuất cách giải quyết hiệu quả nhất. - Học sinh ghi chép và tổng hợp thành các sản phẩm hoàn chỉnh nhất, làm tài liệu học tập cho bản thân và cả lớp. Các kĩ năng cần được học thêm khi thực hiện dự án: kĩ năng sử dụng công nghệ, sử dụng các phần mềm ứng dụng như Microsoft Word, Microsoft PowerPoint; kĩ năng sử dụng và khai thác tài nguyên trên internet; kĩ năng viết báo cáo. Như vậy, thông qua các bài toán thực tế này, học sinh hiểu rõ các kiến thức về cấp số cộng và cấp số nhân, biết vận dụng chúng để giải quyết các bài toán kinh tế, biết phân tích và lựa chọn các phương án phù hợp thông qua tính toán. 3. Kết luận Để tổ chức và thiết kế được các dự án học tập gắn với thực tiễn phù hợp với nội dung dạy học, người giáo viên cần phải tìm tòi, sáng tạo. Những bài toán đưa ra cần phải gắn với nội dung thực tiễn để tạo sự hứng thú, niềm say mê học Toán cho học sinh để các em thấy rõ được tầm quan trọng của môn Toán trong cuộc sống; từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học Toán theo Chương trình giáo dục phổ thông mới hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Pôlia G. (1997). Sáng tạo toán học. NXB Giáo dục. [2] Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm. [3] Trần Cường - Nguyễn Thuỳ Duyên (2018). Tìm hiểu lí thuyết giáo dục toán học gắn với thực tiễn và vận dụng xây dựng bài tập thực tiễn trong dạy học môn Toán. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì 2 tháng 5, tr 165-169. [4] Perelman IA.I (1987). Toán ứng dụng trong đời sống. NXB Thanh Hoá. [5] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Toán. [6] Nguyễn Bá Kim (2011). Phương pháp dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm. [7] Bùi Văn Nghị (2009). Vận dụng lí luận vào thực tiễn dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm. [8] Phan Anh (2012). Góp phần phát triển năng lực Toán học toán học hóa tình huống thực tiễn cho học sinh trung học phổ thông qua dạy học đại số và giải tích. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Vinh. [9] Trần Văn Hạo (tổng chủ biên, 2006). Đại số và giải tích 11. NXB Giáo dục. DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG (Tiếp theo trang 305) 3. Kết luận Đổi mới PPDH sẽ đặt người học vào tình huống là người làm chủ hoạt động học và phải sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ cho quá trình học tập của mình, trong đó có CNTT. GV phải là người biết định hướng, thiết kế các hoạt động phù hợp: vừa sức nhưng lại đầy thách thức để dẫn dắt SV tự mình trải nghiệm, tự mình khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. Để nâng cao năng lực CNTT cho người học, chúng ta không chỉ chú trọng tới việc cung cấp kiến thức tin học mà còn phải tổ chức dạy học sao cho HS, SV được sử dụng CNTT trong hoạt động học của mình, không chỉ ở nhà mà ngay cả trên lớp học. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Vũ Thanh Dung (2018). Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường phổ thông đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 8, tr 247-250. [3] Vũ Thị Ngọc Bích - Tôn Quang Cường - Phạm Kim Chung (2006). Tập bài giảng phương pháp và công nghệ dạy học. Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội. [4] Nguyễn Xuân Lạc (2017). Nhập môn lí luận và công nghệ dạy học hiện đại. NXB Giáo dục Việt Nam. [5] Trần Khánh Đức (2014). Lí luận và phương pháp dạy học hiện đại. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [6] Lê Khánh Bằng (2012). Phương pháp dạy học đại học hiệu quả. NXB Đại học Sư phạm. [7] Trần Khánh Đức (2010). Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ 21. NXB Giáo dục Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf61le_thi_cam_my_ho_thi_loan_1375_2164626.pdf
Tài liệu liên quan