Tài liệu Dạy học theo định hướng phát triển năng lực công nghệ thông tin cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202
302
Email: lecammy@gmail.com
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
Lê Thị Cẩm Mỹ - Hồ Thị Loan
Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An
Ngày nhận bài: 02/5/2019; ngày chỉnh sửa: 25/5/2019; ngày duyệt đăng: 28/5/2019.
Abstract: From the current status of using information technology, the article addresses the
problem of forming and developing information technology competency for students at Nghe An
College of Education today.
Keywords: Teaching, competency, information technology, Webquest, project.
1. Mở đầu
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế chú trọng đổi mới mạnh mẽ
và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của n...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 538 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy học theo định hướng phát triển năng lực công nghệ thông tin cho học sinh, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202
302
Email: lecammy@gmail.com
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
Lê Thị Cẩm Mỹ - Hồ Thị Loan
Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An
Ngày nhận bài: 02/5/2019; ngày chỉnh sửa: 25/5/2019; ngày duyệt đăng: 28/5/2019.
Abstract: From the current status of using information technology, the article addresses the
problem of forming and developing information technology competency for students at Nghe An
College of Education today.
Keywords: Teaching, competency, information technology, Webquest, project.
1. Mở đầu
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế chú trọng đổi mới mạnh mẽ
và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học,
tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông
trong dạy và học [1; phần III, mục 2].
Nghị quyết đã khẳng định tầm quan trọng của CNTT
trong dạy và học. Để khai thác CNTT vào quá trình dạy
và học đòi hỏi người dạy và người học đều phải được
trang bị những kĩ năng về CNTT. Việc đổi mới phương
pháp dạy học (PPDH) trong bất kì giai đoạn nào cũng
đều cần sử dụng tới công nghệ, và hiện nay là sự hỗ trợ
của CNTT. Tuy nhiên, việc sử dụng CNTT để đổi mới
PPDH cũng đang có nhiều rào cản. Thứ nhất là một quan
niệm ấu trĩ cho rằng, CNTT vừa là phương tiện, vừa là
phương pháp, nghĩa là “cứ có sử dụng CNTT là đã đổi
mới PPDH”, dẫn đến lạm dụng CNTT nhiều khi phản tác
dụng. Mặt khác, kĩ năng CNTT của nhiều giảng viên
(GV) còn yếu cũng làm giảm tác dụng của việc ứng dụng
CNTT trong đổi mới PPDH. Bài viết này đề cập việc dạy
học chú trọng phát triển năng lực CNTT cho người học
thông qua đổi mới PPDH có tích hợp CNTT tại Trường
Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) Nghệ An.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng sử dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động dạy học tại Trường Cao đẳng Sư phạm
Nghệ An
Theo báo cáo tổng kết các năm học gần đây (2016-
2017; 2017-2018) của Trường CĐSP Nghệ An, tình hình
sử dụng CNTT trong hoạt động dạy học ở Trường, cụ thể
như sau:
Nhiều phòng học đã được trang bị hệ thống máy
chiếu đa năng phục vụ cho việc dạy và học của GV và
sinh viên (SV). CNTT tạo ra môi trường dạy học đa
phương tiện kết hợp những hình ảnh, video, âm thanh,
văn bản, biểu đồ, được trình bày qua máy tính theo
kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá
trình học đa giác quan. Nhiều GV đã có được những tiết
dạy tốt tạo được sự tương tác, phát huy được tính chủ
động và sáng tạo của người học nhờ sử dụng CNTT trong
thiết kế bài giảng và hỗ trợ các hoạt động dạy học. Tuy
nhiên, vẫn còn có GV khi lên lớp đã có bài giảng soạn
sẵn lưu trong máy tính và thường rơi vào tình trạng chiếu
chép, chưa kích thích được tính tích cực của người học.
GV và học sinh (HS), SV có thể dễ dàng tìm kiếm
những thông tin liên quan đến bài học qua mạng Internet
không dây của trường nhưng thực tế cho thấy, rất ít SV
sử dụng mạng này để phục vụ cho mục đích học tập. Hầu
như các em tranh thủ đưa máy đến trường để phục vụ cho
mục đích giải trí, có SV còn vô tư chia sẻ: Mạng ở trường
rất mạnh nên download phim rất nhanh và em thường
xuyên đưa máy đến trường để tải phim bộ về xem.
Tuy CNTT mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy
học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại
này cũng không thể hỗ trợ GV hoàn toàn trong các bài
giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài
giảng chứ không phải toàn bộ chương trình. Bên cạnh đó,
kiến thức, kĩ năng về CNTT ở một số GV vẫn còn hạn
chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202
303
chí còn né tránh. Mặt khác, PPDH cũ vẫn còn như một
lối mòn khó thay đổi được trong một sớm, một chiều.
Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm,
dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho người học, cũng
như dạy cho HS, SV “cách biết, cách làm, cách chung
sống và cách tự khẳng định mình” vẫn còn mới mẻ đối
với một số GV và đòi hỏi GV phải kết hợp hài hòa các
PPDH để hạn chế những nhược điểm của PPDH truyền
thống. Điều này làm cho CNTT, dù đã được đưa vào quá
trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích
cực và tính hiệu quả của nó, vẫn chưa được sử dụng đúng
như là công cụ hỗ trợ.
Trong thực tế đã có những giờ dạy học, GV còn lạm
dụng CNTT, sử dụng không đúng lúc, đúng chỗ, không
phối hợp với các phương tiện khác, làm cho giờ dạy học
thụ động, ít kiến tạo được tri thức, HS, SV học “như xem
phim”, trong khi CNTT chỉ là phương tiện dạy học. Hoặc
sử dụng chỉ để “thay bảng đen” chứ không phát huy được
khả năng tuyệt vời của phương tiện dạy học này. Tất cả
các khuynh hướng trên đều không phát huy được vai trò,
vị trí, ưu điểm của CNTT trong dạy học hiện nay.
Tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe,
quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập
khuôn những gì GV đã giảng, chỉ biết những kiến thức
mà GV đã cung cấp. Đa phần SV chưa có thói quen chủ
động tra cứu thông tin trên mạng Internet. Một lí do nữa
là lịch học của SV quá dày, nhiều lớp phải học liên tục
hai buổi vào tất cả các ngày trong tuần. Thêm vào đó, SV
sư phạm với tâm lí là ra trường chưa chắc có việc làm đã
ảnh hưởng lớn đến động cơ học tập của các em.
Qua phân tích ở trên, chúng ta đã phần nào có được
một cái nhìn tổng quát về thực trạng của việc ứng dụng
CNTT vào dạy học cho HS, SV hiện nay. Từ đó, tìm ra
những giải pháp để ứng dụng CNTT phù hợp trong quá
trình dạy học ở nhà trường nhằm đổi mới PPDH theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động của người học; để
cán bộ giảng dạy không còn lúng túng trong quá trình
soạn giáo án và giảng dạy, tự tin hơn trong việc hướng
dẫn SV học tập đem lại hiệu quả cao nhất cho giờ giảng.
2.2. Xác định năng lực công nghệ thông tin của sinh
viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An
Để nâng cao được năng lực CNTT của SV, chúng ta
cần xác định năng lực CNTT của SV bao gồm những
năng lực cụ thể nào. Có thể kể đến một số năng lực cụ
thể như sau:
- Năng lực sử dụng các phương tiện kĩ thuật: Sử dụng
phương tiện kĩ thuật thông thường như máy tính, máy
chiếu, đầu đĩa trong học tập và nghiên cứu.
- Nhận biết được các thành phần của một hệ thống
máy tính, biết và sử dụng thành thạo các phần mềm hố
trợ học tập cơ bản như Word, Excel, PowerPoint
- Biết tổ chức và lưu trữ dữ liệu trong các thiết bị khác
nhau. Biết khai thác thành thạo mạng Internet, chia sẻ dữ
liệu trong mạng Lan. Biết xác định được mối liên hệ giữa
thông tin tìm được và dùng các thông tin đó để giải quyết
các nhiệm vụ học tập.
- Năng lực ứng dụng CNTT trong học tập và rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm: Có kiến thức về sử dụng
CNTT để chia sẻ, trao đổi thông tin, hợp tác với GV và
bạn học một cách an toàn và hiệu quả; Sử dụng internet
và các công cụ tìm kiếm nâng cao để cập nhật thông tin
liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp của bản thân; Sử
dụng các công cụ CNTT và truyền thông để tham khảo,
chia sẻ tài nguyên, làm việc cộng tác với đồng môn.
Đối với SV, năng lực CNTT được xem là một năng
lực bắt buộc phải có, xem đây là năng lực chung, bởi lẽ
Tin học đã thành một phần tất yếu của cuộc sống hiện
đại, đã làm thay đổi cách sống, cách nghĩ và cách làm.
Chúng ta đang sống trong một môi trường số hóa, máy
tính hóa. Để sống trong môi trường thế giới công nghệ
số và hiểu biết về nó, hiểu để làm chủ và thích nghi, buộc
mỗi người đều cần đến Tin học. SV cũng không nằm
ngoài guồng quay của thời đại, là những người thuộc tầng
lớp tri thức, họ buộc phải làm chủ công nghệ để đáp ứng
được sự thay đổi, phát triển của xã hội, công việc, đời
sống. Đối với SV sư phạm, CNTT chính là môi trường
dạy học, công cụ sư phạm, thiết bị dạy học, là chìa khóa
vàng để giúp SV trở thành những người thầy giáo giỏi
trong tương lai. UNESCO đã từng khẳng định: Năng lực
CNTT là một trong những năng lực thiết yếu của công
dân cùng với các năng lực truyền thống khác như năng
lực đọc, viết.
2.3. Hình thành, phát triển năng lực công nghệ thông
tin cho sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An
CNTT đã làm xuất hiện môi trường dạy học mới mà
ở đó cả người dạy và người học đều sử dụng CNTT
trong hoạt động dạy học của mình. GV sử dụng CNTT
để dạy, HS, SV sử dụng CNTT để học tập, nghiên cứu.
CNTT hỗ trợ dạy học truyền thống và làm xuất hiện
những phương thức, phương tiện và hình thành tổ chức
dạy học mới.
Như chúng ta đã biết, năng lực được hình thành và
phát triển thông qua hoạt động vận dụng các kiến thức,
kĩ năng học được để giải quyết các tình huống do cuộc
sống đặt ra. Do vậy, để hình thành và phát triển năng lực
cho HS, SV, cần sử dụng các hình thức tổ chức dạy học,
PPDH theo định hướng người học vận dụng các kiến
thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Đối với năng lực
CNTT cũng vậy. Một câu hỏi đặt ra là, trong trường học,
HS, SV có những cơ hội nào để nâng cao kĩ năng CNTT.
Thực tế dạy học hiện nay cho thấy, nếu không tính đến
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202
304
các tiết học môn Tin học thì trong quá trình dạy học, GV
là người sử dụng CNTT nhiều phục vụ cho công việc
giảng dạy, HS, SV không có cơ hội sử dụng, khai thác
mà chỉ là khán giả của việc trình chiếu sản phẩm của
người thầy.
Chúng ta hình thành và rèn luyện, nâng cao năng lực
CNTT cho HS, SV thông qua việc dạy học môn Tin học
và các môn học khác. Hiện nay, HS, SV được học Tin
học đối với hệ trung cấp là 45 tiết, SV các hệ không
chuyên Tin học với thời lượng 45 tiết và đều học ở năm
thứ 2 của khóa học. Các học phần Tin học này nhằm cung
cấp các kiến thức cơ bản về tin học và khai thác các phần
mềm cơ bản của bộ Office là Word, Excel, PowerPoint
và khai thác sử dụng mạng internet, thư điện tử. Ngoài
ra, để rèn luyện, nâng cao năng lực CNTT cho HS, SV
còn phải thông qua các bộ môn khác, mà ở môn học đó,
HS, SV sử dụng CNTT để giải quyết các nhiệm vụ được
giao trong quá trình học tập và nghiên cứu. Theo đó,
không chỉ khi học môn Tin học mà HS, SV có thể tự
mình luyện tập để hình thành năng lực CNTT thông qua
việc sử dụng CNTT để học tập các môn học khác.
Đổi mới PPDH phải đặt người học vào tình huống là
người làm chủ hoạt động học và phải sử dụng các
phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ cho quá trình học tập
của mình, trong đó có CNTT. Còn GV phải là người biết
định hướng, thiết kế các hoạt động phù hợp: vừa sức
nhưng lại đầy thách thức để dẫn dắt SV tự mình trải
nghiệm, tự mình khám phá và chiếm lĩnh kiến thức.
- Dạy học môn Tin học chú trọng tới việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng CNTT để giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể: Khi dạy các học phần Tin học, một điểm cần
chú ý tới và phải luôn được đặt làm tiêu chí thiết kế bài
giảng môn Tin học là thiết kế các hoạt động để HS, SV
tự học, xem môn Tin học là môn rèn luyện nghề Tin. Đây
chính là việc nâng cao năng lực cho SV bằng việc dạy
học có hiệu quả môn Tin học tại Trường CĐSP Nghệ An.
- Dạy học theo dự án (DHDA)
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về dạy
học theo dự án. DHDA được nhiều tác giả coi là một hình
thức dạy học vì khi thực hiện một dự án, có nhiều PPDH
cụ thể được sử dụng. Tuy nhiên, khi không phân biệt giữa
hình thức và PPDH, người ta cũng gọi là phương pháp
dự án, khi đó cần hiểu đó là PPDH theo nghĩa rộng, một
PPDH phức hợp.
DHDA là một hình thức dạy học, trong đó người học
thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp
giữa lí thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể
giới thiệu. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với
tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc
xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự
án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả
thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của
DHDA.
Trong các tài liệu về DHDA có rất nhiều đặc điểm
được đưa ra. Các nhà sư phạm Mĩ đầu thế kỉ XX khi xác
lập cơ sở lí thuyết cho PPDH này đã nêu ra 3 đặc điểm
cốt lõi của DHDA: định hướng HS, định hướng thực tiễn
và định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm
của DHDA như sau:
+ Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát
từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề
nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm vụ dự án cần
chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả
năng của người học.
+ Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp
phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời
sống, xã hội. Trong những trường hợp lí tưởng, việc
thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã
hội tích cực.
+ Định hướng hứng thú người học: HS được tham gia
chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và
hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của người học cần
được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
+ Tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri
thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm
giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
+ Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện
dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng
lí thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông
qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lí thuyết
cũng như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực
tiễn của người học.
+ Tính tự lực cao của người học: Trong DHDA,
người học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai
đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và
khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người
học. Người dạy chủ yếu đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn,
giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh
nghiệm, khả năng của người học và mức độ khó khăn
của nhiệm vụ.
+ Cộng tác làm việc: Các dự án học tập thường được
thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và
sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.
DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kĩ năng cộng
tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa người học
và người dạy cũng như với các lực lượng xã hội khác
tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được gọi là học
tập mang tính xã hội.
+ Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện
dự án, các sản phẩm được tạo ra. Sản phẩm của dự án
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 302-305; 202
305
không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong
đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản
phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những
sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người
ta có thể chia cấu trúc của DHDA làm nhiều giai đoạn
nhỏ hơn. Sau đây, chúng tôi trình bày cách phân chia theo
5 giai đoạn:
+ Chọn đề tài và xác định mục đích của dự án: Người
dạy và người học cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và
mục đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát,
chứa đựng một vấn đề, hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải
quyết, trong đó chú ý đến việc liên hệ với hoàn cảnh thực
tiễn xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của
người học cũng như ý nghĩa xã hội của đề tài. Người dạy
có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học viên lựa chọn
và cụ thể hoá. Trong trường hợp thích hợp, sáng kiến về
việc xác định đề tài có thể xuất phát từ phía người học.
Giai đoạn này được K.Frey mô tả thành 2 giai đoạn nhỏ
là đề xuất sáng kiến và thảo luận sáng kiến.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện: Trong giai đoạn này,
HS với sự hướng dẫn của người dạy xây dựng đề cương
cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc
xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần
làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp
tiến hành và phân công công việc trong nhóm.
+ Thực hiện dự án: các thành viên thực hiện công việc
theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân. Trong giai
đoạn này, người học thực hiện các hoạt động trí tuệ và
hoạt động thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen
kẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Kiến thức lí thuyết, các
phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực
tiễn. Trong quá trình đó, sản phẩm của dự án và thông tin
mới được tạo ra.
+ Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: kết quả thực
hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo,
luận văn Trong nhiều dự án, các sản phẩm vật chất
được tạo ra qua hoạt động thực hành. Sản phẩm của dự
án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng
hạn, biểu diễn một vở kịch, tổ chức một sinh hoạt nhằm
tạo ra các tác động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể
được trình bày giữa các nhóm SV, có thể được giới thiệu
trong nhà trường hay ngoài xã hội.
+ Đánh giá dự án: Người dạy và người học đánh giá
quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt
được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện
các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể được
đánh giá từ bên ngoài. Hai giai đoạn cuối này cũng có thể
được mô tả chung thành giai đoạn kết thúc dự án.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính
chất tương đối. Trong thực tế, chúng có thể xen kẽ và
thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh cần
được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với
những dạng dự án khác nhau có thể xây dựng cấu trúc
chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai đoạn 4 và
5 cũng thường được mô tả chung thành một giai đoạn
(giai đoạn kết thúc dự án).
Như thế, khi sử dụng DHDA, HS, SV luôn phải sử
dụng CNTT làm công cụ, là phương tiện của quá trình
học, HS, SV phải tìm kiếm thông tin phục vụ cho việc
giải quyết công việc được giao và trình bày kết quả của
mình qua các sản phẩm khác nhau như bài trình chiếu,
video, bài báo cáo, hình ảnh
- Dạy học sử dụng WebQuest
WebQuest là một hình thức học tập, trong đó hầu
như toàn bộ các thông tin, kiến thức đều đến từ các trang
web trên internet. Hiện nay, giáo viên các nước sử dụng
các bài tập dạng WebQuest để khuyến khích HS sử
dụng internet nhằm rèn luyện các kĩ năng tư duy mức
cao mà xã hội thế kỉ XXI yêu cầu Trong tiếng Việt,
chưa có cách dịch hoặc cách dùng thuật ngữ thống nhất
cho khái niệm này. Trong tiếng Anh, “Web” ở đây
nghĩa là mạng, “Quest” là tìm kiếm, khám phá. Dựa trên
thuật ngữ và bản chất của khái niệm có thể gọi
WebQuest là phương pháp “Khám phá trên mạng”.
WebQuest là một dạng đặc biệt của dạy học sử dụng
truy cập mạng internet. Để thực hiện được những yêu
cầu của giáo viên trong WebQuest, HS phải vận dụng
kĩ năng tư duy ở mức độ cao như tổng hợp, phân tích,
giải quyết tình huống, sáng tạo và đưa ra quyết định chứ
không chỉ đơn thuần là làm những bài tập đã có sẵn đáp
án hay chỉ đọc bài rồi trả lời đúng sai. Một WebQuest
phải sử dụng được các nguồn tư liệu phong phú trên
internet. Nguồn trong một WebQuest phải dựa trên các
thông tin liên quan đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống
và được cập nhật thường xuyên. Trong điều kiện không
có Internet trong trường, giáo viên có thể tải các trang
web này về sẵn trong máy tính, hoặc sử dụng các nguồn
tư liệu khác (Word, Excel, sách, báo chí,...). Điều quan
trọng là các tư liệu này phải là các tư liệu “sống” chứ
không phải chỉ là các bài giảng của giáo viên hay những
bài đã được kiểm định kĩ càng trong sách giáo khoa.
Như thế, khi sử dụng WebQuest, người học phải sử
dụng kĩ năng khai thác thông tin trên mạng internet, kĩ
năng tổ chức lưu trữ thông tin và thao tác với các tập tin
như Word, Excel, Pdf, PowerPoint để tìm kiếm thông
tin, trình bày kết quả học tập của mình, qua đó kĩ năng
CNTT được nâng cao.
(Xem tiếp trang 202)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 199-202
202
Các nhóm đã hoàn chỉnh báo cáo trả lời tốt các câu
hỏi thực hành, trong quá trình thuyết trình cũng đã trả lời
tốt các câu hỏi do các nhóm khác đặt ra, các nhóm nộp
bản viết tay và bản in về cho giáo viên. Bên cạnh đó
nhóm 2 và nhóm 3 đã nêu thêm được một số bài toán
thực tiễn liên quan đến cấp số cộng và cấp số nhân.
Giáo viên đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các
nhóm khác dựa trên tiêu chí đã nêu và thu thập ý kiến
phản hồi của học sinh về hiệu quả công việc.
Bước 6: Đánh giá dự án, điều chỉnh, rút kinh nghiệm
- Giáo viên đánh giá hiệu quả làm việc của từng nhóm
theo các tiêu chí đánh giá.
- Sau khi đánh giá ưu nhược điểm của từng dự án,
giáo viên đề xuất cách giải quyết hiệu quả nhất.
- Học sinh ghi chép và tổng hợp thành các sản phẩm
hoàn chỉnh nhất, làm tài liệu học tập cho bản thân và cả lớp.
Các kĩ năng cần được học thêm khi thực hiện dự án:
kĩ năng sử dụng công nghệ, sử dụng các phần mềm ứng
dụng như Microsoft Word, Microsoft PowerPoint; kĩ
năng sử dụng và khai thác tài nguyên trên internet; kĩ
năng viết báo cáo.
Như vậy, thông qua các bài toán thực tế này, học sinh
hiểu rõ các kiến thức về cấp số cộng và cấp số nhân, biết
vận dụng chúng để giải quyết các bài toán kinh tế, biết
phân tích và lựa chọn các phương án phù hợp thông qua
tính toán.
3. Kết luận
Để tổ chức và thiết kế được các dự án học tập gắn với
thực tiễn phù hợp với nội dung dạy học, người giáo viên
cần phải tìm tòi, sáng tạo. Những bài toán đưa ra cần phải
gắn với nội dung thực tiễn để tạo sự hứng thú, niềm say
mê học Toán cho học sinh để các em thấy rõ được tầm
quan trọng của môn Toán trong cuộc sống; từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả dạy và học Toán theo Chương
trình giáo dục phổ thông mới hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Pôlia G. (1997). Sáng tạo toán học. NXB Giáo dục.
[2] Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp
dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm.
[3] Trần Cường - Nguyễn Thuỳ Duyên (2018). Tìm hiểu
lí thuyết giáo dục toán học gắn với thực tiễn và vận
dụng xây dựng bài tập thực tiễn trong dạy học môn
Toán. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì 2 tháng 5, tr
165-169.
[4] Perelman IA.I (1987). Toán ứng dụng trong đời
sống. NXB Thanh Hoá.
[5] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông môn Toán.
[6] Nguyễn Bá Kim (2011). Phương pháp dạy học môn
Toán. NXB Đại học Sư phạm.
[7] Bùi Văn Nghị (2009). Vận dụng lí luận vào thực tiễn
dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm.
[8] Phan Anh (2012). Góp phần phát triển năng lực Toán
học toán học hóa tình huống thực tiễn cho học sinh
trung học phổ thông qua dạy học đại số và giải tích.
Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Vinh.
[9] Trần Văn Hạo (tổng chủ biên, 2006). Đại số và giải
tích 11. NXB Giáo dục.
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG
(Tiếp theo trang 305)
3. Kết luận
Đổi mới PPDH sẽ đặt người học vào tình huống là
người làm chủ hoạt động học và phải sử dụng các phương
tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ cho quá trình học tập của mình,
trong đó có CNTT. GV phải là người biết định hướng, thiết
kế các hoạt động phù hợp: vừa sức nhưng lại đầy thách
thức để dẫn dắt SV tự mình trải nghiệm, tự mình khám phá
và chiếm lĩnh kiến thức. Để nâng cao năng lực CNTT cho
người học, chúng ta không chỉ chú trọng tới việc cung cấp
kiến thức tin học mà còn phải tổ chức dạy học sao cho HS,
SV được sử dụng CNTT trong hoạt động học của mình,
không chỉ ở nhà mà ngay cả trên lớp học.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[2] Vũ Thanh Dung (2018). Một số biện pháp ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học ở trường phổ
thông đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 8, tr
247-250.
[3] Vũ Thị Ngọc Bích - Tôn Quang Cường - Phạm Kim
Chung (2006). Tập bài giảng phương pháp và công
nghệ dạy học. Trường Đại học Giáo dục - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[4] Nguyễn Xuân Lạc (2017). Nhập môn lí luận và công
nghệ dạy học hiện đại. NXB Giáo dục Việt Nam.
[5] Trần Khánh Đức (2014). Lí luận và phương pháp
dạy học hiện đại. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[6] Lê Khánh Bằng (2012). Phương pháp dạy học đại
học hiệu quả. NXB Đại học Sư phạm.
[7] Trần Khánh Đức (2010). Giáo dục và phát triển
nguồn nhân lực trong thế kỉ 21. NXB Giáo dục Việt
Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61le_thi_cam_my_ho_thi_loan_1375_2164626.pdf