Tài liệu Dạy học môn ngữ văn cấp Trung học Cơ sở theo mô hình trường học mới - Nguyễn Thị Hồng Vân: HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0154
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 9, pp. 89-97
This paper is available online at
DẠY HỌCMÔN NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌCMỚI
Nguyễn Thị Hồng Vân
Phòng Quản lý khoa học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Tóm tắt. Việc tổ chức dạy học môn Ngữ văn cấp THCS theo mô hình trường học mới vừa
đảm bảo nội dung và chuẩn của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS hiện hành,
đồng thời có sự đổi mới theo hướng triển khai nội dung bài học theo các hoạt động học tập
của học sinh, tăng cường tính tự chủ, sự chia sẻ, hợp tác trong quá trình học nhằm phát triển
năng lực người học. Bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ: những điểm kế thừa và những
điểm mới của tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS; tiến trình tổ chức 5 hoạt động của
mô hình theo quan điểm kiến tạo và định hướng phát triển năng lực của học sinh; tính mở
và linh hoạt của mô hình.
Từ khóa: môn Ngữ văn THCS, mô hình trường học mới, tiến trình ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy học môn ngữ văn cấp Trung học Cơ sở theo mô hình trường học mới - Nguyễn Thị Hồng Vân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0154
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 9, pp. 89-97
This paper is available online at
DẠY HỌCMÔN NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC CƠ SỞ
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌCMỚI
Nguyễn Thị Hồng Vân
Phòng Quản lý khoa học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Tóm tắt. Việc tổ chức dạy học môn Ngữ văn cấp THCS theo mô hình trường học mới vừa
đảm bảo nội dung và chuẩn của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS hiện hành,
đồng thời có sự đổi mới theo hướng triển khai nội dung bài học theo các hoạt động học tập
của học sinh, tăng cường tính tự chủ, sự chia sẻ, hợp tác trong quá trình học nhằm phát triển
năng lực người học. Bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ: những điểm kế thừa và những
điểm mới của tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS; tiến trình tổ chức 5 hoạt động của
mô hình theo quan điểm kiến tạo và định hướng phát triển năng lực của học sinh; tính mở
và linh hoạt của mô hình.
Từ khóa: môn Ngữ văn THCS, mô hình trường học mới, tiến trình hoạt động học, phát
triển năng lực.
1. Mở đầu
Ngày 28 tháng 07 năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã ban hành Chương trình
giáo dục phổ thông (CT GDPT) tổng thể. Chương trình đã thể hiện quan điểm đổi mới, hướng tới
mục tiêu "góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển
toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của
mỗi học sinh” [4]. Đồng thời, trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã có những bước chuẩn bị tích
cực tạo sự chuyển đổi ngay trong quá trình thực hiện CT GDPT hiện hành, nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, trong đó có việc triển khai
thí điểm mô hình trường học mới (THM). Điểm nổi bật của mô hình là quá trình dạy học được tiến
hành trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, phát huy năng lực tự học của học
sinh (HS) dưới sự hướng dẫn của giáo viên (GV); tăng cường tổ chức các hoạt động trải nghiệm,
khám phá, phát hiện, tránh lối dạy đọc-chép, áp đặt. Đối với các môn học, mô hình này thể hiện rõ
nhất ở việc biên soạn tài liệu hướng dẫn học và tổ chức tiến trình học tập của học sinh theo các bài
học.
Trong quá trình triển khai thí điểm mô hình ở Việt Nam, đã có một số bài nghiên cứu về
mô hình, về tài liệu hướng dẫn học trong mô hình, về quy trình xây dựng bài học môn Ngữ văn
theo mô hình và thực tế triển khai mô hình như: Trường học mới Việt Nam, dân chủ-sáng tạo-hiệu
quả [10], "Mô hình trường học mới Việt Nam" - một sáng kiến góp phần thực hiện đổi mới căn
Ngày nhận bài: 5/4/2017. Ngày nhận đăng: 22/8/2017
Liên hệ: Nguyễn Thị Hồng Vân, e-mail: nhvan1965@gmail.com
89
Nguyễn Thị Hồng Vân
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo [1], Tài liệu hướng dẫn học trong mô hình trường học mới [2],
Thiết kế quy trình bài học môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực
học sinh [9]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc triển khai mô hình những năm qua còn một số bất
cập, cách nhìn nhận về mô hình chưa nhất quán, do vậy, cần có thêm những phân tích và thông tin
cụ thể về việc thực hiện mô hình trong từng môn học, cấp học. Bài viết sẽ tập trung làm rõ những
điểm nổi bật của tài liệu Hướng dẫn học môn Ngữ văn 6, 7, 8, 9 (gọi chung là tài liệu Hướng dẫn
học Ngữ văn THCS) theo mô hình THM và việc tổ chức tiến trình học tập của học sinh trong giờ
học Ngữ văn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Về cấu trúc và nội dung tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS
Một trong những đặc điểm nổi bật của môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông là vừa có
tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Nội dung dạy học của môn Ngữ văn đảm bảo chính xác,
khách quan và hệ thống, phản ánh những thành tựu mới, những tiến bộ của khoa học xã hội và
nhân văn, thể hiện được những giá trị nhân văn mà các thế hệ đi trước đã xác lập. Mặt khác, thông
qua việc tiếp cận với tiếng Việt văn hóa và những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học,
HS được phát triển khả năng tưởng tượng, làm giàu cảm xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành
mạnh nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.
Tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS được biên soạn dựa trên nội dung chương trình và
sách giáo khoa Ngữ văn THCS hiện hành, đồng thời có sự điều chỉnh, sắp xếp và tổ chức theo
hướng hình thành và phát triển các năng lực của HS, đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá
kết quả học tập để tăng cường tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người học, nhằm thực hiện tốt
nhất mục tiêu và đặc trưng của môn học.
2.1.1. Những điểm kế thừa, tiếp nối chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS hiện
hành
Tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS về cơ bản vẫn đảm bảo nội dung chương trình đã
được thể hiện qua hệ thống các bài học của sách giáo khoa Ngữ văn. Cụ thể:
- Tài liệu đảm bảo chuẩn kiến thức và kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông (được
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2006), đảm bảo mục tiêu trong mỗi bài học. Những bài học
chính thức theo CT và SGK vẫn được xác định theo các yêu cầu về nội dung cơ bản và trọng tâm
kiến thức, kĩ năng. Bên cạnh đó, theo yêu cầu giảm tải được quy định tại các văn bản hướng dẫn
chỉ đạo của các cấp quản lý, các bài hướng dẫn tự học, đọc thêm,... được sắp xếp hợp lý trong tiến
trình tổ chức hoạt động, tuỳ theo độ khó về nội dung yêu cầu của mỗi bài học.
- Cấu trúc các bài học trong tài liệu nhìn chung dựa trên trình tự sắp xếp các bài học theo
từng tuần học trong sách giáo khoa hiện hành. Tuy nhiên, do một số nội dung học tập được điều
chỉnh theo tinh thần giảm tải như đã nói ở trên, nên một số bài học có sự thay đổi, sắp xếp lại so
với SGK Ngữ văn hiện hành. Tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn 7 thể hiện rõ nhất sự thay đổi trên.
- Tài liệu vẫn đảm bảo tích hợp các phân môn đọc hiểu, tiếng Việt và tập làm văn; nội dung
của cả 3 phân môn đều được triển khai trong một bài học. Sự tích hợp này dựa trên 2 trục năng lực
cơ bản là đọc hiểu (tiếp nhận văn bản) và tập làm văn (tạo lập văn bản). Đây vừa là sự kế thừa tính
tích hợp đã có trong CT và SGK hiện hành, tuy nhiên, trong mô hình THM, tính tích hợp thể hiện
cao hơn, cụ thể, các đơn vị nội dung của từng phân môn đọc hiểu, tiếng Việt và tập làm văn không
tách rời thành các bài học riêng như SGK hiện hành mà được gắn kết trong từng hoạt động của bài
90
Dạy học môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở theo mô hình trường học mới
học, tránh sự trùng lặp trong một số nội dung dạy học, tạo điều kiện cho HS huy động tốt nhất các
ngữ liệu để tiếp nhận kiến thức và rèn luyện kĩ năng.
2.1.2. Những điểm mới của tài liệu được biên soạn theo mô hình trường học mới
Tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS được biên soạn theo tinh thần đổi mới, nhằm đảm
bảo các nguyên tắc cơ bản của mô hình THM, đó là: tạo điều kiện để HS được chủ động học theo
tốc độ của riêng mình, được tự quản lí, tự đánh giá quá trình học của cá nhân; GV tổ chức quá
trình học tập cua HS trên cơ sở trải nghiệm và kiến tạo, hướng tới dạy học phân hóa, cá thể hóa;
nội dung và kế hoạch học tập được thực hiện linh hoạt; HS là chủ thể hoạt động trong môi trường
học tập dân chủ và thân thiện; việc học tập của HS có sự hỗ trợ tích cực từ phía phụ huynh và cộng
đồng. Những điểm mới của tài liệu được thể hiện cụ thể như sau:
- Tài liệu thiết kế nội dung dạy học theo đơn vị bài học, mỗi bài học tích hợp nội dung của 3
phân môn (được sắp xếp trong một tuần học của chương trình hiện hành), được tổ chức theo 5 hoạt
động: khởi động - hình thành kiến thức - luyện tập - vận dụng - tìm tòi mở rộng, với thời lượng 4
tiết (lớp 6, 7, 8) và 5 tiết (lớp 9). Mạch nội dung bài học được cấu trúc dựa trên trục thể loại và
kiểu văn bản, các kiến thức tiếng Việt và tập làm văn được dạy tích hợp với đọc - hiểu. Cách sắp
xếp này vừa thể hiện bước phát triển trong quan điểm dạy học tích hợp như đã nói ở trên, vừa hiện
thực hóa lí thuyết kiến tạo theo quy luật của quá trình nhận thức và tiếp nhận tri thức đối với cá
nhân người học, hỗ trợ việc tổ chức hoạt động học được logic và hiệu quả.
- Nội dung bài học được triển khai theo các hoạt động học tập, giúp HS rèn luyện khả năng
tự học, tăng cường chia sẻ, hợp tác trong quá trình học thông qua việc thực hiện hệ thống các bài
tập hoặc nhiệm vụ học tập, với các hình thức tổ chức đa dạng (hoạt động cá nhân, hoạt động cặp
đôi, hoạt động nhóm, hoạt động chung cả lớp, hoạt động với cộng đồng,. . . ). Nội dung đọc hiểu,
tiếng Việt, tập làm văn được kết nối trong từng hoạt động, vừa đảm bảo sự phối hợp của các kiến
thức cơ bản, vừa tăng cường hoạt động luyện tập, vận dụng kiến thức vào quá trình giao tiếp và
cảm thụ văn học của học sinh, từng bước nâng cao khả năng tự học và sự chủ động của HS trong
học tập, đồng thời tăng cường các hoạt động trải nghiệm, hoạt động thực hành, vận dụng các kiến
thức, kĩ năng vào thực tiễn.
- Các bài học được tổ chức theo định hướng phát triển năng lực cho HS. Định hướng này
được thể hiện trong tất cả các khâu của quá trình dạy học, thông qua hệ thống mục tiêu bài học,
triển khai nội dung và phương pháp, đánh giá cũng như việc quan sát và góp ý giờ học của giáo
viên. Với quan niệm năng lực là sự vận dụng tổng hợp những kiến thức, kĩ năng và thái độ, động
cơ,. . . của người học vào việc giải quyết những tình huống đặt ra trong học tập và trong thực tiễn,
năng lực phải được thể hiện qua những chỉ số hành vi (những gì HS thể hiện qua nói, viết, làm, tạo
ra), do vậy, trong mỗi bài học, việc xác định mục tiêu cho cả 3 nội dung đọc hiểu, tiếng Việt, tập
làm văn được thể hiện bằng những động từ hành động, cho biết mức độ thực hiện các yêu cầu của
từng nội dung, bám sát các yêu cầu và đặc trưng của từng phân môn, từng thể loại văn bản. Mặt
khác, mục tiêu của các bài học trong nhóm chủ đề cũng được kiểm soát, tạo ra sự kết nối và phát
triển. Như vậy, theo hệ thống mục tiêu của bài học, HS vừa thực hiện những hoạt động theo các
mức độ và biểu hiện năng lực, vừa có sự kết nối để từng bước hình thành và phát triển các năng
lực chung và năng lực chuyên môn của môn học. Chẳng hạn, bài học số 2, lớp 7: Cuộc chia tay
của những con búp bê xác định mục tiêu như sau: "Chỉ ra được những chi tiết thể hiện tâm trạng
đau đớn và xúc động của hai anh em trong cuộc chia tay; trình bày được suy nghĩ về tình cảm anh
em khăng khít, gắn bó và ý nghĩa lớn lao của tổ ấm gia đình; nhận thức được về quyền trẻ em.
Nhận biết được tầm quan trọng của bố cục trong văn bản; xác định được bố cục khi tạo lập văn
bản; bước đầu xây dựng được văn bản có bố cục rành mạch, hợp lí. Chỉ ra được những biểu hiện
91
Nguyễn Thị Hồng Vân
về tính mạch lạc trong văn bản, biết tạo lập văn bản có tính mạch lạc" [5,15]. Mục tiêu bài học có
sự gắn kết giữa kiến thức và kĩ năng về đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản, được lượng hóa theo
các chỉ số và sẽ được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ trong tiến trình tổ chức dạy học.
- Coi trọng kiểm tra, đánh giá theo định hướng năng lực. Thay vì đánh giá kiến thức và kĩ
năng như trong dạy học hiện nay, quan điểm đánh giá theo mô hình THM là xem xét quá trình hình
thành và phát triển các năng lực, phẩm chất của HS trong từng giai đoạn. Các năng lực và phẩm
chất cần hình thành, phát triển cho HS qua mỗi bài học đã được xác định trong mục tiêu và triển
khai trong toàn bộ nội dung bài học; đánh giá năng lực nhằm xác định mức độ hoàn thành của các
mục tiêu đó. Để đánh giá năng lực, cần sử dụng các phương pháp đánh giá có hiệu quả như phỏng
vấn, quan sát, tiểu luận, bài tập tình huống, kiểm tra, dự án, hồ sơ,... khi tiến hành đánh giá không
chỉ căn cứ vào kết quả mà cần chú ý đến quá trình đi đến kết quả; do vậy đánh giá quá trình cần
được coi trọng, đó là quan điểm đánh giá dựa trên toàn bộ quá trình học tập của người học. Trong
đánh giá quá trình, giáo viên quan tâm đến sự tiến bộ của từng học sinh trong học tập bằng các
phương pháp và hình thức đánh giá đa dạng như đã nói ở trên. Đặc biệt cần phối hợp giữa đánh giá
của GV và tự đánh giá của HS, tạo nhiều cơ hội để HS đánh giá chính mình và phản hồi kết quả
của mình để đạt tới các giá trị như tự tin, độc lập, có khả năng phê phán và thái độ tiếp nhận phê
phán,... Điểm mới trong đánh giá theo mô hình THM chính là tạo điều kiện tốt hơn để HS tự đánh
giá (cá nhân tự đánh giá, đánh giá nhóm, đánh giá lẫn nhau) và đưa các thành viên trong gia đình
vào quá trình đánh giá, để cùng với giáo viên có sự điều chỉnh cụ thể trong quá trình học tập của
mỗi cá nhân.
- Tên của từng bài học trong tài liệu nhìn chung được lấy tên của bài đọc hiểu (do bài đọc
hiểu thường là nội dung học tập chính của mỗi bài). Một số khái niệm ngôn ngữ học được giảm tải
theo hướng không đi sâu vào tìm hiểu lý thuyết mà tăng cường luyện tập; mục Ghi nhớ trong sách
giáo khoa hiện hành được giản lược hoặc chuyển thành bài tập rèn luyện, củng cố. Một số kiến
thức trùng lặp với cấp Tiểu học hoặc ít tính thiết thực cũng được giản lược. Tăng cường nội dung
thực hành cho chương trình địa phương.
Theo yêu cầu chung, chương trình Ngữ văn THCS theo mô hình THM giảm thời lượng năm
học từ tối thiểu 35 tuần xuống còn 33 tuần (dành 2 tuần còn lại cho các trường chủ động thực hiện
những nội dung theo điều kiện của từng nhà trường).
2.2. Về tiến trình tổ chức hoạt động trong giờ học Ngữ văn
Tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn THCS được biên soạn theo tinh thần coi HS là chủ thể
trong việc tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng và năng lực; GV là người tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động học của HS. Các bài học được biên soạn theo các hoạt động, thể hiện rõ phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học dựa trên quan điểm dạy học kiến tạo. Mỗi bài học được tổ chức theo 5
hoạt động cơ bản: khởi động - hình thành kiến thức - luyện tập - vận dụng - tìm tòi mở rộng. Mục
tiêu, nội dung, cách thức tổ chức mỗi hoạt động trong môn Ngữ văn THCS được mô tả như sau:
2.2.1. Hoạt động khởi động
Hoạt động khởi động được tổ chức khi bắt đầu một bài học. Mục đích của hoạt động này
nhằm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kĩ năng đã có để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kĩ
năng mới, dựa trên quan điểm rằng: việc tiếp thu kiến thức mới bao giờ cũng dựa trên những kinh
nghiệm đã có trước đó của người học. Đồng thời, hoạt động này cũng giúp giáo viên tìm hiểu xem
học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung của
bài học. Bên cạnh đó, hoạt động này còn nhằm tạo ra hứng thú và một tâm thế tích cực để học sinh
92
Dạy học môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở theo mô hình trường học mới
bước vào bài học mới.
Để tổ chức hoạt động này, có thể sử dụng một số nội dung và hình thức sau:
- Câu hỏi, bài tập: Có thể nêu một tình huống, nhiệm vụ học tập; cung cấp thông tin có liên
quan đến bài học, kết nối với bài học trước hoặc nhắc lại kiến thức đã học ở cấp/lớp dưới, nhằm
huy động những kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến nội dung bài học để tạo sự hứng thú và
suy nghĩ tích cực cho người học
- Thi đọc, kể chuyện, hát. . . : Có thể yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện
hoặc hát về chủ đề liên quan đến bài học. Hoạt động này trong một số trường hợp được thiết kế
thành các cuộc thi, nhằm tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới.
- Trò chơi: Một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng thú trước khi vào
bài học mới. Các trò chơi này cũng có nội dung gắn với mỗi bài học.
Chẳng hạn, với bài số 2, lớp 7: Cuộc chia tay của những con búp bê, có thể xây dựng tình
huống khởi động như sau [5,15]:
- Các bạn trong nhóm cùng nhau xây dựng đoạn văn với nội dung: Điều em mong muốn
về gia đình của em (khơi gợi những cảm xúc, mong ước của HS về gia đình nhằm kết nối với nội
dung bài học).
- Chỉ rõ: Đoạn văn đã đảm bảo tính liên kết về nội dung và hình thức như thế nào? (kết nối
với nội dung của bài học trước, chuẩn bị nội dung tiếp theo của bài học)
2.2.2. Hoạt động hình thành kiến thức
Mục đích của hoạt động này nhằm giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ
thống các bài tập/ nhiệm vụ. Nội dung tri thức ở hoạt động này thuộc các phân môn đọc hiểu, tiếng
Việt và tập làm văn. Với mỗi phân môn, HS sẽ được thu nhận những kiến thức của bài học để kết
nối những gì đã biết với những gì chưa biết, điều chỉnh những quan niệm chưa chính xác, bổ sung
những hiểu biết chưa đầy đủ, giải thích, chứng minh các tri thức khoa học,. . . Từng nội dung kiến
thức của mỗi phân môn sẽ được tiến hành theo định hướng sau:
a) Đọc hiểu văn bản
Đọc là hoạt động quan trọng và là bước đi đầu tiên khi tiếp xúc với tác phẩm, cũng là khâu
đầu tiên của quá trinh đọc hiểu tác phẩm. Phương tiện biểu đạt của tác phẩm là ngôn ngữ, do vậy
đọc văn bản chính là quá trình làm sống động thế giới ngôn từ của tác phẩm. Có hai hình thức đọc
tác phẩm là đọc thầm và đọc thành tiếng. Đọc thầm là hình thức đọc bằng mắt, đọc cho cá nhân
người tiếp nhận, quá trình tiếp nhận diễn ra ở bên trong người đọc; còn đọc thành tiếng là một cách
đọc để thưởng thức, để chia sẻ những cảm nhận về văn bản trong một nhóm người đọc, biến câu
chữ thành âm thanh, giai điệu.
Hoạt động đọc được tiến hành đồng thời với hoạt động tìm hiểu văn bản. GV cần thiết kế
những nhiệm vụ học tập cụ thể, hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản bằng việc sử dụng một số câu
hỏi mang tính liên kết; thiết kế các bài tập trắc nghiệm kết hợp tự luận; các hoạt động kích thích
khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản,. . . Đối với HS cấp THCS, khi hướng dẫn HS
tìm hiểu văn bản GV cần chú ý đến cách đọc văn bản theo đặc điểm thể loại và phương thức biểu
đạt. Chẳng hạn, với những tác phẩm truyện dân gian, cần chú ý khai thác những đặc điểm thuộc
về phương thức tồn tại của văn bản (tính truyền miệng, tính tập thể) và phương thức biểu đạt tự
sự theo từng thể loại văn bản (truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn,. . . ); với văn học trung
đại, chú ý khai thác một số đặc điểm của mỗi thể loại như tác dụng của luật, nghệ thuật đối, tương
phản, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, cách sử dụng “nhãn tự” và “câu thần” trong thơ; cách xây dựng
93
Nguyễn Thị Hồng Vân
cốt truyện và nhân vật, ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự (truyện, truyện thơ,. . . ). Chú ý đến cách
khai thác văn bản văn học và các văn bản nhật dụng, đến đối tượng học sinh theo từng lớp học
để lựa chọn những nội dung phù hợp trong từng văn bản. Chẳng hạn, với văn bản Cuộc chia tay
của những con búp bê, có thể tập trung các nhiệm vụ học tập yêu cầu HS chỉ ra được những chi
tiết trong văn bản thể hiện tâm trạng đau đớn của bé Thủy trong hai khung cảnh, khi ở nhà và khi
em đến lớp chào cô giáo và các bạn; những hình ảnh, chi tiết cho thấy một số nhân vật trong câu
chuyện đã có những hình ảnh xoa dịu nỗi đau của Thủy; phát biểu nhận thức về những nội dung
thuộc quyền trẻ em [5; 20].
b) Tích hợp kiến thức tiếng Việt
Việc hình thành kiến thức tiếng Việt cần tích hợp với nhiệm vụ tìm hiểu văn bản. Các bài
tập/nhiệm vụ yêu cầu học sinh tìm hiểu kiến thức tiếng Việt theo hướng khai thác yếu tố ngôn
ngữ gắn với việc đọc hiểu văn bản trước đó. Một số khái niệm lí thuyết ngôn ngữ được giản lược,
chuyển hóa thành kĩ năng, giúp học sinh dễ tiếp nhận và thực hành hơn.
c) Tích hợp kiến thức tập làm văn
Kiến thức tập làm văn giúp HS chuyển hoá quá trình tiếp nhận văn bản sang qúa trình tạo
lập văn bản, biết cách thể hiện tốt nhất những gì mình đã được tiếp nhận. Các kiến thức tập làm
văn cũng cần được tích hợp với đọc hiểu và tiếng Việt. Cũng như phần kiến thức tiếng Việt, nhiều
nội dung lí thuyết tập làm văn được chuyển hóa thành kĩ năng, được chuyển tải tới HS dưới dạng
các nhiệm vụ, bài tập để HS chủ động hình thành kiến thức cho mỗi cá nhân.
Trong bài học Cuộc chia tay của những con búp bê có nội dung tích hợp về tìm hiểu bố cục
và mạch lạc trong văn bản. Thông qua việc phân tích bố cục của văn bản trên và một vài ví dụ
khác, HS tiếp nhận các kiến thức về văn bản để chuẩn bị cho việc tạo lập các văn bản theo yêu cầu
của các bài học tiếp theo.
2.2.3. Hoạt động luyện tập
Mục đích của hoạt động này là hình thành và rèn luyện các kĩ năng trên cơ sở các kiến thức
vừa tiếp nhận được. Các bài tập/ nhiệm vụ trong hoạt động này tập trung đến việc thực hành tiếp
nối để củng cố, khắc sâu kiến thức, hình thành phương pháp học tập. Do vậy cần chú ý đến sản
phẩm học tập của học sinh và mức độ phân hóa người học, đó là các kiến thức, kĩ năng đã được
chính xác hoá, được kết nối, mở rộng qua các câu trả lời cho các câu hỏi, bài tập định hướng giải
quyết vấn đề nhận thức và thực tiễn. Các bài tập/ nhiệm vụ trong phần thực hành cũng theo trình
tự: đọc hiểu văn bản, tiếng Việt và tập làm văn. Quá trình học sinh thực hành để giải quyết các
nhiệm vụ học tập cũng là quá trình học sinh kiến tạo tri thức đối với cá nhân.
Chẳng hạn, một trong các nội dung luyện tập của bài học nêu trên được thiết kế như sau [5;
23]:
a) Các nhóm chuẩn bị bài nói trong khoảng 5 phút với yêu cầu: Nêu cảm nhận của nhóm
em khi đọc xong truyện Cuộc chia tay của những con búp bê.
b) Một, hai nhóm trình bày trước lớp, các nhóm còn lại nhận xét về bài trình bày theo những
gợi ý sau: Tính hấp dẫn của nội dung; Cách thể hiện bố cục; Tính mạch lạc, rõ ràng của bài; Sức
thuyết phục trong cách nói.
Khi thực hiện các nhiệm vụ học tập trên, học sinh vừa thực hành kĩ năng thể hiện cảm nhận
về văn bản đọc và khả năng hợp tác nhóm, vừa rèn kĩ năng trình bày văn bản đảm bảo tính mạch
lạc.
94
Dạy học môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở theo mô hình trường học mới
2.2.4. Hoạt động vận dụng
Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải
quyết các vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. “Thực tế” ở đây có thể được hiểu là thực tế trong nhà
trường, trong sách vở, trong gia đình và trong cuộc sống của học sinh. Hoạt động này sẽ khuyến
khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình; tìm phương pháp
giải quyết vấn đề và đưa ra những cách giải quyết vấn đề khác nhau; góp phần hình thành năng
lực học tập với gia đình và cộng đồng. Sản phẩm học tập là các câu trả lời, phiếu học tập, bài viết,
bản trình chiếu. . . phản ánh kết quả vận dụng kiến thức, kĩ năng đã lĩnh hội vào tình huống mới.
Nội dung và hình thức bài tập/ nhiệm vụ của hoạt động này trong tài liệu Hướng dẫn học Ngữ văn
THCS là:
- Vận dụng kiến thức đọc hiểu để giải thích, phân tích một hiện tượng văn học, văn hóa khác
tương ứng. Ví dụ: giải thích câu tục ngữ có liên quan đến nội dung văn bản, phân tích bài ca dao
tương tự, nêu ý kiến về một hiện tượng văn hóa, vận dụng phương pháp đọc văn bản để tìm hiểu
một văn bản tương đương,. . .
- Vận dụng kiến thức, kĩ năng tiếng Việt để giải quyết một số vấn đề, như: giải nghĩa, tìm từ
loại, xác định cấu tạo từ, phong cách ngôn ngữ,. . . trong các hiện tượng ngôn ngữ của cuộc sống.
- Tiếp tục rèn luyện kĩ năng làm văn để nói, viết, trình bày,... tạo lập các văn bản với phương
thức biểu đạt tương ứng với nội dung bài học.
Thể hiện mục đích và yêu cầu trên, nội dung vận dụng của bài học Cuộc chia tay của những
con búp bê được thiết kế như sau [5; 23]:
a) Câu chuyện Cuộc chia tay của những con búp bê đã cho chúng ta thấy tình cảm anh em
chân thành, thắm thiết. Em hãy tìm hiểu và kể lại một câu chuyện trong thực tế cuộc sống về tình
cảm sâu nặng này.
b) Sử dụng một bài viết văn gần đây nhất của bản thân để phân tích bố cục và tính liên kết
của bài văn, sau đó tự rút ra nhận xét.
2.3. Hoạt động tìm tòi mở rộng
Mục đích của hoạt động này giúp học sinh tiếp tục mở rộng kiến thức, kĩ năng. Hoạt động
này dựa trên lập luận cho rằng, quá trình nhận thức của học sinh là không ngừng, do vậy cần có sự
định hướng để đáp ứng nhu cầu tiếp tục học tập, rèn luyện sau mỗi bài học cụ thể. Tăng cường ý
thức tìm hiểu, ứng dụng kiến thức, ý thức và năng lực nghiên cứu, sáng tạo; hiểu giá trị của việc
học, học tập suốt đời. Sản phẩm học tập là các tư liệu được sưu tầm, bản báo cáo, sản phẩm nghiên
cứu khoa học. . . Nội dung và hình thức bài tập/ nhiệm vụ của hoạt động này là:
- Đọc thêm các đoạn trích, văn bản có liên quan.
- Trao đổi với người thân về nội dung bài học, như: kể cho người thân nghe về câu chuyện
vừa học, hỏi về ý nghĩa của câu chuyện, trao đổi về một vấn đề thực tiễn,. . .
- Tìm đọc trên sách báo, mạng internet. . . một số nội dung theo yêu cầu.
Với bài học Cuộc chia tay của những con búp bê, hoạt động tìm tòi, mở rộng khuyến khích
học sinh tìm đọc những thông tin nói về quyền trẻ em, trao đổi với người thân / bạn bè (và ghi lại
nhanh những ý kiến trao đổi) về việc thực hiện quyền trẻ em ở địa phương mình; sưu tầm và phân
tích một ví dụ thực tế để thấy rằng nếu trong khi nói và viết, chúng ta không chú ý đến tính mạch
lạc của văn bản thì người nghe, người đọc sẽ không thuận lợi trong việc theo dõi, tiếp nhận nội
dung của văn bản đó [5; 23].
95
Nguyễn Thị Hồng Vân
Mô hình 5 hoạt động nêu trên thế hiện rõ quy trình tổ chức dạy học theo quan điểm kiến
tạo, coi HS là chủ thể của quá trình nhận thức. Để tổ chức tốt các hoạt động học cho HS trong bài
học, giáo viên cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
- Nghiên cứu kĩ mục tiêu, xây dựng kịch bản cho từng bài học, dự kiến các tình huống có
thể diễn ra trong giờ học và cách giải quyết.
- Hướng dẫn học sinh cách đọc và tự học theo nội dung tài liệu, đặc biệt chú ý những bài
học đầu tiên để hình thành thói quen cho học sinh
- Trong từng hoạt động, cần vận dụng tốt các hình thức tổ chức (học cá nhân, cặp đôi, nhóm,
cả lớp; học trong lớp, học ở thư viện, gia đình, cộng đồng) phù hợp với tình huống, nhiệm vụ học
tập, đối tượng HS và các điều kiện thực tiễn khác.
- Ghi lại những tình huống phát sinh trên lớp và cách giải quyết của bản thân hoặc của đồng
nghiệp (mô tả tình huống, khó khăn, kinh nghiệm khi giải quyết), suy nghĩ thêm về các vấn đề liên
quan;
- Trao đổi, nhận xét cụ thể và trực tiếp về kết quả hoạt động của từng nhóm và cá nhân học
sinh trong từng hoạt động. GV cần tạo điều kiện sao cho mỗi HS đều được trả lời và lắng nghe sự
trả lời của từng HS, đưa ra những nhận xét mang tính khuyến khích, tạo động lực và thái độ cởi
mở của học sinh trong giờ học.
Có thể thấy, để thực hiện tốt mục tiêu của mô hình, GV cần linh hoạt trong việc sử dụng tài
liệu sao cho phù hợp với thực tiễn dạy học. GV có thể chủ động điều chỉnh tài liệu khi thấy cần
thiết, cần chú ý tận dụng được kinh nghiệm, vốn sống của học sinh để điều chỉnh các hoạt động,
nhất là hoạt động khởi động. Có thể điều chỉnh một số câu hỏi/lệnh hỏi; một số ngữ liệu (văn bản,
tranh/ảnh minh họa, thiết bị dạy học...); một số hoạt động trong tài liệu (nếu thấy cần thiết) để dễ
thực hiện, giúp HS hình thành ý thức thường xuyên liên hệ kiến thức được học với thực tế đời sống
của các em.
3. Kết luận
Trong mô hình THM, "Điều quan trọng nhất là thực hiện dân chủ hóa trong giáo dục để
phát huy tiềm năng và sự sáng tạo của giáo viên và học sinh, dân chủ giữa học sinh với giáo viên,
giữa học sinh với nhau và giữa nhà trường với giáo viên, cha mẹ học sinh và cộng đồng" [10]. Mỗi
bài học trong tài liệu giống như một "bản thiết kế" chỉ dẫn cho HS các hoạt động tự học (với sự trợ
giúp hợp lí của GV) đồng thời tài liệu cũng gợi ý GV triển khai các hoạt động dạy học. Để thực
hiện mục tiêu trên, khi tổ chức các hoạt động dạy học, giáo viên cần chú ý đến những thành tố cơ
bản của mô hình để đảm bảo các nguyên tắc cơ bản, đồng thời cần có sự chủ động, linh hoạt trong
từng giờ dạy, theo những điều kiện cụ thể của địa phương, nhà trường và đối tượng người học, đảm
bảo những phương pháp học tập bộ môn và đặc thù môn học. Do vậy, mô hình THM không phải
là mô hình đóng mà là mô hình mở và linh hoạt. GV cần hiểu và vận dung mô hình này một cách
hợp lý, đồng thời, mỗi giáo viên cũng cần có cơ hội làm việc nhóm để chia sẻ sáng kiến và kinh
nghiệm, tự bồi dưỡng chuyên môn thông qua trải nghiệm, tăng cường giao lưu, học tập, trao đổi
giữa các trường, các địa phương với nhau về kinh nghiệm và cách hướng dẫn HS tự học thông qua
sử dụng tài liệu hướng dẫn học tập hoặc về các nội dung giáo dục liên quan đến địa phương; tích
cực chia sẻ thông tin trên "trường học kết nối" đã được Bộ GD&ĐT thiết lập trong thời gian qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phương An, 2014. “Mô hình trường học mới Việt Nam" - một sáng kiến góp phần thực hiện
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tạp chí Cộng sản, 6/2014, tr. 60-63.
96
Dạy học môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở theo mô hình trường học mới
[2] Đặng Tự Ân, 2015. Tài liệu hướng dẫn học trong mô hình trường học mới. Tạp chí Khoa học
Giáo dục, Số 119, tháng 8/2015, tr.12-14.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn. Nxb Giáo dục
Việt Nam.
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016. Hướng dẫn học Ngữ văn 7 (tái bản lần thứ nhất). Nxb Giáo
dục Việt Nam.
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2014, 2016, 2017. Hướng dẫn học Ngữ văn 6, 8, 9. Nxb Giáo dục
Việt Nam.
[7] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010. Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Mô hình "Trường học kiểu mới" của Colombia.
[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016. Ngữ văn 6, 7, 8, 9. Nxb Giáo dục Việt Nam.
[9] Phạm Minh Diệu, 2016. Thiết kế quy trình bài học môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo
định hướng phát triển năng lực học sinh. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 128, tháng 5/2016, tr.
26-28.
[10] Nguyễn Vinh Hiển, 2017. Trường học mới Việt Nam, dân chủ-sáng tạo-hiệu quả. Nxb Giáo
dục Việt Nam.
[11] Đỗ Ngọc Thống, 2011. Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Nxb Giáo dục
Việt Nam.
ABSTRACT
Teaching and learning philology in lower secondary school following the new school model
Nguyen Thi Hong Van
Research Management Division, Vietnam Institute of Education Sciences
The implemention of lower secondary Philology teaching following the new school model
not only assures the content and standards of current Philology curriculum and textbook, as well
as the innovation of teaching content based students’ learning activities, strengthening leaners’
self-control, sharing, coorpetation in learning process with aim to improve their competences.
The article focuses on researching to clarify: inheritation and new lessons of Philology guiding
textbooks in lower secondary; the implementation progress of five activities of the model following
the constructivism and students’ competence development based orientation; the openess and
flexibility of the model.
Keywords: Philology for lower secondary school, new school model, learning process,
competence development.
97
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4929_nthvan_6089_2127486.pdf