Đầu tư phát triển các khu kinh tế quốc phòng: Thực trạng và khuyến nghị

Tài liệu Đầu tư phát triển các khu kinh tế quốc phòng: Thực trạng và khuyến nghị: KINH TẾ TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN 29Số 112 - tháng 2/2017 TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN THỰC TRẠNG VÀ KHUyEáN NGHỊ ĐẦU TƯ PHÁT TRiỂN CÁC KHU KiNH TẾ QUỐC PHÒNG: *Học viện Tài chính; Học viện Hậu cần PGS.TS. ĐặNG VĂN DU* ThS. Vũ TRƯờNG KHá* Đầu tư phát triển Khu kinh tế quốc phịng (KTQP) trên các địa bàn chiến lược là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện hai nhiệm vụ: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nịng cốt triển khai thực hiện chủ trương trên. Từ mơ hình thí điểm ở Binh đồn 15 (năm 1998), sau 18 năm xây dựng và phát triển, các Khu KTQP đã được đầu tư và đi vào hoạt động ở phần lớn các địa bàn chiến lược trên lãnh thổ nước ta, và đã đạt được khá nhiều thành quả. Song so với yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế kết hợp với quốc phịng trong tình hình mới, thì đầu tư phát triển các Khu KTQP vẫn cịn nhiều vấn đề phải nghiên cứu, hồn thiện. Bài viết này ngồi phản ảnh thực t...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 548 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư phát triển các khu kinh tế quốc phòng: Thực trạng và khuyến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TẾ TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN 29Số 112 - tháng 2/2017 TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN THỰC TRẠNG VÀ KHUyEáN NGHỊ ĐẦU TƯ PHÁT TRiỂN CÁC KHU KiNH TẾ QUỐC PHÒNG: *Học viện Tài chính; Học viện Hậu cần PGS.TS. ĐặNG VĂN DU* ThS. Vũ TRƯờNG KHá* Đầu tư phát triển Khu kinh tế quốc phịng (KTQP) trên các địa bàn chiến lược là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện hai nhiệm vụ: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nịng cốt triển khai thực hiện chủ trương trên. Từ mơ hình thí điểm ở Binh đồn 15 (năm 1998), sau 18 năm xây dựng và phát triển, các Khu KTQP đã được đầu tư và đi vào hoạt động ở phần lớn các địa bàn chiến lược trên lãnh thổ nước ta, và đã đạt được khá nhiều thành quả. Song so với yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế kết hợp với quốc phịng trong tình hình mới, thì đầu tư phát triển các Khu KTQP vẫn cịn nhiều vấn đề phải nghiên cứu, hồn thiện. Bài viết này ngồi phản ảnh thực trạng đầu tư phát triển Khu KTQP ở nước ta thời gian qua, cịn đề xuất các khuyến nghị hồn thiện đầu tư phát triển các Khu KTQP cho phù hợp với điều kiện mới. Từ khĩa: khu kinh tế quốc phịng Investment to develop national defense economic zones: current status and recommendations Investing to develop national defense economic zones (NDE) on strategic areas is the policy of the Party and State to implement the two strategic tasks: building and defending our Fatherland. Under the guidance of the Prime Minister, the Vietnam People’s Army is the core force to implement the above mentioned policy. From pilot model carried out in the Corps 15 (1998), after 18 years of construction and development, NDE zones has been invested and operated in most strategic areas in the territory of our country, and has achieved many accomplishments. But compared to the requirements of building and economic development combined with defense in the new situation, the investment in developing NDE zones exisit many problems to be studied and improved. This article reflects the reality outside investment and development of NDE zones in Vietnam, also recommends the improvement of investment recommendations to invest and develop NDE zones to suit the new conditions. Keywords: National Defense Economics Mục tiêu cơ bản của đầu tư xây dựng các Khu KTQP là nhằm phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, kết hợp đảm bảo quốc phịng, an ninh ở các địa bàn chiến lược trên biên giới đất liền, biển đảo. Trên cơ sở đĩ, bố trí lại dân cư theo KINH TẾ TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN30 Số 112 - tháng 2/2017 quy hoạch để hình thành các làng, xã biên giới cả trên đất liền và trên biển, tạo vành đai biên giới vững chắc trong thế trận quốc phịng tồn dân bảo vệ Tổ quốc. Hướng tới mục tiêu cơ bản trên, và từ mơ hình thí điểm ở Binh đồn 15 năm 1998, Bộ Quốc phịng đã triển khai đầu tư xây dựng Khu KTQP đầu tiên tại Bắc Hải Sơn, tỉnh Quảng Ninh. Đến nay, sau 18 năm triển khai xây dựng 23 Khu KTQP trên các địa bàn chiến lược đất liền từ biên giới phía Bắc đến Tây Nguyên, Tây Nam bộ đã được hình thành và đi vào hoạt động. Từ năm 1998 đến nay, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào các dự án Khu KTQP đạt khoảng 1.900 tỉ đồng. Với số vốn đầu tư đĩ, cùng với sự nỗ lực của các đơn vị đĩng quân và người dân trên địa bàn Khu KTQP, hoạt đồng đầu tư ở các nơi này đã đạt được những kết quả kinh tế - xã hội đáng khích lệ. 1. Những thành quả đã đạt được Thứ nhất, về xây dựng cơ sở hạ tầng. Kết quả đầu tư xây dựng các Khu KTQP đã gĩp phần bổ sung cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế, như: Đã hồn thành xây dựng gần 1.000km đường giao thơng các loại; 19 cầu bê tơng và cầu treo độc lập (chưa kể các cầu gắn với các dự án đường giao thơng); 276 bản, điểm dân cư mới (trong đĩ cĩ 63 bản định cư); 35 nhà bệnh xá quân dân y kết hợp với diện tích 26.965 m2; 41 nhà lớp học với diện tích 13.656 m2; 03 nhà trẻ mẫu giáo với diện tích 1.305 m2; 53 cơng trình cấp điện sinh hoạt; 108 cơng trình cấp nước sạch; 10.939 m2 trại chăn nuơi; hơn 10 ha trại cây giống; hơn 1.000 m2 nhà chợ nơng thơn và 107 cơng trình thủy lợi vừa và nhỏ bảo đảm tưới tiêu cho khoảng 7.162 ha đât nơng nghiệp; hồn thành 475.167 m2 doanh trại cho bộ đội;, cùng nhiều khối lượng các cơng trình đang thực hiện chuyển tiếp [2, tr.5]. Thứ hai, về phát triển sản xuất. Sau khi các dự án thuộc Khu KTQP hồn thành bàn giao, Đồn KTQP sẽ là pháp nhân tiếp quản kết quả đầu tư của các dự án để đưa vào khai thác, sử dụng. Các Đồn KTQP khu vực phía Bắc đã giúp dân khai hoang, cải tạo đồng ruộng, xây dựng ruộng lúa nước, xây dựng đồng cỏ phục vụ chăn nuơi gia súc, tổ chức khuyến nơng, khuyến lâm Từ khi triển khai chương trình 135 đến nay với số NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN 31Số 112 - tháng 2/2017 vốn lồng ghép khơng nhiều, các Đồn KTQP đã hỗ trợ được cho 5.100 hộ đồng bào dân tộc phát triển sản xuất. Đã xây dựng mơ hình trên 199ha cây lương thực; 73ha cây cơng nghiệp; 138ha cây ăn quả; xây 820 m2 chuồng trại; 01 cơ sở chế biến nơng sản với diện tích 120 m2. Chương trình khuyến nơng, khuyến lâm được triển khai từ năm 2003, với số vốn chỉ trên 5 tỉ đồng nhưng đã hỗ trợ rất hiệu quả cho dân. Đến hết năm 2007- thời điểm kết thúc chương trình, dự án này đã xây dựng được 29ha mơ hình cây nơng nghiệp, 96ha mơ hình trồng cây ăn quả. Đã hỗ trợ 665 hộ ở 03 Đồn KTQP (Mường Chà, Mẫu Sơn, Sơng Mã) tham gia Chương trình [2, tr.6]. Các chương trình này bước đầu đã thay đổi tập quán canh tác, sinh hoạt của dân. Tại Khu KTQP A So, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế, dân trước đây chỉ chọc tỉa, nay biết cấy cày, làm lúa nước. Cĩ những mơ hình tốt như Đồn KTQP 327/QK3 cho dân vay bị sinh sản; Đồn KTQP 799/QK1 hỗ trợ bị giống cho người dân đồng thời với việc hỗ trợ sửa sang chuồng trại, tránh rét cho gia súc, do đĩ trong những đợt rét hại kéo dài, số trâu bị tại khu vực dự án bị chết rét rất ít. Thứ ba, về quy hoạch ổn định dân cư. Từ năm 1998 đến nay đã di dân, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng được hàng trăm cụm làng bản, chủ yếu ở khu vực biên giới. Các dự án đã hồn thành đỡ đầu và đĩn nhận trên 100 nghìn hộ dân (đạt 100% kế hoạch được phê duyệt); trong đĩ cĩ 7.150 hộ đồng bào dân tộc. Tổ chức quy hoạch cho 15.847 hộ dân di cư từ các vùng khác; xây dựng được 276 điểm dân cư mới [2, tr.7]. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình đầu tư xây dựng các Khu KTQP theo đề án Quy hoạch tổng thể các Khu KTQP là kết quả của sự lãnh đạo tập trung của cấp uỷ Đảng, chỉ huy các cấp cùng với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ các Đồn KTQP, nhân dân địa phương trong các Khu vực KTQP. Nhưng đối chiếu với mục tiêu, yêu cầu, thì quá trình đầu tư phát triển các Khu KTQP cũng bộc lộ một số hạn chế. 2. Một số hạn chế và nguyên nhân Một là, vốn ngân sách nhà nước cấp cho đầu tư thực hiện dự án đạt tỷ lệ thấp so với kế hoạch. Theo Quyết định số 1391/QĐ-TTg ngày 09/08/2010 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và phát triển các khu KTQP đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 thì hàng năm nhu cầu vốn ngân sách nhà nước thơng qua Bộ Quốc phịng khoảng 700 tỷ đồng; vốn lồng ghép các chương trình mục tiêu, dự án khoảng 600 tỷ đồng. Nhưng thực tế mức vốn được cấp những năm gần đây cho nhu cầu xây dựng các Khu KTQP vẫn cịn ở mức thấp (năm 2014 là 400 tỷ đồng, năm 2015 là 450 tỷ đồng) [2, tr.8]. Nguyên nhân dẫn đến mức vốn cấp từ ngân sách nhà nước cho các Khu KTQP thấp so với số vốn kế hoạch đã được duyệt, do: (i) Quá trình xây dựng kế hoạch vốn cho các Khu KTQP chưa khoa học, chưa cĩ sự thảo luận một cách sâu sắc, chắc chắn. Thay vào đĩ mới chỉ là quá trình tổng hợp các nhu cầu đầu tư cho các Khu KTQP từ Bộ Quốc phịng; mức độ thẩm định của các cơ quan chức năng về quản lý ngân sách nhà nước, các Ủy ban của Quốc hội chưa thật kỹ, và Quốc hội cũng dễ dàng thơng qua các số liệu này trong đề xuất dự tốn của Bộ Quốc phịng; (ii) Nền kinh tế quốc dân sau một thời gian dài bị chìm vào suy thối, nhưng mấy năm qua dấu hiệu hồi phục vẫn chưa rõ nét. Nên số thu vào ngân sách nhà nước từ kết quả hoạt động của nền kinh tế cịn ở mức thấp. Đây là nguyên nhân trực tiếp và cơ bản nhất làm cho số vốn ngân sách nhà nước chi cho các Khu KTQP chỉ đạt mức thấp so với kế hoạch. KINH TẾ TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN32 Số 112 - tháng 2/2017 Hai là, tham gia sắp xếp ổn định dân cư, phát triển kinh tế của các Đồn KTQP vẫn cịn cĩ những trục trặc. Việc phối hợp cùng chính quyền địa phương tham gia sắp xếp ổn định dân cư, định canh, định cư cho dân du canh, du cư gĩp phần ổn định cuộc sống cho đồng bào là một nhiệm vụ trọng tâm của các Đồn KTQP. Đồng thời kết quả của nĩ cũng là một trong những thước đo hiệu quả của việc đầu tư xây dựng các Khu KTQP. Tuy nhiên, trong những năm qua việc triển khai thực hiện vấn đề này cịn bộc lộ nhiều điểm yếu, như: (i) Cơng tác khảo sát xác định nơi dân cư sinh sống chưa đồng bộ, dẫn đến tình trạng thiếu đất sản xuất, thiếu trường học. Điển hình như các Khu KTQP Mường Lát tỉnh Thanh Hĩa, Aso tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này cĩ từ cả hai phía (chủ đầu tư và các cơ quan cĩ thẩm quyền phê duyệt). Các chủ đầu tư mới chỉ quan tâm đến nơi ở cho người dân trong Khu KTQP, chưa quan tâm thích đáng đến sinh kế cho họ lâu dài. Các cơ quan cĩ thẩm quyền phê duyệt cũng chủ yếu quan tâm đến khả năng triển khai thực hiện đầu tư của các đơn vị được giao làm chủ đầu tư để sớm cĩ các Khu KTQP theo kế hoạch được duyệt; (ii) Tỉ lệ hộ dân ổn định được cuộc sống lâu dài sau khi được sắp xếp chưa cao. Tính trung bình cho các Khu KTQP đã xây dựng và đi vào hoạt động, thì tỷ lệ hộ dân ổn định cuộc sống lâu dài tại các Khu này chỉ đạt 68%. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này một phần vì mơi trường sống và học tập cho trẻ nhỏ, một phần do một số chủ hộ gia đình khơng cĩ quyết tâm vượt khĩ. Nên sau khi hết quyền được hưởng những ưu đãi từ các Khu KTQP, thì họ lại tính chuyện thuyên chuyển; (iii) Nội dung đầu tư cho các điểm dân cư mới hoặc địa bàn di dân xen ghép cịn thiếu hợp lý, chưa chú trọng phát triển sản xuất nhằm ổn định đời sống của đồng bào. Một thực tế khơng thể phủ nhận là tại các địa bàn chiến lược, các điều kiện cĩ liên quan đến mơi trường sống cho các hộ dân cư thường là khĩ khăn. Thậm chí cĩ những nơi thời gian sau đầu tư đã lâu nhưng mức độ cải thiện mơi NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN 33Số 112 - tháng 2/2017 trường sống vẫn chưa tiến triển được đáng kể. Các hoạt động từ sản xuất đến sinh hoạt phần lớn vẫn phụ thuộc vào tự nhiên như Khu KTQP Sơng Mã tỉnh Sơn La, Bát Xát tỉnh Lào Cai, Ba là, năng lực quản lý của các Đồn KTQP vẫn cịn hạn chế. Cán bộ quản lý và cán bộ chuyên mơn của các Đồn KTQP vừa thiếu lại vừa yếu. Kiến thức về khoa học kỹ thuật nĩi chung; đặc biệt kiến thức về kỹ thuật nơng, lâm nghiệp, chăn nuơi, của đa số cán bộ, chiến sĩ ở các Đồn KTQP cịn nhiều hạn chế. Do đĩ, quá trình thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn kỹ năng, kinh nghiệm, phương pháp chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho nhân dân của cán bộ, chiến sĩ trong các Đồn KTQP đạt kết quả thấp. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên là do số biên chế cho các Đồn KTQP vừa ít, vừa thiếu người cĩ chuyên mơn về sản xuất kinh doanh ở các lĩnh vực mà mỗi Đồn cĩ tham gia hoạt động. Nếu ở các Đồn được tổ chức theo mơ hình 2 cấp (Đồn và Đội), thì mỗi Đội chỉ được biên chế từ 2 đến 3 người, và 100% số này lại tốt nghiệp từ các trường sĩ quan quân sự. Theo nhiệm vụ của Đội, họ lại phải vừa sản xuất, vừa phải hướng dẫn người dân sản xuất, thì đương nhiên kết quả sẽ khơng khả quan. Những khiếm khuyết trên đây, buộc các cơ quan nhà nước cĩ thẩm quyền – trực tiếp là Bộ Quốc phịng, cần cĩ những nghiên cứu, đánh giá về hoạt động đầu tư phát triển các Khu KTQP một cách khách quan, đồng bộ, thẳng thắn để tìm kiếm được các giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả đầu tư của hoạt động này. 3. Một số khuyến nghị Xuất phát từ thực trạng trên, để cĩ thể hồn thành nhiệm vụ xây dựng Khu KTQP theo Quyết định số 1391/QĐ-TTg ngày 09/08/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch xây dựng và phát triển các Khu KTQP đến năm 2020, định KINH TẾ TÀI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN34 Số 112 - tháng 2/2017 hướng đến năm 2025, chúng tơi cho rằng cần phải xác lập được các giải pháp phù hợp với diễn biến kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện mới. Thứ nhất, đổi mới tư duy về đầu tư xây dựng Khu KTQP trong tình hình mới. Nước ta cĩ trên 3.000 km đường biên giới trên đất liền và gần 3.260 km chiều dài bờ biển, trên 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế trên biển, với hàng ngàn đảo lớn, nhỏ, trong đĩ cĩ nhiều đảo xa bờ. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển đảo nước ta ngày nay đang xuất hiện nhiều vấn đề nhạy cảm và rất phức tạp. Điều đĩ địi hỏi phải đổi mới tư duy, mở rộng tầm nhìn chiến lược trong việc đầu tư xây dựng các Khu KTQP, kết hợp chặt chẽ hơn nữa kinh tế với quốc phịng, quốc phịng với kinh tế, trong sự thống nhất của hai nhiệm vụ chiến lược Xây dựng và Bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là phát huy vai trị nịng cốt của Quân đội nhân dân trong việc xây dựng Khu KTQP tại các địa bàn chiến lược trên biển đảo. Hai là, tiếp tục đầu tư xây dựng nhằm củng cố và phát triển các Khu KTQP trên các địa bàn chiến lược dọc biên giới đất liền. Khẩn trương tiến hành rà sốt kết quả triển khai đầu tư xây dựng Khu KTQP, rà sốt mơ hình tổ chức, biên chế Đồn KTQP. Lập kế hoạch chi tiết các Khu KTQP đang thực hiện đầu tư chuyển tiếp theo Thơng tư liên tịch số 246/2010/ T T LT- B Q P- B K H & Đ T ngày 23/12/2010. Theo đĩ, tập trung nguồn lực hồn thiện việc xây dựng 23 Khu KTQP đã triển khai; đầu tư xây dựng mới 06 Khu KTQP theo Quyết định số 1391/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Muốn vậy, bài tốn về vốn đầu tư cho các hoạt động này cần cĩ lời giải. Theo chúng tơi, để đảm bảo đủ vốn cho xây dựng Khu KTQP cần phải xây dựng một cơ chế đầu tư đặc thù với dự án, bố trí một kênh riêng cho nhu cầu vốn hàng năm khoảng trên 500 tỷ. Cơ chế đặc thù tốt nhất là đề nghị Chính phủ cho phép được ghi thành chương trình riêng. Bên cạnh đĩ phải cĩ cơ cấu đầu tư phù hợp với tiến độ thực hiện các mục tiêu dự án, vốn ngân sách nhà nước cần tập trung đầu tư cho xây dựng các cơng trình liên quan đến nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, như xây dựng cơng trình thuỷ lợi, kết hợp thuỷ điện nhỏ, nước sạch, phát triển kinh tế đồi, rừng Ba là, thực hiện kịp thời, nghiêm chỉnh các quy định của Luật ngân sách nhà nước 2015 trong quá trình lập kế hoạch vốn đầu tư cho các Khu KTQP kể từ năm ngân sách 2017. Theo đĩ, nhu cầu đầu tư cho các Khu KTQP phải được xác lập trong Kế hoạch tài chính 5 năm, Kế hoạch tài chính - ngân sách 3 năm; đống thời phải nằm trong Kế hoach đầu tư cơng trung hạn cùng thời gian. Tuân thủ theo các loại kế hoạch trên sẽ loại bỏ được hiện tượng đề xuất kế hoạch xây dựng các Khu KTQP khơng cĩ đủ các nguồn lực đảm bảo; đồng thời lại cĩ thể nhắm tới các kết quả đầu ra từ hoạt động đầu tư của các Khu này. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN 35Số 112 - tháng 2/2017 Bốn là, triển khai đầu tư xây dựng thí điểm 03 Khu KTQP ven biển và tuyến đảo gần bờ. Nghiên cứu của Bộ Quốc phịng cho thấy các địa điểm cĩ thể xây dựng thí điểm 3 Khu KTQP gần bờ, bao gồm: Cụm đảo Đơng Bắc; Duyên Hải miền Trung; và Tứ giác Long Xuyên. Muốn vậy, cần vận dụng kinh nghiệm đã cĩ từ các mơ hình Khu KTQP trên biên giới đất liền, kết hợp với nghiên cứu vận dụng các kinh nghiệm quốc tế cho phù hợp với hồn cảnh nước ta để tiến hành đầu tư xây dựng các Khu KTQP ven biển và gần bờ. Sao cho vừa tham gia phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp củng cố quốc phịng - an ninh trên các vùng biển đảo, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút ngày càng nhiều dân cư đến làm ăn, sinh sống trên các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền nước nhà. Bên cạnh đĩ, cần nghiên cứu xây dựng mơ hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Khu KTQP, Đồn KTQP phù hợp điều kiện biển đảo. Theo chúng tơi, Khu KTQP trên biển đảo nên được tổ chức theo Vùng Hải quân, hoặc tổ chức trên các cụm đảo cĩ dân với diện tích đủ lớn để bố trí lực lượng thực hiện nhiệm vụ. Các Đồn KTQP trên biển, đảo cần nghiên cứu và cho phép áp dụng cơ chế hoạt động một cách khoa học, nhằm giải quyết tốt sự phối hợp hoạt động giữa Đồn KTQP với các Vùng hải quân và chính quyền địa phương. Đồn KTQP trên biển đảo cĩ thể trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân hoặc trực thuộc Vùng Hải quân; cĩ tư cách pháp nhân để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi dự án theo nhiệm vụ được giao, phát triển thế mạnh các ngành nghề thuộc các lĩnh vực nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, đặc biệt là xây dựng các khu dịch vụ hậu cần nghề cá. Năm là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng làm kinh tế và quản lý kinh tế cho các cán bộ, chiến sĩ làm việc tại các Đồn KTQP để họ cĩ thể đồng thời đáp ứng được các yêu cầu trong sản xuất và chỉ huy sản xuất; trong chiến đấu và chỉ huy chiến đấu. Sáu là, phải quan tâm đầy đủ đến mơi trường sống ổn định, lâu dài cho các hộ dân cư trong Khu KTQP. Muốn vậy, người đề xuất dự án đầu tư đến người cĩ thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư trong các Khu KTQP phải cân nhắc một cách tồn diện về quy mơ, cơng năng của các dự án thành phần trong từng Khu KTQP. Bên cạnh đĩ cần cĩ phân loại Khu KTQP theo điều kiện tự nhiên, kinh tế để đề xuất với Nhà nước cĩ cơ chế hỗ trợ dân cư yên tâm định cư lâu dài trong Khu KTQP. Đầu tư phát triển Khu KTQP là nhiệm vụ khĩ khăn lâu dài, nhưng nhiều triển vọng - một giải pháp đầu tư hiệu quả trong chiến lược phát triển bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp của các cơ quan trung ương, địa phương, sự nỗ lực của Quân đội nhân dân, chúng ta hy vọng rằng cơng cuộc xây dựng và phát triển các Khu KTQP nhất định sẽ đạt đươc các mục tiêu đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2014; 2. Báo cáo tại Hội nghị kinh tế tồn quân - Bộ Quốc phịng, năm 2016.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf10_9315_2141181.pdf