Tài liệu Dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình người Việt và người Pháp: 61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình là một môi trường đặc biệt, nơi đó
hình thành và nuôi dưỡng nên nhân cách mỗi con
người. Dù ở bất cứ chế độ xã hội nào, điều kiện
địa lý và hoàn cảnh kinh tế nào thì gia đình vẫn
giữ nguyên những đặc trưng với các mối quan hệ
huyết thống, thân thuộc, yêu thương. Tình yêu, sự
quan tâm, kính trọng, tất cả luôn hiện diện và
trường tồn như một sợi dây vĩnh cửu gắn kết các
mối quan hệ gia đình giữa vợ-chồng, cha mẹ-con
cái, anh-chị-em, ông bà-cháu chắt.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến
dấu ấn văn hóa của hai quốc gia ở hai vùng khác
biệt về cả văn hóa, lãnh thổ địa lý thể hiện trong
cách xưng hô giữa các thành viên trong gia đình.
Nếu Pháp là một đất nước phát triển với nền văn
TRỊNH THỊ XOAN*
*Học viện Khoa học Quân sự, trinhminhxoan80@gmail.com
Ngày nhận bài: 08/5/2018; ngày sửa chữa: 30/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/6/2018
DẤU ẤN VĂN HÓA QUA CÁCH XƯNG HÔ
...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 906 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình người Việt và người Pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình là một môi trường đặc biệt, nơi đó
hình thành và nuôi dưỡng nên nhân cách mỗi con
người. Dù ở bất cứ chế độ xã hội nào, điều kiện
địa lý và hoàn cảnh kinh tế nào thì gia đình vẫn
giữ nguyên những đặc trưng với các mối quan hệ
huyết thống, thân thuộc, yêu thương. Tình yêu, sự
quan tâm, kính trọng, tất cả luôn hiện diện và
trường tồn như một sợi dây vĩnh cửu gắn kết các
mối quan hệ gia đình giữa vợ-chồng, cha mẹ-con
cái, anh-chị-em, ông bà-cháu chắt.
Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến
dấu ấn văn hóa của hai quốc gia ở hai vùng khác
biệt về cả văn hóa, lãnh thổ địa lý thể hiện trong
cách xưng hô giữa các thành viên trong gia đình.
Nếu Pháp là một đất nước phát triển với nền văn
TRỊNH THỊ XOAN*
*Học viện Khoa học Quân sự, trinhminhxoan80@gmail.com
Ngày nhận bài: 08/5/2018; ngày sửa chữa: 30/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/6/2018
DẤU ẤN VĂN HÓA QUA CÁCH XƯNG HÔ
TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI PHÁP
TÓM TẮT
Gia đình là một tế bào xã hội, một môi trường đặc biệt góp phần hình thành và nuôi dưỡng nhân
cách của mỗi thành viên. Văn hóa ứng xử trong gia đình nói chung, văn hóa xưng hô trong gia
đình nói riêng thể hiện những nét đặc trưng của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghiên cứu cách xưng hô
trong gia đình Việt Nam và Pháp dưới góc độ ngôn ngữ-văn hóa cho thấy những điểm tương đồng
và khác biệt thú vị trong quan niệm cũng như cách ứng xử của hai dân tộc; từ đó vận dụng hiệu
quả kiến thức ngôn ngữ và văn hóa trong quá trình giao tiếp với người bản xứ.
Từ khóa: đại từ nhân xưng, gia đình, giao tiếp, người Việt, người Pháp, văn hóa, xưng hô
minh lâu đời của Châu Âu, với tôn giáo chính là
đạo Thiên chúa giáo và nền dân chủ, đề cao cái tôi,
bản ngã cá nhân trong xã hội thì Việt Nam lại điển
hình cho một đất nước đang phát triển với nền sản
xuất nông nghiệp lâu đời và ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi nền tư tưởng Nho giáo, đạo Khổng.
Xuất phát từ hai đặc trưng này mà trong phạm
vi gia đình, mỗi quốc gia sẽ có những nét đặc trưng
trong cách xưng hô giữa các thành viên trong gia
đình. Hiện nay, nhiều gia đình Việt còn chung sống
với bốn thế hệ nhưng đa số tồn tại hình thái gia
đình ba thế hệ. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết
này, chúng ta sẽ đi sâu vào thói quen xưng hô trong
gia đình ba thế hệ ông/bà-con-cháu của hai dân tộc
Pháp-Việt. Khám phá ra những dấu ấn văn hóa và
mang đến những giải đáp thú vị cho từng cách sử
dụng loại ngôn ngữ trong môi trường đặc biệt này
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về văn hóa mỗi quốc gia,
góp phần giảm thiểu được những rào cản văn hóa
trong giao tiếp.
2. HỆ THỐNG ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG
VÀ CÁCH XƯNG HÔ TRONG GIA ĐÌNH
NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI PHÁP
2.1. Khái niệm xưng hô và đại từ xưng hô
Trong quá trình giao tiếp, xưng hô là hành vi
ngôn ngữ xuất hiện liên tục trong mỗi lời thoại của
người tham gia giao tiếp. Ngôn ngữ xưng hô cho
phép ta định rõ các vai, thứ bậc, mối quan hệ của
các đối tượng tham gia vào cuộc trò chuyện, giao
tiếp. Xoay quanh cuộc giao tiếp đó, ngôn ngữ xưng
hô sẽ xoay quanh ba trục cơ bản: người nói-người
nghe-người thứ ba được nhắc đến trong câu chuyện.
Theo Lê Hoàng Sang (2014, tr.9), “xưng” là
sự quy chiếu đến người nói, là cách mà người nói
tự gọi mình khi trò chuyện với người khác. Hành
động “xưng” được thực hiện thông qua một từ
xưng hô ở ngôi thứ nhất số ít, hai người xưng trở
lên với ngôi nhân xưng thứ nhất số nhiều. “Hô” là
sự quy chiếu đến người nghe, là cách mà người nói
gọi người đang trò chuyện với mình. Hoạt động
“hô” được thực hiện thông qua một từ xưng hô ở
ngôi thứ hai, một người nghe ứng với ngôi thứ hai
số ít, từ hai người nghe trở lên ứng với ngôi thứ
hai số nhều. Từ “xưng hô” ở ngôi thứ ba dùng để
quy chiếu đến người thứ ba được nhắc đến trong
cuộc hội thoại.
Như vậy “Xưng hô” là tự xưng mình và cách
gọi người khác bằng những danh xưng tương ứng
khi giao tiếp nhằm biểu thị thứ bậc, mối quan hệ,
sắc thái tình cảm, cảm xúc giữa những cá thể
tham gia vào cuộc đối thoại.
Theo Từ điển Giáo dục Việt Nam (2001,
tr.497): “Đại từ nhân xưng (còn gọi là đại từ xưng
hô) là đại từ dùng để tự xưng (ngôi thứ nhất), để
gọi người đối thoại (ngôi thứ hai) và để gọi người
hay sự vật thứ ba (ngôi thứ ba), bao gồm số ít và
số nhiều”.
Từ những định nghĩa và quan điểm trên, có
thể thấy, trong quá trình giao tiếp, các cá thể có
thể đổi vai người nói (phát ngôn) và người nghe
và các đại từ nhân xưng cũng được luân phiên sử
dụng hết sức linh hoạt trong quá trình giao tiếp
giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Riêng ngôi thứ
ba, vì không thuộc phạm trù xưng-hô nên sẽ không
có sự thay đổi trong quá trình giao tiếp.
Liên quan đến cách xưng hô, chúng ta cần có
sự phân biệt khái niệm đại từ nhân xưng và danh
xưng. Đại từ nhân xưng thuộc phạm trù ngôn ngữ,
là một phần không thể thiếu đối với một ngôn ngữ
và đều có điểm chung trong mọi ngôn ngữ là gồm
ba ngôi: thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Ở đây, chúng
tôi sẽ tập trung nghiên cứu cách xưng hô trong
gia đình và cách sử dụng các danh xưng trong các
cuộc giao tiếp trực tiếp của các thành viên, tức là
các danh xưng được sử dụng ở ngôi thứ nhất và
ngôi thứ hai. Danh xưng hay cụ thể là các danh
xưng thân mật trong cách xưng hô của các thành
viên trong gia đình là những đặc trưng riêng của
mỗi cộng đồng ngôn ngữ, mỗi gia đình, thậm chí
là của mỗi cá thể tham gia giao tiếp. Tìm hiểu về
cách xưng hô trong gia đình, chúng ta sẽ khám phá
ra những nét đặc sắc, dấu ấn văn hóa hay cá tính
của mỗi một cộng đồng hay cá thể sử dụng ngôn
ngữ đó.
2.2. Hệ thống đại từ nhân xưng và cách xưng
hô trong gia đình người Việt và người Pháp
2.2.1. Đại từ nhân xưng
Xét về khía cạnh ngôn ngữ, cả hai quốc gia
đều có nguồn gốc ngôn ngữ là hệ chữ La tinh. Tuy
nhiên, tiếng Việt lại mang âm sắc của chữ Nôm,
một ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của tiếng Hán
(Trung Quốc). Trước khi đi sâu vào phân tích các
dấu ấn văn hóa qua cách xưng hô trong gia đình,
chúng ta cùng tìm hiểu sơ lược về hệ thống đại từ,
phương tiện ngôn ngữ không thể thiếu trong hoạt
động giao tiếp đặc biệt này.
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Bảng 1: Hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Pháp và
tiếng Việt
Đại từ
nhân xưng
Tiếng
Pháp
Tiếng Việt
Ngôi thứ nhất
số ít
Je Tôi, em, mình, tớ, tao,
con
Ngôi thứ hai
số ít
Tu/Vous Cậu, bạn, em, mình,
mày, con, cháu
Ngôi thứ ba
số ít
Il/Elle Anh ấy, hắn, cô ấy, bà
ấy, chị ấy, gã, y, thị
Ngôi thứ nhất
số nhiều
Nous Chúng tôi, chúng ta,
chúng tớ, bọn mình,
bọn tao
Ngôi thứ hai
số nhiều
Vous Các anh, các chị, các
bạn, bọn mày, bọn
bay
Ngôi thứ ba
số nhiều
Ils/Elles Các anh ấy, các bà ấy,
các ông ấy, bọn nó,
chúng nó
Quan sát bảng hệ thống đại từ nhân xưng trên,
có thể nhận thấy hệ thống đại từ của tiếng Việt
phức tạp hơn của tiếng Pháp rất nhiều. Về cơ bản,
trong tiếng Pháp, đại từ nhân xưng đơn giản và ổn
định trong các tình huống giao tiếp. Trong khi đó,
tiếng Việt lại tùy mối quan hệ giữa những người
tham gia giao tiếp sẽ có đại từ phù hợp. Ví dụ, giữa
bạn bè là tớ-cậu, tôi-ông, bà-tui giữa vợ chồng:
mình-em/anh, vợ-chồng.
2.2.2. Danh xưng và cách xưng hô trong gia
đình người Việt
Trong gia đình người Việt, do hệ thống đại từ
không những phong phú mà còn rất tinh tế và thay
đổi phức tạp theo mục đích giao tiếp khác nhau,
với mỗi đối tượng khác nhau. Đối với người nước
ngoài mới học tiếng Việt và chưa sinh sống ở Việt
Nam thì đây là một rào cản khá lớn, vì họ chưa thể
thấu hiểu được cái tinh túy, lễ nghĩa, tình cảm
trong giao tiếp của người Việt.
Do ảnh hưởng của nền văn hóa phương Đông
và nền giáo dục Nho giáo đã tồn tại và ăn sâu vào
tiềm thức từ bao đời nay, nên trong cách xưng hô
của người Việt thường ý nhị và sâu sắc. Do đó, các
danh xưng thân mật không đa dạng và phong phú so
với ngôn ngữ phương Tây và thường được sử dụng
chủ yếu trong mối quan hệ gia đình. Trong phần
này, với những kiến thức và trải nghiệm thực tế đã
thu lượm được trong đời sống, chúng ta sẽ cùng
tìm hiểu cách xưng hô trong gia đình Việt xoay
quanh bốn mối quan hệ cơ bản của gia đình là: vợ-
chồng, cha/mẹ-con cái, anh/chị-em, ông/bà-cháu.
Cách xưng hô giữa vợ và chồng
Đây là mối quan hệ thiêng liêng, khởi điểm
cho việc hình thành và phát triển của một gia đình.
Cách xưng hô cũng như các danh xưng giữa vợ
chồng của người Việt thay đổi theo từng giai đoạn
của cuộc đời.
Vợ chồng trẻ những năm đầu sau khi cưới,
khi xưng hô với nhau vẫn hay sử dụng những từ
xưng hô thân mật như lúc trước khi kết hôn. Cách
xưng hô thân mật giữa các cặp vợ chồng rất đa
dạng. Tuy nhiên, người Việt không có thói quen sử
dụng danh xưng thân mật khi có mặt người thứ ba.
Thông thường, sau kết hôn, các cặp vợ chồng sẽ
xưng hô “anh-em”, “vợ-chồng”.
Giới trẻ hiện nay thường có xu hướng từ
trước khi kết hôn đã xưng hô với nhau là “vợ-
chồng”, “ông xã-bà xã”, “vợ yêu-chồng yêu”...
Ngoài ra còn hay dùng những từ theo phương Tây
như “honey”, “baby”
Đến khi hết thời kỳ vợ chồng son, các cặp vợ
chồng cũng thể hiện sự gần gũi, thân thương bằng
tiếng “mình” (mình - anh/em).
- Mình ơi nhớ về ăn cơm sớm nhé.
- Anh chưa biết được, còn tùy công việc nữa
mình ạ.
Vợ chồng khi bước vào tuổi làm cha mẹ lại có
cách xưng hô thân mật khác. Lúc này vợ chồng
gọi nhau thường hay gọi theo quan hệ với con như:
“mẹ thằng Cún”, “bố cu Bi”, “má nó”, “ba nó”
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
hay với cháu: “bà cu Bo”, “ông ngoại Sóc”.
- Má nó nhớ qua nhà bà ngoại chiều nay nhé.
Hình như bà ốm đấy.
- Bố Cún về chưa vậy? Em đợi ở nhà nhé.
Khi đã lên ông, lên bà, tiếng “anh-em” hay
“mình-anh/em” sẽ được thế chỗ cho cách xưng hô
thay cho các cháu.
- Ông nội Nil ơi, tôi ra chợ mua mớ rau nhé!
Khi cùng nói chuyện với nhau, ở tuổi cao người
Việt cũng thường xưng hô “ông/ông nó-tôi”, “bà/
bà nó-tôi”, thể hiện mình đã ở tuổi lên ông lên bà,
cách xưng hô anh-em như thời trẻ dần được thay thế.
- Đấy, tôi nói rồi mà bà không nghe, nó lại bỏ
đi rồi.
- Ông nó cứ bình tĩnh, việc đâu còn có đó.
Thực tế, cách xưng hô và danh xưng trong mối
quan hệ vợ chồng hết sức phong phú theo từng
cung bậc cảm xúc và trong những ngữ cảnh khác
nhau. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng ta chỉ
tìm hiểu cách xưng hô chuẩn mực và phổ biến nhất
trong các gia đình Việt.
Cách xưng hô giữa cha mẹ và con cái
Thông thường, danh xưng phổ biến nhất trong
mối quan hệ này của người Việt là: “bố/mẹ-con”
(miền Bắc); “ba/má-con” (miền Nam).
Tuy nhiên, xét về lịch sử, trong gia đình Việt
xưa cũng có nhiều cách xưng hô khác nhau.
Trong các gia đình giàu có, người Việt xưa xưng
hô là:“cậu/mợ - con”, hay là “cậu/mợ-anh/chị”.
Còn trong các gia đình bình dân thì có những danh
xưng như: “thầy/bu-con” hay “thầy/u-con, “thầy/
đẻ-con”
Xét về vùng miền địa lý, trong gia đình Việt
cũng có những điểm khác biệt nhất định. Người
Việt ở các gia đình vùng cao thường hay xưng
hô:“bố/mế-con. Ở miền Trung là: “ba/má-con”
còn ở các tỉnh miền Tây Nam bộ là “tía/má-con”.
Có thể nói, các danh xưng giữa cha mẹ và con cái
trong gia đình Việt hết sức phong phú. Trên đây
chỉ là những danh xưng mang tính phổ biến nhất.
Các danh xưng mà bố mẹ dành cho con cái
cũng thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của
đứa con. Khi mới sinh ra, nhiều em bé đã có cả tên
khai sinh và tên thân mật dùng để gọi khi ở nhà.
Thế hệ trước có thói quen gọi là Cu, Cò, Tũn với
con trai và Hĩm, Gái, Đĩ với con gái. Ngày nay,
các em bé có nhiều hơn những danh xưng thân mật
như: Honey, Coca, Bon, Bánh bao, Cà phê, Bào
Ngư tùy vào sở thích của bố mẹ.
Cách xưng hô giữa anh/chị và em
Xưng hô trong mối quan hệ này vẫn chủ yếu
là dùng cặp đại từ “anh-em”. Thực tế, ở nhiều gia
đình anh chị còn gọi em là “mày” xưng “tao”,
tuy nhiên cách nói này không được khuyến khích
và không phải là chuẩn mực của danh xưng trong
gia đình, trừ trong gia đình của các dân tộc thiểu
số, nơi mà người dân sử dụng tiếng nói của cộng
đồng mình.
Danh xưng thân mật giữa anh/chị-em là rất ít.
Ở miền Nam, đặc biệt là ở những vùng sông nước
thì gọi anh, chị, em ruột thịt theo thứ tự trong gia
đình cùng với tên của người đó ví dụ như: “Út
Nga”, “Tư Thọ” hoặc ngắn gọn hơn thì chỉ gọi
theo thứ tự trong gia đình: “Chị Hai”, “Anh Ba”.
Khi đã trưởng thành và có con cái, cách xưng
hô giữa anh-chị-em lại có sự thay đổi, đó là cách
sử dụng đại từ xưng hô thay cho con.
- Cô thấy chị nhà anh/tôi đợt này thay đổi
nhiều không? (Anh nói với em gái).
Cách xưng hô này cho ta thấy rõ sự hiện diện
của thế hệ thứ ba, các con, cháu với cha mẹ, ông
bà, cô dì, chú bác cứ mặc định trong các cuộc giao
tiếp giữa các thành viên một cách tự nhiên, làm
phong phú thêm các danh xưng trong gia đình.
Cách xưng hô giữa ông bà và cháu
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Ở miền Bắc và theo tiếng phổ thông, cách
xưng hô “ông/bà-cháu” phổ biến nhất trong các
gia đình. Ở miền Nam, cháu gọi ông bà nội hay
ông bà ngoại thường rút gọn lại còn tiếng “nội”,
“ngoại” (chung cho cả ông và bà) để nói chuyện
với nhau. Rất nhiều ông bà dùng tiếng“con” để
gọi cháu. Ngược lại cũng rất nhiều cháu dùng
tiếng “con” để xưng với ông bà.
- Con chào nội, con về ạ.
- Nội chào con, đi cẩn thận nghe con.
Có thể thấy rằng, các danh xưng và cách
xưng hô của các thành viên gia đình Việt vô cùng
phong phú và không ngừng thay đổi theo sự phát
triển, lớn mạnh về số lượng các thành viên trong
gia đình. Từ thời điểm chỉ có “hai vợ chồng son”
đến khi nên ông nên bà, cách xưng hô có một quá
trình phát triển hết sức tự nhiên, thú vị nhưng cũng
mang đậm nét văn hóa, sự gắn kết của tình cảm
ruột thịt đầy yêu thương, trìu mến.
2.2.3. Danh xưng và cách xưng hô trong gia
đình người Pháp
Đối với người Pháp, đại từ nhân xưng được sử
dụng gần như duy nhất trong mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình là ngôi “je-tu” hay “moi-
toi” (tutoyer). Trong văn chương cổ và trong các
gia đình quý tộc xưa, người Pháp cũng có sử dụng
cặp đại từ “je-vous” hay “moi-vous” (vouvoyer).
Tuy nhiên, thói quen này hiện không còn trong gia
đình hiện đại.
Thế hệ ông bà (grands-parents) gồm có ông
bà nội (grands-parents paternels) và ông bà ngoại
(grands-parents maternels). Sau đó đến bố (père)
và mẹ (mère) và các con gồm: anh/em trai (frère)
và chị/em gái (sœur). Trong tiếng Pháp, trường
hợp là anh/chị sẽ thêm từ grand(e) (lớn) ở trước
mỗi danh xưng thành grand-frère và grande-sœur,
nếu là em trai/gái sẽ thêm tiền tố petit(e) (nhỏ) và
chuyển thành petit-frère và petite-sœur. Đi sâu vào
tìm hiểu các danh xưng thân mật qua các mối quan
hệ: vợ-chồng, cha mẹ-con cái, anh/chị-em và ông/
bà-cháu chúng ta sẽ phát hiện ra những nét tinh tế
và sự đa dạng của từ loại này.
Cách xưng hô giữa vợ và chồng
Trong tiếng Pháp, trong mối quan hệ thân mật
thì cặp đại từ xưng hô “je-tu” giữ vị trí độc tôn.
Như chúng ta đã biết đại từ “tu” là ngôi thứ hai
số ít trong hệ thống đại từ nhân xưng trong tiếng
Pháp, sử dụng trong mối quan hệ với người ít tuổi
hơn, có địa vị thấp hơn và đặc biệt là trong mối
quan hệ thân thiết như bạn bè hay người yêu. Khi
chưa kết hôn, còn là người yêu và dĩ nhiên đến khi
là vợ chồng thì người Pháp vẫn giữ nguyên cách
dùng hai đại từ này. Theo thống kê, trong mối quan
hệ liên quan đến tình yêu nam nữ, vợ-chồng thì các
danh xưng thân mật hết sức phong phú và được sử
dụng với tần suất cao. Tham khảo tại trang web
smooze.com thì danh xưng thân mật được sử dụng
với tần suất cao nhất là từ “Chéri(e)” (Người yêu/
Anh yêu/Em yêu). Tiếp theo là từ “mon cœur”
(trái tim của anh/em), “mon amour” (tình yêu của
em/anh), “bébé” hay “mon bébé” (người yêu bé
nhỏ), “ma puce” hay “mon doudou” (cục cưng
của anh/em) Những danh xưng đầy yêu thương,
âu yếm này xuất hiện thường xuyên của các cặp vợ
chồng ở mọi lứa tuổi trong gia đình Pháp.
Cách xưng hô giữa cha mẹ và con cái
Trong mối quan hệ này, đại từ nhân xưng “je-
tu” hay đại từ xưng hô “moi-toi” được sử dụng
trong các cuộc giao tiếp hàng ngày. Danh xưng
thân mật thể hiện sự âu yếm, chở che, yêu thương
của bố mẹ dành cho con cái cũng chiếm vị trí hết
sức quan trọng trong cách xưng hô này.
Danh xưng “papa” và “maman” được cả hai
cá thể sử dụng hết sức tự nhiên. Mẹ nói với con:
- Sophie, viens ici avec maman! (Sophie, lại
đây với mẹ nào!)
Hay con nói với bố:
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
- Papa, tu peux me montrer la Tour Eiffel?(Bố ơi,
bố có thể chỉ cho con xem tháp Eiffel được không?)
Những danh xưng mang đầy sự yêu thương,
thân thiết giữa cha mẹ và con cái của người Pháp
cũng rất phong phú và thú vị như là: “mon trésor”
(kho báu của bố/mẹ), “mon ange” (thiên thần của
bố/mẹ), “mon coeur” (trái tim của bố/mẹ),... và ý
nghĩa của những danh xưng này cũng rất sâu sắc...
Niềm tự hào và vui sướng của người làm cha mẹ
còn thể hiện qua các danh xưng như : “ma beauté”
(nàng xinh đẹp), “ma fleur” (đóa hoa), “ma
princesse” (công chúa) dành cho con gái hay
“mon beau prince” (hoàng tử), “mon capitaine”
(thuyền trưởng) đối với con trai.
Ngoài cách gọi con bằng những danh xưng
thân mật dễ thương và nhiều ý nghĩa như trên,
người Pháp còn hay gọi con mình bằng những
danh xưng theo tên của các con vật yêu, gần gũi
với tâm hồn trẻ thơ như “mon petit loup” (con sói
bé nhỏ), “mon chaton” (miu con), “ma crevette”
(tôm con)
Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa con dâu/con
rể với bố mẹ chồng/vợ, dù vẫn là quan hệ gia đình
song khi giao tiếp với bố mẹ chồng/vợ, người con
không sử dụng đại từ nhân xưng “tu” mà sử dụng
đại từ “vous” (số ít) như trong trường hợp xưng hô
với những người có khoảng cách, thứ bậc, quan hệ
xã giao (thầy-trò, cấp trên-cấp dưới). Họ cũng
không xưng hô “Papa”, “Maman” như khi xưng
hô với bố mẹ đẻ mình mà gọi tên bố mẹ chồng/
vợ. Ví dụ:
Con dâu nói với bố chồng:
- Vincent, est-ce que vous voulez voyager au
Vietnam avec nous? (Vincent, bố có muốn đi du
lịch ở Việt Nam với chúng con không?)
Cách xưng hô giữa anh/chị và em
Trong mối quan hệ này, ngôi “je” và “tu”
vẫn là đại từ chỉ ngôi duy nhất được sử dụng.
Tuy nhiên, khác với mối quan hệ cha mẹ-con cái,
từ “maman” hay “papa” được sử dụng thường
xuyên với những vai trò vị trí khác nhau trong câu
thì giữa anh-chị-em thứ bậc không được xác định
rõ ràng, người Pháp sẽ gọi tên và xưng hô “je-tu”.
- Pierre, tu veux quoi pour ton anniversaire?
(Pierre, em/anh thích gì vào ngày sinh nhật
nào?)
- Julie, tu vas partir en Italie cet été?
(Julie, chị/em sẽ đi Ý hè này à?)
Phân tích hai câu trên, nếu không đặt trong
ngữ cảnh cụ thể, thật khó để chúng ta phân biệt
được thứ bậc, có thể là anh/chị nói với em và có
thể ngược lại. Ta cũng không thể xác định rõ quan
hệ của hai nhân vật: anh/chị em hay bạn bè, đồng
nghiệp. Một điểm lưu ý là trong mối quan hệ anh-
em, dâu-rể thì ngôi “je” và “tu” vẫn là đại từ xưng
hô duy nhất. Có thể lý giải đây là mối quan hệ mà
thứ bậc, tuổi tác không được đánh giá quan trọng
như cha mẹ vợ/chồng và con dâu/rể.
Cách xưng hô giữa ông bà và cháu
Cặp đại từ nhân xưng “je-tu” và “moi-toi”
vẫn là cặp đại từ duy nhất được sử dụng trong mối
quan hệ này. Điều đó thể hiện rằng, ông bà và cháu
tuy tồn tại sự chênh lệch về khoảng cách tuổi tác,
thế hệ nhưng tình cảm ruột thịt vẫn vô cùng gần
gũi và thân thiết.
Cũng giống như các cuộc đối thoại giữa cha
mẹ-con cái, giữa ông bà-cháu, các danh xưng thân
mật được sử dụng thường xuyên, thể hiện sự yêu
thương, trìu mến.
- Mémé, raconte-moi cette histoire! (Bà ơi, bà
kể cho con nghe câu chuyện này nhé)
- Pépé, tu vas pêcher avec moi? (Ông ơi, ông
đi câu cùng cháu được không?)
- Papi, tu me manques beacoup. (Ông ơi, con
nhớ ông nhiều lắm)
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
- Mamie, je vais te voir cette semaine. (Bà ơi,
tuần này cháu sẽ về thăm bà nhé.)
Những danh xưng mà các cháu sử dụng khi nói
với ông, bà không nhiều và cũng không có sự phân
biệt ông bà nội/ngoại nhưng luôn là biểu hiện của
tình yêu thương, quý trọng của các cháu đối với
thế hệ ông bà mình. Đối với các cháu, ông bà cũng
thường xuyên sử dụng những danh xưng thân mật
như bố mẹ gọi con cái: mon trésor, ma puce, mon
petit loup, mon chatton
3. DẤU ẤN VĂN HÓA QUA CÁCH XƯNG
HÔ TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT VÀ
NGƯỜI PHÁP
Xưng hô là một hành động được thực hiện nhờ
các phương tiện ngôn ngữ đặc trưng, nhưng vì là
hoạt động giao tiếp nên cách thức xưng hô và cách
sử dụng các danh xưng cũng thể hiện những đặc
trưng văn hóa của mỗi cộng đồng sử dụng ngôn
ngữ đó. Qua phần tìm hiểu về xưng hô trong gia
đình người Pháp và Việt, chúng ta đã phần nào
thấy được ẩn chứa trong hành động giao tiếp đặc
biệt này những dấu ấn văn hóa của hai dân tộc.
3.1. Sắc thái biểu cảm qua cách sử dụng đại
từ nhân xưng
Nhìn nhận tổng quan về các đại từ nhân xưng
chỉ ngôi và trường từ vựng liên quan đến các thành
viên trong gia đình, hai ngôn ngữ đều không có
điểm khác biệt. Tuy nhiên, các đại từ nhân xưng
của tiếng Việt vô cùng phong phú và mang giá trị
biểu đạt sắc thái cảm xúc, ý đồ của người giao tiếp
rất cao. Nếu trong tiếng Pháp chỉ có hai đại từ ngôi
thứ hai “tu” và “vous” có thể thay thế để biểu đạt
về mối quan hệ thân mật hay có khoảng cách giữa
các cá thể giao tiếp thì trong tiếng Việt cả ba ngôi
đều chứa rất nhiều đại từ mà trong mỗi ngữ cảnh
cụ thể, với tâm trạng nhất định, các đối tượng giao
tiếp sẽ chọn lựa sử dụng. Ví dụ, giữa cha và con,
bình thường sẽ xưng hô: “bố-con” nhưng khi con
phạm lỗi, trong cơn giận dữ bố có thể xưng hô:
“tao-mày” (bậc làm con thì không được phép nói
ngược lại với bố), hay vợ chồng khi “cơm chẳng
lành canh chẳng ngọt” có thể xưng hô“tôi-anh/
cô” mặc dù đây không phải là những cách xưng
hô chuẩn mực. Đối với người Pháp, cách xưng hô
trong mối quan hệ này luôn luôn sử dụng đại từ “je
- tu/vous” trong bất cứ hoàn cảnh và tình huống nào.
Có lẽ sắc thái biểu cảm chứa đựng qua cách sử
dụng đã làm cho hệ thống đại từ nhân xưng tiếng
Việt luôn phong phú, đa dạng và có thể trở nên
phức tạp với một số người sử dụng. Đây chính là
biểu hiện của văn hóa, lối tư duy tỉ mỉ, quan niệm
thứ bậc, phép tắc trong giao tiếp của người Việt.
3.2. Thói quen sử dụng danh xưng thân mật
Một điểm chung thứ hai của hai cách xưng hô,
đó là tần suất và thói quen sử dụng các danh xưng
thân mật với các con trong mỗi gia đình Việt và
Pháp. Đối với người Pháp, việc sử dụng những
danh xưng đáng yêu, dễ thương, mang nhiều ý
nghĩa đã tồn tại và phổ biến trong cách xưng hô
giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và các cháu
của mình. Đối với gia đình Việt, nếu như ngày xưa
các “tên yêu” được dùng để gọi các con, cháu là
nhằm dễ nuôi, dễ gọi thì ngày nay xu hướng “Âu
hóa” rất rõ qua các danh xưng. Những cái tên thân
mật như Tom, Nicky, Nil xuất hiện khá nhiều.
Bên cạnh đó, cũng giống như tên yêu trong tiếng
Pháp, những cái tên mang tên các con vật yêu,
nhân vật hoạt hình như Mickey, Miu, Cún, Ben
cũng rất quen thuộc. Bên cạnh đó, còn có những
tên độc đáo gắn liền với câu chuyện riêng từ thuở
trong bào thai cho đến khi ra đời của mỗi đứa trẻ
như: Bánh Bao, Cô Ca, Hạt Xoài, Cà Phê cũng
rất riêng và thú vị. Có một điểm chung nằm trong
điều cấm kỵ trong gia đình người Pháp cũng như
người Việt, đó là gọi tên tục của cha mẹ để xưng
hô. Tuy nhiên, nếu với người Pháp là một nguyên
tắc theo suốt cuộc đời thì với người Việt có sự thay
đổi theo giai đoạn. Khi còn nhỏ, các em bé vẫn nói:
- Mẹ Linh ơi, Ken yêu mẹ nhất trên đời!
Nhưng trong gia đình Pháp, đối với ngôi thứ
hai mà là ông bà, cha mẹ thì con cháu không gọi
tên mà chỉ dùng danh xưng thân mật: “papa/
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
maman” hay “mémé/papi”. Với người Việt, khi
trưởng thành, con cũng tránh gọi tên của bố mẹ,
ông bà mà chỉ đơn giản gọi là “bố/mẹ”, “ông/bà”.
Nếu cách xưng hô bằng danh xưng tên yêu đối
với con, cháu trong các gia đình là một thói quen
phổ biến thì cách xưng hô giữa vợ và chồng của
người Việt và người Pháp có nhiều điểm khác biệt.
Đối với người Pháp, do ảnh hưởng nền văn minh
phương Tây đề cao cách thể hiện tình cảm tự nhiên,
cái tôi cá nhân và đời sống tình cảm luôn được
thể hiện tự nhiên, công khai, nên cách xưng hô
giữa vợ chồng và cách thể hiện tình cảm cũng hết
sức cởi mở. Để thể hiện tình cảm, sự yêu thương,
người Pháp xưng hô không ngại ngần bằng những
danh xưng thân mật (surnoms intimes). Từ lúc còn
yêu nhau cho đến lúc kết hôn và khi đã lớn tuổi
thì người Pháp vẫn giữ thói quen xưng hô bằng
những danh xưng thân mật như “chéri(e)”, “mon
amour”, “ma puce”
Người Việt, với sự ảnh hưởng của đạo Nho,
đạo Khổng, cái tôi bản ngã luôn ẩn dấu sau những
mối quan hệ lớn hơn như đạo vua-tôi, thầy-trò
và đời sống tình cảm riêng tư là những điều mà
trong truyền thống không được thể hiện ồn ào,
công khai, phải ý nhị, tinh tế. Trong ngôn ngữ xưa,
những danh xưng thường được sử dụng là “chúa
công-thiếp”, “nàng-ta” là những chuẩn mực trong
giao tiếp. Xu hướng hiện đại thì những danh xưng
thường được sử dụng là “anh-em”, thân mật hơn
là “mình-em/anh”. Khi đã có con, người Việt xưng
hô theo cách xưng hô “hộ con”. Con cái chính là
sợi dây gắn kết tình vợ chồng, là kết tinh của hạnh
phúc vợ chồng. Thói quen này thể hiện tình cảm vợ
chồng của người Việt được ẩn đằng sau niềm vui có
con cái đề huề, có người nối dõi, đó là quan điểm
ăn sâu vào tiềm thức người Việt từ xưa đến nay.
Đối với người Việt, tình yêu vợ chồng và niềm
tự hào ấy thể hiện qua danh xưng “mình-em”, “anh-
em” rồi đến “bố nó-mẹ nó” và khi về già thì gọi
nhau là “ông nội-bà nội/ông ngoại-bà ngoại” (cu
Tý). Cứ như vậy, hình ảnh con cháu len lỏi vào trong
các danh xưng của người Việt lúc nào không hay.
3.3. Đặc tính lịch sự, lễ phép và tôn ti, trật
tự trong xưng hô
Thái độ lễ phép, kính trọng trong xưng hô của
người Việt được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ
gia đình. Đầu tiên phải kể đến tính thứ bậc rõ ràng
và tuyệt đối trong xưng hô. Tiếp đó là các từ bổ
sung trong các phát ngôn như “thưa” hay từ “ạ”
ở đầu và cuối các câu thoại.
- Thưa bố, thưa mẹ, con xin phép được trình
bày một việc ạ.
- Bà ơi, bà đã ăn cơm chưa ạ?
Như vậy, trong cách xưng hô với người trên
nói chung và đặc biệt giữa các thành viên trong gia
đình ẩn chứa những dấu ấn của lễ giáo, lễ nghĩa hết
sức truyền thống từ xa xưa để lại. Những yếu tố
ngôn ngữ dù rất nhỏ đi kèm với các danh xưng này
giúp người nghe xác định ngay được mối quan hệ
và thứ bậc của các cá thể tham gia giao tiếp đồng
thời đánh giá được nhân cách, đạo đức của các cá
thể đó. Chuẩn mực này trong giao tiếp luôn được
duy trì và phát triển qua các thế hệ gia đình Việt.
Những sắc thái này thực sự không tìm thấy trong
cách xưng hô của người Pháp. Thật đơn giản, chỉ
có cặp đại từ “je” - “tu” là đủ cho một mối quan
hệ thân thuộc trong gia đình. Có lẽ sắc thái biểu
cảm qua ngôn ngữ chỉ được nhận biết qua ngữ
điệu, cách nhấn nhá trong phát ngôn mà thôi.
Một nét nổi bật trong xưng hô của người Việt
là thể hiện rõ tính tôn ti, thứ bậc của các thành
viên trong gia đình. Trong mối quan hệ giữa vợ
và chồng, dù có từ “mình” thể hiện sự bình đẳng
trong xưng hô nhưng sau từ mình đó thì người
“xưng” nếu là vợ vẫn phải nói là “em”, và dù vợ
có hơn tuổi chồng thì danh xưng “anh” vẫn là bắt
buộc khi nói với chồng.
Trong mối quan hệ anh/chị và em trong gia
đình Việt, đặc điểm này được thể hiện rõ rệt nhất,
do ảnh hưởng của Nho giáo, quan hệ anh/chị-em
cũng là một chuẩn mực: phải có trật tự, tôn ti.
Trong gia đình Việt, do tư tưởng trọng nam khinh
69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
nữ từ xưa để lại và cũng do đặc điểm người con
gái khi đi lấy chồng “là con, là ma nhà người ta”
nên chỉ người con trai trưởng mới có quyền lực
cao nhất trong đại gia đình. Khi còn nhỏ được gọi
là anh Cả, anh Hai, khi trưởng thành luôn gọi là
Bác Trưởng, người có quyền thay cha mẹ quyết
định những việc lớn trong gia đình. Khi người anh
Cả không đảm đương nổi vai trò của mình thì có
thể người em thứ thay anh gánh vác nhưng dù sao
vẫn phải hỏi ý kiến vì người Việt quan niệm “Anh
Cả giả cha”. Những lý giải ở trên cho ta hiểu tại
sao trong anh chị em người Việt luôn yêu cầu phải
xưng hô anh ra anh, em ra em, không được “cá mè
một lứa”.
So sánh với cách xưng hô của gia đình Pháp
ta có thể thấy dấu hiệu của tôn ti trật tự thể hiện
qua các danh xưng là hoàn toàn không mang đặc
trưng riêng như người Việt. Với người Pháp, chỉ
đơn giản là gọi tên và xưng hô ngôi “tu” là đủ.
Tuy nhiên, khác với quan hệ cha mẹ-con cái, anh/
chị-em dâu/rể trong gia đình sử dụng đại từ “tu”
để xưng hô với nhau, giữa họ không phân biệt thứ
bậc và trật tự rõ ràng cũng như quan hệ ruột thịt
hay không. Có lẽ đây là quan niệm mang tính cộng
đồng giữa những người trẻ được duy trì trong đại
gia đình. Trong thực tế, giữa anh/chị-em, ngay từ
nhỏ, một đứa trẻ đã ý thức mình là một cá thể trong
xã hội, mối liên hệ anh/chị-em là khá lỏng lẻo, từ
việc ở phòng riêng biệt, sử dụng đồ đạc, đồ dùng,
sở thích khác nhau cho đến khi lập gia đình và
sống riêng. Mỗi cá thể đó độc lập với cả bố mẹ
của mình. Người Pháp không quan niệm phải quá
quan tâm đến những vấn đề riêng của anh em, trừ
khi người đó sẵn sàng chia sẻ và cần được sẻ chia.
Có vẻ như mối quan hệ này giống mối quan hệ bạn
bè-đồng nghiệp hơn trừ sợi dây liên kết giữa họ là
những cuộc họp mặt gia đình trong những sự kiện
lớn (ngày lễ, đám cưới, đám tang)
Như vậy, một lần nữa, ngoài điểm giống nhau
duy nhất là lối xưng hô thân mật (tutoyer) trong
mối quan hệ anh/chị-em thì giữa hai hình thái gia
đình đã có sự khác biệt rất rõ nét. Điều này xuất
phát chính từ ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền
thống, văn hóa, lối sống của mỗi dân tộc.
3.4. Mối quan hệ giữa bố mẹ chồng/vợ với
con dâu/rể
Trong gia đình người Pháp cũng có một mối
quan hệ mà cách xưng hô thể hiện khoảng cách,
thứ bậc mặc dù màu sắc biểu cảm ấy không giống
cách xưng hô của người Việt, đó là mối quan hệ
giữa bố mẹ chồng/vợ với con dâu, rể.
Qua cách xưng hô, ta thấy rõ quan niệm con
đẻ-con dâu/rể và bố mẹ chồng/vợ được phân biệt
rất rạch ròi. Trong mối quan hệ đặc biệt này ngôi
“vous” sẽ được con dâu/con rể sử dụng để xưng
hô với bố mẹ chồng/vợ, con bố mẹ chồng/vợ với
con dâu rể thì vẫn xưng ngôi “tu” đúng theo thứ tự
tuổi tác như ngoài xã hội. Đối với cha mẹ chồng/
vợ cũng vậy, cách xưng hô này trở thành hiển
nhiên bởi chính bố mẹ cũng quan niệm đó không
phải là con trai hay con gái đẻ (fils hay fille) của
họ mà trong tiếng Pháp, người Pháp có thêm một
tính từ “beau/belle” (đẹp) để chỉ gia đình thông
gia (belle famille, beaux - parents, beau - fils, belle
- fille). Nếu con dâu/rể xưng ngôi “tu với bố mẹ
chồng/vợ thì được coi là một sự vô lễ. Ngược lại,
con dâu/rể cũng không bao giờ sử dụng danh xưng
thân mật “Papa”/“Maman” với bố mẹ chồng mà
sẽ gọi tên hoặc thậm chí dùng từ trang trọng như
xưng hô ngoài mội trường xã hội là “Monsieur”/
“Madame” (Ông/Bà).
Trong khi đó, đối với người Việt, thường đôi
trẻ khi yêu nhau gặp cha mẹ chồng/vợ tương lai
thì xưng là “bác-cháu” (vous-tu). Tuy nhiên, sau
khi kết hôn, danh xưng sẽ thay đổi ngay là “bố/
mẹ-con”, hai danh xưng này không khác gì với bố
mẹ đẻ.
Sự thay đổi trong cách xưng hô này vẫn nằm
trong trường tư tưởng có thêm con là có thêm
phúc. Hơn nữa, cho đến nay, có thể vì lý do kinh
tế một phần, nhưng phần lớn là vì sợi dây tình cảm
mà người Việt vẫn có xu hướng ở cùng cha mẹ sau
khi kết hôn. Những đại gia đình tứ đại, tam đại
đồng đường vẫn là niềm tự hào của người Việt.
Người Việt có quan niệm “dâu con, rể khách” có
70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
nghĩa là con dâu mới là con nhà mình vì sau hôn
nhân theo lẽ tự nhiên người con gái thường theo
chồng về ở cùng gia đình chồng, tuân theo nền
nếp, thói quen sinh hoạt và đảm trách mọi công
việc nhà chồng như một người con trong gia đình
đồng thời được yêu thương, chăm sóc như người
con gái trong gia đình chồng. Với con rể, họ luôn
được đón tiếp trọng vọng, chu đáo mỗi khi về nhà
bố mẹ vợ giống như nhà “có khách” vậy. Đó là vì
với mỗi bậc cha mẹ Việt, trách nhiệm với con rồi
với cháu là trọng trách đi suốt cuộc đời, quan niệm
mình có tốt với con rể thì con rể sẽ yêu thương, đối
tốt với con gái mình. Còn với con dâu, mình có coi
như con gái thì con mới hòa nhập, yêu thương và
gắn bó với gia đình nhà chồng.
3.5. Sự gắn kết thế hệ qua cách xưng hô
Có lẽ chỉ trong xã hội của những đất nước Á
Đông mới phổ biến cách sống tứ đại, tam đại đồng
đường. Người Việt có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy
con”, vì vậy khi còn nhỏ, cha mẹ là chỗ dựa chính,
duy nhất, lúc về già, không còn sức khỏe để lao
động và đối mặt với bệnh tật, tuổi già thì con cái là
chỗ dựa duy nhất. Sau khi kết hôn, khi có đứa con
đầu tiên, cả đại gia đình hai bên nội/ngoại luôn sẵn
sàng giúp đỡ, chăm sóc con, cháu. Và sự gắn kết
giữa ông bà và cháu lại một lần nữa được thắt chặt.
Cách sống gần gũi, đầy tình thương nhưng cũng
đầy trách nhiệm giữa các thế hệ người Việt được
thể hiện rõ trong mối quan hệ này.
Đặc trưng của sự gắn kết này được thể hiện
qua cách xưng hô có sự phân biệt rõ ông/bà nội/
ngoại thể hiện sự gần gũi giữa hai thế hệ đồng thời
thể hiện sự khu biệt rõ ràng với những người họ
hàng hay hàng xóm ở tuổi ông/bà mà trẻ gặp gỡ,
xưng hô. Những tiếng gọi thân thương này trong
ngôn ngữ Việt thể hiện rất rõ sự gắn bó và vai trò
của người ông, người bà trong cả tuổi thơ và kể cả
khi trưởng thành của người Việt.
Khác biệt với gia đình Việt, hầu hết những
người Pháp trưởng thành đều sống khá độc lập với
cha mẹ sau khi đã trưởng thành. Cha mẹ không
can thiệp nhiều vào đời sống cá nhân của các con.
Giữa họ có một sự “dân chủ”, bình đẳng và độc lập
đã được mặc định. Vả lại, với một đất nước phát
triển thì gánh nặng kinh tế không phải là quá lớn
với mỗi gia đình, đặc biệt là với trẻ em và người
già, hai đối tượng được phúc lợi xã hội ưu ái về
mọi mặt: giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe. Vì
vậy, quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” gần như
không tồn tại. Các cháu một năm có thể chỉ gặp
ông, bà một hai lần vào những ngày lễ hay sự kiện
trọng đại của gia đình, còn lại họ sẽ thể hiện sự
quan tâm bằng cách điện thoại hỏi thăm hay những
hình thức liên lạc tương tự mà không nhất thiết
phải sống cùng nhau. Có lẽ vì vậy mà người Pháp
không nhất thiết phải phân biệt rõ vì đại từ “tu” là
đủ cho mối quan hệ thân thiết, ruột thịt.
4. KẾT LUẬN
Ngôn ngữ luôn chứa đựng trong nó những dấu
ấn văn hóa, lối tư duy và nếp sống của cộng đồng
sử dụng ngôn ngữ đó. Trong mọi cuộc giao tiếp,
dù là bằng ngôn ngữ nào thì với lần đầu tiên gặp
mặt, việc giới thiệu, tự giới thiệu của các cá thể
tham gia giao tiếp là hết sức quan trọng để từ đó
mỗi người xác định được cách xưng hô hợp lý,
tránh rơi vào tình trạng lúng túng, gẫy nhịp và hiện
tượng ”sốc văn hóa” trong giao tiếp. Tiếng Việt là
ngôn ngữ khá phức tạp, đặc biệt là sắc thái biểu
cảm qua ngôn ngữ, mỗi người Việt tự tìm hiểu và
sử dụng hợp lý, hiệu quả các danh xưng và tuân thủ
những chuẩn mực trong giao tiếp là hết sức quan
trọng. Hiểu biết một ngôn ngữ, chúng ta cần tìm
hiểu những yếu tố văn hóa ẩn sau mỗi cách dùng
từ, diễn ngôn của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó.
So với tiếng Việt, tiếng Pháp đơn giản hơn trong
trường từ liên quan đến cách xưng hô. Ngược lại,
cách biểu đạt tình cảm bằng các danh xưng thân
mật giữa vợ chồng và cha mẹ con cái lại được diễn
ra hết sức tự nhiên, thường xuyên. Xưng hô và các
danh xưng trong gia đình Việt và gia đình Pháp sẽ
còn nhiều nữa những điều thú vị mà trong khuôn
khổ bài viết này chưa thể trình bày và phân tích
sâu. Xuất phát từ những kiến thức ngôn ngữ, trải
nghiệm thực tế, hy vọng bài viết sẽ bước đầu gợi
mở được những nghiên cứu, trao đổi tiếp theo về
mảng ngôn ngữ đặc biệt này./.
71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Tài liệu tham khảo:
Bùi Hiền, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Văn Gia, Nguyễn
Hữu Quỳnh (2001), Từ điển Giáo dục học,
NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (2013), Ngôn ngữ học xã hội,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Lê Hoàng Sang (2014), Đặc điểm ngôn ngữ văn
hóa từ xưng hô trong gia đình của Tiếng Việt
và tiếng Trung, Đại học Ngoại ngữ - Đại học
Huế.
Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt,
NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
Nguyễn Lân Trung (2006), Một số vấn đề về Ngôn
ngữ học đối chiếu Việt-Pháp, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
Guilbert, L. (1976), Grand Larousse de la langue
française , Tome 5, Larousse, Paris.
CULTURAL IMPRINTS IN INTER-FAMILY ADDRESSING IN VIETNAMESE
AND FRENCH FAMILIES
TRINH THI XOAN
Abstract: A family is an original cell of a social life, a primary environment that contributes to
the formation and nurturing character of each family member. Culture behavior in the family in
general and the manner of addressing each other among the family members essentially express
the characteristics of each country and nation. Studying the way family members addressing each
other in Vietnamese and French culture from a linguistic perspective shows interesting similarities
and differences in the conception and behavior of the two nations; thus it help learner to apply
effectively knowledge of language and culture in communicating with the native speakers.
Keywords: intimate name, personal pronouns, family, communication, culture, vocabulary,
system
Received: 08/5/2018; Revised: 30/5/2018; Accepted for publication: 20/6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_14_7_2018_61_71_trinh_thi_xoan_4736_2136235.pdf