Đất và vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu của đồng bằng sông Cửu Long - Nguyễn Thị Thu Hà

Tài liệu Đất và vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu của đồng bằng sông Cửu Long - Nguyễn Thị Thu Hà: Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 99 ĐẤT VÀ VẤN ĐỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Nguyễn Thị Thu Hà* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Đất là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá đối với con người. Đất vừa là tư liệu sản xuất vừa là nơi cư trú của con người. Trước những tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu diện tích đất của Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang bị thu hẹp ngày một nhiều. Để khắc phục tình trạng này không có cách nào khác là phải tìm ra cách ứng phó như “sống chung với lũ” của Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một vấn đề nan giải đòi hỏi phải được giải quyết một cách lâu dài và thường xuyên để đảm bảo ổn định đời sống cho người dân. Ở bài viết này tác giả đề cập đến vấn đề ứng phó và đưa ra một số giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu của đồng bằng Sông Cửu long bằng phương pháp nghiên cứu tổng hợp tài liệu, điều tra, quan trắc. Từ khóa: Đất; Ứng p...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đất và vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu của đồng bằng sông Cửu Long - Nguyễn Thị Thu Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 99 ĐẤT VÀ VẤN ĐỀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Nguyễn Thị Thu Hà* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Đất là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá đối với con người. Đất vừa là tư liệu sản xuất vừa là nơi cư trú của con người. Trước những tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu diện tích đất của Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang bị thu hẹp ngày một nhiều. Để khắc phục tình trạng này không có cách nào khác là phải tìm ra cách ứng phó như “sống chung với lũ” của Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một vấn đề nan giải đòi hỏi phải được giải quyết một cách lâu dài và thường xuyên để đảm bảo ổn định đời sống cho người dân. Ở bài viết này tác giả đề cập đến vấn đề ứng phó và đưa ra một số giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu của đồng bằng Sông Cửu long bằng phương pháp nghiên cứu tổng hợp tài liệu, điều tra, quan trắc. Từ khóa: Đất; Ứng phó; Đồng bằng sông Cửu Long; Tác động; Biến đổi khí hậu. ĐẶT VẤN ĐỀ* Là một vùng đất phù sa trù phú được bồi đắp bởi những con sông lớn, Đồng bằng sông Cửu Long được coi là vùng phát triển bậc nhất của Việt Nam hiện nay thế nhưng Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với những thách thức do tác động biến đổi của khí hậu toàn cầu mang lại. Hàng loạt các hiện tượng xảy ra như nước biển dâng, sạt lở đất, đất nhiễm phèn, nhiễm mặn Diện tích đất mặn, đất phèn ngày một tăng. Năm 1975 là 706.485,11ha, chiếm 28,26% năm 2005 lên đến 884.199,65 ha, chiếm 36,60% [2]. Do ảnh hưởng của xâm nhập mặn, từ cuối năm 2015 đến nay, nhiều diện tích cây trồng đã bị ảnh hưởng. Ở vụ Mùa và Thu Đông năm 2015, có khoảng 90.000 ha lúa bị ảnh hưởng đến năng suất, trong đó thiệt hại nặng khoảng 50.000 ha (Kiên Giang 34.000 ha, Sóc Trăng 6.300 ha, Bạc Liêu 5.800 ha,..). Vụ Đông Xuân 2015 - 2016, có 104.000 ha lúa bị ảnh hưởng nặng đến năng suất (chiếm 11% diện tích gieo trồng 8 tỉnh ven biểnđang bị ảnh hưởng nặng của xâm nhập mặn). Dự kiến, trong thời gian tới, diện tích bị ảnh hưởng khoảng 340.000 ha (chiếm 35,5% diện tích 8 tỉnh ven biển) [5]. * Tel: 0973 402465; Email: ntthadhsptn@gmail.com Các vụ sạt lở đất diễn ra liên tục ở các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ... làm giảm diện tích đất điều đó đòi hỏi Đồng bằng sông Cửu Long phải đưa ra những giải pháp ứng phó cho phù hợp và hiệu quả nhất. Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bao gồm 13 tỉnh, thành phố. Tổng diện tích tự nhiên toàn vùng 40.572 km2; dân số tính đến năm 2013 là 17.478,9 nghìn người[8]. ĐBSCL là vùng châu thổ phì nhiêu có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế cả về nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản và du lịch sinh thái. Trong những năm qua, ĐBSCL đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của Việt Nam. ĐBSCL là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất Việt Nam, đóng góp 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây, 95% sản lượng gạo xuất khẩu, 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước tính đến tháng 7/2017 [9]. Với vị trí và vai trò quan trọng như vậy, việc bảo vệ tài nguyên đất và tìm ra những giải pháp ứng phó cho ĐBSCL càng trở nên cấp thiết và quan trọng. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu toàn cầu là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy quyển, Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 100 sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định từ tính bằng thập kỷ hay thiên niên kỷ. Sự biển đổi có thể là thay đổi thời tiết bình quân hay thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết quanh một mức trung bình. Sự biến đổi khí hậu có thể giới hạn trong một vùng nhất định hay có thể xuất hiện trên toàn Địa Cầu. Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu thường đề cập tới đó là sự thay đổi khí hậu được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu của Trái Đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Ở Việt Nam, trong khoảng 30 năm qua, từ 1975-2005 nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,70C, mực nước biển đã dâng thêm khoảng 20 cm. Hiện tượng El-Nino, La-Nina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Biến đổi khí hậu thực sự đã làm cho các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng trở nên ác liệt và phức tạp [2]. Những vấn đề thực tiễn của Đồng bằng Sông Cửu Long Hàng năm, Đồng bằng Sông Cửu Long phải đối mặt với nhiều vấn đề như lũ lụt, ngập mặn, sạt lở đất diện tích đất bị ảnh hưởng đáng kể, không chỉ đất nông nghiệp mà còn cả đất ở của người dân. Theo thống kê, tính đến hết tháng 02-2016, vùng đồng bằng sông Cửu Long có 9/13 tỉnh, thành phố bị thiệt hại nặng nề do xâm nhập mặn: tổng diện tích trồng lúa ước thiệt hại 139.000ha; 155.000 hộ gia đình (khoảng 575.000 khẩu) thiếu nước sinh hoạt. Xâm nhập mặn đã xuất hiện ở mức độ cao hơn trung bình nhiều năm từ 5gam - 15gam/lít, vào sâu trong đất liền từ 50km - 90km, sâu hơn trung bình nhiều năm từ 10km - 20km gây ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân[1]. Ngoài ra còn có hàng loạt các vụ sạt lở đất làm cho người dân mất đi nhà cửa, hoa màu gây thiệt hại lớn cả về người và của. Điều quan trọng là mất đi một phần diện tích đất của Đồng bằng Sông Cửu Long. TÀI NGUYÊN ĐẤT CỦA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ VẤN ĐỀ ỨNG PHÓ Hiện trạng sạt sở đất ở Đồng bằng Sông Cửu Long Trong những năm gần đây Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) xảy ra hàng loạt các vụ sạt lở đất ở hầu khắp các tỉnh cả nội địa lẫn ven biển. Nhiều vụ sạt lở xảy ra một cách từ từ, nhưng số vụ sạt lở có tính bất ngờ gây ra nhiều thiệt hại lớn cho người dân. Điều đó cho thấy xu hướng sạt lở sẽ còn tiếp tục mở rộng và diễn biến phức tạp, nhất là trong bối cảnh diễn biến thời tiết và thay đổi chế độ thủy văn ngày một cực đoan. Tính đến năm 2018, ĐBSCL có 562 điểm sạt lở trên chiều dài gần 800 km, trong đó có 55 điểm đặc biệt nguy hiểm và 140 điểm ở mức nguy hiểm. Tình trạng sạt lở có xu thế gia tăng cả về phạm vi và quy mô, ảnh hưởng trực tiếp đến các khu dân cư, cơ sở hạ tầng và làm mất dần rừng phòng hộ ven biển, tác động nghiêm trọng đến môi trường sinh thái[6]. Theo ước tính trung bình mỗi năm ĐBSCL bị sạt lở 500 ha đất: Tại tỉnh Đồng Tháp, thời gian gần đây, sạt lở xảy ra liên tiếp tại 45 xã, phường, thị trấn thuộc 10 trong số 12 huyện, thị xã và thành phố. Tại tỉnh An Giang, trong năm 2015, 2016 cũng liên tục xảy ra hiện tượng sạt lở bờ sông. An Giang có 51 đoạn sông được cảnh báo nguy cơ sạt lở, với tổng chiều dài 162 km trong tổng số 400 km đường bờ sông của tỉnh (chiếm 40%)[7]. Trong đó, điểm sạt lở nguy hiểm nhất hiện nay là ở Bán đảo Cà Mau thuộc các xã biển Khánh Tiến (huyện U Minh), Khánh Bình Tây (huyện Trần Văn Thời), Tân Hải (huyện Phú Tân), Đất Mũi (huyện Ngọc Hiển), Tân Thuận (huyện Đầm Dơi) thuộc tỉnh Cà Mau với tổng chiều dài hơn 14km. Ở Bạc Liêu, do bờ biển có hướng gần vuông góc với hướng gió mùa Đông Nam (“gió chướng” – loại gió mùa thổi ngược chiều với dòng chảy sông Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 101 Tiền và sông Hậu) nên bị tác động mạnh của sóng và dòng triều ven bờ, tạo ra nhiều điểm xâm thực, sạt lở, trượt đất lớn và thường xuyên như Nhà Mát, Vĩnh Hậu A, Điền Hải và Gành Hào Từ cuối thập niên 2000, triều cường kèm theo sóng lớn thường xuyên đã tạo ra thực tế ngược lại: mỗi năm vùng Mũi Cà Mau bị cuốn trôi trung bình 5-8 km bờ biển, nhiều vạt rừng ngập mặt (đước, sú, vẹt), vốn được xem là những loài tiên phong mở đất lấn biển, nay bị nước biển “nuốt trôi” hàng trăm hecta mỗi năm [6]. Hiện trạng đất nhiễm mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long Hiện tượng đất nhiễm mặn ở ĐBSCL cũng xảy ra hết sức phức tạp nhất là trong những năm gần đây. Do vị trí địa lý, ĐBSCL chịu ảnh hưởng của thủy triều mạnh mẽ của biển Đông. Trong mùa cạn, khi lưu lượng nước ở thượng lưu đổ về giảm, thủy triều ảnh hưởng mạnh lên thượng lưu và hệ thống kênh rạch nội đồng, dẫn theo nước mặn xâm nhập sâu cả trên sông và nội đồng. Theo đó, có trên 50% diện tích ĐBSCL (39.330 km2) bị nhiễm mặn, gồm địa phận các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang [3]. Trên cơ sở số liệu tại các trạm đo mặn và số liệu điều tra khảo sát mặn có thể chia ĐBSCL ra các vùng chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn như sau: Vùng ven sông Vàm Cỏ thuộc địa phận tỉnh Long An, hiện trạng xâm nhập mặn vùng hai sông Vàm Cỏ từ đầu mùa khô đến đầu tháng 3 (4/3/2016), độ mặn xuất hiện lớn nhất so với cùng kỳ năm 2015 tăng từ 4,7-7,4g/l[4], cụ thể một số trạm chính theo Hình 1. - Trên sông Vàm Cỏ Tây, tại trạm Tân An: độ mặn lớn nhất đạt 8,1 g/l (ngày 8/2/2016); so với cùng kỳ năm 2015 (0,7 g/l) tăng 7,4 g/l. Theo biểu đồ trên cho thấy độ mặn lớn nhất đầu tháng 3/2016 so với cùng kỳ năm 2015 các vùng trên sông Vàm Cỏ là 20.3 g/l; 9.7 g/l; 8.1g/l (2016) và 15.6g/l; 3.1g/l; 0.7g/l (2015) Có sự chênh lệch khá lớn. Sông Vàm Cỏ độ mặn tăng thêm 4,7 g/l; Sông Vàm Cỏ Đông tăng 6,6 g/l; Sông Vàm Cỏ Tây 7,4 g/l. Vùng các cửa sông Cửu Long hiện tượng xâm nhập mặn từ đầu mùa khô đến đầu tháng 3 (ngày 4/3/2016), độ mặn xuất hiện lớn nhất so với cùng kỳ năm 2015 tăng từ 1,5- 8,2 g/l[1]. Hình 1. Biểu đồ độ mặn một số trạm trên sông Vàm Cỏ (Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ Cục thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Tổng luận 2/2016) Vùng các cửa sông Tiền, sông Hậu mặn cũng theo thủy triều từ biển Đông xâm nhập vào trong sông. Độ mặn trung bình tháng và độ mặn lớn nhất trong năm thường xuất hiện trong tháng ba hoặc tháng tư. Độ mặn cao nhất trong mỗi tháng và độ mặn lớn nhất trong thời gian quan trắc tại các vị trí khác nhau trên sông Vàm Cỏ cho thấy chiều dài xâm nhập của độ mặn 4‰ khoảng 50 - 57 km, trong đó sâu nhất trên nhánh cửa Tiểu - nhánh sông có tỉ lệ phân nước nhỏ nhất[3]. Vùng đất mũi Cà Mau là khu vực chịu ảnh hưởng của mặn theo thủy triều ở cả phía Tây và phía Đông. Mặn theo thủy triều biển Đông ngược sông Hậu và sông Mĩ Thanh ảnh hưởng trong phạm vi tỉnh Sóc Trăng. Trên kênh Cà Mau - Bạc Liêu xuất hiện vùng giáp triều - mặn ở khu vực lân cận thị xã Bạc Liêu. Khi triều lên, nước chảy từ Bạc Liêu về phía sông Gành Hào. Diễn biến mặn trong khu vực khá phức tạp. Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 102 Nguyên nhân với sạt lở đất và đất nhiễm mặn của Đồng bằng sông Cửu Long Nguyên nhân dẫn đến sạt lở đất và đất nhiễm mặn ở ĐBSCL trước hết là do sự mất cân bằng bùn cát, việc xây dựng các hồ chứa ở thượng nguồn và khai thác cát, sỏi ở lòng sông, ven biển. Chặt phá rừng, khai thác tài nguyên vùng đầu nguồn đã làm suy giảm tầng phủ thực vật, mất khả năng điều tiết của rừng, cho nên về mùa mưa, nước lũ tập trung nhanh hơn. Ngược lại, về mùa kiệt, do lượng nước ngầm trữ lại lưu vực giảm cho nên mực nước thường rất thấp. Địa chất khu vực sạt lở có thành phần chủ yếu là sa bồi mềm yếu, kết cấu rời rạc, dễ bị xói trôi. Mặt khác, lún sụt đất do việc khai thác nước ngầm quá mức để nuôi trồng thủy sản, hải sản, nhất là ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, cùng với sự phát triển kinh tế vùng ven sông, ven biển không theo quy hoạch và xâm chiếm bãi sông, lòng dẫn, bờ biển để xây dựng công trình, nhà cửa gia tăng áp lực lên đường bờ và thay đổi chế độ dòng chảy. Những hậu quả mà ĐBSCL phải gánh chịu là không hề nhỏ. Trong vụ mùa và thu - đông năm 2015, đã có khoảng 90.000 ha lúa bị ảnh hưởng đến năng suất, trong đó thiệt hại nặng khoảng 50.000 ha (Kiên Giang 34.000 ha, Sóc Trăng 6.300 ha, Bạc Liêu 5.800 ha...) chiếm khoảng 11% diện tích gieo trồng của 8 tỉnh ven biển đang bị ảnh hưởng nặng của xâm nhập mặn)[1]. Hình 2. Vụ sạt lở làm hơn chục căn nhà bị nhấn chìm xuống sông ngày 23/4/2017(Nguồn: Báo mới) Sạt lở đất và nhiễm mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long và giải pháp ứng phó. Sạt lở đất và đất nhiễm mặn ở ĐBSCL diễn ra ngày càng nghiêm trọng gây thiệt hại lớn cả về đất sản xuất, nhà ở và tính mạng con người cho người dân ở nơi đây khiến cho người dân không yên tâm canh tác cũng như sinh sống. Để giải quyết vấn đề này cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền, địa phương và người dân. Cần phải xác định đây là một vấn đề lớn và nan giải, để giải quyết phải có sự đầu tư toàn diện và lâu dài chứ không phải là một sớm một chiều. Một số giải pháp cần làm trước mắt: + Huy động cả hệ thống chính trị tập trung phòng, chống thiên tai do hạn hán, xâm nhập mặn gây ra. + Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin liên quan để các cơ quan và nhân dân chủ động bảo đảm nước sinh hoạt, sử dụng nước tiết kiệm, ổn định đời sống, sản xuất trước tác động tiêu cực cửa El Nino trong thời gian tới. + Tăng cường công tác dự báo khí tượng thủy văn, nguồn nước, xâm nhập mặn, phục vụ chỉ đạo, điều hành cấp nước phục vụ sản xuất và bảo đảm đủ nước dân sinh. + Xây dựng kế hoạch sử dụng nước hợp lý; ưu tiên cấp nước cho sinh hoạt, nước uống cho gia súc, nước tưới cho cây trồng lâu năm có giá trị kinh tế cao, nuôi trồng thủy sản và các khu công nghiệp; điều chỉnh cơ cấu sản xuất, theo hướng chuyển dịch mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản để phù hợp với điều kiện nguồn nước, bảo đảm hiệu quả kinh tế và an sinh xã hội; điều tiết nước các hồ chứa thủy điện để bổ sung nước cho hạ du vào những thời kỳ khô hạn, cần cân đối để bảo đảm nhu cầu sử dụng nước cho cả năm[4]. Để giảm thiểu những tác động về lâu dài, ngoài các giải pháp cấp bách đã được Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện, trong điều kiện biến đổi khí hậu phức tạp hiện nay, chúng ta cần tiếp tục thực hiện các giải pháp tổng thể và đồng bộ Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 103 sau: Một là, trong công tác tuyên truyền, cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; rà soát, đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ, xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết và bố trí đủ nguồn lực để tổ chức thực hiện, nhất là quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL và vấn đề sử dụng tiết kiệm tài nguyên nước tại khu vực Nam miền Trung, Tây Nguyên. Hai là, huy động kinh phí từ nhiều nguồn để đầu tư cho những công trình cấp thiết, xây dựng các công trình hồ chứa lớn dạng tổng hợp phục vụ đa mục tiêu vừa cắt lũ trong mùa mưa, tăng nguồn nước trong mùa kiệt, vừa phát điện, khai thác du lịch... Triển khai xây dựng các hồ ao nhỏ để trữ nước tại chỗ với quy mô phù hợp, với giải pháp che phủ hạn chế bốc hơi tạo nguồn nước mặt và tăng nước ngầm. Đẩy nhanh các dự án, công trình thủy lợi ven biển, sớm hoàn thiện hệ thống đê biển, đê bao ngăn mặn dọc theo sông lớn, xây dựng các cống kiểm soát ngăn mặn khép kín tại các điểm trọng yếu của vùng chuyên canh cây ăn quả và ở từng khu vực canh tác ổn định. Ba là, đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng có tính đến thích ứng với biến đổi khí hậu, nghiên cứu, sử dụng các loại cây, con thích ứng với hạn hán, chịu ngập, chịu mặn với thời gian gieo trồng thích hợp để giảm diện tích lúa là loại cây cần nhiều nước, vẫn bảo đảm thu nhập cao cho nông dân. Chuyển đổi những diện tích lúa ven biển không hiệu quả, thường xuyên bị mặn uy hiếp sang nuôi trồng thủy sản. Bốn là, thực hiện có hiệu quả công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học vào ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Nghiên cứu toàn diện, tổng thể về biến đổi khí hậu để giảm thiểu, hạn chế những tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, đồng thời tìm ra những cơ hội trong thách thức từ biến đổi khí hậu đem lại như phát triển ngành công nghiệp về môi trường, những ngành sản xuất giảm thiểu năng lượng, những công nghệ và phương thức sản xuất mới trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Có lộ trình, bước đi phù hợp để sớm đổi mới công nghệ sản xuất hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường, sử dụng có hiệu quả tài nguyên; nghiên cứu phát triển và tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Năm là, thể chế và tổ chức thực hiện có hiệu quả những lĩnh vực liên kết vùng ĐBSCL. Trong đó, liên kết ứng phó với biến đổi khí hậu, hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn phải được quan tâm hàng đầu. Mặt khác việc chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ quan trọng; tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đối thoại chính sách với các nước về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh hợp tác với các nước có liên quan, các tổ chức và các diễn đàn quốc tế để bảo vệ các nguồn nước xuyên biên giới, tiếp cận công nghệ mới và huy động nguồn lực cho giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Việc hợp tác chặt chẽ và tăng cường trao đổi thông tin với các nước trong khu vực thượng nguồn sông Mê Kông để chủ động quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước sông Mê Kông trong giai đoạn hiện nay là điều vô cùng cần thiết đối với ĐBSCL . KẾT LUẬN Biến đổi khí hậu có tác động mạnh mẽ đến nước ta trong đó đồng bằng sông Cửu Long là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Để giảm nhẹ thiệt hại cho người dân thì chọn cách ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu là lựa chọn đúng đắn, an toàn và phù hợp nhất. Viêc thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ giúp cho người dân giảm được phần nào những thiệt hại trước tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Nguyễn Thị Thu Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 99 - 104 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc Gia. Tổng luận 2/2016, Xâm nhập mặn tại Đồng bằng Sông Cửu Long: Nguyên nhân, tác động và các giải pháp ứng phó, Hà Nội, tháng 2/2016. 2. Hồ Quang Đức, Nguyễn Văn Đạo, Trương Xuân Cường và Lê Thị Mỹ Hảo “Đánh giá sự biến động đất mặn và đất phèn vùng đồng bằng Sông Cửu Long sau 30 năm sử dụng”, Viện Thổ nhưỡng nông hóa Việt Nam, 2005. 3. Nguyễn Ân Niên và Nguyễn Văn Lân (1999), “Nghiên cứu xâm nhập mặn ở Việt Nam”, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam. 4. Lê Hữu Thuần “Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định nguyên nhân, đề xuất giải pháp ứng phó với xâm nhập mặn trong điều kiện Biến đổi khí hậu ở vùng ĐBSCL”, Cục Quản lý Tài nguyên nước, (2013). 5. Xâm nhập mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (2015 – 2016), hạn hán ở Miền Trung, Tây Nguyên và giải pháp khắc phục. (www.tongcucthuyloi.gov.vn/.../xam-nhap-man- vung-dong-bang-song-cuu-long--2015-2016...) 6. https://news.zing.vn › Thời sự. Truy cập ngày 25/08/2018 7. https://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/dong- bang-song-cuu-long-moi-nam-sat-lo-hon-500-ha- dat-101583, truy cập ngày 23/8/2018 8.https://www.gso.gov.vn/.../Selection.aspx?...DT DAT2000...DTDAT2000%5C10.DTD...Truy cập ngày 25/8/2018 9. www.nhandan.com.vn/.../37066802-ðong-bang- song-cuu-long-thach-thuc-trong-chu...Truy cập ngày 24/8/2018. ABSTRACT LAND RESOURCES AND RESPONSE PROBLEMS TO CLIMATE CHANGE CLIMATE CHANGE IN THE MEKONG RIVER DELTA Nguyen Thi Thu Ha * University of Education - TNU Land is a precious natural resource for man. Land is both production material and human habitation. With the strong impacts of global climate change, the land area of the Mekong Delta has been shrinking. To overcome this situation, there is no other way to find out how to respond as well as "living with flood" type of the Mekong Delta. This is a problem that needs to be resolved in a long and regular way to ensure a stable life for the people. In this article, the author addresses the issue of responding to and providing some solutions to global climate change in the Mekong Delta by researching documents, investigating and monitoring. Keywords: Land; Response ; Mekong River Delta ; Impact; Climate Change. Ngày nhận bài: 31/10/2018; Ngày hoàn thiện: 14/11/2018; Ngày duyệt đăng: 28/12/2018 * Tel: 0973 402465; Email: ntthadhsptn@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf53_83_1_pb_8953_2124478.pdf
Tài liệu liên quan